10140_Khảo sát thái độ của cha mẹ đối với con có chứng tự kỷ

luanvantotnghiep.com

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

ĐÀO THỊ SÂM

KHẢO SÁT THÁI ĐỘ CỦA CHA MẸ ĐỐI
VỚI CON CÓ CHỨNG TỰ KỶ

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh – 2013

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

ĐÀO THỊ SÂM

KHẢO SÁT THÁI ĐỘ CỦA CHA MẸ ĐỐI
VỚI CON CÓ CHỨNG TỰ KỶ

Chuyên ngành: Tâm lý học
Mã số: 60 31 04 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. TRẦN THỊ QUỐC MINH

Thành phố Hồ Chí Minh – 2013

1

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu và kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng
công bố trong bất kì một công trình nào khác.

Tác giả luận văn

Đào Thị Sâm

2

LỜI CẢM ƠN

Em xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu, phòng đào tạo sau đại học,
trường Đại Học Sư Phạm thành phố Hồ Chí Minh đã tạo mọi điều kiện cho tôi
trong quá trình học tập và hoàn thành luận văn này.
Xin gửi lời tri ân tới quý thầy, quý cô đã tận tình giảng dạy lớp cao học
K22, chuyên ngành Tâm lý học, trường Đại Học Sư Phạmthành phố Hồ Chí
Minh, niên khoá 2011-2013.
Xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến cô giáo, T.S Trần Thị Quốc Minh đã
tận tình giúp đỡ, chỉ bảo em trong suốt quá trình thực hiện luận văn.
Em xin chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo khoa PHCN và TGTTT, Hiệu
trưởng cùng các giáo viên, phụ huynh trường chuyên biệt Khai Trí, trường
chuyên biệt Bim Bim, Bệnh viện Nhi đồng II đã nhiệt tình giúp đỡ và ủng hộ
em thực hiện luận văn này
Xin gửi lời cảm ơn tới tất cả bạn bè, đồng nghiệp và gia đình những
người luôn ủng hộ, động viên và tạo mọi điều kiện tốt nhất để em hoàn thành
luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn!
TP.HCM, ngày 30 tháng 09 năm 2013

HVTH: Đào Thị Sâm

3

MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ………………………………………………………………………………………….. 1
LỜI CẢM ƠN ……………………………………………………………………………………………….. 2
MỤC LỤC …………………………………………………………………………………………………….. 3
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
………………………………………………………………. 5
MỞ ĐẦU
……………………………………………………………………………………………………….. 6
1. Lý do chọn đề tài ……………………………………………………………………………………………….
6
2. Mục đích nghiên cứu
………………………………………………………………………………………….
7
3. Đối tượng, khách thể nghiên cứu
………………………………………………………………………..
7
4. Giả thuyết nghiên cứu
………………………………………………………………………………………..
7
5. Nhiệm vụ nghiên cứu …………………………………………………………………………………………
8
6. Phạm vi nghiên cứu
……………………………………………………………………………………………
8
7. Phương pháp nghiên cứu
……………………………………………………………………………………
8
8. Cấu trúc luận văn
………………………………………………………………………………………………
8
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THÁI ĐỘ CỦA CHA MẸ ĐỐI VỚI CON
CÓ CHỨNG TỰ KỶ ……………………………………………………………………………………. 10
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ……………………………………………………………………………..
10
1.1.1. Các nghiên cứu về tự kỷvà thái độ của cha mẹ đối với con có chứng tự kỷ trong
nước. ………………………………………………………………………………………………………………..
10
1.1.2. Các nghiên cứu về tự kỷ và thái độ của cha mẹ đối với con có chứng tự kỷở nước
ngoài ………………………………………………………………………………………………………………..
12
1.2. Các khái niệm cơ bản của đề tài nghiên cứu …………………………………………………..
15
1.2.1. Thái độ
…………………………………………………………………………………………………….
15
1.2.2. Đặc điểm của thái độ
…………………………………………………………………………………
17
1.2.3. Cấu trúc tâm lý của thái độ
…………………………………………………………………………
18
1.2.4. Khái niệm tự kỷ
………………………………………………………………………………………..
20
1.2.5. Trẻ em, trẻ tự kỷ ……………………………………………………………………………………….
22
1.2.6. Biểu hiện trẻ tự kỷ …………………………………………………………………………………….
23
1.2.7. Nguyên nhân gây ra hội chứng tự kỷ …………………………………………………………..
25
1.2.8 Phân loại tự kỷ
…………………………………………………………………………………………..
27
1.2.9. Các hội chứng khác trong phổ tự kỷ ……………………………………………………………
29
1.3. Thái độ và các thành tố cơ bản về thái độ của cha mẹ đối con có chứng tự kỷ
….
30
1.3.1. Nhận thức của cha mẹ về chứng tự kỷ …………………………………………………………
30

4

1.3.2. Tình cảm của cha mẹ đối với con có chứng tự kỷ …………………………………………
30
1.3.3. Xu hướng hành vi của cha mẹ đối với con có chứng tự kỷ
……………………………..
32
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THÁI ĐỘ CỦA CHA MẸ ĐỒI VỚI CON CÓ
CHỨNG TỰ KỶ ………………………………………………………………………………………….. 34
2.1. Sơ lược về địa bàn nghiên cứu ………………………………………………………………………
34
2.2. Tổ chức nghiên cứu ……………………………………………………………………………………….
35
2.3. Triển khai nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu cụ thể ……………………………..
36
2.3.1. Nghiên cứu lí luận …………………………………………………………………………………….
36
2.3.2. Nghiên cứu thực trạng
……………………………………………………………………………….
36
2.4 . thực trạng thái độ của cha mẹ đối với con có chứng tự kỷ.
……………………………..
39
2.4.1. Nhận thức của cha mẹ đối với con có chứng tự kỷ. ……………………………………….
39
2.4.2. Tình cảm của cha mẹ đối với con có chứng tự kỷ …………………………………………
50
2.4.3. Hành vi của cha mẹ đối với con có chứng tự kỷ
……………………………………………
59
2.5. Một số biện pháp giúp các bậc cha mẹ có hiểu rõ về chứng tự kỷ và có thái độ
tích cực đối với con có chứng tự kỷ ………………………………………………………………………
85
2.5.1. Cơ sở đề xuất biện pháp …………………………………………………………………………….
85
2.5.2. Đề xuất các biện pháp: ………………………………………………………………………………
86
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ……………………………………………………………………….. 88
TÀI LIỆU THAM KHẢO ……………………………………………………………………………. 91

5

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CĐ, TC
Cao đẳng, trung cấp
DSM –IV

Diagnostic and statistical manual of mental discorders
ĐTB

Điểm trung bình
ĐH
Đại học
HCKT
Hoàn cảnh kinh tế
ICD – 10th
The international classification diseases -10th
PT

Trung học phổ thông
TPHCM
Thành phố Hồ Chí Minh
XH
Xếp hạng

6

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tự kỷ ở trẻ em là một hội chứng phổ biến tại nhiều quốc gia trên thế giới.
Không phải ngẫu nhiên mà Liên hiệp quốc chọn ngày 2/4 hàng năm là ngày thế giới
nhận biết về chứng tự kỷ. Điều này cho thấy số trẻ được chẩn đoán mắc bệnh tự kỷ
tăng chóng mặt ở nhiều nước nói chung và cả Việt Nam nói riêng. Ở nước ta, tự kỷ
mới chỉ được biết đến trong khoảng 10 năm trở lại đây, nhưng cũng đã nhanh chóng
trở thành một nỗi đau lớn cho những bậc làm cha, làm mẹ.
Với số lượng trẻ tự kỷ tăng lên hằng năm đã khiến bao gia đình thuộc nhiều
tầng lớp trong xã hội gặp nhiều khó khăn và hoang mang. Là một chứng rối loạn mà
các nhà khoa học hiện nay vẫn chưa thể xác định một cách rõ ràng nguyên nhân và
cách trị liệu hiệu quả nên càng làm cho những người sắp, đã và đang làm cha mẹ lo
lắng.
Đau khổ, lảng tránh, tự ti là tâm lý của nhiều bố mẹ có con bị tự kỷ. Họ không
dám bộc bạch, sợ bị để ý, sợ bị mang tiếng… Có nhiều bậc cha mẹ không hiểu tự kỷ
là gì cứ nghĩ con mình chậm nói hơn so với những đứa trẻ khác…và một số nữa thì
biết nhưng vẫn không chấp nhận sự thật, mặc cảm, sĩ diện nên giấu bệnh của con, bất
hợp tác với bác sĩ, hoặc khi biết con bị tự kỷ thì rơi vào tình trạng chán nản, suy sụp,
khiến bệnh của trẻ ngày càng nặng. Từ những suy nghĩ và thái độ không đúng đắn đó
đã gây không ít khó khăn trong việc trị liệu cho con em họ như: can thiệp muộn, can
thiệp không đúng cách, nên không mang lại hiệu quả như mong muốn dễ làm họ
buông xuôi, bỏ mặc không chăm sóc, không giáo dục, tuyệt vọng và rồi là đầu hàng
trước chứng tự kỷ của con.
Vì vậy có nhiều nhà trị liệu đã cho rằng trước khi trị liệu cho những đứa trẻ tự
kỷ thì tác động làm thay đổi thái độ cũng như suy nghĩ của những người cha người
mẹ của các em bé đó cũng là một phần rất quan trọng trong quá trình trị liệu. Cha mẹ

7

chính là giải pháp cho những đứa con khiếm khuyết của mình. Đó cũng là một trong
những vấn đề mà mỗi nhà trị liệu luôn quan tâm.
Việc nghiên cứu thái độ của cha mẹ đối với con có chứng tự kỷ có ý nghĩa
quan trọng bên cạnh việc tìm ra nguyên nhân, biện pháp trị liệu hiệu quả cho hội
chứng tự kỷ. Tuy nhiên vấn đề này chưa được nghiên cứu nhiều ở Việt Nam, đặc biệt
là ở thành phố Hồ Chí Minh. Với những lý do trình bày ở trên, chúng tôi chọn nghiên
cứu đề tài: “ Khảo sát thái độ của cha mẹ đối với con có chứng tự kỷtại TP.Hồ Chí
Minh”
2. Mục đích nghiên cứu
Khảo sát thực trạng về thái độ của cha mẹ đối với con có chứng tự kỷ. Từ đó đề
xuất một số biện pháp đối với các bậc cha mẹ nhằm giúp họ có nhữnghiểu biết cần
thiêt về chứng tự kỷ và có thái độ tích cực trong việc trị liệu cho con.
3. Đối tượng, khách thể nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Thái độ của cha mẹ đối với con có chứng tự kỷ trên địa bàn thành phố Hồ Chí
Minh.
3.2. Khách thể nghiên cứu
Các bậc phụ huynh trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh có con mắc chứng tự
kỷ.
4. Giả thuyết nghiên cứu
Khi biết con mình mắc chứng tự kỷ nhiều bậc phụ huynh tỏ thái độ chán nản,
hoang mang… hoặc không chấp nhận sự thật về bệnh của con mình, dễ dẫn đến việc
buông xuôi. Nếu có những biện pháp giúp phụ huynh hiểu biết đúng đắn về chứng tự
kỷ, phương pháp chăm sóc, giáo dục trẻ tự kỷ hiệu quả thì phụ huynh sẽ có thái độ
tích cực hơn, toàn diện, sâu sắc, đúng đắn hơn để cùng phối hợp với nhà trường, bác
sỹ trong việc trị liệu cho con.

8

5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu một số vấn đề lý luận liên quan đến đề tài.
5.2. Khảo sát thực trạng về thái độ của cha mẹ đối với con có chứng tự kỷ và
tìm ra nguyên nhân thực trạng đó.
5.3. Đề xuất các biện pháp nhằm giúp các bậc phụ huynh có thái độ tích cực
trong việc nuôi dạy con tự kỷ.
6. Phạm vi nghiên cứu
– Nghiên cứu rộng: 111 người là cha, mẹ có con mắc chứng tự kỷ trên địa bàn
thành phố Hồ Chí Minh.
– Nghiên cứu sâu: 02 cặp cha mẹ của trẻ tự kỷ trên địa bàn thành phố Hồ Chí
Minh.
– Trẻ mắc chứng tự kỷ không giới hạn về độ tuổi
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu lý luận
Thu thập, phân tích, tổng hợp và khái quát các tài liệu khoa học có liên quan
đến đề tài làm cơ sở lý luận định hướng cho việc tìm hiểu thực tiễn.
7.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.1. Phương pháp điều tra viết bằng bảng hỏi
7.2.2. Phương pháp quan sát
7.2.3. Phương pháp phỏng vấn sâu
7.2.4. Phương pháp nghiên cứu trường hợp
7.3. Phương pháp xử lý số liệu bằng thống kê toán học
Những vấn đề cơ bản của phương pháp nghiên cứu, chúng tôi sẽ trình bày chi
tiết trong chương 2.
8. Cấu trúc luận văn
Mở đầu
Nội dung

9

Chương 1: Cơ sở lý luận về thái độ của cha mẹ đối với con có chứng tự kỷ.
Chương 2: Thực trạng thái độ của cha mẹ đối với con có chứng tự kỷ.
Kết luận và kiến nghị
Tài liệu tham khảo
Phụ lục

10

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THÁI ĐỘ CỦA CHA MẸ ĐỐI
VỚI CON CÓ CHỨNG TỰ KỶ
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Các nghiên cứu về tự kỷvà thái độ của cha mẹ đối với con có chứng tự kỷ
trong nước.
Xung quanh vấn đề về tự kỷ có rất nhiều công trình khoa học tìm ra những
biểu hiện, bản chất, nguyên nhân cũng như phương pháp can thiệp hiệu quả…của hội
chứng này. Tuy nhiên, để xác định mối liên hệ giữa thái độ của cha mẹ và sự phát
triển ở trẻ tự kỷ thì chưa có nghiên cứu nào đưa ra khẳng định rõ ràng. Song các tác
giả trong và ngoài nước cũng đã nêu ra một vài quan điểm, đánh giá về vấn đề này
thông qua các công trình khoa học của mình. Có thể kể đến như:
Nguyễn Thị Thanh Liên (2009), với luận văn Thạc sỹ Tâm lý học “Nghiên cứu
thái độ của cha mẹ đối với con có chứng tự kỷ”. Tác giả đã phân tích nhận thức, tình
cảm và hành vi của 130 phụ huynh có con mắc chứng tự kỷ trên địa bàn thành phố
Hà Nội. Nhận thức của cha mẹ có ảnh hưởng đến tình cảm cũng như hành vi của họ
đối với đứa con tự kỷ của mình [10].
Nguyễn Thị Mai Lan (2012) trong khuôn khổ nghiên cứu của đề tài khoa học
công nghệ cấp Nhà nước do Quỹ Phát triển Khoa học và Công nghệ Quốc gia tài trợ
với đề tài “Nghiên cứu thực trạng, nguyên nhân, các biện pháp giáo dục hoà nhập cho
trẻ tự kỷ ở nước ta trong giai đoạn hiện nay” tác giả đã có những nghiên cứu về các
vấn đề như sau:
“Tâm trạng của cha mẹ có con bị tự kỷ”. Tác giả bước đầu phân tích tâm trạng
của cha mẹ đã chỉ ra rằng: tâm trạng chung của cha mẹ có con bị tự kỷ có sự đan xem
giữa tâm trạng tích cực và tâm trạng tiêu cực, nhưng có xu hướng thiên về những tâm
trạng tiêu cực như: mặc cảm, buồn rầu, tự ti, suy sụp về tinh thần, lo lắng, không hài
lòng với cuộc sống, không thấy có tương lai. Những tâm trạng này thể hiện ra ở các
trạng thái cảm xúc bao trùm lên toàn bộ cuộc sống của cha mẹ có con bị tự kỷ ở các

11

khía cạnh khác nhau: về đứa con bị tự kỷ, về bản thân, về gia đình, mối quan hệ bạn
bè, làng xóm và mọi người trong xã hội xung quanh [9].
“Một số yếu tố tác động đến hội chứng tự kỷ ở trẻ”. Tác giả phân tích một số
yếu tố tác động đến hội chứng tự kỷ như: yếu tố di truyền, yếu tố môi trường, tổn
thương não hoặc bộ não kém phát triển. Với kết quả nghiên cứu này là cơ sở giúp nhà
nghiên cứu có căn cứ để có những nghiên cứu tiếp theo ở quy mô lớn hơn, để khẳng
định chắc chắn về những nguyên nhân dẫn đến hội chứng tự kỷ của trẻ từ đó giúp
nhân viên y tế, nhà trị liệu, nhà giáo dục và phụ huynh trẻ tự kỷ có biện pháp phòng
ngừa, hạn chế chứng này tốt hơn [9].
“Hội chứng tự kỷ: tiêu chí và công cụ chẩn đoán”. Tác giả đã đưa ra một số
công cụ chẩn đoán tự kỷ hiện nay dang được các nhà chuyên môn sử dụng, phân tích
những ưu điểm và nhược điểm mà mỗi loại công cụ đó mang lại nhằm giúp các nhà
chuyên môn đang trực tiếp chẩn đoán tự kỷ ở trẻ lựa chọn bộ công cụ phù hợp nhất,
đủ độ tin cậy và được kiểm chứng về giá trị khoa học để mang lại kết quả chẩn đoán
chính xác nhất [9].
Tác giả Ngô Xuân Điệp (2008), tìm hiểu về “Nhận thức của trẻ tự kỷ”. Nghiên
cứu trên 104 trẻ tự kỷ có độ tuổi từ 36 đến 72 tháng tuổi và 68 trẻ bình thường cùng
tuổi để đối chứng. Ông đã phân tích và đưa ra kết luận rằng phần lớn trẻ tự kỷ có mức
độ nhận thức kém và rất kém. Mức độ nhận thức phụ thuộc vào mức độ nặng nhẹ của
tự kỷ. Trẻ tự kỷ có nhận thức không giống trẻ bình thường nên hình thức giáo dục đối
với trẻ tự kỷ sẽ là chương trình can thiệp đặc biệt, chương trình này khác xa so với giáo
dục bình thường [4].
Nguyễn Thị Hoa Mai (2012), với công trình “Những dấu hiệu cơ bản nhận biết
hội chứng tự kỷ ở trẻ”. Tác giả đã đưa ra các dấu hiệu nhận biết trẻ tự kỷ ở các lĩnh
vực như: giao tiếp, hành vi, quan hệ xã hội. Với những dấu hiệu mà tác giả đưa ra để
nghiên cứu là những gợi ý cho cá nhân, gia đình và xã hội trong quá trình chăm sóc,
nuôi dưỡng và giáo dục trẻ cần chú ý quan sát trẻ nếu nhận thấy ở trẻ có những dấu
hiệu đặc thù về chất lượng giao tiếp, về hành vi, về chất lượng quan hệ xã hội cần đưa
trẻ đến các cơ sở y tế khám để được chẩn đoán sớm [11].

12

1.1.2. Các nghiên cứu về tự kỷ và thái độ của cha mẹ đối với con có chứng tự kỷở
nước ngoài
1.1.2.1. Các nghiên cứu về tự kỷ
Nghiên cứu của Leo Kanner
Nhà tâm thần học người Mỹ thuộc bệnh viện John Hopkins- L.Kanner là người
đi tiên phong và có công đóng góp lớn cho lĩnh vực phát hiện và trợ giúp trẻ tự kỷ. Với
bài báo nhan đề “Autistic disturbances of affective contact” (các rối loạn về tiếp xúc
cảm xúc có tính tự kỷ, 1943), Leo Kanner cho biết trong tổng số các đối tượng mắc
chứng tự kỷ mà ông nghiên cứu thì có tới 1/3 có khó khăn về học tập ở mức từ nghiêm
trọng đến trung bình, 1/3 có khó khăn ở mức trung bình thấp [10].
Sau khi Kanner công bố kết quả này, nhiều người tin rằng tự kỷ không phải là
một dạng rối loạn về thể chất mà là rối loạn về cảm xúc và chính cách thức cha mẹ
nuôi dạy con cái của mình đã gây ra mọi vấn đề.Các bậc cha mẹ thì cảm thấy tội lỗi và
không tin rằng họ có thể giúp con mình được nữa.
Một khía cạnh khác mà người ta quan tâm qua công trình nghiên cứu của
Kanner là cha mẹ của hầu hết các trẻ mà ông quan sát đều có trình độ, trí thông minh
và giáo dục cao hơn mức trung bình, phần lớn họ có nghề nghiệp hẳn hoi.
Nghiên cứu của Micheal Rutter
Micheal Rutter và các cộng sự nghiên cứu cho biết rằng những hội chứng của
tự kỷ phát sinh có thể từ thể chất mà không có liên quan đến cách nuôi dạy con cái
của cha mẹ. (Micheal Rutter, 1960).
Như vậy theo tác giả này, chẳng có mối quan hệ nào giữa thái độ của cha mẹ
với sự phát triển của trẻ tự kỷ.
Ngoài ra, phải kể đến các công trình nghiên cứu của Collie, S.Freud, Greak,
Clancy, Schopher…Họ là những người dày công tìm hiểu về chứng tự kỷ. Có thể nói
cho tới ngày nay vẫn tồn tại hai quan điểm khoa học trái ngược nhau về nguồn gốc
của hội chứng tự kỷ: Một bên cho rằng do thể chất gây nên, ngược lại bên kia cho
rằng do cách thức nuôi dạy con cái gây nên hội chứng tự kỷ.

13

1.1.2.2. Các nghiên cứu về thái độ của cha mẹ đối với con có chứng tự kỷ.
Nghiên cứu của Lorna Wing
Lorna Wing đã thống kê một số quan điểm về các yếu tố ảnh hưởng tới cách
thức ứng xử của trẻ tự kỷ:
– Cách thức ứng xử có thể thay đổi theo hoàn cảnh, thường là dở hơn khi ở nhà
do cha mẹ có những đòi hỏi dồn dập bắt trẻ phải chú ý, và khá hơn khi ở trường hoặc
buồng bệnh có tổ chức tốt hơn.
– Cách ứng xử có thể thay đổi tùy theo người với đối tượng trẻ tự kỷ. Cách ứng
xử sẽ khá hơn nếu người đó có kinh nghiệm giải quyết các vấn đề tự kỷ hơn là khi
người đó chưa có kinh nghiệm hoặc là đối tượng ở trong các nhóm không có sự sắp
xếp cho hẳn hoi.
– Quá trình giáo dục có tác động tới mẫu hình ứng xử. Khi nhận biết được điều
này, cha mẹ và người chăm sóc sẽ hiểu được rằng việc trẻ tự kỷ thiếu khả năng ứng
xử xã hội có liên quan tới việc chúng không được yêu thương chăm sóc [22].
Nghiên cứu của các tác giả thuộc Hội tương trợ trẻ tự kỷ tại Sydney
Cha mẹ có con mắc chứng tự kỷ thường đối phó theo ba giai đoạn [24]:
Giai đoạn đổ lỗi và trách móc
Họ nổi giận và đổ lỗi cho người khác, tránh không nhận lỗi về mình.Thái độ
này thường ngấm ngầm có từ trước khi triệu chứng tự kỷ ở con họ được xác nhận. Và
chuyện đi xa tới mức vợ chồng luôn có những trục trặc mà không liên quan gì đến
chứng tự kỷ.
Ví dụ, người vợ có thể cho rằng con mình mắc chứng tự kỷ là do di truyền từ
chồng, còn chồng thì nghĩ vợ mình đã sử dụng một loại thuốc nào đó trong giai đoạn
mang thai.
Giai đoạn tuyệt vọng
Sau khi định bệnh (tức là xác định triệu chứng bệnh bằng các dấu hiệu) và biết
rằng không có cách chữa, họ tin rằng khi lớn lên trẻ vẫn giữ tình trạng như hiện tại.
Điều này khiến họ khó chấp nhận, dễ buông xuôi.
Giai đoạn chối bỏ

14

Đôi khi họ tin rằng bác sỹ kết luận sai, con họ vẫn biết nhiều điều và không có
bệnh hay bệnh không nặng như bác sỹ nói và không cần phải trị liệu gì. Hình thức
phủ nhận thường thấy nhất là cha mẹ tin rằng giai đoạn có những trục trặc của con rồi
cũng sẽ qua đi.
Nghiên cứu của các tác giả theo quan điểm văn hóa
Các nhóm văn hóa khác nhau có thái độ khác nhau đối với việc con mình mắc
chứng tự kỷ [23].
Với gia đình người Á Châu- nhất là người Trung Quốc, họ thấy xấu hổ, trì
hoãn việc trị liệu cho con, họ chống đối việc cho con mình vào nhóm trẻ đặc biệt,
người mẹ thường lo lắng còn người cha thì dửng dưng. Và họ ít khi dự thính các
nhóm tương trợ trẻ.
Với gia đình người Mỹ, Úc: họ có thể chấp nhận hình thức tương trợ giúp cho
con theo tính cộng đồng và đọc nhiều tài liệu có liên quan đến chứng tự kỷ.
Với gia đình người gốc Latinh (Nam Mỹ, Ý, Tây Ban Nha) họ thấy khó khăn
nếu đứa con mắc chứng tự kỷ là con trai nhất là đứa con đầu lòng. Người cha quan
niệm rằng trẻ khuyết tật là sự nhục nhã cho nam tính của họ, họ đổ lỗi cho vợ và
nhanh chóng muốn trị liệu cho con. Người mẹ chấp nhận khuyết tật của trẻ như việc
trời định và không muốn thay đổi gì ở con mình.
Mặc dù chưa có công trình nghiên cứu khoa học nào đặt vấn đề nghiên cứu
trực tiếp thái độ của cha mẹ đối với con có chứng tự kỷ, song ở khía cạnh khác nhau
nhiều tác giả đã xem xét vấn đề này một cách nghiêm túc. Nổi lên có 3 xu hướng
nghiên cứu:
Xu hướng thứ nhất:phủ nhận việc có liên quan giữa thái độ, cách ứng xử của
cha mẹ đối với con có chứng tự kỷ. Họ thường có xu hướng đi tìm nguyên nhân sinh
lý từ thực thể trẻ tự kỷ.
Xu hướng thứ hai: Thừa nhận rằng chính cách ứng xử của cha mẹ có ảnh
hưởng lớn đến việc trẻ tự kỷ phát triển khả năng của mình như thế nào. Cha mẹ càng
có nhiều kinh nghiệm và quan tâm tới lĩnh vực phát triển nào của trẻ thì trẻ càng học
hỏi, đạt được kết quả cao trong lĩnh vực ấy.

15

Xu hướng thứ ba: Xác định rõ các giai đoạn và sự khác biệt giữa các bậc cha
mẹ ở nhiều khu vực trên thế giới trong việc chấp nhận con và bệnh của con.
Từ các xu hướng nghiên cứu trên đây là cơ sở khoa học về lịch sử vấn đề
nghiên cứu cho đề tài này nhằm bổ sung và làm rõ hơn nữa thái độ của cha mẹ đối
với con có chứng tự kỷ ở thành phố Hồ Chí Minh.
1.2. Các khái niệm cơ bản của đề tài nghiên cứu
1.2.1. Thái độ
Định nghĩa thái độ
Trong khi phản ánh thế giới khách quan, con người không chỉ nhận thức thế
giới đó mà còn tỏ thái độ của mình, thể hiện những rung cảm của mình đối với thế
giới. Có rất nhiều quan niệm khác nhau về thái độ. Từ việc nghiên cứu định nghĩa
thái độ của nhiều tác giả khác nhau người nghiên cứu xin được trình bày một số
quan niệm về thái độ và chọn lấy một quan niệm thích hợp nhất đối với vấn đề
nghiên cứu và lấy đó làm công cụ nghiên cứu trong đề tài của mình.
Theo Thomas và Znaniecki (1918) cho rằng: Thái độ là trạng thái tinh thần của
cá nhân đối với một giá trị.
Theo Gordon Allport (1991), thái độ là sự sẵn sàng trong phản ứng, là trạng
thái tinh thần hay thần kinh sẵn sàng để đáp ứng. Nó được cấu tạo thông qua kinh
nghiệm cá nhân, ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến phản ứng của cá nhân đối với
tất cả các đối tượng hay hoàn cảnh mà nó liên quan.
Gordon Allport đã tính tới yếu tố bên trong, tuy nhiên anh nói “kinh nghiệm”
chỉ có trong bản thân mà chưa tính đến yếu tố bên ngoài, yếu tố xã hội, ông cũng
không đề cập tới vai trò của ý thức trong thái độ.
Các tác giả tâm lý học Mac xít đề cập đến khái niệm thái độ:
Miaxisew : Thái độ là hạt nhân tâm lý của nhân cách, hình thành một cách có ý
thức theo cơ chế chuyển dịch thông qua hoạt động và giao tiếp mà con người tham
gia vào, là một hệ thống trọn vẹn mang tính chủ quan đối với hiện thực khách quan.
Nó quyết định sự phản ứng trong hành vi đối với những tác động đến từ bên ngoài.

16

Tất cả các tổ chức cấu thành tâm lý từ đơn giản đến phức tạp đều có liên quan đến
con người và những chức năng tâm lý khác đều có thể xem như một dạng của thái độ
[5].
Platonov : Thái độ là một yếu tố cấu thành tích cực của ý thức cá nhân, là mối
quan hệ ngược chủ thể – thế giới. Nghĩa là con người và thế giới bên ngoài tác động qua
lại lẫn nhau và nó được thể hiện trong hành vi của cá nhân [5].
Theo các tác giả tâm lý học Mác Xít, chính mối quan hệ xã hội mà cá nhân
tham gia vào bằng hoạt động và giao lưu của mình đã quyết định thái độ của cá nhân
đó trước những tác động của hiện thực khách quan.
Nguyễn Như Ý (1998): Thái độ là mặt biểu hiện bề ngoài của ý thức, tình cảm
đối với việc gì thông qua nét mặt, cử chỉ, lời nói, hành động. Hơn nữa, thái độ còn là
nhận thức, là cách nhìn nhận, đánh giá và xu hướng hành động trước sự việc hay vấn
đề gì đó [20].
Từ điển bách khoa toàn thư: Thái độ bên trong được biểu lộ thông qua hành
động, hành vi, cử chỉ ứng xử đối với người khác, đối với các sự kiện, quan điểm với
bản thân. Là quan điểm trung gian giữa giai đoạn tiềm ẩn với giai đoạn thực hiện đầy
đủ một ý nghĩa, ý định nào trong thực tế. Thái độ biểu thị nhân cách [39].
Theo từ điển tâm lý học của Nguyễn Khắc Viện -1991: Trước một số đối tượng
nhất định, như hàng hóa nào đó hoặc một ý tưởng nào đó (chính trị, tôn giáo, triết
lý…) nhiều người có những phản ứng tức thì, tiếp nhận dễ dàng hay khó khăn, đồng
tình hay chống đối, như sẵn sàng có những cơ cấu tâm lý tạo ra định hướng cho việc
ứng phó. Từ những thái độ sẵn có, tri giác về các đối tượng cũng như tri thức bị chi
phối, về vận động thì thái độ gắn liền với tưởng tượng [16].
Thái độ là mặt biểu hiện bề ngoài của suy nghĩ của tình cảm đối với ai thông qua
nét mặt, cử chỉ, lời nói, hành động.
Cho đến nay có rất nhiều quan điểm khác nhau về thái độ, việc đưa ra một định
nghĩa về thái độ là rất khó vì mỗi tác giả, mỗi trường phái dựa trên cách hiểu của
mình để đưa ra cách tiếp cận khác nhau. Từ những quan điểm trên chúng tôi rút ra
khái niệm thái độ như sau: Thái độ là một cấu tạo tâm lý có ý thức và có bản chất xã

17

hội, là sự đánh giá của cá nhân, có tính chất lâu dài và ổn định thể hiện sự sẵn sàng
phản ứng theo khuynh hướng nhất định đối với một đối tượng nào đó, được thể hiện
thông qua nhận thức, xúc cảm và hành vi của họ trong tình huống cụ thể.
Bản chất của thái độ
Bản chất của thái độ được thể hiện ở 3 mặt, tạo nên cấu trúc của nó trong đó:
– Mặt nhận thức: gồm những quan điểm, sự đánh giá, hiểu biết của cá nhân về
đối tượng nào đó.
– Mặt tình cảm: là những cảm nhận của người nào đó đối với đối tượng nhất
định
– Mặt hành vi: bao gồm xu hướng hành động của người nào đó đối với đối
tượng của thái độ.
1.2.2. Đặc điểm của thái độ
Đầu tiên thái độ là những rung cảm,xúc cảm đối với những đối tượng mới hay là
tình cảm đối với những đối tượng quen thuộc. Đó chính là mặt bên trong của thái độ. Thái
độ còn được biểu hiện ra bằng những ý định và hành vi, cử chỉ đó chính là mặt bên ngoài
của thái độ. Mặt bên trong của thái độ không phải lúc nào cũng thể hiện một cách trọn
vẹn, thẳng thắn và nguyên xi mà có thể bị giấu kín nếu như cảm thấy cần che giấu, khi đó
chủ thể sẽ kiềm chế, đè nén và không biểu lộ thái độ của mình.
Thái độ của con người có thể biểu hiện một cách minh bạch cũng có thể được che
giấu. Ngay khi thái độ được biểu hiện thì thái độ cũng có thể biểu hiện một cách chân
thực, rõ ràng nhưng cũng có thể biểu hiện một cách giả dối, không chân thực.
Thái độ mang tính chủ thể nhưng lại mang tính đối tượng khá rõ rệt. Đối với con
người, thái độ bao giờ cũng là thái độ đối với một đối tượng cụ thể nhất định. Thế nhưng
thái độ lại thể hiện rất rõ nét tính chủ thể vì với cùng một đối tượng nhưng mỗi người lại
có thái độ khác nhau, thậm chí ngay khi con người có thái độ tương đối giống nhau thì
cách thức và mức độ biểu hiện cũng khác nhau.
Thái độ mang tính cá nhân nhưng cũng bị chi phối bởi những yếu tố xã hội, dư luận
xã hội, phong tục tập quán…trước khi tỏ thái độ con người thường xem xét những yếu tố
xã hội xung quanh mình có cho phép hay không.

18

Mặt khác thái độ chính là một phần trong biểu hiện tình cảm. Thái độ có thể nói là
giai đoạn nảy sinh trước động cơ song chính thái độ cũng góp phần không nhỏ trong việc
hình thành động cơ và chính nó là giai đoạn định hướng cho động cơ đi đến hành động.
Thái độ thường được phân chia thành hai hướng khác nhau. Thái độ tích cực và
thái độ tiêu cực, thái độ đúng đắn và thái độ không đúng đắn (thái độ sai lệch). Khi đề cập
đến thái độ người ta thường đề cập đến những thuật ngữ như: thích hay không thích, tán
thành hay không tán thành, e ngại hay tự tin…tất cả đều được hiểu là thái độ của một chủ
thể đối với một đối tượng nhất định, đó là một sự vật hiện tượng hoặc một vấn đề hay một
con người cụ thể nào đó.
1.2.3. Cấu trúc tâm lý của thái độ
1.2.3.1. Quan niệm 3 thành phần trong thái độ
Mặc dù có nhiều cách hiểu, cách định nghĩa khác nhau về thái độ, song phần
lớn các nhà tâm lý học đều nhất trí với quan điểm cấu trúc 3 thành phần của thái độ
do M. Smith – nhà tâm lý học Mỹ đưa ra năm 1942. Theo M. Smith, thái độ được cấu
thành từ thành phần nhận thức, thành phần xúc cảm tình cảm và thành phần hành
động của cá nhân với đối tượng. Trong đó:
– Thành phần nhận thức: là một trong ba mặt cơ bản của đời sống tâm lý con
người, nó bao gồm những quan điểm, sự hiểu biết của cá nhân với đối tượng.
Nhận thức rất quan trọng đối với cha mẹ của trẻ tự kỷ, họ chỉ có thể có phương
pháp, cách thức can thiệp của con trên cơ sở hiểu biết đúng về chứng tự kỷ cũng như
quy luật, chiều hướng tiến triển của bệnh, giải thích được tại sao trẻ có những biểu
hiện bất thường, tại sao phải áp dụng phương pháp trị liệu này mà không áp dụng
hình thức khác…
– Thành phần xúc cảm – tình cảm: là kết quả của nhận thức, không phản ánh bản
thân sự vật hiện tượng mà là những biểu cảm, sự rung động, hứng thú của cá nhân đối
với đối tượng của thái độ.Trong cấu trúc thái độ, tình cảm thể hiện ở các cảm xúc của
cá nhân đối với đối tượng của thái độ.Tình cảm là thành phần vô cùng quan trọng
trong cấu trúc thái độ.Với tình cảm tích cực có thể kích thích chủ thể hành động tích

19

cực, từ đó hình thành nên thái độ tích cực và ngược lại tình cảm tiêu cực có thể kìm
hãm tính tích cực hoạt động của chủ thể.
Trên cơ sở nhận thức về chứng tự kỷ, về đặc điểm tâm lý của con mình, về vai trò
của cha mẹ trong việc chăm sóc những trẻ em đặc biệt, ở cha mẹ xuất hiện xúc cảm,
tình cảm cá nhân với con. Tình cảm này thể hiện qua sự yêu thương, cảm thông, chia
sẻ, chấp nhận con. Quan hệ tình cảm của cha mẹ đối với trẻ là cơ sở quan trọng để
hình thành, duy trì và củng cố hành vi ứng xử, giúp đỡ con của cha mẹ. Tuy nhiên,
tình cảm của cha mẹ dành cho con là trẻ tự kỷ khác nhau vì tình cảm mang tính chủ
thể cao ở nhiều mức độ khác nhau.
– Thành phần hành vi: là sự thể hiện thái độ của cá nhân đối với đối tượng thông
qua xu hướng hành động và hành động thực tế.Thái độ và hành vi luôn có sự quy
định lẫn nhau, hành vi là một thành phần cấu thành nên thái độ, thái độ muốn biểu
hiện ra bên ngoài phải thông qua hành vi .Vì vậy, hành vi là hình thức biểu hiện cụ
thể nhất của thái độ.
Trong đời sống tâm lý của con người, nhận thức được coi là một trong ba mặt cơ
bản (nhận thức, thái độ và hành động). Quá trình nhận thức về đối tượng là quá trình
con người tìm tòi, khám phá những thuộc tính bề ngoài và cả những thuộc tính bản
chất, những quy luật của đối tượng. Khi một sự vật, hiện tượng tác động đến cá nhân,
để có thái độ nhất định đối với sự vật hiện tượng đó thì trước hết, cá nhân phải có sự
hiểu biết về đối tượng đó (cho dù hiểu biết đúnghay sai). Trong cấu trúc của thái độ,
nhận thức là “điều kiện cần” cho việc hình thành thái độ. Xúc cảm – tình cảm là thành
phần quan trọng, là động lực có thể kích thích hoặc kìm hãm tính tích cực hoạt động
của chủ thể. Hành vi là sự thể hiện ứng xử của chủ thể đối với đối tượng. Mặc dù
giữa hành vi và thái độ đôi khi cũng có những mâu thuẫn, nhưng nhìn chung, hành vi
vẫn là hình thức biểu hiện cụ thể nhất của thái độ.
Ba thành phần nêu trên trong cấu trúc của thái độ có quan hệ chặt chẽ với nhau, sự
thống nhất giữa chúng tạo nên một thái độ xác định của chủ thể. Đứng trước một đối
tượng nào đó, để có thái độ với đối tượng đó, con người phải tuân theo quy luật sau:
trước hết, con người phải nhận thức (có hiểu biết) về đối tượng; nhận thức đó sẽ là cơ

20

sở định hướng làm xuất hiện những xúc cảm, tình cảm với đối tượng (yêu – ghét, thích
– không thích…); cuối cùng, với nhận thức và tình cảm nhất định với đối tượng mà
con người sẽ có những hành động, hành vi cụ thể với đối tượng. Ta cũng cần hiểu, mặc
dù đều có mặt trong cấu trúc chung của thái độ, nhưng tỉ lệ các thành phần nêu trên có
sự khác nhau trong các loại thái độ. Tuỳ theo tình huống mà một thành phần nào đó
chiếm vị trí chủ đạo, chi phối thái độ của cá nhân. Ba thành phần nêu trên có quan hệ
chặt chẽ với nhau. Cho nên có thể nói rằng: từ tính thống nhất của ý nghĩ, tình cảm và
hành động, chúng ta có thể thấy được một thái độ xác định.
1.2.3.2. Quan điểm về các thành phần riêng biệt

Theo Fishbein và Ajzen, khái niệm thái độ có liên quan nhiều đến khía cạnh
tình cảm đối với việc tán thành hay không tán thành đến một đối tượng. Khía cạnh
hành vi biểu thị người đó sẽ hình thành hành vi đối với một đối tượng và không nhất
thiết phải phù hợp giữa nhận thức, cảm xúc và hành vi. Điều này hoàn toàn ngược lại
với quan điểm 3 thành phần coi 3 khía cạnh (nhận thức, cảm xúc và hành vi) phải
nằm trong cùng một thái độ.
Xét ở khía cạnh nào đó, đôi khi thái độ được tạo thành từ một trong ba thành
phần trên. Trong nghiên cứu của đề tài chúng tôi hiểu thái độ mang bản chất xã hội
lịch sử và tập trung xem xét thái độ trên ba bình diện: Nhận thức, tình cảm và hành vi
(Theo quan điểm thành phần của thái độ).
1.2.4. Khái niệm tự kỷ
Định nghĩa tự kỷ
“Hội chứng tự kỷ”(Autism) bắt nguồn từ tiếng Hi Lạp là “Autos” có nghĩa là “
tự bản thân”. Hội chứng tự kỷ là sự rối loạn phát triển lan tỏa do bất thường của não
Nhận Thức
Cảm xúc

Hành vi

21

bộ, xuất hiện sớm trong những năm đầu đời của trẻ em với những biểu hiện đặc trưng
ở các lĩnh vực kém tương tác xã hội, bất thường về ngôn ngữ, giao tiếp và hành vi.
Hội chứng tự kỷ thường gặp ở trẻ nam gấp 4 lần ở trẻ nữ [18].
Tự kỷ là một bệnh lý thần kinh bao gồm những khiếm khuyết nặng nề về khả
năng tương tác và giao tiếp xã hội đi kèm với những quan tâm và hoạt động bó hẹp,
định hình. Tự kỷ là một chứng rối loạn quá trình phát triển ở trẻ em. Nhiều tác giả
còn dùng thuật ngữ hội chứng rối loạn phát triển lan tỏa để nói về trường hợp này.
Một đứa trẻ tự kỷ điển hình có thể bị rối loạn nhiều kỹ năng phát triển như: tự chăm
sóc, ngôn ngữ, giao tiếp ứng xử, quan hệ xã hội, hành vi, cảm xúc, trí tuệ
Khái niệm hội chứng tự kỷ được đề cập đầu tiên vào năm 1943 do bác sỹ
người Mĩ gốc Áo – Leo Kanner thực hiện. Khi đó hội chứng tự kỷ được ông mô tả
như một hội chứng rối loạn tâm thần hiếm gặp ở trẻ em. Các đặc điểm được Leo
Kanner mô tả bao gồm:
– Thiếu quan hệ tiếp xúc về mặt tình cảm với người khác
– Thể hiện cách chọn lựa thói quen hằng ngày rất giống nhau về tính cách tỉ mỉ
và kì dị.
– Không hề nói năng hoặc cách nói năng khác thường rõ rệt.
– Rất ham thích xoay vặn các đồ vật và thao tác khéo léo.
– Có khả năng ở mức cao về nhìn nhận không gian hoặc giỏi như vẹt.
– Trái ngược với tình trạng khó khăn trong việc học tập các lĩnh vực khác.
– Hình thức bền ngoài có vẻ hấp dẫn, nhanh nhẹn, thông minh.
Những nghiên cứu của Leo Kanner ban đầu không được nhiều người chú ý,
sau đó đã được đón nhận nhanh chóng và đã trở thành vấn đề thu hút của nhiều công
trình nghiên cứu mới đã đưa đến cho chúng ta một cách nhìn toàn diện hơn về hội
chứng tự kỷ.
E.Bleuler (1911, Thụy Sĩ): Tự kỷ là khái niệm dùng để chỉ những người bệnh tâm
thần phân liệt không còn liên hệ với thế giời bên ngoài mà sống với thế giới riêng của
mình, bệnh nhân chia cắt với những thực tế bên ngoài và lui về thế giới bên trong, khép
mình trong ham muốn riêng tư và tự mãn [10].

22

Quan niệm của Freud: “Tự kỷ là sự đầu tư vào đối tượng quay trở lại trong cái
tôi, có nghĩa là đã trở thành tự yêu, là sự ẩn náu của trẻ em trong thế giới bên trong
huyễn tưởng và ảo ảnh để hỏi rằng cái tự trị ảo tưởng chỉ có thể được một thời gian,
đối với chủ thể với điều kiện phải thêm vào đó sự chăm sóc của người mẹ”.
Quan niệm của M. Mahler và Franes Tustin: “Tự kỷ là biểu hiện cho sự không
bình thường xuất phát từ mối quan hệ mẹ con, đó là một cách thức phòng vệ như một
cái vỏ bọc gắn với xu hướng bẩm sinh tự bảo vệ khỏi những kinh nghiệm lo hãi ghê
sợ từ sự chia cắt với cơ thể mẹ”.
Quan niệm của trường phái nhận thức: “Tự kỷ là những sự thiếu hụt liên quan
tới các quá trình tượng trưng hóa, nhất là về trí nhớ và những suy yếu trong sự bộc lộ
hoặc trong sự thấu hiểu tình cảm”.
Andre Guillain và Rene Psy: “Tự kỷ là sự rối loạn của quá trình phát triển, các
dấu hiệu chẩn đoán của nó thể hiện sự bất thường trong các lĩnh vực giao tiếp có chủ
định trong hoạt động biểu tượng và trong lĩnh vực vận động” [10].
Theo DSM –IV (Sổ tay chẩn đoán và thống kê những rối nhiễu tâm thần IV):
Tự kỷ là biểu hiện của sự phát triển bất thường hay khiếm khuyết rõ rệt trong ba lĩnh
vực: tương tác xã hội- giao tiếp- và thu hẹp phạm vi hoạt động và các thích thú” [2].
Tuy có nhiều cách hiểu khác nhau về tự kỷ nhưng với đề tài này, để tiện cho
việc đánh giá, tìm hiểu thái độ của cha mẹ đối với con có chứng tự kỷ, chúng tôi đã
sử dụng định nghĩa tự kỷ của DSM –IV là định nghĩa chính về trẻ tự kỷ trong luận
văn.
1.2.5. Trẻ em, trẻ tự kỷ
Trong tâm lý học, khái niệm trẻ em được dùng để chỉ giai đoạn đầu của sự phát
triển tâm lý- nhân cách con người. Độ tuổi thường là tiêu chí để xác định trẻ em, độ
tuổi này khác nhau ở mỗi quốc gia, mỗi nền văn hóa- xã hội cụ thể. Theo công ước
Quốc Tế về quyền trẻ em ghi rõ: “Trẻ em có nghĩa là những người dưới 18 tuổi, trừ
trường hợp pháp luật áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi thành niên lớn hơn”(Điều
1, Công ước Quốc Tế, 1990).

23

Ở Việt Nam, trẻ em được xác định là công dân Việt Nam dưới 18 tuổi (Điều 1,
luật bảo vệ và chăm sóc giáo dục trẻ em Việt Nam).
Trẻ em mắc chứng tự kỷ là một trong những đối tượng được hưởng quyền lợi
về học vấn thích hợp. Sự hiểu biết về chứng bệnh này sẽ giúp cho phụ huynh lo liệu
cho các em được hưởng những quyền lợi giáo dục thích đáng theo những đạo luật
hiện hành.
Trong nghiên cứu này có liên quan đến việc chẩn đoán và kết hợp trị liệu y học
tại các cơ sở y tế, chăm sóc trẻ khuyết tật nên chúng tôi xác định trẻ tự kỷ là trẻ em
dưới 18 tuổi có những dấu hiệu của bệnh tự kỷ. Tức là trẻ có sự phát triển bất thường
hay khiếm khuyết rõ rệt trong ba lĩnh vực: tương tác xã hội- giao tiếp và thu hẹp
phạm vi hoạt động và các thích thú.
1.2.6. Biểu hiện trẻ tự kỷ
Qua nghiên cứu, các chuyên gia cho rằng các biểu hiện của trẻ tự kỷ có thể
sớm, có thể muộn nhưng thông thường rõ nét nhất ở khoảng 2- 4 tuổi. Các biểu hiện
mang tính chất đa dạng, không nằm trong một khuôn mẫu nhất định. Một trẻ tự kỷ
này không hoàn toàn giống trẻ tự kỷ khác cả về biểu hiện, mức độ và thể trạng.
Mặc dù các biểu hiện rõ nét nhất ở giai đoạn 2-4 tuổi nhưng ngay từ khi sinh ra
các chuyên gia đã ghi nhận một số biểu hiện bất thường có thể có ở trẻ. Các biểu hiện có
khác nhau trong từng giai đoạn phát triển. Cha mẹ nên sớm nhận ra các triệu chứng bất
thường ở trẻ được khám và can thiệp kịp thời.
1.2.6.1. Các biểu hiện bất thường khi trẻ 0-6 tháng tuổi
– Thiếu cử chỉ trao đổi vui mừng với mẹ
– Không tỏ thái độ thích thú khi được người khác quan tâm chăm sóc.
– Có dấu hiệu né tránh, ngoảnh mặt đi nơi khác khi mẹ ở tư thế đối diện với trẻ.
– Có ánh mắt nhìn bất thường, vô cảm.
– Im lặng cả ngày, ít cử động hoặc luôn luôn hoạt động bứt dứt không yên.
– Tư thế bất thường không thích hợp khi được mẹ bế: cứng đờ người hoặc mềm nhũn
thể hiện trương lực cơ bât thường.

Đánh giá post

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *