LUẬN VĂN:
Khu kinh tế – Quốc phũng trờn địa bàn
Tây Bắc nước ta hiện nay
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH do Chủ tịch Hồ Chí Minh lựa chọn
được quán triệt xuyên suốt quá trình xây dựng bảo vệ Tổ quốc. Trong thời kỳ đổi mới dưới
sự lãnh đạo của Đảng, mục tiêu đó thể hiện thông qua đẩy mạnh CNH, HĐH, lấy nhiệm vụ
phát triển kinh tế làm trung tâm. Đối với quân đội những năm qua, trong khi đặt lên hàng
đầu nhiệm vụ quốc phòng, xây dựng lực lượng sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ Tổ quốc, thì tham
gia lao động sản xuất, xây dựng kinh tế được coi là một nhiệm vụ chiến lược. Vì vậy, quân
đội đã triển khai các hoạt động sản xuất, xây dựng kinh tế và đã đạt được những kết quả
đáng kể, góp phần quan trọng vào việc thực hiện phát triển năng lực sản xuất quốc phòng,
từng bước bố trí lực lượng, tạo thế chủ động trên các địa bàn chiến lược, làm nòng cốt cùng
toàn dân bảo vệ biên giới, đồng thời đóng góp chung vào sự phát triển kinh tế – xã hội.
Những năm gần đây quân đội ta được Đảng, Nhà nước tin tưởng giao nhiệm vụ xây dựng
các khu kinh tế – quốc phòng, làm nòng cốt trên mặt trận chống đói nghèo, phát triển kinh tế
xã hội gắn với củng cố quốc phòng – an ninh ở những vùng đất còn hoang hóa trên các địa
bàn chiến lược xung yếu, vùng sâu, vùng xa của Tổ quốc. Đây là chủ trương đúng đắn thể
hiện tư duy mới của Đảng về nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc trong tình hình mới và là sự quán
triệt và thực hiện đường lối kết hợp phát triển kinh tế – xã hội với củng cố quốc phòng – an
ninh, phù hợp với thế mạnh và chức năng, nhiệm vụ của quân đội trong thời kỳ mới.
Trong báo cáo chính trị Đại hội X Đảng ta khẳng định: “Tiếp tục phát triển các khu
kinh tế – quốc phòng, xây dựng các khu quốc phòng kinh tế tập trung vào các địa bàn trọng
điểm chiến lược và những khu vực nhạy cảm trên biên giới”.Tuy nhiên, thực tiễn quá trình
xây dựng phát triển, khu kinh tế quốc phòng còn bộc lộ nhiều vấn đề khó khăn phức tạp, rất
nhiều vấn đề chưa được làm rõ về lý luận. Nhằm góp phần làm rõ cơ sở lý luận, chủ trương
của Đảng trong việc tiếp tục xây dựng, phát triển các khu kinh tế quốc phòng, trên cơ sở đó
đề xuất giải pháp góp phần nâng cao hiệu qủa của các khu kinh tế quốc phòng trong mục
tiêu kết hợp kinh tế với quốc phòng trên các địa bàn chiến lược ở nước ta hiện nay, tác giả
chọn: “Khu kinh tế – Quốc phũng trờn địa bàn Tây Bắc nước ta hiện nay” làm đề tài
nghiên cứu của luận văn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Những năm gần đây đã có nhiều công trình nghiên cứu vấn đề kết hợp kinh tế với
quốc phòng như: Kết hợp kinh tế với quốc phòng ở nước ta hiện nay của tác giả Trần Trung
Tín. Công trình này chủ yếu đề cập đến những vấn đề lý luận chung của việc kết hợp kinh tế
với quốc phòng, những nhân tố chi phối đến việc kết hợp kinh tế với quốc phòng ở nước ta
hiện nay. Đề tài: Kết hợp công nghiệp quốc phòng với công nghiệp dân dụng ở nước ta hiện
nay của tác giả Trần Đăng Bộ tập trung nghiên cứu một hình thức cụ thể của mối quan hệ
kinh tế quốc phòng, đó là kết hợp công nghiệp quốc phòng với công nghiệp dân dụng ở
nước ta hiện nay. Đề tài Kết hợp kinh tế với quốc phòng trong giai đoạn hiện nay ở Nghệ An
của tác giả Nguyễn Văn Trạch chỉ đề cập đến việc kết hợp kinh tế với quốc phòng trên
phạm vi một địa phương.
Ngoài ra còn một số bài viết về khu kinh tế quốc phòng đăng trên Tạp chí Quốc
phòng toàn dân… Tuy nhiên, nhiệm vụ xây dựng và phát triển các khu kinh tế quốc phòng ở
nước ta hiện nay vẫn đang là những bước đi ban đầu, khu kinh tế – quốc phòng vẫn là một vấn
đề mới cả về lý luận và thực tiễn.
Trong điều kiện hiện nay dưới ánh sáng nghị quyết hội nghị Ban chấp hành trung
ương Đảng lần thứ tám khoá IX, Đại hội X, quan điểm kết hợp kinh tế với quốc phòng được
phát triển lên một tầm cao mới, thực tiễn đặt ra nhiều vấn đề mới đối với việc kết hợp kinh
tế với quốc phòng như khu kinh tế – quốc phòng: gắn quá trình phát triển kinh tế – xã hội mà
trọng tâm là xóa đói giảm nghèo với củng cố quốc phòng an ninh trên địa bàn chiến lược
biên giới Tây Bắc của tổ quốc. Nghiên cứu vấn đề này là một hướng đi mới không trùng lặp
với các đề tài trước, những công trình đã được công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Làm rõ một số vấn đề lý luận về khukinh tế – quốc phòng, từ đó phân tích đánh giá
quá trình hình thành các khu kinh tế – quốc phòng trên địa bàn Tây Bắc trong thời gian qua
và đề xuất các giải pháp phát triển chúng trong giai đoạn tới.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
– Làm rõ khái niệm, đặc điểm, vai trò của khu kinh tế – quốc phòng và sự cần thiết
xây dựng và phát triển các khu kinh tế – quốc phòng.
– Đánh giá, phân tích thực trạng khu kinh tế – quốc phòng trên địa bàn Tây Bắc, chỉ
ra thành tựu, hạn chế và những vấn đề đặt ra đối với việc xây dựng, phát triển khu kinh tế –
quốc phòng hiện nay.
– Đề xuất các giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả của khu kinh tế – quốc phòng
trên địa bàn Tây Bắc thời gian tới.
3.3. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn không đề cập tới tất cả các khu kinh tế – quốc phòng trên phạm vi cả nước
mà tiếp cận chủ yếu đến khu kinh tế – quốc phòng trên địa bàn Tây Bắc trong thời gian từ
khi thành lập (năm 2000) đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê nin, Tư
tưởng Hồ Chí Minh, Đường lối quan điểm của Đảng về kết hợp kinh tế với quốc phòng an
ninh, lý luận kinh tế học quân sự, học thuyết bảo vệ tổ quốc, và một số kết quả nghiên cứu
của các luận án, luận văn khác.
Phương pháp luận chung là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch
sử trong đó phương pháp chủ yếu là trừu tượng hóa khoa học, đồng thời luận văn có sử
dụng các phương pháp nghiên cứu kinh tế khác như thống kê, so sánh, tổng hợp, phân
tích…
5. Những đóng góp mới của luận văn
– Làm rõ khái niệm, đặc điểm, vai trò của khu kinh tế – quốc phòng trong phát triển
kinh tế, xã hội và củng cố quốc phòng an ninh.
– Luận giải sự cần thiết xây dựng và phát triển khu kinh tế – quốc phòng trên các địa
bàn chiến lược ở nước ta hiện nay.
– Trên cơ sở phân tích đánh giá thực trạng hoạt động của khu kinh tế – quốc phòng
trên địa bàn Tây Bắc, chỉ ra thành tựu, hạn chế và nguyên nhân tồn tại.
– Đề xuất giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả của khu kinh tế – quốc phòng trên
địa bàn Tây Bắc hiện nay.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn kết cấu gồm 3
chương 6 tiết.
Chương 1
KHU KINH TẾ – QUỐC PHềNG
MỘT HèNH THỨC KẾT HỢP KINH TẾ VỚI QUỐC PHềNG
1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trũ của khu kinh tế – quốc phũng
1.1.1 Khái niệm khu kinh tế – quốc phũng
Khu kinh tế – quốc phũng là khái niệm gắn vấn đề kết hợp kinh tế với quốc phũng.
Vỡ vậy, để làm rừ nội dung của khu kinh tế – quốc phũng trước hết cần tỡm hiểu về sự kết
hợp kinh tế với quốc phũng.
Có thể nói rằng “trong điều kiện xó hội cũn giai cấp, cũn có mưu đồ thôn tính và gây
ảnh hưởng của dân tộc này với dân tộc khác thỡ kết hợp kinh tế với quốc phũng là vấn đề có
tính quy luật” [20, tr.10]. Đó không chỉ là tất yếu khách quan trong lịch sử, mà cũn là hỡnh
thức phổ biến của mọi quốc gia trên thế giới trong thời đại ngày nay. “Vỡ hóy cũn chủ nghĩa
đế quốc thỡ hóy cũn có thể sinh ra chiến tranh”. Kết hợp kinh tế với quốc phũng là hỡnh
thức thực hiện mối quan hệ giữa kinh tế, chính trị và quân sự trong từng giai đoạn phát triển
cụ thể của mỗi quốc gia. Trong lịch sử, việc kết hợp kinh tế với quốc phũng được thực hiện
chủ yếu thông qua hoạt động chủ động của nhà nước với tư cách là đại biểu lợi ích cho toàn
dân tộc. Hoạt động đó được thực hiện trên cơ sở nhận thức và vận dụng những quy luật kinh
tế – xó hội khách quan nhằm gắn bó hai lĩnh vực xây dựng kinh tế và củng cố quốc phũng
trong một quá trỡnh thống nhất, vừa làm tăng sức mạnh kinh tế, vừa củng cố và nâng cao
tiềm lực quốc phũng.
Sự kết hợp kinh tế với quốc phũng là cần thiết vỡ hai mặt đó có quan hệ hữu cơ với
nhau. Một nền kinh tế phát triển cao luôn là điều kiện vật chất để xây dựng một nền quốc
phũng mạnh, cũn một nền quốc phũng mạnh sẽ đảm bảo sự ổn định về chính trị và quốc
phũng cho phát triển kinh tế bền vững. Chính vỡ thế, Chủ nghĩa Mác – Lênin đó khẳng định
vai trũ quyết định của trỡnh độ phát triển kinh tế không những đối với phát triển xó hội nói
chung, mà cả đối với quốc phũng nói riêng. Trong mối quan hệ đó kinh tế là cơ sở vật chất
của quốc phũng, quyết định tính chất và mục đích của quốc phũng, quyết định trỡnh độ
trang bị vũ khí kỹ thuật, tổ chức biên chế, chất lượng của lực lượng vũ trang, quyết định
chiến lược, chiến thuật và nghệ thuật quân sự, quyết định phương thức tiến hành chiến tranh
củng cố quốc phũng. Bởi “vũ trang, biên chế, tổ chức, chiến lược, chiến thuật phụ thuộc
trước hết vào trỡnh độ mà sản xuất đạt được trong từng trường hợp” [1, tr.278]. Vỡ suy đến
cùng lợi ích kinh tế là động lực, là mục tiêu của chiến tranh và quốc phũng, kinh tế là nguồn
đảm bảo vật chất và con người cho các hoạt động chiến tranh và quốc phũng.
Bước vào thời kỳ lịch sử hiện đại, trong quá trỡnh cách mạng giành và giữ chính
quyền, thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xó hội, nhân dân ta đó
buộc phải tiến hành hai cuộc chiến tranh với hai đế quốc có tiềm lực kinh tế và quân sự lớn
hơn ta nhiều lần. Trên cơ sở kế thừa và vận dụng sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác –
Lênin về kết hợp kinh tế với quốc phũng, Đảng ta thường xuyên chăm lo “bảo đảm cho đất
nước luôn luôn sẵn sàng, có đủ sức mạnh đánh thắnh kẻ thù trong bất cứ tỡnh huống nào”
[8, 43]. Vỡ vậy đó chủ trương sử dụng những hỡnh thức kết hợp kinh tế với quốc phũng phù
hợp với đặc điểm cách mạng trong từng giai đoạn cụ thể.
Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, chúng ta đó thực hiện có hiệu quả
chủ trương: “vừa kháng chiến, vừa kiến quốc”, “vừa chiến đấu vừa tăng gia sản xuất và tiết
kiệm”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đó chỉ rừ “kháng chiến phải đi đôi với kiến quốc. Kháng
chiến có thắng lợi thỡ kiến quốc mới thành công. Kiến quốc có chắc chắn thành công, kháng
chiến mới mau thắng lợi” [23, tr.99]. Việc xây dựng các xí nghiệp công nghiệp sản xuất
phục vụ nhu cầu kháng chiến, vừa sản xuất công cụ lao động, vừa sản xuất vũ khí trang bị
cho nhân dân đánh giặc ở các vùng tự do đó góp phần không nhỏ vào chiến thắng trước Đế
quốc Pháp. Thành công của đường lối và chính sách kết hợp kinh tế với quốc phũng giai đoạn
1945 – 1954 là “sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa nhiệm vụ xõy dựng và phỏt triển kinh tế xó hội
với nhiệm vụ hàng đầu là bảo đảm cho kháng chiến thắng lợi, giữ vững độc lập dân tộc” [24,
37].
Trong kháng chiến chống Mỹ Việc thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng
CNXH ở miền Bắc và hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân ở miền Nam, thống
nhất nước nhà đó đũi hỏi phải kết hợp chặt chẽ giữa kinh tế với quốc phũng từ trung ương
đến các địa phương. Nhiều nhà máy, công trỡnh kinh tế, xí nghiệp quốc phũng vừa sản xuất
phục vụ quốc phũng vừa phục vụ dân sinh, đó chi viện đắc lực sức người, sức của cho miền
Nam đánh thắng hoàn toàn đế quốc Mỹ, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, tạo điều
kiện cho cả nước quá độ đi lên CNXH
Từ khi đất nước thống nhất, đặc biệt trong thời kỳ đổi mới từ 1986 đến nay, sự hỡnh
thành và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN với từng bước hội nhập kinh tế
quốc tế đó đặt ra những yêu cầu mới đối với việc kết hợp kinh tế với quốc phũng trên phạm
vi cả nước nói chung và đối với trên từng địa phương nói riêng.
Trên cơ sở quán triệt những quan điểm về tiếp tục kết hợp kinh tế với quốc phũng
trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ và các Văn kiện của Đảng như
Đại hội VII, VIII, Đại hội IX đó nhấn mạnh yêu cầu “Đầu tư phát triển kinh tế – xó hội, ổn
định các vùng xung yếu, vùng biên giới, cửa khẩu, hải đảo phù hợp với chiến lược quốc
phũng và chiến lược an ninh quốc gia” [9, tr.167-168]. Đại hội X khẳng định:
Tiếp tục phát triển các khu kinh tế – quốc phũng, xây dựng các khu quốc
phũng – kinh tế với mục tiêu tăng cường quốc phũng – an ninh là chủ yếu, tập
trung vào các địa bàn trọng điểm chiến lược và các khu vực nhạy cảm trên biên
giới đất liền, biển đảo [12, tr.110].
Như vậy, khu kinh tế – quốc phũng là hỡnh thức mới xuất hiện trong thực hiện việc
kết hợp kinh tế với quốc phũng ở nước ta giai đoạn hiện nay, vỡ vậy, để làm rừ khái niệm
đó cần so sánh nó với các loại hỡnh kinh tế và kinh tế – quốc phũng khác.
Theo Từ điển bách khoa quân sự Việt Nam năm 2004: Khu kinh tế – quốc phũng là
vựng lónh thổ và dõn cư thuộc cỏc xó đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa trên địa bàn
chiến lược, biên giới, ven biển, được đầu tư xây dựng phát triển kinh tế, xó hội gắn với quốc
phũng – an ninh theo quyết định số 277/QĐ – TTg ngày 31.3.2000 của Thủ tướng Chính
phủ; do quân đội đảm nhiệm, lấy đơn vị kinh tế quốc phũng làm nũng cốt.
Theo quy hoạch tổng thể, các khu kinh tế – quốc phũng được xây dựng với quy mô
không giống nhau song đều có đặc điểm chung là: xây dựng ở các vùng đất cũn hoang hoá
nơi vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. Đây là những vùng có địa hỡnh rừng núi hiểm trở,
khí hậu khắc nghiệt, kết cấu hạ tầng kinh tế và kết cấu hạ tầng xó hội hầu như cũn sơ khai
hoặc chưa có gỡ, mật độ dân cư thưa thớt, chủ yếu là đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống,
đời sống hiện tại hết sức khó khăn, tỷ lệ nghèo đói cao nhất so với cả nước, trỡnh độ dân trí
thấp, phong tục tập quán lạc hậu. Đặc biệt đây là vùng trong diện 1000 xó/2162 xó đặc biệt
khó khăn của cả nước. Các xó này được Chính phủ chủ trương đầu tư và giao cho các Bộ
ngành ở Trung ương trong đó có Bộ Quốc phũng trách nhiệm hỗ trợ phát triển.
Dưới góc độ quốc phũng – an ninh, (QP – AN) nơi đây là những địa bàn có vị trí
chiến lược và nhạy cảm trong việc bảo vệ lónh thổ, chủ quyền an ninh biên giới, và cũng là
nơi các thế lực phản động đó và đang lợi dụng sự nghèo đói, lạc hậu, các vấn đề dân tộc, tôn
giáo để gây mất ổn định chính trị nhằm thực hiện chiến lược diễn biến hoà bỡnh.
Khu kinh tế – quốc phũng được xây dựng nhằm mục tiêu vừa xoá đói, giảm nghèo,
phát triển kinh tế – văn hoá – xó hội, vừa củng cố quốc phũng – an ninh cho một “khu vực”,
một “vùng” cụ thể trên các địa bàn chiến lược vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vỡ vậy
nó chứa đựng nội dung tổng hợp trên tất cả các lĩnh vực chính trị – kinh tế – văn hoá – xó hội
– quốc phũng – an ninh, thể hiện bản chất định hướng xó hội chủ nghĩa (XHCN) của xó hội
nước ta hiện nay.
Với hỡnh thức là một mô hỡnh mới của sự kết hợp kinh tế với QP – AN, khu kinh tế –
quốc phũng vừa mang tính chất kinh tế lại vừa có tính chất quốc phũng, vỡ vậy để làm rừ
bản chất của nó cần phải so sánh với một số loại hỡnh kinh tế và kinh tế quốc phũng khác.
So với các hỡnh thức kinh tế như: Khu kinh tế cửa khẩu, Khu kinh tế mở, Đặc khu
kinh tế. Khu kinh tế – quốc phũng có điểm chung là việc xây dựng chúng đều nhằm phát
triển kinh tế trong những khu vực cụ thể, đều được hưởng những chính sách ưu đói nhất
định của nhà nước so với các vùng, địa bàn khác của cả nước. Tuy nhiên, việc xây dựng
từng loại khu kinh tế kể trên lại có những mục tiêu cụ thể khác nhau:
– Khu kinh tế cửa khẩu nhằm mục tiêu phát triển kinh tế chủ yếu thông qua thúc đẩy
giao thương qua biên giới với các nước khác đặc biệt là những quốc gia láng giềng;
– Khu kinh tế mở là một mô hỡnh kinh tế gồm hai khu vực: thuế quan (khu chế xuất,
khu công nghiệp, dịch vụ, du lịch, dân cư) và phi thuế quan (sản xuất hàng hoá xuất khẩu,
thương mại hàng hoá và dịch vụ khác), trong đó, các tổ chức, cá nhân tham gia được hưởng
chính sách ưu đói đầu tư của Chính phủ nhằm tạo động lực phát triển kinh tế trong vùng,
trong cả nước và thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
– Đặc khu kinh tế là một khu vực không gian kinh tế mà ở đó thiết lập một chế độ ưu
tiên riêng do Chính phủ thành lập. Chế độ ưu tiên này được hỡnh thành nhờ một loạt các
điều kiện ưu đói nhất định như (miễn giảm các loại thuế, nới lỏng quy tắc thuế quan và
ngoại hối) nhằm thúc đẩy các hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc nghiên cứu khoa học
trong khu vực.
– Khu kinh tế – quốc phũng cũng nhằm phát triển kinh tế như các loại hỡnh khu kinh tế
kể trên, nhưng điểm khác biệt cơ bản là để xây dựng và phát triển nó không những cần có
chính sách ưu tiên của nhà nước mà quan trọng hơn là có sự tham gia trực tiếp của nhà nước
vào các quá trỡnh kinh tế – xó hội thông qua hoạt động của các lực lượng quân đội nhằm tạo
lập những cơ sở ban đầu cho phát triển kinh tế theo hướng sản xuất hàng hoá, kinh tế thị
trường, hội nhập.
Nếu so sánh Khu kinh tế – quốc phũng với các hỡnh thức kết hợp kinh tế với quốc
phũng khác như: Mô hỡnh bộ đội thường trực tham gia sản xuất, xây dựng kinh tế; Mô hỡnh
các doanh nghiệp quân đội thỡ có thể thấy những điểm chung là cùng do các đơn vị quân
đội trực tiếp tham gia, tuy nhiên điểm khác biệt là:
– Mô hỡnh bộ đội thường trực tham gia sản xuất, xây dựng kinh tế (bao gồm Bộ đội
thường trực sẵn sàng chiến đấu, các trạm xưởng, xí nghiệp, các cơ quan khoa học kỹ thuật,
học viện nhà trường quân đội), thỡ mục tiêu kinh tế chủ yếu là tận dụng triệt để các điều
kiện sản xuất hiện có để tăng gia sản xuất cải thiện đời sồng cho cán bộ, chiến sĩ.
– Mô hỡnh các doanh nghiệp quân đội với các loại hỡnh như: Doanh nghiệp quốc
phũng bao gồm các doanh nghiệp sản xuất hoặc sửa chữa vũ khí trang bị đồ dùng quân sự,
có tham gia sản xuất các mặt hàng kinh tế; Doanh nghiệp kinh tế quốc phũng bao gồm các
doanh nghiệp trong quân đội sản xuất kinh doanh các sản phẩm dân dụng hoặc làm dịch vụ
phục vụ dân sinh khi có nhu cầu sẽ chuyển thành đơn vị chiến đấu hoặc phục vụ chiến đấu.
Mặc dù các doanh nghiệp đó có thể hoạt động theo cơ chế hạch toán kinh doanh, nhưng kết
quả kinh tế thu được chủ yếu nhằm bổ sung nguồn tài chính để giữ gỡn và từng bước phát
triển năng lực sản xuất quốc phũng, bổ xung cho nhu cầu thiết yếu, góp phần nâng cao mức
sống và giải quyết chính sách cho bộ đội; góp phần nâng cao sức chiến đấu của quân đội tạo
nên thế bố trí lực lượng sản xuất theo lónh thổ phù hợp với chiến lược kinh tế – quốc phũng
và đóng góp vào mục tiêu ổn định kinh tế – xó hội.
– Ngược lại với các hỡnh thức kết hợp kinh tế với quốc phũng kể trên. mục tiêu kinh
tế của khu kinh tế – quốc phũng là xoá đói giảm nghèo, từng bước phát triển kinh tế xó hội
và nâng cao đời sống của nhân dân. Bên cạnh đó, việc phân bố các doanh nghiệp quân đội
và các khu kinh tế – quốc phũng cũng dựa vào những căn cứ khác nhau: nếu như việc phân
bố các doanh nghiệp quân đội căn cứ vào yêu cầu bí mật, an toàn đối với bản thân chúng là
chủ yếu thỡ phân bố các khu kinh tế – quốc phũng lại tập trung vào các địa bàn quốc phũng –
an ninh chiến lược, những nơi đang rất cần tới sự gắn bó của những người dân.
Từ những trỡnh bày ở trên có thể hiểu khu kinh tế – quốc phũng là một hỡnh thức đặc
thù của sự kết hợp kinh tế với quốc phũng ở nước ta hiện nay, thể hiện vai trũ tích cực của
nhà nước về kinh tế và quốc phũng trờn những địa bàn chiến lược về an ninh quốc phũng, đặc
biệt tại các vùng sâu, vùng xa biên giới, hải đảo.
1.1.2 Đặc điểm chủ yếu của khu kinh tế – quốc phũng
Một là, có giới hạn, phạm vi địa lý nhất định, chủ yếu được hỡnh thành trên các địa
bàn vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo theo Quyết định của Chính phủ, là khu vực có dân
hay không có dân nhưng phải là khu vực có vị trí chiến lược về an ninh – quốc phũng. Dự án
tổng thể quân đội tham gia xây dựng khu kinh tế – quốc phũng được Chính phủ phê duyệt
tại Quyết định 277/QĐ-TTg ngày 31/3/2000 và Quyết định 43/2002/QĐ-TTg ngày
21/3/2002, được giao cho Bộ Quốc phũng làm chủ quản đầu tư.
– Từng khu kinh tế – quốc phũng đều có vị trí cụ thể xác định (nằm trên địa bàn mấy
xó, mấy huyện, mấy tỉnh, diện tích được quy hoạch bao nhiêu héc ta, mặc dù có thể mở rộng
tuỳ theo vị trí, tính chất của từng khu). Đó là những căn cứ để đầu tư vốn và tổ chức lực
lượng cho phù hợp.
– Các khu kinh tế – quốc phũng không đồng nhất với một tổ chức hay một đơn vị
hành chính. Hệ thống tổ chức các đơn vị hành chính ở nước ta gồm 4 cấp: Trung ương, tỉnh,
(thành phố) trực thuộc Trung ương, quận, huyện, thị xó. Thành phố trực thuộc tỉnh, và xó,
phường, thị trấn. Các khu kinh tế – quốc phũng mặc dù gắn với lónh thổ của một số xó, một
số huyện nhất định nhưng không phải là một tổ chức hành chính cấp xó hay cấp huyện,
cũng không phải là tổ chức trung gian giữa xó và huyện.
– Các khu kinh tế – quốc phũng không phải là các đơn vị thuộc hệ thống hành chính,
đồng thời nó cũng không thuộc hệ thống các đơn vị kinh tế được tổ chức mang tính lónh
thổ, không phải là sự kết hợp kinh tế với quốc phũng của một ngành, một địa phương trên
một địa bàn.
– Khu kinh tế – quốc phũng không phải là các vùng kinh tế mới trong quy hoạch kinh
tế lónh thổ của nhà nước. Một mặt quy mô các vùng kinh tế mới có thể lớn (nhỏ) hơn so với
các khu kinh tế – quốc phũng mặt khác mục đích xây dựng các vùng kinh tế mới và các khu
kinh tế – quốc phũng là khác nhau mặc dù có cùng một nội dung nhằm phát triển kinh tế. Ở
các khu kinh tế – quốc phũng phải gắn xây dựng kinh tế với củng cố quốc phũng – an ninh
nghĩa là đồng thời với các hoạt động xây dựng về kinh tế tại các khu kinh tế này sẽ diễn ra
các hoạt động xây dựng về mặt quốc phũng – an ninh, từng bước củng cố, phát triển hệ
thống các cụm làng, xó biên giới tạo nên sự vững mạnh về thế trận quốc phũng toàn dân và
an ninh nhân dân cũng như lực lượng vũ trang địa phương. Chính hai mặt hoạt động này là
điều kiện hỗ trợ cho nhau cùng phát triển do vậy mà ở các khu kinh tế này sẽ càng vững về
kinh tế và mạnh về quốc phũng – an ninh.
Hai là, mục tiêu trước mắt của khu kinh tế – quốc phũng là phát triển kinh tế xoá đói,
giảm nghèo song về cơ bản lâu dài là gắn phát triển kinh tế với củng cố quốc phũng – an
ninh vỡ vậy được hưởng các chính sách ưu đói phù hợp với đặc điểm từng khu vực cụ thể.
Mục tiêu tổng quát của khu kinh tế – quốc phũng là kết hợp chặt chẽ phát triển kinh
tế – xó hội với tăng cường quốc phũng – an ninh trên các địa bàn chiến lược, vùng sâu, vùng
xa, biên giới hải đảo đáp ứng nhiệm vụ trước mắt và lâu dài, trong thời bỡnh và cả thời
chiến.
Mục tiêu cụ thể là:
– Thông qua xây dựng khu kinh tế – quốc phũng giúp nhân dân các dân tộc yên tâm
sản xuất góp phần xoá đói, giảm nghèo, cải thiện và từng bước nâng cao đời sống vật chất
và tinh thần.
– Trên cơ sở phát triển kinh tế, bố trí lại dân cư theo quy hoạch của sản xuất; tạo sự
ổn định chính trị xó hội từ đó hỡnh thành nờn cỏc cụm làng xó biờn giới, các hậu cứ chiến
lược phục vụ cho nhiệm vụ quốc phũng – an ninh, tạo nên vành đai biên giới có dân để làm
nền tảng xây dựng thế trận quốc phũng toàn dõn, an ninh nhân dân bảo vệ Tổ quốc.
Ba là, lực lượng triển khai xây dựng các khu kinh tế – quốc phũng chủ yếu là các đơn
vị quân đội, trong đó vai trũ đặc biệt quan trọng thuộc về các đoàn kinh tế quốc phũng.
Tại các khu kinh tế quốc – phũng, các đoàn kinh tế – quốc phũng đó cựng lỳc tổ chức
nơi ăn, chốn ở cho bộ đội, đồng thời kết hợp với các đơn vị quân đội khác tập trung xây
dựng kết cấu hạ tầng như điện, đường, trường, trạm từng bước góp phần thúc đẩy sự phát
triển kinh tế trên địa bàn, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào các dân tộc,
thu hẹp dần khoảng cách giàu nghèo giữa đồng bằng và miền núi, giữa các vùng miền trong
cả nước.
Tại những khu vực bộ đội không trực tiếp tổ chức sản xuất, họ cũng góp phần phát
triển kinh tế xó hội bằng nhiều hỡnh thức như giúp dân khai hoang đồng ruộng, xây dựng
ruộng lúa nước, hướng dẫn nhân dân kỹ thuật canh tác, chuyển đổi cây trồng, vật nuôi… tạo
động lực mới tại các vùng kinh tế có xây dựng khu kinh tế – quốc phũng.Từ những đặc điểm
đó nêu trên có thể rút ra nhận xét:
Khu kinh tế quốc phũng là hỡnh thức kết hợp kinh tế với quốc phũng đặc biệt, bao
hàm tổng thể những quan hệ về kinh tế, xó hội, quốc phũng, an ninh, là hỡnh thức tổ chức
kinh tế – xó hội – quốc phũng – an ninh mang tớnh lónh thổ quy mụ nhỏ do Bộ Quốc phũng
xõy dựng được Chớnh phủ phờ duyệt, giao cho Bộ Quốc phũng làm chủ đầu tư, với lực
lượng nũng cốt là cỏc đoàn kinh tế quốc phũng, tổ chức xây dựng trên các địa bàn khó khăn
về kinh tế xó hội nơi vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo nhưng có vị trí chiến lược về
quốc phũng – an ninh trong giai đoạn hiện nay; nhằm mục tiêu xoá đói, giảm nghèo, gắn
phát triển kinh tế với củng cố quốc phũng – an ninh trên địa bàn đó, gúp phần xõy dựng thế
trận quốc phũng toàn dõn và thế trận an ninh nhõn dõn, xõy dựng tuyến hành lang biờn giới
vững chắc trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH,HĐH).
1.1.3. Vai trũ của khu kinh tế – quốc phũng
Với hỡnh thức tổ chức đặc thù của mỡnh, khu kinh tế – quốc phũng đóng vai trũ to
lớn trong sự phát triển kinh tế xó hội, quốc phũng an ninh của các địa bàn chiến lược nói
riêng và sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tỡnh hỡnh mới nói chung. Vai trũ đó
được thể hiện trên những mặt sau:
Thứ nhất, về kinh tế: khu kinh tế – quốc phũng là hỡnh thức thúc đẩy phát triển kinh
tế, xoá đói giảm nghèo có hiệu quả đối với các địa bàn chiến lược tại các vùng sâu, vùng xa
biên giới, hải đảo.
Trong nền kinh tế thị trường muốn phát triển kinh tế tại các địa bàn khó khăn, cần tạo
ra hệ thống hạ tầng kinh tế kỹ thuật và kinh tế xó hội cần thiết, đồng thời cần thay đổi
phương thức sản xuất, kinh doanh của dân cư từ tự cung tự cấp, du canh du cư sang kinh tế
hàng hoá. Đây là nhiệm vụ không dễ dàng thực hiện do những bất cập về vốn đầu tư, về
nguồn nhân lực…. Đầu tư vào những vùng này phải chịu những chi phí rất cao cho nên rất
khó thu hút vốn đầu tư trực tiếp từ các chủ thể kinh doanh. Vỡ vậy, sự hỡnh thành các khu
kinh tế – quốc phũng với nguồn vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước và của Bộ Quốc phũng sẽ
tạo ra cơ sở ban đầu rất quan trọng cho sự hỡnh thành hệ thống kết cấu hạ tầng nơi đây.
Trong những năm qua, khi được giao trách nhiệm là nũng cốt trong thực hiện nhiệm
vụ xây dựng các khu kinh tế – quốc phũng, các đoàn kinh tế – quốc phũng đều nhanh chóng
ổn định về mọi mặt ngay sau khi đứng chân trên địa bàn và bắt tay ngay vào công tác dân
vận, xây dựng cơ sở hạ tầng như đường giao thông, điện, công trỡnh thuỷ lợi, trường học,
trạm xá, phát thanh, truyền hỡnh, trại cõy, con giống… Đến nay các đoàn kinh tế – quốc
phũng đó xõy dựng được hơn 707 km đường giao thông các loại, 4 cụng trỡnh thuỷ điện, 6
trạm thuỷ điện 53 cụng trỡnh thuỷ lợi nhỏ, 92 km đường điện, 14.677m2 trạm xá quân dân y
kết hợp, 8.682m2 lớp học…xây dựng các trại chăn nuôi, nhà ở, khu dân cư, trạm (trại) sản
xuất cây giống, con giống phục vụ cho chương trỡnh khuyến nụng, khuyến lõm [28, tr. 30].
Cùng với việc xây dựng cơ sở hạ tầng trong các khu kinh tế – quốc phũng thỡ các
đoàn kinh tế – quốc phũng cũng đó thực hiện đầu tư thích đáng cho hoạt động sản xuất, nhất
là trên lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, chăn nuôi, chế biến nông, lâm sản, bước đầu đó
đạt hiệu quả thiết thực. Các đơn vị kinh tế – quốc phũng đó tích cực tham gia giúp dân phát
triển sản xuất, xoá đói, giảm nghèo bằng các hỡnh thức thớch hợp như hướng dẫn kỹ thuật
trồng lúa nước, kỹ thuật canh tác, chuyển đổi cây trồng, vật nuôi đạt hiệu quả kinh tế cao;
cung cấp cây giống, con giống để nhân dân phát triển sản xuất.
Các đoàn kinh tế – quốc phũng đó phối hợp chặt chẽ với cấp uỷ, chính quyền các địa
phương trong vùng dự án để ổn định, bố trí lại đội hỡnh dõn cư; đó tổ chức đỡ đầu, đón
nhận được 81.342 hộ dân tại chỗ và từ các nơi khác đến vùng dự án khu kinh tế – quốc
phũng sinh cơ lập nghiệp, trong đó đón nhận 38.656 hộ vào lập nghiệp trong các khu kinh tế
– quốc phũng, xõy dựng cỏc trạm phỏt thanh, truyền hỡnh; tổ chức dạy học xoỏ mự chữ cho
con em đồng bào các dân tộc thiểu số; khám chữa bệnh, cấp thuốc miễn phí cho hàng vạn
người; tổ chức giao lưu văn hoá, văn nghệ, tuyên truyền và vận động đồng bào từ bỏ các hủ
tục lạc hậu, mê tín dị đoan, xây dựng nếp sống văn hoá mới ở khu dân cư [28, tr.30].
Như vậy, trên thực tế, sự hỡnh thành và phát triển các khu kinh tế – quốc phũng về
mặt kinh tế đó tạo ra những điều kiện mới, thuận lợi hơn giúp đồng bào các dân tộc ít người
phát triển sản xuất, từng bước làm quen với các quan hệ hàng hoá – tiền tệ của nền kinh tế
thị trường, thay đổi tập quán canh tác hoà nhập với sự phát triển nền kinh tế đất nước, nhờ
đó bước đầu góp phần xoá đói giảm nghèo, thúc đẩy phát triển kinh tế – xó hội ở vùng sâu,
vùng xa. Đồng thời, các khu kinh tế – quốc phũng cũng có vai trũ tích cực về chính trị xó
hội thông qua công tác dân vận giúp đỡ các địa phương xây dựng hệ thống chính trị và
chính quyền cơ sở vững mạnh đủ sức tổ chức, hướng dẫn nhân dân vừa phát triển sản xuất,
vừa xây dựng lực lượng bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xó hội tại địa bàn.
Thứ hai, về quốc phũng – an ninh: Việc xây dựng và phát triển các khu kinh tế – quốc
phũng không chỉ góp phần củng cố an ninh, chính trị, xó hội nơi vùng sâu, vùng xa, biên
giới của Tổ quốc. Mà cũn trực tiếp đánh bại kẻ thù xâm lược từ biên giới vào, bảo vệ toàn
vẹn lónh thổ, bảo vệ chế độ XHCN, đảm bảo an ninh chính trị – xó hội, chống lại kiểu chiến
tranh phỏ hoại nhiều mặt của kẻ thự trong điều kiện hiện nay.
Cùng với việc thực hiện các nhiệm vụ về kinh tế, các đơn vị kinh tế – quốc phũng đó
thường xuyên giáo dục cho cán bộ, chiến sỹ tinh thần cảnh giác cách mạng, đề cao cảnh
giác trước âm mưu diễn biến hoà bỡnh của các thế lực thù địch; chủ động xây dựng các
phương án tác chiến tại chỗ, phương án phũng thủ, bảo vệ an ninh, xõy dựng cỏc cụng trỡnh
quốc phũng theo kế hoạch phũng thủ; tổ chức lực lượng chuyên trách ngày đêm tuần tra
canh gác bảo vệ kinh tế, bảo vệ địa bàn; phối hợp chặt chẽ với cấp uỷ, chính quyền, cơ quan
quân sự địa phương, các đồn biên phũng tuyờn truyền, vận động nhân dân thực hiện tốt chủ
trương, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, giúp địa phương, cơ sở
xây dựng lực lượng dân quân, tự vệ, xây dựng cơ sở chính trị vững mạnh, góp phần xây
dựng thế trận lũng dân, từ đó xây dựng thế trận QP – AN vững chắc bảo vệ biên giới của Tổ
quốc.
Vai trũ của khu kinh tế – quốc phũng được thể hiện rừ nét nhất qua những thành tựu
mà Binh đoàn 15 đó đạt được trong những năm qua:
Được triển khai trên địa bàn Tây Nguyên từ năm 1985. Qua 21 năm kiên trỡ phấn
đấu, vượt qua nhiều khó khăn gian khổ, thử thách Binh đoàn 15 đó từng bước đi lên vững
chắc, là một điển hỡnh về hiệu quả kinh tế – chính trị – xó hội, xoá đói, giảm nghèo, quốc
phũng – an ninh. Trên một diện tích trồng cây công nghiệp bao gồm gần 35 vạn héc ta cao
su, 2,5 nghỡn héc ta cà phê, 100 héc ta lúa nước trải dài hàng trăm cây số dọc biên giới các
tỉnh Gia Lai, Kon Tum, Đắc Lắc, thuộc 24 xó, 120 làng, bản vốn trước đây dân cư thưa thớt,
đời sống nhân dân hết sức khó khăn, đến nay đó có sự thay đổi đáng kể về kinh tế, văn hoá,
xó hội. Thông qua việc thực hiện các dự án kinh tế – quốc phũng, mở rộng sản xuất kinh tế,
Binh đoàn đó đóng góp tích cực vào việc thực hiện định canh, định cư, tạo việc làm, xoá
đói, giảm nghèo, phát triển cơ sở hạ tầng, phát triển văn hoá, xó hội…Đó có gần 9000 hộ
gia đỡnh với hơn 1,5 vạn lao động và 5 vạn người trong vùng dự án kinh tế – quốc phũng
của Binh đoàn được tạo việc làm, có thu nhập ổn định trong đó có hơn 4000 hộ với hơn
8000 lao động là người dân tộc thiểu số ở địa phương vào làm việc tại các khu kinh tế –
quốc phũng. Gắn liền với địa bàn sản xuất, phát triển kinh tế và công tác, Binh đoàn đó
thành lập các khu dân cư tập trung, xây dựng, phát triển cơ sở hạ tầng… góp phần tạo lập
thế trận quốc phũng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân vững chắc trên địa bàn này [31,
tr. 51].
Những kết quả trên đó khẳng định vai trũ nũng cốt của quân đội trong việc tham gia
xây dựng, phát triển kinh tế – xó hội trên những địa bàn chiến lược có nhiều khó khăn phức
tạp, nơi rừng núi, biên giới, nhất là trong những năm vừa qua địa bàn này đang là những
“điểm nóng ” về chính trị – xó hội.
Nhờ có sự gắn bó, giúp đỡ tận tỡnh, hết lũng giữa quân và dân trong các khu KT –
QP nên trong đợt biến động chính trị ở Tây Nguyên tháng 2 năm 2001 không chỉ 4.030 hộ
đồng bào dân tộc làm việc trong Binh đoàn 15 mà toàn bộ 104 buôn làng có cán bộ, chiến
sĩ, công nhân viên quốc phũng của Binh đoàn 15 cùng công tác và sinh sống, không có ai bị
kẻ xấu lôi kéo tham gia biểu tỡnh. Như ở xó Ia Tô có 11 làng thỡ 10 làng có người làm cho
Công ty Bỡnh Dương thuộc Binh đoàn 15 không ai tham gia biểu tỡnh, riêng làng Bang
không có người làm cho binh đoàn thỡ có tới 121 người bị kẻ xấu xúi giục tham gia biểu
tỡnh [14].
Đặc biệt trong lần biến động chính trị ngày gần đây nhất (10 tháng 4 năm 2004) vừa
qua thỡ tất cả đồng bào dân tộc trong khu kinh tế – quốc phũng không có ai bị lôi kéo đi
theo kẻ xấu làm loạn. Không những thế mà cũn có nhiều đồng bào là người dân tộc thiểu số tại
chỗ tích cực tham gia vào việc chống bạo loạn, vận động bà con khụng tin theo lời kẻ xấu tham gia
biểu tỡnh, gúp phần cựng bộ đội và chính quyền địa phương nhanh chóng ổn định tỡnh hỡnh.
Như vậy ý nghĩa chính trị trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ của Binh đoàn 15 là rất
lớn, không chỉ góp phần cải thiện, nâng cao đời sống kinh tế cho đồng bào các dân tộc mà
cũn góp phần củng cố quốc phũng, an ninh giữ vững ổn định chính trị – xó hội trên địa bàn.
Ngoài nhiệm vụ tổ chức sản xuất kinh doanh, các đơn vị kinh tế – quốc phũng của Binh
đoàn 15 cũn tham gia giải quyết vấn đề tôn giáo; các đơn vị đều có các tổ công tác, các cán
bộ dân vận của các đơn vị kinh tế – quốc phũng thường xuyên quan hệ với già làng, trưởng
bản, tuyên truyền giác ngộ nhân dân về các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và
Nhà nước, từ đó hạn chế sự truyền đạo không hợp pháp; đồng thời điều tra làm rừ, nắm chắc
các phần tử chủ mưu; từng bước phân hoá, có biện pháp kiên quyết xử lý bọn cầm đầu. Các
phần tử phản động không thể ngang nhiên mượn cớ truyền đạo để gây rối ở những khu kinh
tế – quốc phũng do Binh đoàn xây dựng (hầu hết là những vùng hẻo lánh).
Trong lần tới thăm Binh đoàn gần đây nhất, nguyên Chủ tịch nước Trần Đức Lương
nói: “Tôi thường xuyên theo dừi công việc của các đồng chí. Mô hỡnh Binh đoàn 15 giúp
cho Trung ương, Bộ chính trị nghiên cứu để phát triển thêm các khu kinh tế – quốc phũng”
[29, tr.42]. Từ những kết quả đạt được kể trên Binh đoàn 15 đó được Nhà nước phong tặng
danh hiệu “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân thời kỳ đổi mới ” năm 2003, và Tư lệnh
Binh đoàn: Thiếu tướng Nguyễn Xuân Sang được phong tặng danh hiệu “Anh hùng lao
động thời kỳ đổi mới” năm 2004.
Có thể nói trong những năm qua, cán bộ, chiến sỹ quân đội, mà trực tiếp và nũng cốt
là cán bộ, chiến sĩ trong các đoàn kinh tế – quốc phũng đó phấn đấu không mệt mỏi, phát
huy truyền thống kiên cường của mỡnh vừa hăng say luyện tập, sẵn sàng chiến đấu, vừa hết
lũng hết sức giỳp đỡ nhân dân đặc biệt là đồng bào vùng núi, vùng sâu, vùng xa phát triển
kinh tế – xó hội, xoá đói, giảm nghèo, duy trỡ củng cố mối quan hệ quõn dõn ngày càng
thắm thiết đó thực sự là chỗ dựa tin cậy cho nhõn dõn yờn tõm làm ăn sinh sống, tạo được
động lực mới trên các vùng kinh tế kém phát triển của đất nước.
Quỏ trỡnh đó quân đội không chỉ góp phần xoá đói, giảm nghèo cho đồng bào tại chỗ
mà cũn tham gia cú hiệu quả trong việc bố trớ lại dõn cư ở vùng biên giới; văn hoá, giáo dục
có bước phát triển mới; cơ sở chính trị được củng cố; lũng tin của đồng bào các dân tộc
thiểu số với Đảng, Nhà nước được nâng cao, QP – AN được tăng cường; bộ mặt làng, bản
mới của đồng bào dân tộc thiểu số khu vực biên giới, vùng sâu, vùng xa từng bước được
khởi sắc.
1.2. Sự cần thiết xây dựng và phát triển khu kinh tế – quốc phũng trên các địa
bàn chiến lược ở nước ta hiện nay
Sự hỡnh thành và phát triển các khu kinh tế – quốc phũng với tư cách là hỡnh thức
mới của việc kết hợp kinh tế với quốc phũng trong giai đoạn hiện nay. Nó là đũi hỏi bức xúc
của việc kết hợp kinh tế với quốc phũng trên các địa bàn chiến lược nhằm đáp ứng những
yêu cầu thực tiễn của công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong tỡnh hỡnh mới.
1.2.1. Yêu cầu khắc phục những khó khăn trong phát triển kinh tế, xoá đói giảm
nghèo trên các địa bàn chiến lược để tạo cơ sở vững chắc lâu dài cho củng cố an ninh quốc
phũng
Trong thời kỳ đổi mới, việc xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN và từng bước hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta đó mang lại những thành tựu vô
cùng to lớn, tạo ra thế và lực mới cho phát triển kinh tế bền vững với tốc độ cao trên cơ sở
đó tăng cường tiềm lực quân sự, quốc phũng. Tuy nhiên, trên thực tiễn sự phát triển kinh tế
không diễn ra một cách đồng đều giữa các, vùng, địa phương, địa bàn trên cả nước.
Trên nhiều địa bàn chiến lược vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, kinh tế phát triển
rất thấp, đời sống nhân dân đặc biệt khó khăn, gây nhiều cản trở cho củng cố QP – AN. Phần
lớn vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới đều là những địa bàn có vị trí chiến lược về kinh tế,
chính trị QP – AN; trước đây là những căn cứ cách mạng, vùng kháng chiến; ngày nay là nơi
sinh sống của đại đa số đồng bào dân tộc, phân bố ở những vùng núi cao hiểm trở, những
vùng sâu, vùng xa. Hiện tại đây là những vùng nghèo nàn và lạc hậu nhất so với các vùng
lónh thổ trong cả nước. Muốn củng cố an ninh quốc phũng nơi đây theo hướng xây dựng thế
trận quốc phũng toàn dân, an ninh nhân dân phải thực hiện phát triển kinh tế, xoá đói giảm
nghèo, nâng cao mức sống và dân trí cho nhân dân.
Công cuộc xoá đói giảm nghèo, nhất là đối với vùng đồng bào dân tộc miền núi,
vùng sâu, vùng xa; nơi mức độ nghèo đói cũn lớn, có vai trũ rất quan trọng đối với sự ổn
định và phát triển kinh tế và củng cố an ninh quốc phũng. Mặc dù chúng ta đó thu được
nhiều kết quả tích cực, nhưng cho tới nay tỷ lệ hộ nghèo tại các vùng đồng bào dân tộc miền
núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới nước ta vẫn cũn rất cao “vùng Tây Bắc 44% và Tây
Nguyên 40%” [19, tr.7].
Xét về mặt lịch sử, vùng sâu, vùng xa, biên giới, nước ta trong quá trỡnh đi lên chủ
nghĩa xó hội (CNXH) có điểm xuất phát về kinh tế – xó hội thấp là do hậu quả lịch sử để lại.
Nền kinh tế nặng về tự nhiên, tự cung, tự cấp, phương thức canh tác lạc hậu “phát rừng làm
nương”. Đời sống phụ thuộc vào thiên nhiên, đói nghèo, mù chữ, bệnh tật và các hủ tục lạc
hậu là điều không thể tránh khỏi. Tỡnh trạng đời sống thấp kém của đồng bào các dân tộc ở
miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới đó kéo dài hàng trăm năm nay và sẽ không bao giờ
có cơ hội vươn lên hoà nhập với cộng đồng nếu Đảng, Nhà nước, Chính phủ không có
những giải pháp thiết thực tạo điều kiện giúp đỡ đồng bào các vùng nói trên.
Từ khi cách mạng nước ta do Đảng lónh đạo thành công đó tạo ra bước ngoặt cho sự
phát triển kinh tế – xó hội ở niền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới. Chủ Tịch Hồ Chí Minh
và Đảng ta luôn coi đoàn kết giữa các dân tộc, chú trọng phát triển kinh tế – xó hội tại những
vùng này, nâng cao đời sống vật chất, văn hoá, sự tiến bộ, bỡnh đẳng của các dân tộc là vấn
đề chiến lược của cách mạng Việt Nam. Đây là quan điểm xuyên suốt trong chính sách dân
tộc của Đảng, Nhà nước trong các giai đoạn cách mạng. Tuy nhiên, trong các giai đoạn
trước đổi mới, xoá đói giảm nghèo ở vùng sâu, vùng xa, biên giới được thực hiện bằng
những biện pháp bao cấp của Chính phủ. Cơ chế đó đó tạo ra tâm lý ỷ lại, trông chờ vào
Nhà nước, thủ tiêu động lực phát triển tự thân của đồng bào các dân tộc, của cả vùng đó.
Trong quá trỡnh đổi mới đó hỡnh thành nhận thức mới về phát triển kinh tế và xoá
đói giảm nghèo trên các địa bàn đó. Sự phát triển kinh tế – xó hội, xoá đói giảm nghèo cho
các vùng nói trên phải do chính đồng bào các dân tộc quyết định là chủ yếu, không ai có thể
làm thay đồng bào được, cũn sự giúp đỡ của Nhà nước chỉ là yếu tố hỗ trợ, tạo điều kiện
thuận lợi cho sự vận động tự thân của chính các vùng đó.
Từ sự thay đổi về nhận thức đó đó làm thay đổi nếp nghĩ của đồng bào các dân tộc,
phần nào cũng phù hợp với nguyện vọng của đồng bào, vỡ vậy đó tạo ra động lực, niềm tin,
động viên đồng bào, động viên mọi vùng, mọi lực lượng, cả nước cùng vươn lên chính vỡ
vậy mà “Những thành tựu giảm nghèo của Việt Nam là một trong những câu chuyện thành
công nhất trong phát triển kinh tế” Đó là đánh giá trong “Báo cáo phát triển Việt Nam năm
2004” của Ngân hàng thế giới. Và thực tiễn đất nước trong 20 năm đổi mới đó chứng
minh vựng sõu, vựng xa, biờn giới đó cú sự chuyển biến đáng kể về kinh tế xó hội, đời
sống của đồng bào nơi đây từng bước được cải thiện cả về văn hoá và tinh thần.
Tuy nhiên, do điểm xuất phát thấp, cùng với nhiều nguyên nhân, cả khách quan, chủ
quan nên vùng sâu, vùng xa, biên giới vẫn là nơi có trỡnh độ phát triển kinh tế – xó hội và
đời sống đồng bào cũn thấp. Đánh giá một cách cụ thể Đảng ta nhận định:
Nhỡn chung, kinh tế ở miền núi và các vùng dân tộc cũn chậm phát triển,
nhiều nơi cũn lúng túng trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tập quán canh tác
cũn lạc hậu. Chất lượng sản phẩm thấp, tiêu thụ rất khó khăn. Tỡnh trạng du
canh, du cư, di dân tự do cũn diễn biến phức tạp, một số hộ cũn thiếu đất sản
xuất. Kết cấu hạ tầng ở một số vùng cao, vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách
mạng cũn thấp kém…Ở nhiều vùng dân tộc và miền núi tỷ lệ đói nghèo cũn cao
so với bỡnh quân chung của cả nước; khoảng cách chênh lệch về mức sống giữa
các vùng, giữa các dân tộc ngày càng tăng; chất lượng giáo dục và đào tạo cũn
thấp, việc đào tạo nghề chưa được quan tâm, công tác chăm sóc sức khoẻ cho
đồng bào vùng sâu, vùng xa cũn nhiều khó khăn. Một số tập quán lạc hậu, mê tín
dị đoan có xu hướng phát triển. Một số bản sắc tốt đẹp trong văn hoá của các dân
tộc thiểu số đang bị mai một. Mức hưởng thụ văn hoá của đồng bào cũn thấp [10,
tr.31-32].
Thực trạng trên đó và đang là lực cản lớn đối với sự phát triển kinh tế – xó hội ở miền
núi, vùng sâu, vùng xa nói riêng và cả nước nói chung, nó trái với bản chất XHCN. Hơn thế
nếu cũn một tỷ lệ lớn dân cư đói nghèo thỡ tăng trưởng kinh tế của đất nước có thể nhanh
song chắc chắn không bền vững. Ngoài ra nghèo đói là nguồn gốc, nguyên nhân của tỡnh
trạng du canh, du cư, di dân tự do, phá rừng …. phá hoại môi trường sinh thái. Mặt khác
chính nghèo đói về kinh tế tất yếu sẽ dẫn đến sự phức tạp của các vấn đề xó hội, làm nẩy
sinh tệ nạn xó hội, hơn nữa nếu nghèo đói không được giải quyết kịp thời, sự tích tụ đói
nghèo sẽ dẫn đến phân hoá, xung đột xó hội, mất ổn định xó hội là điều không tránh khỏi.
Từ đó khó thực hiện được mục tiêu chung của cách mạng nước ta là “độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xó hội, dân giàu nước mạnh, xó hội công bằng dân chủ văn minh” [9,
tr.22].
Bên cạnh đó sự đói nghèo của các dân tộc thiểu số vùng cao, vùng sâu, biên giới và
sự sơ hở, yếu kém của các cấp các ngành trong việc thực hiện chính sách dân tộc, thực hiện
chủ trương xoá đói giảm nghèo của Đảng luôn là chỗ cho kẻ thù lợi dụng chống phá, chia rẽ
các dân tộc nhằm thực hiện chiến lược diễn biến hoà bỡnh và như vậy sẽ không củng cố
được sức mạnh quốc phũng cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
Nhận thức được tỡnh trạng trên Đảng ta khẳng định:
Đẩy mạnh công tác xoá đói, giảm nghèo, nâng cao mức sống của đồng bào
dân tộc thiểu số, trọng tâm là đồng bào vùng cao, vùng sâu, vùng xa; trong những
năm trước mắt tập trung trợ gúp đồng bào nghèo, các dân tộc đặc biệt khó khăn
giải quyết ngay những vấn đề bức xúc như: tỡnh trạng thiếu lương thực, thiếu
nước sinh hoạt, nhà ở tạm bợ, không đủ tư liệu sản xuất, dụng cụ sinh hoạt tối
thiểu, xây dựng kết cấu hạ tầng khu vực biên giới, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc
biệt khó khăn [11, tr.37].
Và “đầu tư thoả đáng cho các vùng nghèo, nhất là miền núi, vùng đồng bào dân tộc
thiểu số để đạt mục tiêu công bằng xó hội” [10, tr.103].
Mặt khác, có đẩy mạnh phát triển kinh tế – xó hội ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, địa
bàn chiến lược thỡ mới tạo ra sức mạnh tại chỗ góp phần củng cố quốc phũng – an ninh trên
các địa bàn này nói riêng và cả nước nói chung. Bởi vỡ trong mối quan hệ giữa kinh tế với
QP – AN thỡ kinh tế bao giờ cũng là gốc, nền tảng, là nhân tố hàng đầu để củng cố tăng
cường sức mạnh QP – AN, đặc biệt trong điều kiện hiện nay, chỉ có kết hợp chặt chẽ giữa
phát triển kinh tế – xó hội với tăng cường sức mạnh QP – AN mới đảm bảo cho đất nước
luôn chủ động và sẵn sàng đập tan mọi âm mưu diễn biến hoà bỡnh của chủ nghĩa đế quốc
và các thế lực thù địch. Vỡ vậy trong Đại hội Đảng IX Đảng ta xác định: quan tâm phát
triển kinh tế – xó hội gắn với tăng cường QP – AN ở các vùng miền núi, vùng đồng bào dân
tộc thiểu số, biên giới, hải đảo; chú trọng các vùng Tây Nguyên, Tây Bắc, Tây Nam Bộ.
Vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo từ xưa đến nay luôn tồn tại mâu thuẫn và sự
chênh lệch giữa nhân tố kinh tế – xó hội với nhân tố QP – AN. Trong khi công tác QP – AN
ở các vùng này luôn giữ vai trũ đặc biệt quan trọng đối với sự tồn tại của đất nước, củng cố,
tăng cường sức mạnh QP – AN ở các vùng này là nhiệm vụ trọng yếu của của sự nghiệp QP
– AN của đất nước. Thỡ sự phát triển kinh tế – xó hội ở các vùng này lại rất hạn chế, và chưa
được quan tâm đúng mức, nền kinh tế ở đây luôn trong trạng thái lạc hậu so với đũi hỏi của
QP – AN đây là một mâu thuẫn cần sớm được khắc phục.
Hiện nay trước yêu cầu của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc nói chung và bảo vệ các vùng
chiến lược nơi vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo nói riêng, đồng thời trước yêu cầu của
việc xây dựng khu vực phũng thủ vững mạnh, xây dựng thế trận quốc phũng toàn dân nhằm
sẵn sàng đập tan âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch ngay trong từng địa phương,
từng vùng đó đặt ra yêu cầu cấp bách của quá trỡnh kết hợp phát triển kinh tế – xó hội trong
mối tác động với tăng cường sức mạnh QP – AN trên từng địa phương, từng vùng.
Vỡ vậy, việc đầu tư xây dựng và phát triển các khu kinh tế – quốc phũng trên các địa
bàn chiến lược ở nước ta hiện nay sẽ đáp ứng được yêu cầu cả về kinh tế – xó hội và QP –
AN mà thực tiễn đang đặt ra. Nghĩa là thông qua việc xây dựng, phát triển các khu kinh tế –
quốc phũng trên các địa bàn chiến lược vùng sâu, vùng xa, biên giới hải đảo, xây dựng nên
các vùng kinh tế – dân cư – xó hội, từ đó làm nên cầu nối giữa Đảng với đồng bào các dân
tộc, giữa quân đội và nhân dân, củng cố lũng tin của đồng bào vùng sâu, vùng xa vào đường
lối, chính sách của Đảng đồng thời tạo nên sự phát triển toàn diện kinh tế – xó hội trên các
địa bàn này trên cơ sở đó sẽ tạo ra tiềm lực kinh tế, tiềm lực chính trị tinh thần góp phần xây
dựng nền quốc phũng toàn dân, an ninh nhân dân vững mạnh sẵn sàng đập tan mọi âm mưu
của kẻ thù trong mọi điều kiện. Đây là giải pháp có ý nghĩa toàn diện cả về kinh tế – chính
trị – xó hội và quốc phũng – an ninh đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc trong tỡnh hỡnh mới.
Đồng thời cũng là sự cụ thể hoá đường lối Đại hội IX, X của Đảng:
Kết hợp phát triển kinh tế, xó hội với củng cố quốc phũng và an ninh là
nhiệm vụ rất quan trọng trong bối cảnh phát triển, cạnh tranh và hội nhập kinh tế
khu vực và thế giới trong thập kỷ tới…Chú trọng tăng cường những trọng điểm
về kinh tế, những địa bàn xung yếu về quốc phũng – an ninh đảm bảo cho nền
kinh tế phát triển nhanh và bền vững trong mọi tỡnh huống [9, tr.316- 317].
Như vậy công cuộc xoá đói, giảm nghèo, phát triển kinh tế được coi là mục tiêu
trước mắt cho sự ổn định chính trị, là cơ sở cho việc củng cố quốc phũng. Quốc phũng được
củng cố vững mạnh có tác động trở lại đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế; nó
tạo ra môi trường hoà bỡnh, ổn định để phát triển kinh tế, bảo vệ công cuộc xây dựng đất
nước.
1.2.2 Yêu cầu làm thất bại âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch
Chủ nghĩa đế quốc đứng đầu là đế quốc Mỹ luôn cấu kết với các thế lực thù địch,
phản động đẩy mạnh chống phá cách mạng nước ta. Ngày nay, những hoạt động chống phá
đó được thực hiện chủ yếu thông qua chiến lược diễn biến hoà bỡnh với nội dung là tác
động vào bên trong làm sụp đổ CNXH từ trong lũng. Đối với Việt Nam diễn biến hoà bỡnh
được tiến hành trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, tư tưởng, văn hoá, kinh tế, xó hội.
Những năm gần đây lợi dụng những khó khăn về kinh tế – xó hội ở các vùng sâu,
vùng xa, vùng biên giới, hải đảo các lực lượng thù địch đó sử dụng các chiêu bài tôn giáo,
dân tộc để lôi kéo, kích động hỡnh thành xu hướng ly khai đối trọng với Đảng cộng sản, gây
mất ổn định tỡnh hỡnh kinh tế, chính trị, văn hoá, xó hội, từ đó tạo cớ để can thiệp gây sức
ép về chính trị. Chúng đó dùng nhiều biện pháp thủ đoạn cả công khai, bí mật, trực tiếp,
gián tiếp song tựu trung lại nổi lên một số thủ đoạn chính là:
Thứ nhất, Lợi dụng vấn đề dân tộc
Xuất phát từ những yếu tố lịch sử, lợi dụng những khó khăn thiếu thốn trong đời
sống hiện tại của đồng bào dân tộc thiểu, số kẻ thù đó xuyên tạc, gây hoài nghi làm mất lũng
tin của đồng bào với chính quyền, khơi dậy mâu thuẫn từ đó kích động tư tưởng đũi ly khai,
tự trị dưới các chiêu bài “phục quốc chăm pa” “giải phóng khơ me crôm” “giải phóng cao
nguyên Đê ga” “tự trị cho 16 châu thái” với ý đồ thành lập “Vương quốc Mông ” ở Tây
Bắc; “Nhà nước Đề ga độc lập” ở Tây Nguyên; “Nhà nước Khơ me Crôm” ở nam Bộ và
“Nhà nước chăm độc lập” ở nam Trung bộ nhằm phá vỡ sự thống nhất quốc gia của Việt
nam [26, tr. 93].
Chúng tập hợp một số người Mông vốn là tay sai cũ đang sống lưu vong ở nước
ngoài để tổ chức các “Hội nghị người Mông thế giới” từ chủ trương này chúng dùng quan
hệ họ tộc gửi thư, băng đài, video về Việt Nam tuyên truyền, xuyên tạc người Mông không
có tổ quốc từ đó kích động đồng bào Mông ly khai thành lập cái gọi là “Vương quốc Mông
tự trị ” đồng thời chúng đẩy mạnh các hoạt động xưng vua, đón vua tập dượt lực lượng thử
phản ứng của chính quyền, gây mất ổn định chính trị, xó hội tạo ra làn sóng di cư ồ ạt của
người Mông từ các tỉnh Hà Giang, Lào Cai, Yên Bái về địa bàn dọc biên giới phía tây thuộc
các tỉnh Điện Biên, Sơn La, Lai Châu.
Đặc biệt từ đầu năm 2001 đến nay bọn phản động kích động đồng bào Mông di cư về
các địa bàn phức tạp về chính trị, xó hội như Tây Nguyên, Tây Nghệ An hoặc sang Lào. Đó
có một số bản ở một số địa phương phía Bắc di cư hết cả bản, cả cán bộ, Đảng viên, Bộ đội
xuất ngũ…làm cho tỡnh hỡnh an ninh chính trị và văn hoá, xó hội trên các địa bàn này rất
phức tạp, đời sống đồng bào đó khó khăn lại càng khó khăn hơn, nó làm gia tăng dân số đột
biến, làm nẩy sinh nhiều vấn đề xó hội phức tạp, xung đột giữa dân chính cư và ngụ cư, gia
tăng tệ nạn xó hội, trẻ em không được học hành, ốm đau không có nơi chữa bệnh, nạn phá
rừng bừa bói, các chủ trương chính sách của Đảng không triển khai được, là tụ điểm đón
chứa những phần tử lưu vong, chống phá cách mạng, cơ sở của các hoạt động “thổ phỉ”,“ly
khai” “những đốm lửa để các thế lực thù địch lợi dụng thổi lên thành đám cháy rừng” [17,
tr.4 – 6].
Thứ hai, Lôi kéo những người nhẹ dạ và những phần tử thoỏi hoỏ biến chất nhen
nhúm hỡnh thành cỏc tổ chức phản động làm cơ sở cho bọn phản động ở nước ngoài xâm
nhập vào thuộc địa chống phá ta.
Hiện có khoảng 100 tổ chức của người dân tộc thiểu số Việt Nam ở nước ngoài, riêng
ở Mỹ có 11 tổ chức của người Mông, 5 tổ chức của người Thái, 1 tổ chức của người Dao, 3 tổ
chức của người Thượng Tây Nguyên có ảnh hưởng trực tiếp đến các vùng dân tộc thiểu số ở
Việt nam. Trong đó đỏng chỳ ý là các tổ chức “trung tâm nghiên cứu văn hoá Mông” “nhóm
hoạt động tôn giáo Tin Lành khởi xướng Vua Vàng Chứ trong người Mông ” ở Mỹ [17, tr.4 –
6].
Lợi dụng đường lối đổi mới và chính sách mở cửa của Đảng, Nhà nước chúng tích
cực trở về thăm thân nhân núp dưới vỏ bọc mới, lôi kéo những ngưới có ảnh hưởng trong
đồng bào dân tộc để nắm quần chúng. Đặc điểm nổi bật trong đời sống xó hội của các dân
tộc thiểu số là uy quyền của lớp người được quần chúng suy tôn, tín nhiệm hay theo sự ràng
buộc của tập quán. Vỡ vậy bằng mọi cách kẻ thù tấn công, lôi kéo để tập hợp lực lượng, tạo
dựng ngọn cờ. Trước đây trong chiến tranh Việt Nam Mỹ tập hợp tầng lớp trên thỡ hiện nay
chúng lại tập trung vào số người có uy tín là cán bộ, trí thức do cách mạng đào tạo – đây là
nét mới đáng lưu ý. Từ đó xuyên tạc đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà
nước. Nham hiểm hơn là từ những tổ chức này chúng tạo nên xu hướng và lực lượng đối lập
từ bên trong làm điểm tựa hỗ trợ để cho chúng đẩy mạnh hoạt động chống phá, đặc biệt là
nơi đồng bào mới di cư tới, nơi công tác quản lý của chúng ta cũn sơ hở thậm chí chưa quản
lý được.
Mặt khác chúng sử dụng khả năng quốc tế hoá vấn đề dân tộc để chống phá ở các
mức độ khác nhau như vấn đề PULRO ở Tây Nguyên – với nhà nước Đê ga, vấn đề Khơ me
Nam Bộ, vấn đề người Mông…
Thứ ba, Lợi dụng chính sách tự do tôn giáo.
Bọn phản động đội lốt tôn giáo đẩy mạnh chính sách tuyên truyền phát triển đạo Tin
Lành trái pháp luật vào người Mông nhằm từng bước tiến tới Tin Lành hoá dân tộc Mông để
chuyển hoá ý thức hệ của người Mông từ lũng tin theo Đảng, theo cách mạng sang lũng tin
vào đức Chúa trời, vào đạo Tin Lành – Vàng Chứ, Thỡn Hùng từ đó để dễ lừa bịp, kích
động hỡnh thành tổ chức phản động trong tôn giáo tiến tới gây rối, bạo loạn như Tin Lành
Đê ga ở Tây Nguyên (riêng ở Tây Nguyên số người truyền đạo trái pháp luật lên đến hơn
1000 người với gần 1000 điểm nhóm lễ …[17, tr4 – 6]
Từ đó chúng tạo cớ để các thế lực thù địch ở bên ngoài can thiệp sâu vào công việc
nội bộ ta. Việc gây rối ở Tây Nguyên từ tháng 3 năm 2001 đến nay mà kẻ tự phong là
“Tổng thống nhà nước Đêga tự trị ” KsoKơk đó xúi gục những tên phản động đội lốt tôn
giáo trong người Thượng thành lập “giáo phái Tin Lành” riêng của người Thượng, từ đó lừa
gạt, kích động, khống chế đồng bào ở một số buôn làng tụ tập gây rối, đập phá tài sản của
Nhà nước và nhân dân gây mất trât tự trị an trên dịa bàn, đồng thời xúi giục người Thượng
trốn sang Campuchia. Hiện có (48 tổ chức tôn giáo lợi dụng chống Việt Nam ở nước ngoài).
Tin Lành Mỹ tích cực tuyển chọn, đào tạo chức sắc và truyền giáo là người dân tộc. Mỹ đó
hỡnh thành 7 tổ chức hoạt động tôn giáo trong người Mông. Các tổ chức Tin Lành người
Mông đó lợi dụng đường bưu điện quốc tế gửi các ấn phẩm tôn giáo cho các đối tượng cầm
đầu, truyền đạo ở vùng đồng bào Mông và cử người trực tiếp vào trong nước khảo sát tỡnh
hỡnh tôn giáo để truyền đạo. Ở nhiều cơ sở thuộc các tỉnh biên giới như Điện Biên, Sơn La,
Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang đó hỡnh thành các tổ chức đối trọng với chính quyền thôn
bản, chúng tuyên truyền, kích động nói xấu Đảng, Nhà nước, nói xấu chế độ, chia rẽ Đảng –
Nhà nước – nhân dân, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo, nhằm vô hiệu hoá
vai trũ lónh đạo, quản lý của cấp uỷ, chính quyến cơ sở làm cho bà con dân tộc bỏ sản xuất,
có gia đỡnh bán hết đồ đạc, giết mổ gia súc, bỏ bàn thờ tổ tiên, để thờ Vàng Chứ. Ngoài ra