10062_Hòa giải tranh chấp dân sự ở Việt Nam

luận văn tốt nghiệp

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN NGỌC HÂN

Hßa gi¶i tranh chÊp d©n sù ë ViÖt Nam

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – 2020

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN NGỌC HÂN

Hßa gi¶i tranh chÊp d©n sù ë ViÖt Nam

Chuyên ngành : Luật dân sự và tố tụng dân sự
Mã số
: 8380101.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Tiến Vinh

HÀ NỘI – 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố
trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn
trong luận văn đảm bảo độ tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và thanh toán tất cả các
nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật – Đại học Quốc
gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét
để cho tôi có thể bảo vệ luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn.

NGƢỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Ngọc Hân

MỤC LỤC

Trang

Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Mục lục

Danh mục các từ viết tắt

MỞ ĐẦU
1

Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HÒA GIẢI TRANH
CHẤP DÂN SỰ Ở VIỆT NAM
6
1.1.
Khái niệm tranh chấp dân sự và hòa giải tranh chấp dân sự
6
1.1.1. Tranh chấp dân sự và giải quyết tranh chấp dân sự
6
1.1.2. Hòa giải tranh chấp dân sự
10
1.2.
Phân loại, đặc điểm và ý nghĩa của các loại hình hòa giải
tranh chấp dân sự ở Việt Nam
13
1.2.1. Hòa giải theo thủ tục tố tụng dân sự
14
1.2.2. Hòa giải tại Trung tâm hòa giải tại Tòa án
15
1.2.3. Hòa giải ở cơ sở
17
1.2.4. Ý nghĩa của hòa giải tranh chấp dân sự
19
1.3.
Kinh nghiệm quốc tế về hòa giải tranh chấp dân sự
20
1.3.1. Hòa giải tại Singapore
20
1.3.2. Hòa giải tại Hàn Quốc
23
1.3.3. Hòa giải tại Đức
26
1.3.4. Quá trình hình thành và phát triển hòa giải tranh chấp dân sự
tại Việt Nam
28

Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ HÒA GIẢI
TRANH CHẤP DÂN SỰ
32
2.1.
Thực trạng quy định pháp luật
32
2.1.1. Hòa giải theo thủ tục tố tụng dân sự
32
2.1.2. Hòa giải tại Trung tâm hòa giải tại Tòa án
48

2.1.3. Hòa giải ở cơ sở
54
2.2.
Thực trạng thực thi pháp luật
61
2.2.1. Hòa giải theo thủ tục tố tụng dân sự
61
2.2.2. Hòa giải tại Trung tâm hòa giải tại Tòa án
64
2.2.3. Hòa giải cơ sở
66

Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT, NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG HÒA GIẢI
TRANH CHẤP DÂN SỰ
70
3.1.
Phương hướng hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
hoạt động hòa giải tranh chấp dân sự
70
3.1.1. Cải cách tư pháp
70
3.1.2. Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
74
3.1.3. Tôn trọng quyền tự do định đoạt
75
3.2.
Một số giải pháp hoàn thiện và thực hiện pháp luật về hòa
giải tranh chấp dân sự
78

KẾT LUẬN
89

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
90

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLDS
: Bộ luật Dân sự
BLTTDS
: Bộ luật Tố tụng dân sự
HĐXX
: Hội đồng xét xử
TAND
: Tòa án nhân dân
TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao
TTDS
: Tố tụng dân sự
UBND
: Ủy ban nhân dân

1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay, cùng với sự vận động, phát triển không ngừng của xã hội,
đời sống kinh tế – xã hội của người Việt Nam có những biến đổi sâu sắc,
mạnh mẽ. Các tranh chấp, mâu thuẫn và xung đột xã hội có chiều hướng gia
tăng với những diện mạo mới, đòi hỏi phải được giải quyết bằng những phương
thức thích hợp. Hòa giải là một trong những phương thức góp phần giải quyết
hài hòa và có hiệu quả các mâu thuẫn, tranh chấp đó. Phương thức này đã tồn
tại và phát huy vai trò của nó trong đời sống xã hội. Nếu như tranh chấp bị xem
như những biểu hiện tiêu cực phá vỡ sự hòa thuận và bình yên của cộng đồng
thì hòa giải lại được xem như mặt tích cực, là sự gìn giữ, củng cố trật tự công
cộng. Hiện nay, nước ta cũng như nhiều nước khác trên thế giới đang có xu
hướng sử dụng hòa giải nhiều hơn, đây là một phương thức giải quyết tranh
chấp có nhiều ưu điểm hơn so với các phương thức giải quyết tranh chấp khác.
Với cách thức thân thiện, đồng thuận trên nguyên tắc mềm dẻo, chia sẻ,
cảm thông thì hòa giải góp phần hàn gắn những mâu thuẫn, rạn nứt, nâng cao
ý thức pháp luật của người dân, ngăn ngừa các tranh chấp trong tương lai. Hòa
giải góp phần giúp giải quyết các tranh chấp mà không phải trải qua các thủ
tục rườm rà theo quy định tại luật tố tụng, tiết kiệm chi phí, thời gian, công
sức của các bên. Tuy nhiên, trong các văn bản pháp luật, thì hòa giải chỉ dừng
lại ở việc quy định đó là một phương thức giải quyết tranh chấp cho nên trong
thực tiễn áp dụng, phương thức này chưa thể hiện hết ưu điểm vốn có của mình.
Với những l
ý do trên, tôi xin lựa chọn đề tài: “Hòa giải tranh chấp
dân sự ở Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Hòa giải tranh chấp dân sự không phải là một đề tài mới. Đã có rất
nhiều công trình nghiên cứu, bài viết liên quan đến vấn đề này như: Luận án

2
tiến sĩ Luật học: “Chế định hòa giải trong pháp luật tố tụng dân sự, Một số
vấn đề lý luận và thực tiễn”, của Trần Văn Quảng, Trường Đại học Luật Hà
Nội, 2004; Luận án tiến sĩ Luật học: “Hòa giải trong giải quyết tranh chấp
kinh tế tại Tòa án ở Việt Nam”, của Đào Thị Xuân Lan, Viện Nghiên cứu Nhà
nước và Pháp luật, Hà Nội, 2004; Luận văn thạc sĩ Luật học: “Chế định hòa
giải trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam”, của Bùi Anh Tuấn, Khoa Luật –
Đại học Quốc gia Hà Nội, 2014; Luận văn thạc sĩ Luật học: “Kỹ năng giải
quyết tranh chấp dân sự bằng hòa giải “, của Trần Thị Quỳnh Nga, Khoa
Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, 2017…
Bên cạnh công trình nghiên cứu dưới hình thức luận văn, luận án, thì vấn
đề lý luận về hòa giải cũng được đề cập khái quát trong Giáo trình Luật tố tụng
dân sự (TTDS) của Trường Đại học Luật Hà Nội, Trường Đại học Luật Thành
phố Hồ Chí Minh… Ngoài ra còn có một số bài viết về thực tiễn hòa giải các
vụ việc dân sự của các tác giả được đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân (TAND),
Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Tạp chí Kiểm sát, Báo Công lý như: “Hòa giải và
tự thỏa thuận trong tố tụng dân sự, kinh tế và lao động” của Phan Hữu Thư, Tạp
chí Dân chủ và pháp luật, số 2/1999; “Bàn về phạm vi điều chỉnh của Luật hòa
giải cơ sở”, của Trần Huy Liệu, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số chuyên đề
pháp luật về hòa giải, 2012; “Kỹ năng hòa giải các tranh chấp dân sự tại Tòa
án theo mô hình thí điểm của Tòa án nhân dân tối cao”, của Tống Anh Hào, Tạp
chí TAND, số 13/2018; “Vai trò quan trọng của hòa giải trong giải quyết
tranh chấp dân sự”, của Toàn Vũ, Báo Điện tử Công lý, ngày 24/01/2019…
3. Phạm vi và mục đích nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn tập trung vào một số vấn đề lý luận
cơ bản về hòa giải tranh chấp dân sự như khái niệm, phân loại, đặc điểm, ý
nghĩa của hòa giải tranh chấp dân sự, những quy định pháp luật về hòa giải
tranh chấp dân sự và thực tiễn thực hiện. Tranh chấp dân sự là một lĩnh vực
khá rộng, liên quan đến nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên, trong phạm vi nghiên cứu

3
của luận văn, tác giả chỉ nghiên cứu về hòa giải tranh chấp dân sự dưới góc độ là
một phương thức giải quyết tranh chấp (không nghiên cứu hòa giải tranh chấp
dân sự dưới góc độ là một thủ tục tố tụng hay là một chế định pháp luật). Tác
giả tập trung vào ba loại hình hòa giải tranh chấp dân sự ở Việt Nam là: hòa
giải tại Trung tâm hòa giải tại Tòa án (trước tố tụng), hòa giải theo thủ tục
TTDS (tại Tòa án) và hòa giải ở cơ sở (ngoài Tòa án), chỉ ra được ưu, nhược
điểm của ba loại hình hòa giải này. Ngoài ra, khi triển khai nghiên cứu về
thực tiễn thực hiện hòa giải tranh chấp dân sự, luận văn có những nghiên cứu,
đánh giá tổng quan về thực tiễn thực hiện hoạt động hòa giải vụ án dân sự tại
Trung tâm hòa giải tại Tòa án – một loại hình hòa giải mới tại Việt Nam.
Thông qua việc nghiên cứu trong phạm vi được đề ra ở trên, tác giả
mong muốn cho người đọc thấy được ưu điểm, ý nghĩa của phương thức hòa
giải so với các phương thức giải quyết tranh chấp dân sự khác. Trên cơ sở đó,
nghiên cứu thực trạng hòa giải của ba loại hình hòa giải ở nước ta hiện nay để
có thể đánh giá được mức độ hiệu quả của các quy định pháp luật trong thực
tế. Đồng thời, dựa vào thực trạng đó để nghiên cứu về nguyên nhân của thực
trạng trên từ đó đưa ra những giải pháp để tháo gỡ vướng mắc còn tồn tại.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
– Nghiên cứu làm rõ những vấn đề về lý luận như khái niệm, phân
loại, đặc điểm, ý nghĩa của hòa giải tranh chấp dân sự.
– Nghiên cứu làm rõ các quy định của pháp luật về hòa giải tranh chấp
dân sự, chỉ ra những hạn chế, bất cập của pháp luật quy định về hòa giải tranh
chấp dân sự.
– Khảo sát thực tiễn thực hiện hoạt động hòa giải tranh chấp dân sự
và chỉ ra những hạn chế, khó khăn, vướng mắc trong việc thực hiện hoạt
động này trong thực tiễn.
– Trên cơ sở những hạn chế, bất cập của pháp luật và những hạn chế,
khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn thực hiện hòa giải tranh chấp dân sự, đề

4
xuất những phương hướng, giải pháp cơ bản nhằm tiếp tục hoàn thiện pháp
luật và thực hiện có hiệu quả hoạt động hòa giải tranh chấp dân sự.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để đạt được các mục tiêu nghiên cứu mà đề tài đặt ra, trong quá trình
nghiên cứu luận văn đã sử dụng những phương pháp nghiên cứu cơ bản sau:
Phương pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Một số phương pháp nghiên cứu chủ yếu được áp dụng:
Phương pháp phân tích, tổng hợp: Những phương pháp này được sử
dụng phổ biến trong việc làm rõ các quy định của pháp luật về hòa giải.
Phương pháp đánh giá, phương pháp so sánh: Phương pháp này được
luận văn áp dụng khi nghiên cứu về các quan điểm về giải quyết tranh chấp
bằng hòa giải; các quy định của pháp luật của một số nước trên thế giới và
Việt Nam. Từ lý luận về giải quyết tranh chấp bằng hòa giải của các nước và
Việt Nam đang áp dụng, luận văn so sánh với hiệu quả trên thực tế để rút ra
những ưu điểm, hạn chế của việc giải quyết tranh chấp bằng hòa giải này. Qua
đó giúp cho đề tài đề xuất những giải pháp, quan điểm hoàn thiện pháp luật và
tăng cường thực thi biện pháp bằng hòa giải khi có tranh chấp dân sự xảy ra.
Qua đó giúp luận văn có những phân tích, phản ánh rõ hơn từ nhu cầu của
thực tiễn và các giải pháp bảo đảm thực hiện giải quyết tranh chấp bằng hòa
giải này mang tính khả thi.
Phương pháp quy nạp, phương pháp diễn dịch: Được vận dụng để
triển khai có hiệu quả các vấn đề liên quan đến hòa giải, đặc biệt là các kiến
nghị hoàn thiện. Cụ thể như trên cở sở đưa ra những kiến nghị mang tính khái
quát, súc tích người viết dùng phương pháp diễn dịch để làm rõ nội dung của
kiến nghị đó…

5
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Có thể nói, đề tài luận văn là công trình nghiên cứu khoa học khá toàn
diện, có hệ thống và mới nhất ở cấp độ luận văn thạc sĩ về hòa giải tranh chấp
dân sự. Đề tài luận văn có những đóng góp về mặt khoa học và thực tiễn sau đây:
Làm rõ khái niệm hòa giải tranh chấp dân sự theo pháp luật và cơ sở
lý luận, cơ sở thực tiễn của hòa giải tranh chấp dân sự khi coi hòa giải là một
phương thức giải quyết tranh chấp dân sự.
Làm rõ các quy định pháp luật, nội dung cơ bản của hoạt động hòa
giải tranh chấp dân sự thông qua ba loại hình hòa giải: Hòa giải tại Trung tâm
hòa giải tại Tòa án, hòa giải theo thủ tục TTDS và hòa giải ở cơ sở, chỉ ra
được ưu điểm, nhược điểm của ba loại hình hòa giải này.
Chỉ ra được những hạn chế, bất cập trong quy định của pháp luật hòa
giải tranh chấp dân sự; những kết quả đạt được và hạn chế, vướng mắc, khó
khăn trong thực tiễn thực hiện hoạt động hòa giải tranh chấp dân sự.
Đề xuất được những kiến nghị xây dựng, hoàn thiện pháp luật và tổ
chức thực hiện có hiệu quả hoạt động hòa giải tranh chấp dân sự.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về hòa giải tranh chấp dân sự ở
Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về hòa giải tranh chấp dân sự
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao
hiệu quả hoạt động hòa giải tranh chấp dân sự.

6
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HÒA GIẢI TRANH CHẤP DÂN SỰ
Ở VIỆT NAM

1.1. Khái niệm tranh chấp dân sự và hòa giải tranh chấp dân sự
1.1.1. Tranh chấp dân sự và giải quyết tranh chấp dân sự
Xã hội hiện đại ngày càng xuất hiện nhiều mối quan hệ phức tạp, luôn
tiềm ẩn và không thể tránh khỏi những mâu thuẫn, bất hòa. Có nhiều nguyên
nhân dẫn đến những mâu thuẫn, bất hòa đó nhưng nguyên nhân chủ yếu là do
một trong các bên cho rằng quyền và lợi ích của mình bị xâm phạm. Khi đó
xung đột giữa các bên sẽ xảy ra hay nói đúng hơn là giữa các bên có tranh
chấp. Vậy, “tranh chấp” nói chung được hiểu là sự bất đồng, mâu thuẫn về
quyền lợi và nghĩa vụ phát sinh giữa các bên liên quan.
Trong cuộc sống hàng ngày, việc xảy ra mâu thuẫn, xung đột trong giao
lưu dân sự là điều không thể tránh khỏi. Tranh chấp phát sinh từ nhiều quan
hệ xã hội khác nhau như quan hệ dân sự, quan hệ hôn nhân và gia đình, quan
hệ kinh doanh, thương mại, hay quan hệ lao động. “Tranh chấp dân sự” là tranh
chấp giữa các chủ thể khi tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự, chịu sự điều
chỉnh của luật dân sự. Phổ biến có các loại tranh chấp dân sự sau: tranh chấp
về quyền sở hữu, về hợp đồng dân sự, bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng…
Có nhiều phương thức giải quyết tranh chấp khác nhau tùy thuộc vào
bối cảnh và hình thức giải quyết mà các bên tìm kiếm. Những phương thức
giải quyết tranh chấp này bao gồm: hòa giải, thương lượng, trọng tài, tố tụng
tại Tòa án và các hình thức khác.
Phương thức thương lượng:
Thương lượng là phương thức giải quyết đầu tiên trong quá trình giải
quyết tranh chấp, thể hiện ở việc các bên trong tranh chấp chủ động gặp gỡ
nhau, bàn bạc, thỏa thuận về quyền lợi cũng như nghĩa vụ của mỗi bên.

7
Pháp luật về giải quyết tranh chấp không có quy định bắt buộc các bên
phải tiến hành thương lượng. Do đó, từ quy trình tổ chức, thực hiện, sự có mặt
của các bên, quyền lợi cũng như nghĩa vụ của các chủ thể, kết quả thương
lượng không hề có sự điều chỉnh của quy phạm pháp luật. Tất cả đều phụ
thuộc vào thiện chí tự giải quyết của các bên. Trường hợp đạt được thỏa thuận
trong cuộc họp thương lượng, sau đó có một trong các bên không tuân thủ,
các bên cũng không thể yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện
cưỡng chế.
Phương thức thương lượng rất được các chủ thể ưu tiên lựa chọn ngay
khi xảy ra tranh chấp, bởi phương thức này không chịu sự điều chỉnh của
pháp luật, không bị gò bó bởi các quy định chặt chẽ về quy trình tổ chức
thương lượng, thành phần tham gia, thời gian thực hiện, cũng như không tốn
kém tiền bạc. Do sự tự giải quyết với nhau, nên tranh chấp không bị làm lớn,
không ảnh hưởng đến uy tín của các bên. Cũng bởi không có sự điều chỉnh
của quy phạm pháp luật nên không có sự cưỡng chế thi hành đối với kết quả
thương lượng.
Phương thức trọng tài:
Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài là một phương thức giải quyết
tranh chấp không thể thiếu trong quá trình phát triển của các quan hệ kinh tế
và được các chủ thể ưa chuộng.
Phương thức trọng tài do chính các bên trong tranh chấp thỏa thuận
lựa chọn, nhưng sẽ được tiến hành theo quy trình pháp luật quy định. Trong
phương thức trọng tài sẽ có một Hội đồng trọng tài hoặc trọng tài viên với tư
cách là một bên trung gian, độc lập nhằm giải quyết các mẫu thuẫn, tranh
chấp bằng việc đưa ra phán quyết có giá trị bắt buộc thi hành đối với các bên.
Ưu điểm của phương thức giải quyết tranh chấp này là có tính linh
hoạt, tạo quyền chủ động cho các bên, tính nhanh chóng, tiết kiệm được thời
gian có thể rút ngắn thủ tục tố tụng trọng tài và đảm bảo bí mật. Trọng tài tiến

8
hành giải quyết tranh chấp theo nguyên tắc án, quyết định trọng tài không
được công bố công khai rộng rãi. Theo nguyên tắc này, các bên có thể giữ
được bí mật kinh doanh cũng như danh dự, uy tín của mình. Phán quyết của
trọng tài có tính chung thẩm, đây là ưu thế vượt trội so với hình thức giải
quyết tranh chấp bằng thương lượng, hòa giải. Sau khi trọng tài đưa ra phán
quyết thì các bên không có quyền kháng cáo trước bất kỳ một tổ chức hay tòa
án nào. Đồng thời, phán quyết của trọng tài có tính bắt buộc thi hành với các
bên. Khi đã hết thời hạn tự nguyện thi hành nhưng có một trong các bên
không thực hiện, bên còn lại có quyền gửi đơn yêu cầu cơ quan thi hành án
dân sự cưỡng chế thi hành phán quyết của trọng tài.
Tuy nhiên giải quyết bằng phương thức trọng tài đòi hỏi chi phí tương
đối cao, vụ việc kéo dài thì chi phí trọng tài cũng cao. Việc thi hành phán
quyết của trọng tài không phải lúc nào cũng thuận lợi, trôi chảy.
Phương thức tố tụng tại Tòa án:
Tố tụng tại Tòa án là phương thức giải quyết tranh chấp truyền thống
nhất và cũng hiệu quả nhất. Đây là phương thức có sự tham gia giải quyết của
đại diện quyền lực nhà nước là TAND. Vì vậy quy trình giải quyết tranh chấp
phải tuân thủ quy định chặt chẽ của pháp luật tố tụng. Đồng thời, bản án,
quyết định của Tòa án được đảm bảo thi hành bằng hệ thống cơ quan thi hành
án của nhà nước.
Trong thực tiễn pháp lý, khi các phương thức thương lượng, hòa giải,
trọng tài không đem lại kết quả, các chủ thể mới lựa chọn đến Tòa án giải
quyết, bởi tính rườm rà, phức tạp, thiếu linh hoạt của quy trình giải quyết
tranh chấp tại Tòa án.
So với các phương thức giải quyết tranh chấp trên thì hòa giải là
phương thức có nhiều ưu điểm hơn:
Thứ nhất, hòa giải có thể được tiến hành trong nhiều môi trường khác
nhau, thủ tục có thể được thỏa thuận và điều chỉnh cho thích nghi. Tính linh

9
hoạt đem lại lợi thế là các bên được bày tỏ ý kiến xem quá trình nào thì phù
hợp với họ; cho phép có những điều chỉnh khi bản chất của tranh chấp và các
bên tranh chấp đòi hỏi phải vậy; tránh khả năng về việc có những yêu cầu về
thủ tục kỹ thuật quá phức tạp. Ngược lại, phương thức tố tụng Tòa án có một
cách thức tổ chức cứng nhắc hơn, có những quy định và thủ tục cố hữu. Có
một vài yếu tố mang tính kỹ thuật đòi hỏi rất cao, buộc các bên phải nghiêm
chỉnh chấp hành cả trong thời gian trước và đang diễn ra quá trình xét xử. Một
sự khác biệt quan trọng giữa hòa giải và tố tụng là những thông tin và chứng
cứ nào có thể được sử dụng, sử dụng và kiểm chứng như thế nào. Trong tố
tụng, vấn đề này được điều chỉnh theo quy định về chứng cứ và thủ tục để
đảm bảo tính chính xác và độ tin cậy. Trong hòa giải thường không có quy
định nào về chứng cứ và cũng không có quy định về kiểm chứng cũng như
xem xét về mặt thủ tục. Chỉ có những quy định thủ tục mở về phương pháp
nói chuyện và giao tiếp. Các bên tranh chấp được phép kể chuyện của họ nếu
thấy phù hợp và có thể biểu lộ tình cảm mà không bị bài bác và bị cho là không
có ý nghĩa.Tuy nhiên cũng có những giới hạn đối với tính linh hoạt của hoạt
động hòa giải. Mặc dù nó không phải là một quá trình cứng nhắc, nhưng khi các
Hòa giải viên hướng dẫn, các bên vẫn phải có sự thống nhất cao trong các giai
đoạn khác nhau. Các Hòa giải viên phải thực hiện một cách có hệ thống qua
từng giai đoạn của hoạt động hòa giải theo trình tự cụ thể. Điều này giúp khai
thác được từng điểm mạnh trong toàn bộ quá trình hòa giải, vì mỗi một giai
đoạn trong quá trình đó đều có cái lý lẽ riêng của nó. Vì thế, mặc dù có sự
linh hoạt, nhưng hòa giải mang tính tổ chức hơn so với những cuộc đàm phán
có tính chất tùy tiện. Một trong những đóng góp của một Hòa giải viên là có
thể xác lập trật tự trong những cuộc đàm phán vô tổ chức và thiếu thống nhất.
Thứ hai, trong hòa giải, các bên tranh chấp có thể nói chuyện, trao đổi,
đàm phán và thảo luận về các giải pháp trong toàn bộ quá trình. Quá trình hòa
giải tạo cơ hội cho mỗi bên bày tỏ quan điểm của mình về tranh chấp. Sự

10
tham gia trực tiếp của các bên tranh chấp trong hòa giải là rất cần thiết vì nó
đề cao được tinh thần trách nhiệm của các bên đối với các lựa chọn của mình.
Không một phương thức giải quyết tranh chấp nào có thể đảm bảo sự tham
gia trực tiếp của các bên được như phương thức hòa giải, các bên đánh giá rất
cao “quyền tự quyết” của phương thức này dù tranh chấp chưa được giải quyết.
Bảo đảm được bí mật, ít ảnh hưởng đến hoạt động của cá nhân, pháp nhân.
Thứ ba, khi đưa ra quyết định, Tòa án và các trọng tài viên đều dựa
vào các quy phạm pháp luật, nghĩa là các quy tắc và nguyên tắc được quy
định trong các đạo luật. Trong hòa giải, các bên không viện dẫn các quy phạm
để định hướng giải quyết, nhưng các quy phạm lại có thể được các bên rút ra
từ chính kết quả giải quyết vụ việc.
Thứ tư, hòa giải là phương thức giải quyết tranh chấp dân sự hiệu quả,
nhanh nhất, đơn giản nhất, ít tốn kém nhất (tiết kiệm được nhân lực, chi phí,
thời gian). Hòa giải là sự lựa chọn được ưu tiên trong giải quyết tranh chấp
bởi tính nhanh gọn, hiệu quả bền vững, củng cố được mối quan hệ tình cảm
giữa con người với con người.
1.1.2. Hòa giải tranh chấp dân sự
Hòa giải là một phương thức giải quyết tranh chấp truyền thống và
phổ biến trong đời sống xã hội. Trong khoa học pháp lý, hòa giải được hiểu
dưới nhiều góc độ khác nhau.
Dưới góc độ là một thủ tục giải quyết tranh chấp thì thủ tục hòa giải là
trình tự mà các bên tham gia bao gồm các bên tranh chấp và bên trung gian
hòa giải cần tuân theo để đạt được tự nguyện thỏa thuận giải quyết mâu thuẫn,
tranh chấp đang tồn tại giữa các bên.
Dưới góc độ pháp lý, hòa giải là một chế định pháp luật. Theo Giáo
trình Lý luận Nhà nước và pháp luật của trường Đại học Luật Hà Nội thì:
“Chế định pháp luật là một tập hợp được cấu trúc từ nhóm các quy phạm pháp
luật điều chỉnh nhóm quan hệ xã hội có liên quan mật thiết với nhau thuộc

11
cùng một loại” [24]. Theo định nghĩa này, chế định hòa giải là một tập hợp
các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá
trình hòa giải giải quyết tranh chấp.
Dưới góc độ là một phương thức giải quyết tranh chấp, hòa giải là
hoạt động của một bên trung gian nhằm giúp đỡ các bên tranh chấp thỏa thuận
với nhau về giải quyết tranh chấp.
Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn này, người viết chỉ chú trọng
nghiên cứu hòa giải dưới góc độ là một phương thức giải quyết tranh chấp.
Tuy nhiên, dù dưới góc độ là một phương thức giải quyết tranh chấp thì trước
đây cũng như hiện nay có nhiều quan điểm về hòa giải, cụ thể như sau:
Theo Từ điển tiếng Việt, “hòa giải là việc thuyết phục các bên đồng ý
chấm dứt xung đột, xích mích một cách ổn thỏa” [25, tr. 430]. Khái niệm này
đề cập đến hành động và mục đích của hòa giải, nhưng chưa nêu được đầy đủ
các yếu tố như bản chất, nội dung, và chủ thể của hòa giải.
Theo Từ điển Luật học Anh – Mỹ của Black: “Hòa giải là một quá trình
giải quyết tranh chấp mang tính chất riêng tư, trong đó, Hòa giải viên là người
thứ ba trung gian giúp các bên tranh chấp đạt được thỏa thuận” [32, tr. 350].
Tương tự như vậy, từ điển Luật học của Cộng hòa Pháp giải thích:
“Hòa giải là phương thức giải quyết tranh chấp với sự giúp đỡ của người
trung gian thứ ba (Hòa giải viên) để giúp đưa ra các đề nghị giải quyết một
cách thân thiện” [33, tr. 378].
Hai từ điển nêu trên đưa ra định nghĩa về hòa giải khá tương đồng nhau
khi cả hai định nghĩa đều thể hiện ba yếu tố đó là: thứ nhất, có sự tranh chấp
giữa các bên; thứ hai, có sự tham gia của bên thứ ba trung lập để đưa ra ý kiến
tư vấn; thứ ba, có sự thống nhất ý chí giữa các bên để giải quyết tranh chấp.
Ngoài ra, trong khoa học pháp lý, có quan điểm cho rằng: “hòa giải là
quá trình giải quyết những tranh chấp, bất đồng giữa các bên. Trong quá trình
hòa giải cần đến bên thứ ba với vai trò trung lập, làm trung gian giúp các bên

12
tranh chấp giải quyết được những bất đồng và đạt được một thỏa thuận phù
hợp với quy định của pháp luật, đạo đức xã hội và tự nguyện thực hiện những
thỏa thuận đó” [11]. Theo quan điểm này, hòa giải có mục đích giải quyết
thành công tranh chấp. Tuy nhiên, không phải tất cả các trường hợp hòa giải
đều thành công. Khi đó, dù mâu thuẫn chưa được giải quyết hoàn toàn nhưng
các bên tranh chấp cũng có cơ hội hiểu rõ hơn nội dung tranh chấp, bày tỏ ý
chí của mình với đối phương và cũng được nghe ý kiến của đối phương về vụ
tranh chấp. Từ đó, hai bên có thể phần nào tìm được tiếng nói chung và làm
giảm mức độ mâu thuẫn.
Từ các quan điểm trên, có thể khái quát: hòa giải tranh chấp dân sự là
phương thức giải quyết tranh chấp thông qua sự tham gia của bên thứ ba,
đóng vai trò trung gian để hỗ trợ hoặc thuyết phục các bên tranh chấp tìm
kiếm các giải pháp nhằm chấm dứt xung đột.
Qua đó thấy được có hai sự khác biệt cơ bản giữa hòa giải tranh chấp
dân sự với hòa giải tranh chấp thương mại đó là: trong hòa giải tranh chấp
thương mại các quan hệ tranh chấp mang tính thương mại, giữa các bên hay ít
nhất một bên là thương nhân và quyền tự do ý chí trong hòa giải tranh chấp
dân sự được thừa nhận rộng rãi hơn. Cụ thể:
– Về quan hệ tranh chấp:
Hòa giải tranh chấp dân sự: các tranh chấp phát sinh từ các quan hệ
nhân thân hoặc quan hệ tài sản được luật dân sự điều chỉnh mà không phải là
các tranh chấp thương mại.
Hòa giải tranh chấp thương mại: các tranh chấp giữa các bên phát sinh
từ hoạt động thương mại; tranh chấp giữa các bên trong đó ít nhất một bên có
hoạt động thương mại và tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định
được giải quyết bằng hòa giải thương mại.
– Về cơ quan, tổ chức tiến hành hòa giải: Ngoài Tòa án và Trung tâm
hòa giải tại Tòa án thì:

13
Hòa giải tranh chấp dân sự: còn được hòa giải ở Ủy ban nhân dân (UBND)
cấp xã.
Hòa giải tranh chấp thương mại: còn được hòa giải tại Trung tâm
Trọng tài thương mại, Trung tâm Hòa giải Việt Nam (VMC) – thuộc Trung
tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC).
– Về thủ tục hòa giải:
Hòa giải tranh chấp dân sự trong một số loại tranh chấp là thủ tục bắt
buộc trước khi giải quyết tranh chấp tại Tòa án (thủ tục tiền tố tụng) như: Hòa
giải tranh chấp đất đai tại UBND cấp xã. Còn với các tranh chấp thương mại
thì không phải qua hòa giải ở giai đoạn này.
– Quyền tự do ý chí trong hòa giải tranh chấp dân sự được thừa nhận
rộng rãi hơn: chủ thể tham gia hòa giải tranh chấp dân sự thường là hai cá
nhân nên trong quá trình hòa giải họ có thể tự đưa ra được các quyết định của
mình, tự do thể hiện ý chí của mình trong quá trình hòa giải. Còn chủ thể
tham gia hòa giải tranh chấp thương mại thường là hai pháp nhân nên trong
quá trình hòa giải, những người đại diện theo ủy quyền cho pháp nhân đó
không được tự do thể hiện ý chí của mình, chỉ được đưa ra các quyết định
trong phạm vi được ủy quyền. Những vấn đề quan trọng được đề cập đến
trong buổi hòa giải, họ không thể tự quyết định được mà phải được sự đồng ý
của người đại diện theo pháp luật của pháp nhân đó.
1.2. Phân loại, đặc điểm và ý nghĩa của các loại hình hòa giải
tranh chấp dân sự ở Việt Nam
Theo quy định của pháp luật hiện hành, hòa giải tranh chấp dân sự ở
Việt Nam có thể phân loại thành hai loại: hòa giải theo thủ tục tố tụng, tại Tòa
án và hòa giải ngoài tố tụng, ngoài Tòa án. Một số cơ chế hòa giải ngoài Tòa
án (ngoài tố tụng) như: Hòa giải cơ sở theo quy định của Luật hòa giải ở cơ
sở; hòa giải tranh chấp lao động cá nhân, tranh chấp lao động tập thể (về
quyền, lợi ích) theo quy định của Bộ luật Lao động; hòa giải thương mại theo

14
quy định của Luật Thương mại và Nghị định số 22/2017/NĐ-CP ngày
24/02/2017 của Chính phủ về hòa giải thương mại; hòa giải tranh chấp đất đai
tại UBND cấp xã theo quy định của Luật Đất đai; hòa giải của tổ chức đại
diện tập thể quyền tác giả, quyền liên quan theo quy định của Luật Sở hữu trí
tuệ; hòa giải giữa tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ và người tiêu
dùng theo quy định của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Ngoài hai loại trên, hiện nay ở Việt Nam cũng đang áp dụng cơ chế
hòa giải mới trước tố tụng, tại Tòa án đó là Trung tâm hòa giải tại Tòa án.
Tuy dự thảo về Luật hòa giải, đối thoại tại Tòa án vẫn đang trong quá trình
hoàn thiện nhưng cơ chế này đã và đang được nước ta áp dụng thí điểm ở một
số tỉnh thành trên cả nước.
Trong phạm vi luận văn này, tác giả chỉ đi sâu nghiên cứu ba hình
thức hòa giải đó là: Hòa giải theo thủ tục TTDS, hòa giải tại Trung tâm hòa
giải tại Tòa án và hòa giải ở cơ sở.
1.2.1. Hòa giải theo thủ tục tố tụng dân sự
Hòa giải theo thủ tục TTDS được tiến hành sau khi Tòa án thụ lý vụ
án, do Tòa án nhân dân có thẩm quyền thực hiện. Theo pháp luật TTDS Việt
Nam, hòa giải được coi là một nguyên tắc, là một thủ tục bắt buộc mà Tòa án
phải tiến hành trước khi đưa vụ việc ra phiên tòa sơ thẩm (trừ trường hợp
pháp luật quy định không được hòa giải và những trường hợp không tiến hành
hòa giải được). Tòa án giữ một vị trí đặc biệt, với vai trò là trung gian có
nhiệm vụ tổ chức cho các bên đương sự thỏa thuận với nhau. Khi hòa giải,
Tòa án giải thích cho các đương sự về các quy định của pháp luật liên quan
tới các vấn đề tranh chấp, các chính sách của Nhà nước, động viên, giúp đỡ
họ tháo gỡ những vấn đề vướng mắc. Dấu hiệu về vai trò của Tòa án là dấu
hiệu đặc trưng để phân biệt hòa giải trong TTDS do Tòa án tiến hành với
trường hợp các đương sự tự hòa giải. Tuy nhiên, xét về thực tế thì kết quả
thỏa thuận mà các bên đạt được nhiều khi là hệ quả gián tiếp từ việc giải thích

15
pháp luật hoặc hoạt động hòa giải trước đó của Tòa án. Còn dấu hiệu về hoạt
động TTDS được tiến hành sau khi Tòa án thụ lý vụ án là cơ sở để phân biệt
hòa giải trong TTDS với hòa giải ngoài TTDS do các chủ thể khác như trọng
tài, tổ hòa giải cơ sở, hòa giải viên thực hiện.
Hòa giải là một thủ tục tố tụng bắt buộc trong quá trình giải quyết vụ
án dân sự tại Tòa án cấp sơ thẩm. Xuất phát từ ý nghĩa to lớn của việc hòa
giải thành, pháp luật TTDS của chúng ta đã coi hòa giải là một thủ tục, có tính
bắt buộc phải tiến hành trước khi mở phiên tòa sơ thẩm. Tuy nhiên, tại các
giai đoạn khác của quá trình tố tụng, pháp luật không cấm đoán nên Tòa án
vẫn có thể tiến hành hòa giải nếu xét thấy việc hòa giải là cần thiết và có khả
năng hòa giải thành. Việc bắt buộc tiến hành hòa giải trước khi mở phiên tòa
sơ thẩm xuất phát từ những cơ sở nhất định. Trước khi mở phiên tòa sơ thẩm,
Tòa án phải tiến hành xác minh, hoạt động này đã giúp Thẩm phán nắm được
nội dung vụ việc, hiểu được nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn, đây là cơ sở
để Tòa án tiến hành hòa giải hiệu quả nhất.
Hòa giải vụ án dân sự được tiến hành theo trình tự, thủ tục do pháp
luật quy định. Việc quy định thủ tục hòa giải các vụ việc dân sự nhằm đảm
bảo tính khách quan, công bằng, bảo đảm sự bình đằng giữa các đương sự
trong quá trình giải quyết vụ án. Các quy định của pháp luật TTDS về thủ tục
hòa giải là cơ sở để tiến hành hòa giải các vụ án dân sự và bắt buộc Tòa án và
những người khác tham gia hòa giải các vụ án dân sự phải tuân thủ các quy
định về thủ tục triệu tập các đương sự tham gia hòa giải, thông báo hòa giải,
trình tự tiến hành hòa giải và thủ tục ra quyết định công nhận sự thỏa thuận
của các đương sự.
Kết quả hòa giải có tính chất bắt buộc thi hành và có giá trị pháp lý.
1.2.2. Hòa giải tại Trung tâm hòa giải tại Tòa án
So với các hoạt động hòa giải khác thì phạm vi và đối tượng hòa giải
tại Trung tâm hòa giải, đối thoại tại Tòa án được mở rộng hơn rất nhiều.

16
Về phạm vi, Hòa giải viên của Trung tâm hòa giải tại Tòa án được
quyền hòa giải các vụ việc trong phạm vi của thẩm quyền của Tòa án cấp đó,
trong khi hòa giải ở cơ sở chỉ thực hiện hòa giải các mâu thuẫn, tranh chấp
xảy ra tại cơ sở đó, tức là chỉ hòa giải các tranh chấp trong phạm vi thôn,
làng, ấp, bản, tổ dân phố, khu phố, khối phố… Không những thế, về đối
tượng, Hòa giải viên của Trung tâm hòa giải tại Tòa án được quyền hòa giải
các tranh chấp về: dân sự, hôn nhân và gia đình, thương mại, lao động kể cả
trường hợp thuận tình ly hôn. Còn UBND xã, phường chỉ hòa giải các tranh
chấp về đất đai; Hòa giải viên lao động, Hội đồng trọng tài lao động chỉ hòa
giải các tranh chấp về lao động; Hòa giải viên thương mại chỉ hòa giải các
tranh chấp về thương mại…
Tiếp đó, hòa giải tại Trung tâm hòa giải, đối thoại tại Tòa án thực hiện
trước khi Tòa án thụ lý vụ việc dân sự theo hướng dẫn của Tòa án nhân dân
tối cao (TANDTC), khác một số quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự
(BLTTDS). Theo quy định hiện nay, hòa giải ngoài Tòa án là hòa giải không
gắn với tố tụng, còn hòa giải tại Tòa án là hòa giải trong quá trình tố tụng.
Riêng hòa giải thí điểm tại Tòa án là việc hòa giải được thực hiện sau khi
người khởi kiện nộp đơn khởi kiện tại Tòa án nhưng chưa thụ lý vụ án theo
quy định của BLTTDS hoặc các bên có yêu cầu Trung tâm hòa giải, đối thoại
tại Tòa án thực hiện việc hòa giải, các bên chưa nộp đơn khởi kiện tại Tòa án.
Hay nói cách khác, hòa giải thí điểm tại Tòa án là hòa giải “tiền tố
tụng”, cho nên việc thực hiện hòa giải này được tiến hành tại Trung tâm hòa
giải, đối thoại do Tòa án thành lập, được thực hiện theo trình tự, thủ tục theo
hướng dẫn của TANDTC tại Công văn số 310/TANDTC-PC ngày 11/10/2018
hướng dẫn về nghiệp vụ triển khai thí điểm về đổi mới, tăng cường hòa giải,
đối thoại trong giải quyết các tranh chấp dân sự, khiếu kiện hành chính tại
TAND. Một số hướng dẫn của Công văn này khác với quy định của BLTTDS
như về bảo mật thông tin, xử lý kết quả hòa giải, xác định thời hiệu…

17
Không những thế, hòa giải tại Trung tâm hòa giải, đối thoại tại Tòa án
do Hòa giải viên tiến hành độc lập và tự chịu trách nhiệm trước pháp luật, nhưng
được sự hỗ trợ của Tòa án. Hòa giải viên do Tòa án lựa chọn và công nhận;
Tòa án có trách nhiệm tập huấn, hướng dẫn, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp
vụ, kỹ năng hòa giải, ký và tống đạt các giấy tờ có liên quan đến hòa giải…
Cuối cùng là phương thức hòa giải vô cùng linh hoạt. Bởi lẽ, về thời
gian và địa điểm tiến hành hòa giải do Hòa giải viên quyết định, không bắt
buộc phải thu thập chứng cứ đầy đủ rồi mới tiến hành hòa giải, có thể tiến
hành hòa giải ngoài phòng hòa giải của Trung tâm hòa giải nếu các bên tranh
chấp đều đồng ý. Khi hòa giải, Hòa giải viên được phép linh hoạt trong sử
dụng phương thức hòa giải, trừ những biện pháp vi phạm điều cấm của luật và
trái đạo đức xã hội. Đó có thể là: Hòa giải viên thực hiện việc họp kín, họp
chung linh hoạt; Hòa giải viên có thể giải thích, phân tích… để giúp các bên
hiểu đúng bản chất đối với các vấn đề đang tranh chấp để tự nguyện thỏa
thuận giải pháp thích hợp.
Như vậy có thể hiểu, linh hoạt là một đặc điểm nổi bật của phương
pháp hòa giải khi thực hiện thí điểm, nó không bị gò bó theo trình tự, thủ tục
quy định cứng nhắc của BLTTDS. Hòa giải viên tiến hành hòa giải mà không
lo lắng vi phạm nguyên tắc “chưa xử đã xét” như khi Thẩm phán tiến hành hòa
giải trong tố tụng. Đây là điểm thuận lợi lớn của việc hòa giải thực hiện theo
mô hình thí điểm so với hòa giải trong tố tụng được tiến hành bởi Thẩm phán.
1.2.3. Hòa giải ở cơ sở
Với ý nghĩa là phương thức giúp các bên thỏa thuận, tự nguyện giải
quyết với nhau những việc vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ nhằm giữ gìn
đoàn kết trong nội bộ nhân dân, củng cố, phát huy những tình cảm và đạo lý
truyền thống tốt đẹp trong gia đình và cộng đồng dân cư, phòng ngừa, hạn chế
vi phạm pháp luật, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội trong cộng đồng dân cư, có
thể rút ra một số đặc điểm của hòa giải ở cơ sở như sau:

18
Một là, hòa giải ở cơ sở là hoạt động thuyết phục vận động, giúp đỡ
các bên tranh chấp thông cảm hiểu nhau hơn, tự dàn xếp, thỏa thuận để xóa
bỏ tranh chấp, nối lại tình cảm gắn bó từ gia đình, xóm giềng, góp phần giữ
gìn ổn định, trật tự an toàn xã hội ở cơ sở xã, phường, thị trấn.
Hai là, hòa giải ở cơ sở được tiến hành do một hoặc một số tổ viên tổ
hòa giải hoặc người có uy tín đối với các bên tranh chấp tiến hành gọi chung
là hòa giải viên. Đây là những người nhiệt tình, tâm huyết, có tinh thần trách
nhiệm cao đối với cộng đồng, ở nhiều độ tuổi khác nhau, hoạt động không có
lương, phụ cấp của Nhà nước khi tham gia hòa giải.
Ba là, phạm vi của hoạt động hòa giải ở cơ sở là những tranh chấp nhỏ
trong cộng đồng dân cư được giới hạn theo quy định của pháp luật.
Bốn là, hòa giải ở cơ sở không bắt buộc, áp đặt các bên tranh chấp
phải tiến hành hòa giải, không nhất thiết phải lập biên bản nếu các bên không
yêu cầu. Thời gian, địa điểm tiến hành hòa giải không cố định, linh hoạt đảm
bảo thuận lợi cho việc hòa giải hoặc phù hợp với nguyện vọng của các bên.
Năm là, hòa giải ở cơ sở thường được thực hiện linh hoạt, có sự kết
hợp vận dụng quy định của pháp luật với phong tục, tập quán truyền thống,
kinh nghiệm của dân gian, hiệu quả là có tính thuyết phục cao, mang lại kết
quả ổn thỏa, lâu bền.
Sáu là, hòa giải ở cơ sở là một biện pháp tốt để trực tiếp tổ chức tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, tư vấn pháp lý, xây dựng lối sống văn
hóa cho mọi người.
Với bản chất và ý nghĩa nhân đạo sâu sắc vì con người, hòa giải ở cơ
sở vượt qua được những thay đổi của các thể chế chính trị, ngày càng khẳng
định được vai trò, ý nghĩa to lớn của mình trong đời sống xã hội. Đó chính là
lý do tại sao hòa giải ở cơ sở được mọi người dân chấp nhận. Đây cũng là một
trong những đặc điểm của hòa giải ở cơ sở.

19
1.2.4. Ý nghĩa của hòa giải tranh chấp dân sự
Nếu giải quyết tranh chấp bằng biện pháp xét xử, khi kết thúc phiên
tòa, Hội đồng xét xử (HĐXX) phải ra bản án tuyên chấp nhận hoặc không
chấp nhận yêu cầu của đương sự; phán quyết của Hội đồng Trọng tài cũng
vậy. Hay nói một cách khác, việc xét xử của Tòa án, sự phán quyết của Trọng
tài sẽ có bên thắng, bên thua, thậm chí có nhiều trường hợp cả hai bên đều
thua, các bên đều không hài lòng (như trường hợp Tòa án chỉ chấp nhận một
phần yêu cầu của người khởi kiện thì nguyên đơn và bị đơn đều không mong
muốn). Ngược lại, nếu các tranh chấp được giải quỵết bằng biện pháp hòa giải,
có nghĩa là các bên hoàn toàn tự nguyện thỏa thuận về những giải pháp giải
quyết tranh chấp. Như vậy khi hòa giải thành thì các nội dung giải quyết tranh
chấp là ý chí của các bên, các chủ thể tranh chấp đều mong muốn, hài lòng.
Hay nói cách khác, khi hòa giải thành sẽ không có kẻ thắng, người thua, thậm
chí có người còn nói hòa giải thành là giúp cho các bên tranh chấp “đều thắng”.
Đối với bản án, khi thi hành thường gặp nhiều trở ngại khó khăn vì
nhiều đương sự khi bị bản án tuyên buộc thực hiện, nghĩa không tự nguyện thi
hành. Ngược lại, đối với những nội dung thỏa thuận khi hòa giải thành là ý
chí của các bên tranh chấp nên thường là tự giác thi hành. Trong thực tế nhiều
vụ tranh chấp sau khi hòa giải thành các bên không cần yêu cầu Tòa án công
nhận, họ tự nguyện thực hiện theo các nội dung đã thỏa thuận, và thực hiện
một cách dễ dàng, nhanh chóng. Trường hợp phải thi hành án thì thực tiễn đã
cho thấy thi hành các “Quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự” lúc
nào cũng thuận lợi nhanh chóng hơn những bản án. Từ những phân tích nói
trên đã thể hiện hòa giải thành là một phương thức giải quyết các tranh chấp
dân sự tốt nhất, ổn thỏa nhất.
Tiếp đó, có thể nói, hòa giải là phương thức giải quyết tranh chấp tiết
kiệm nhất, hiệu quả nhất, ít tốn kém về thời gian, về nhân lực và chi phí tố
tụng của cơ quan nhà nước, của các bên tranh chấp. Bởi khi tiến hành hòa giải

Đánh giá post

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *