KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
ĐỀ ÁN KINH TẾ CHÍNH TRỊ
PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở
VIỆT NAM
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
LỜI NÓI ĐẦU
Kể từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, cùng với việc đưa ra đường lối
đổi mới về kinh tế, nhờ hàng loạt chính sách tích cực cụ thể hoá chủ trương cải
cách sâu rộng nền kinh tế mà nhờ đó nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn
không chỉ trong phát triển kinh tế mà cả trong cải cách và phát triển xã hội. Xác
định định hướng xây dựng nền kinh tế nước ta thành nền kinh tế thị trường mang
tính xã hội chủ nghĩa đã trở thành mục tiêu cho tất cả các hoạt động quản lý và
phát triển đất nước. Chính vì vậy mà em lựa chọn đề tài cho đề án kinh tế chính trị
của mình là “Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam”.
Trong khuôn khổ bài viết này em không có ý định đi qua sâu vào bất cứ vấn
đề gì mà chỉ dựa trên cơ sở kiến thức đã được trang bị và thực trạng nền kinh tế
thông qua các số liệu thống kê để đánh giá nền kinh tế nước nhà. Do đó cũng thật
dễ hiểu nếu có những khiếm khuyết không thể tránh khỏi trong quá trình viết bài.
Nhân đây em cũng xin chân thành cảm ơn thầy giáo TS Tô Đức Hạnh đã nhiệt tình
hướng dẫn và giúp đỡ em trong quá trình làm bài.
Cấu trúc đề án được chia làm ba phần:
I.
Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam là một tất yếu khách quan.
II.
Thực trạng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam
III.
Giải pháp hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Cơ sở lý luận của bài viết dựa trên giáo trình kinh tế chính trị tập 2, giáo
trình lịch sử các học thuyết kinh tế và nhất là văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IX Đảng cộng sản Việt Nam. Các số liệu thông kê trình bày trong bài được
chọn lọc và phân tích trên cơ sở chủ yếu là Niên giám thống kê 2001 và một số tài
1
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
liệu khác bao gồm báo cáo thường kỳ chính phủ về tình hình phát triển kinh tế-xã
hội, các báo Đầu tư, diễn dàn doanh nghiệp…
I. PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM LÀ MỘT SỰ TẤT YẾU KHÁCH QUAN.
1.1. Nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay.
Để tìm hiểu về nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay chúng ta quan
tâm đến hai vấn đề quan trọng nhất của một nền kinh tế thị trường là nền kinh tế
hàng hoá và vấn đề cơ chế thị trường.
1.1.1. Khái niệm nền kinh tế hàng hoá.
Ở Việt Nam hiện nay phổ biến quan điểm về nền kinh tế hàng hoá về nền
kinh tế hàng hoá được đưa ra trong văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX.
Theo văn kiện này thì nền kinh tế hàng hoá là một kiểu tổ chức kinh tế xã hội mà
trong đó hình thái phổ biến là sản xuất ra hàng hoá để bán, để trao đổi trên thị
trường.
Nền kinh tế hàng hoá rõ ràng đối lập với nền kinh tế tự nhiên ở mục đích
sản xuất của nền kinh tế. Nếu trong nền kinh tế tự nhiên sản phẩm được sản xuất
để phục vụ cho nhu cầu của chính người sản xuất thì trong nền kinh tế hàng hoá
người sản xuất sản xuất hàng hoá để đem trao đổi trên thị trường. Cũng từ đó mà
phương thức trao đổi trong nền kinh tế tự nhiên là trao đổi hàng đổi hàng còn
trong nền kinh tế hàng hoá là trao đổi T-H-T. Nền kinh tế hàng hoá cũng đối lập
với nền kinh tế chỉ huy bởi nền kinh tế hàng hoá được điều tiết bởi cơ chế thị
2
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
trường trong khi nền kinh tế chỉ huy được điều tiết bởi cơ chế kế hoạch hoá tập
trung. Thực tế nền kinh tế nước ta trong giai đoạn 1975-1986 và giai đoạn sau
1986 kể từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến nay đã cho thấy sự yếu kém của
nền kinh tế kế hoạch hoá so với nền kinh tế hàng hoá. Do đó thật dễ hiểu khi
Đảng và Nhà nước Việt Nam lại quyết tâm xây dựng nền kinh tế nước ta thành
nền kinh tế hàng hoá.
1.1.2. Vấn đề thị trường theo quan điểm hiện đại.
Trong nền kinh tế hàng hoá, mọi sản phẩm hàng hoá và dịch vụ đều được
mua bán trên thị trường. Thị trường có vai trò quan trọng trong sự phát triển cuả
nền kinh tế hàng hoá bởi một lý do quan trọng nhất là thị trường chính là là trung
tâm của cả quá trình sản xuất hàng hoá. Nó đóng vai trò làm môi trường và điều
kiện cho tất cả các hoạt động trao đổi hàng hoá và qua đó giải quyết vấn đề cơ bản
nhất của nền kinh tế là sản xuất mặt hàng gì, số lượng bao nhiêu. Ban đầu người
ta tin rằng thị trường là một phần tất yếu của nền kinh tế hàng hoá, ra đời và phát
triển cùng với sự ra đời và phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá. Theo
nghĩa đó thị trường gắn liền với địa điểm nhất định trên đó diễn ra những quá trình
trao đổi, mua bán hàng hoá.
Cùng với sự phát triển của sản xuất hàng hoá, thị trường cũng được mở
rộng và quan niệm thị trường cũng được hiểu đày đủ hơn. Đó là lĩnh vực trao đổi
hàng hoá thông qua tiền tệ làm môi giới. Trên thị trường người mua và người bán
tác động qua lại lẫn nhau để xác định giá và số lượng hàng hoá lưu thông trên thị
trường.
Ngày nay các nhà kinh tế học thống nhất với nhau về quan điểm thị trường
như sau: Thị trường là một quá trình mà trong đó người bán và người mua tác
động qua lại lẫn nhau để xác định giá cả và sản lượng. Cũng theo quan điểm kinh
tế học hiện đại thị trường được chia thành thị trường hàng hoá tiêu dùng, dịch vụ
và thị trường các yếu tố đầu vào, thị trường trong nước và thị trường quốc tế.
3
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
1.2. Cơ chế thị trường
1.2.1.Định nghĩa cơ chế thị trường.
Chúng ta biết rằng hai vấn đề quan trọng nhất của nền kinh tế thị trường là
nền kinh tế hàng hoá và cơ chế thị trường. Theo định nghĩa của Samuelson viết
trong cuốn Kinh tế học thì cơ chế thị trường là một hình thức tổ chức kinh tế
trong đó cá nhân người tiêu dùng và các nhà kinh doanh tác động lẫn nhau qua thị
trường để xác định ba vấn đề trung tâm của tổ chức kinh tế là sản xuất cái gì, như
thế nào và cho ai? Theo Samuelson cơ chế thị trường “không phải là sự hỗn độn
mà là trật tự kinh tế”, “là một bộ máy tinh vi phối hợp một cách không tự giác
nhân dân và doanh nghiệp”. Do đó nói đến thị trường và cơ chế thị trường là phải
nói tới người bán, người mua và giá cả, hàng hoá và giá cả hàng hoá. Hàng hoá
bao gồm hàng tiêu dùng, dịch vụ và các yếu tố sản xuất như lao động, đất đai, tư
bản. Bán các yếu tố sản xuất đó mang lại thu nhập thông qua giá cả. Và mỗi người
lại sử dụng thu nhập đó để mua hàng hoá dịch vụ mình cần. Thông qua sự cân đối
giữa cung và cầu cơ chế thị trường sẽ có một hệ thống tự cân bằng giữa giá cả và
sản xuất, trong đó cung cầu chính là sự khái quát giữa hai lực lượng người bán và
người mua trên thị trường. Đó cũng là nội dung quy luật cung cầu hàng hoá.
Theo quan điểm của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX thì cơ chế thị
trường là cơ chế tự điều tiết nền kinh tế hàng hoá do sự tác động của các quy luật
kinh tế vốn có của nó, cơ chế đó giải quyết ba vấn đề cơ bản của tổ chức kinh tế là
cái gì, như thế nào và cho ai. Cơ chế thị trường bao gồm các yếu tố cơ bản là cung,
cầu và giá cả hàng hoá.
Mặc dù còn khá nhiều quan điểm khác nhưng về cơ bản chúng ta có thể
hiểu cơ chế thị trường chính là cơ chế điều chỉnh của nền kinh tế hàng hoá cho
phép xác định các vấn đề cơ bản về lượng hàng hoá, giá bán cho các thành phần
cơ bản tham gia vào nền kinh tế là người mua và nhà sản xuất. Khi so sánh cơ chế
này với cơ chế kế hoạch hoá tập trung mệnh lệnh hành chính của nền kinh tế chỉ
huy thì rõ ràng cơ chế thị trường có nhiều điểm ưu việt hơn. Mặc dù vậy bản thân
4
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
cơ chế kinh tế thị trường cũng còn khá nhiều những nhược điểm nên cần có thêm
cơ chế hỗ trợ của Nhà nước. Chúng ta sẽ xem xét những vấn đề này trong các
phần sau.
1.2.2. Ưu điểm và khuyết điểm của cơ chế thị trường.
Cơ chế thị trường đảm bảo cho nền kinh tế vận động một cách bình thường,
thúc đẩy sự phát triển và tăng trưởng kinh tế, tạo ra thành tựu kinh tế to lớn mà các
nền kinh tế trước đây không thể nào đạt đến được. Đó chính là ưu điểm to lớn
nhất của cơ chế thị trường mặc dù bản thân nó cũng vẫn tồn tại những nhược điểm
vốn là bản chất của nó.
Theo quan điểm của Samuelson nền kinh tế thị trường chịu sự điều khiển
của “hai ông vua”: người tiêu dùng và kỹ thuật. Người tiêu dùng thống trị thị
trường vì họ chính là người bỏ tiền ra mua hàng hoá do các doanh nghiệp sản xuất
ra. Hay nói một cách đơn giản hơn, họ chính là người quyết định sự tồn tại của
doanh nghiệp thông qua các quyết định mua và sử dụng hàng hoá dịch vụ của
doanh nghiệp. Tuy nhiên ngoài người tiêu dùng ra thị trường còn tồn tại một ông
vua nữa, đó là kỹ thuật. Bởi vì việc sản xuất không thể vượt quá khả năng kỹ thuật
nên thực ra cầu hàng hoá phải chịu theo cung ứng của người sản xuất. Người sản
xuất sẵn sàng chuyển sang lĩnh vực kinh doanh khác nếu như có lợi nhuận hơn. ỏ
đây thị trường đóng vai trò trung gian giữa sở thích người tiêu dùng và hạn chế kỹ
thuật.
Qua phân tích trên ta có thể hình dung phần nào những ưu điểm của cơ chế
thị trường. Trước hết cơ chế thị trường kích thích và tạo điều kiện thuận lợi cho
các chủ thể kinh tế hoạt động và phát triển. Do đó mà mọi tiềm năng của nền kinh
tế được sử dụng tối đa tham gia vào hoạt động phát triển kinh tế. Đồng thời tính
cạnh tranh quyết liệt luôn tồn tại trong nền kinh tế bắt buộc người sản xuất giảm
chi phí lao động đến mức tối thiểu bằng cách tăng cường áp dụng khoa học kỹ
thuật mới. Chính yếu tố này đã thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển nâng cao
5
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
năng suất lao động, nâng cao chất lượng vào số lượng hàng hoá, qua đó người tiêu
dùng chính là những người được lợi nhiều nhất.
Ưu điểm thứ hai là tính mềm dẻo dễ điều chỉnh của cơ chế kinh tế thị
trường. Chính sự thay đổi về giá cả trên thị trường cho phép các doanh nghiệp
nhanh chóng nhận biết yêu thay đổi cho phù hợp với tình hình mới. Trong thực tế
các doanh nghiệp Nhà nước thường chậm chạp trong việc thay đổi này do việc ra
quyết định không thể nhanh chóng như ở các doanh nghiệp không phải Nhà nước.
Vấn đề cơ bản là ở chỗ sự chuyển đổi nhanh chóng này giúp cho nền kinh tế
nhanh chóng đi vào ổn định hơn khi có sự thay đổi. Tuy nhiên đôi khi chính nền
kinh tế cũng không thể nhanh chóng đi vào ổn định mà khi đó cần có sự can thiệp
của Nhà nước thong qua các chính sách kinh tế vĩ mô hợp lý.
Nói chung, mục đích của các doanh nghiệp khi tham gia vào thị trường là
lợi nhuận. Thế nhưng lợi nhuận lại chỉ có được thông qua sự tiêu dùng của cách
hàng. Bởi vậy để có được lợi nhuận tối đa, các doanh nghiệp bắt buộc phải quan
tâm đến nhu cầu của khách hàng, cụ thể là nhu cầu về chất lượng và giá cả. Khách
hàng luôn đòi hỏi chất lượng hàng hoá phải được nâng cao trong khi giá bán hạ
xuống. Để đáp ứng đòi hỏi của “ông vua” này doanh nghiệp phải lựa chọn phương
thức sản xuất sao cho chi ohí sản cuất giảm xuống đến mức có thể trong khi vẫn
đảm bảo chất lượng. Như vậy cơ chế thị trường đã giải quyết ba vấn đề cơ bản của
nền kinh tế trong khi với cơ chế kế hoach hoá việc Nhà nước tự ra quyết định sản
xuất thường gây ra sự khác biệt giữa cầu và cung dẫn đến sự rối loạn của thị
trường hàng hoá.
Tuy nhiên lịch sử loài người cũng ghi nhận những khuyết điểm của cơ chế
thị trường đặc biệt là trong các vấn đề xã hội. Trước hết do áp lực cạnh tranh mà
trong quá trình sản xuất đã phát sinh vấn đề phân hoá giàu nghèo. Những người
tồn tại và phát triển được cùng với cơ chế thị trường sẽ có được những nguồn thu
nhập lớn trở nên giàu có trong khi một bộ phận không nhỏ khác phải chấp nhận
phá sản, trở nên nghèo khó. Khi xã hội càng phát triển thì sự phân hoá giàu nghèo
6
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
càng diễn ra mạnh mẽ giữa những cư dân cùng quốc gia, giữa mức sống dân chúng
của các nước. Ngày nay, sự khác biệt đó đã lên đến hàng trăm lần. Tại những quốc
gia có mức sống cao, GDP đầu người hàng năm vào khoảng trên 30000 USD trong
khi quốc gia nghèo khó nhất như Mozambic thu nhập đầu người tính theo GDP chỉ
đạt 80USD. Sự chênh lệch này sẽ càng thể hiện rõ hơn khi so sánh với tỷ lệ hồi
đầu thế kỷ trước chỉ khoảng vài chục lần.
Ngoài ra do mục tiêu lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường, người ta sẵn
sàng lạm dụng tài nguyên xã hội, làm ô nhiễm môi trường nhằm mục tiêu giảm chi
phí sản xuất qua đó nâng cao lợi nhuận. Hậu quả là môi trường bị ô nhiễm nghiêm
trọng, tài nguyên cạn kiệt, hệ sinh thái mất cân bằng. Chỉ đến gần đây người ta
mới nhận thức được vấn đề này. Nhưng khi mà các nước nỗ lực giảm lượng khí
thải xuống thì việc Mỹ rút khỏi công ước Kyoto thì người ta sẽ còn vô số việc phải
làm để đảm bảo sự phát triển bền vững cho các thế hệ sau. Cũng do mục đích lợi
nhuận mà các nhà kinh doanh sẽ không tham gia vào một số lĩnh vực kinh tế có tỷ
suất lợi nhuận thấp hoặc các ngành kinh tế công cộng. Do đó nền kinh tế có thế
phát triển mất cân đối và cần có sự tham gia vào của Nhà nước để khắc phục
nhược điểm này.
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là thời kỳ đỉnh cao của các công ty độc
quyền với làn sóng sát nhập và thôn tính. Phải mất hàng chục năm sau người ta
mới nhận ra tác hại của các công ty độc quyền này đối với nền kinh tế. Tại Mỹ
Luật chống độc quyền chỉ ra đời vào năm 1960, các nước khác còn muộn hơn. Bởi
vì cơ chế thị trường chỉ hoạt động có hiệu quả trong môi trường cạnh tranh hoàn
hảo để có thể thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất nhờ đó mà sử dụng
hiệu quả đến tối đa các nguồn lực của nền kinh tế. Khi có sự tồn tại của các công
ty độc quyền cơ chế này không còn hiệu quả nữa. Nhưng sự xuất hiện của các
công ty độc quyền gần như là hệ quả tất yếu của quá trình cạnh tranh. Bởi vậy sự
can thiệp của Nhà nước là cần thiết để duy trì tính lành mạnh của thị trường.
1.3. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
7
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
1.3.1. Định nghĩa nền kinh tế thị trường.
Theo quan điểm của Samuelson trích trong Kinh tế học thì “Một nền kinh
tế thị trường là một cơ chế tinh vi để phối hợp một cách không tự giác nhân dân và
doanh nghiệp thông qua hệ thông giá cả và thị trường. Nó là một phương tiện giao
thông để tập hợp tri thức và hành động của hàng triệu cá nhân khác nhau, không
có bộ não trung tâm nó vẫn giải được bài toán mà máy tính lớn nhất ngày nay
cũng không thể giải nổi. Không ai thiết kế ra nó. Nó tự xuất hiện và nó đang thay
đổi cũng như xã hội loài người.”
Theo quan điểm của Đảng ta, một nền kinh tế mà trong đó những vấn đề cơ
bản của nó do thị trường quyết định được xem là nền kinh tế thị trường. Nói cách
khác nền kinh tế thị trường chính là nền kinh tế hàng hoá chịu sự điều khiển của
cơ chế thị trường. Nền kinh tế này khác với nền kinh tế tập trung ở chủ thể xác
định các vấn đề cơ bản của nền kinh tế. ậ nền kinh tế tập trung chủ thể này là Nhà
nước thông qua các mệnh lệnh hành chính. Chính sự khác biệt này tạo ra sức mạnh
và động lực cho nền kinh tế phát triển.
Tại Việt Nam kể từ Đại hội Đảng toàn quốc làn thứ VI, chúng ta đã xác
định xây dựng nền kinh tế thành nền kinh tế thị trường nhưng theo định hướng xã
hội chủ nghĩa. Tức là có sự can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế nhưng không
phải can thiệp vào nền kinh tế theo kiểu mệnh lệnh hành chính mà can thiệp thông
qua các chính sách kinh tế vĩ mô nhằm ổn định nền kinh tế và tạo điều kiện cho
mọi thành phần kinh tế tham gia vào sản xuất và kinh doanh. Sự can thiệp này
được xem là cần thiết nhằm thiết lập khuôn khổ pháp luật phù hợp, sửa chữa
những khuyết tật của thị trường, đảm bảo sự công bằng xã hội và ổn định kinh tế
vĩ mô (Kinh tế học- Samuelson). Đây là lý thuyết nền kinh tế hỗn hợp đã được
Samuelson đưa ra. Theo ông phát triển kinh tế phải dựa trên hai bàn tay là cơ chế
thị trường và Nhà nước:” điều hành một nền kinh tế không có cả chính phủ lẫn thị
trường thì cũng như định vỗ tay bằng một bàn tay”. Tuy nhiên trong hoàn cảnh
8
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
nước ta thì sự can thiệp của Nhà nước còn đóng vai trò giữ cho nền kinh tế đi theo
đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.
1.3.2. Sự tồn tại nền kinh tế thị trường tại Việt Nam là một thực tế
khách quan.
Việt Nam đang tồn tại đủ các điều kiện cần thiết là cơ sở tồn tại của nền
kinh tế hàng hoá. Phân công lao động đang phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều
sâu. Nhiều ngành nghề mới đã ra đời, đặc biệt là những ngành công nghiệp có hàm
lượng kỹ thuật kết tinh trong sản phẩm cao như điện tử, tin học… Bên cạnh đó các
ngành nghề cổ truyền cũng đang phát triển mạnh mẽ. Các sản phẩm của ngành
đang từng bước khẳng định thương hiệu trên thị trường trong nước và quốc tế.
Đây chính là những thế mạnh của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế thế
giới. Sự phát triển này đã kéo theo sự phát triển nhanh chóng của lực lượng sản
xuất. Lao động Việt Nam đã được cải thiện đáng kể về chất cũng như về lượng.
Đồng thời tình trạng lao động cũng được phân bố lại cho phù hợp hơn giữa các
ngành, các vùng. Lao động Việt Nam cũng đã vươn ra thị trường thế giới và thực
tế đã chứng minh được những ưu thế của mình. Thực sự phân công lao động Việt
Nam đã trở thành một bộ phận của phân công lao động thế giới.
Kể từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần VI, Việt Nam đã chính thức thừa
nhận sự tồn tại của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Nhờ đó các thành
phần kinh tế này đã có những điều kiện cần thiết để phát triển. Từ đó xuất hiện sự
khác biệt giữa các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất và sản phẩm lao động. Đây
chính là điều kiện đủ để nền kinh tế hàng hoá có cơ sở ra đời. Khác biệt về sở hữu
tư liệu sản xuất và sản phẩm lao động đã tạo ra động lực to lớn để thúc đẩy kinh tế
phát triển mặc dù mặt trái của nó chính là vấn đề phân hoá giàu nghèo.
Sau một thời gian dài duy trì cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung đã đến
lúc chúng ta cần một sự chuyển đổi để phát triển kinh tế. Cơ chế thị trường với
những ưu thế không thể chối cãi là một sự lựa chọn hợp lý và tất yếu. Cơ chế quản
lý cũ cồng kềnh, kém năng lực đã không còn phù hợp với tình hình trong nước và
9
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
quốc tế. Những căn bệnh đặc trưng của cơ chế cũ như bảo thủ, trì trệ, kém năng
lực, hình thành nên một bộ máy quản lý thiếu chuyên môn nghiệp vụ nhưng lại có
thái độ quan liêu cửa quyền cần phải được thay đổi. Thực tế cho thấy trải qua gần
hai mươi năm đổi mới vậy nhưng chúng ta vẫn phải thực hiện các cuộc chỉnh đốn
Đảng, cải cách bộ máy hành chính chứng tỏ những quan niệm cũ sai lầm đã ăn sâu
bám rễ như thế nào. Việc xoá bỏ hoàn toàn không hề dễ ràng, không thể hoàn
thành trong một sớm một chiều nhưng đó là việc cần thiết để thúc đẩy kinh tế phát
triển. Cùng với cơ chế cũ là sự bất cập khi Nhà nước can thiệp quá sâu vào sản
xuất kinh doanh, điều hành không tuân theo các quy luật kinh tế mà theo cảm tính
dẫn đến sự thất bại trong thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội đã đặt ra. Chuyển
sang cơ chế mới sẽ tạo điều kiện cho sự các thành phần kinh tế xã hội phát triển
theo đúng những quy luật kinh tế khác quan.
1.3.3. Nhân tố bảo đảm sự phát triển kinh tế xã hội theo hướng kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Mục tiêu phát triển đề ra không chỉ cải thiện nền kinh tế nước ta mà còn đặt
ra yêu cầu đảm bảo định hướng kinh tế xã hội chủ nghĩa. Theo định hướng kinh tế
nước ta thì kinh tế Nhà nước là một trong những nhân tố bảo đảm tính hướng kinh
tế thị trường. Thành phần kinh tế Nhà nước hoạt động sản xuất kinh doanh theo
nguyên tắc tự hạch toán, phân phối theo lao động và hợp tác kinh doanh. Chủ
trương của Nhà nước ta là kinh tế Nhà nước tập trung vào những lĩnh vực then
chốt của nền kinh tế như ngân hàng, tài chính, điện lực, an ninh quốc phòng và
khu vực kinh tế công cộng và nắm giữ vai trò chủ đạo, định hướng cho nền kinh
tế. Kinh tế Nhà nước cần đủ sức mạnh để có thể ổn định nền kinh tế nhất là trong
những cuộc khủng hoảng, suy thoái kinh tế. Ngoài ra còn một nhân tố đóng vai trò
quan trọng khác là sự tham gia của Nhà nước vào nền kinh tế thị trường. Tuy
nhiên Nhà nước chỉ can thiệp ở tầm vĩ mô, đảm bảo tính ổn định và trong sạch của
thị trường. Đồng thời sự can thiệp của Nhà nước thông qua các chính sách kinh tế
sẽ tạo điều kiện tốt hơn cho các thành phần kinh tế hoạt động. Nhà nước cũng
10
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
đóng vai trò xác định hướng sản xuất trọng điểm, khu vực cần tập trung vào phát
triển kinh tế giúp nền kinh tế phát triển đồng đều cân đối.
II. THỰC TRẠNG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.
2.1. Đánh giá chung.
Mười lăm năm đổi mới chưa phải là dài nhưng chúng ta có thế thấy được sự
thành công bước đầu của công cuộc đổi mới kinh tế theo hướng xã hội chủ nghĩa.
Nếu so sánh với thời điểm năm 1986 khi chúng ta bắt đầu công cuộc đổi mới thì
có thể thấy sự khác biệt to lớn trong đời sống kinh tế xã hội nước ta. Cụ thể là tình
hình kinh tế xã hội ổn định đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt, cơ cấu kinh tế
11
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
có sự thay đổi to lớn với sự xuất hiện của các thành phần kinh tế mới, các khu vực
kinh tế mới kỹ thuật cao cũng xuất hiện và đóng góp đáng kể vào tổng sản phẩm
quốc gia. Nông nghiệp không còn có tỷ trọng cao trong tổng sản phẩm nữa. Tỷ lệ
tăng trưởng kinh tế ở nước ta là khá cao, trong những năm qua là khoảng 7%/năm,
đó là một thành công to lớn trong khi tình hình kinh tế thế giới hiện nay không
mấy sáng sủa. Khu vực kinh tế công cộng có sự cải thiện và hoàn chỉnh đặc biệt ở
các thành phố lớn. Hệ thống pháp luật được chỉnh sửa và từng bước hoàn thiện.
Thủ tục hành chính đang được đơn giản hoá. Cơ cấu lao động có sự thay đổi, tỷ lệ
lao động nông nghiệp giảm đi, trong khi ở các ngành khác có xu hướng tăng lên.
Tỷ lệ lao động thất nghiệp giảm. Vấn đề phát triển con người đang được đặt ra và
cải thiện, tính dân chủ được đặt ra nhất là trong các vấn đề xã hội. Cùng với sự
phát triển kinh tế trong nước, vị thế nước ta trên trường quốc tế cũng được nâng
cao. Việt Nam đã tham gia vào các tổ chức kinh tế lớn trên thế giới, ký kết các
hiệp định thương mại với các quốc gia khác, tham gia tích cực vào các vấn đề thế
giới, các diễn đàn, hội nghị từng bước quảng bá hình ảnh Việt Nam với bạn bè
quốc tế. Đay chính là những thành công cơ bản của nước ta sau 15 năm đổi mới.
Mặc dù vậy không phải chúng ta không còn những hạn chế. Cơ cấu kinh tế
nói chung vẫn chưa phù hợp, cơ sở hạ tầng không theo kịp với sự phát triển của
kinh tế đã và đang đặt ra những yêu cầu cấp thiết cần tiếp tục thay đổi cho phù hợp
với yêu cầu của quá trình đổi mới. Vấn đề phát triển thị trường nước ngoài còn
nhiều hạn chế chưa phát huy hết năng lực sản xuất trong nước. Việc đầu tư vốn
còn chưa được nghiên cứu kỹ và chưa phát huy hết hiệu quả sử dụng vốn. Nhiều
ngành kinh tế còn phải nhờ vào sự bảo hộ của Nhà nước để có thể tồn tại. Một số
cơ sỏ kinh tế quốc doanh hoạt động không hiệu quả chưa đợc xử lý vẫn đang là
gánh nặng cho ngân sách Nhà nước. Hệ thống luật chưa ổn định và đặc biệt là vẫn
còn nhiều bất cập, hạn chế, chưa phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế, thủ tục
hành chính còn chồng chéo
12
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
2.2. Những thành công trong cải cách xây dựng cơ chế kinh tế mới.
Để đánh giá những thành công của công cuộc đổi mới kinh tế ở nước ta
chúng ta hãy xem xét một số những kết quả phát triển kinh tế trong những năm
qua, đặc biệt trong năm 2001.
Bảng 1:
TỔNG SẢN PHẨM TRONG NƯỚC THEO GIÁ THỰC TẾ PHÂN THEO
KHU VỰC KINH TẾ
Tổng
số
Nông, lâm
nghiệp
Công
nghiệp
Dịch vụ
Năm
và
thuỷ
sản
và
xây
dựng
Tỷ
đồng
ơ cấu
Tỷ
đồng
Cơ
cấu
Tỷ
đồng
Cơ
cấu
Tỷ
đồng
C
ơ cấu
990
419
55
00
16
252
38.
74
95
13
22.
67
161
90
3
8.59
991
767
07
00
31
058
40.
49
18
252
23.
79
273
97
3
5.72
992
110
532
00
37
513
33.
94
30
135
27.
26
428
84
3
8.8
993
140
258
00
41
895
29.
87
40
535
28.
9
578
28
4
1.23
13
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
994
178
550
00
48
968
27.
43
51
540
28.
87
780
26
4
3.7
995
228
892
00
62
219
27.
18
65
820
28.
76
100
853
4
4.06
996
272
036
00
75
514
27.
76
80
876
29.
73
115
646
4
2.51
997
313
623
00
80
826
25.
77
10
0595
32.
08
132
202
4
2.15
998
361
017
00
93
073
25.
78
11
7299
32.
49
150
645
4
1.73
999
399
942
00
10
1723
25.
43
13
7959
34.
49
160
260
4
0.08
000
441
646
00
10
8356
24.
53
16
2220
36.
73
171
070
3
8.74
001
484
493
00
11
4412
23.
62
18
3291
37.
83
186
790
3
8.55
Qua kết quả trên, chúng ta có thể phần nào đánh giá được tốc độ phát triển
kinh tế của Việt Nam trong các khu vực kinh tế cơ bản. Từ năm 1990 đến nay,
tổng sản phẩm trong nước GDP liên tục tăng với tốc độ khá cao, trung bình
khoảng 7%/năm (chỉ số phát triển tổng sản phẩm trong nước được trình bày ở
phần sau).Trong đó, khu vực kinh tế nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản mặc dù
có kết quả tăng tốt nhưng tỷ trọng lại liên tục giảm. Điều này phản ánh bước
chuyển biến đáng mừng trong cơ cấu GDP. Đến năm 2001 tỷ trọng của ngành chỉ
còn khoảng 23,62%, thấp nhất trong cả ba khu vực kinh tế. Trong khi đó tỷ trọng
14
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
của công nghiệp và xây dựng lại liên tục tăng lên và tăng khá nhanh trong những
năm gần đây. Thực tế theo báo cáo đầu năm của chính phủ, trong 6 tháng đầu năm
2003 ngành công nghiệp cũng là ngành có tốc độ tăng trưởng cao nhất, khoảng
15% so với cùng kỳ năm 2002. Trong khoảng 3 năm trở lại đây, khu vực kinh tế
này đang có những dấu hiệu cho thấy sự phát triển mạnh mẽ đặc biệt trong khối
công nghiệp nặng vốn khá nặng nề và chậm chạp. Có thể coi đó là những kết quả
đáng mừng thu được từ hàng loạt chính sách ưu đãi mà Nhà nước dành cho khu
vực này. Cũng theo báo cáo trên thì vài năm trở lại đây đã xuất hiện khá nhiều nhà
đầu tư quan tâm đầu tư và ngành kinh tế quan trọng này.
Trong những năm qua ngành du lịch Việt Nam đã có bước phát triển đáng
kể. Đặc biệt trong năm 2002 du lịch đã có sự tăng trưởng đột biến. Năm 2003 mặc
dù bị ảnh hưởng bởi chiến tranh Irắc và nhất là dịch SARS nhưng ngành du lịch
Việt Nam đã nhanh chóng phục hồi thông qua các hoạt động tuyên truyền quảng
bá hình ảnh đất nước và con người Việt Nam. Kết qảu phân tích cho thấy trong 6
tháng đầu năm ngành du lịch vẫn đạt được những thành công đáng kể đặc biệt là
lượng khách quốc tế không hề giảm, trong khi lượng khách du lịch trong nước lại
tăng lên. Đó là kết quả của chính sách chuyển hướng từ thị trường nước ngoài vào
thị trường trong nước được đưa ra khi dịch SARS bùng nổ. Trong 6 tháng cuối
năm, ViệtNam đang có chủ trương đẩy mạnh phát triển du lịch đặc biệt là thị
trường quốc tế do dịch SARS đã được khống chế hoàn toàn.
Bảng 2:
TỔNG SẢN PHẨM MỘT SỐ NGÀNH KINH TẾ QUAN TRỌNG
Năm
1995
1998
1999
2000
2001
Tống
sản
phẩm
quốc nội
228892
361017
399942
441646
484493
15
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
Nông
nghiệp
52713
76170
83335
87537
91687
Lâm
nghiệp
2842
5304
5737
5913
6080
Thuỷ
sản
6664
11598
12651
14906
16645
Công
nghiệp khai
thác mỏ
11009
24196
33703
42606
44544
Công
nghiệp
chế
biến
34318
61906
70158
81979
95129
Sản
xuất và phân
phối
điện,
khí đốt và
nước
4701
10339
11725
13993
16197
Xây
dựng
15792
20858
21764
23642
27421
Khách
sạn nhà hàng
8625
12404
13412
14343
15808
Vận
tải kho bãi
và thông tin
9117
14076
15546
17341
19431
16
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
liên lạc
Tài
chính
tín
dụng
4604
6274
7488
8148
8847
Khoa
học
công
nghệ
1405
2026
1902
2345
2656
Giáo
dục đào tạo
8293
13202
14004
14841
16489
Y
tế
và hoạt động
cứu trợ xã
hội
3642
4979
5401
5999
6367
Hoạt
động
phục
vụ cá nhân
và
cộng
đồng
4979
8874
9323
9853
10672
Các
ngành khác
60188
88808
93184
98200
106520
Quan sát bảng trên chúng ta có thể thấy các ngành kinh tế quan trọng nhất
đều có sự tăng trưởng liên tục trong những năm qua với tốc độ tương đối cao và
ổn định. Quan trong nhất ở đây là yếu tố ổn định vì chính sự ổn định mới có tác
dụng hạn chế khủng hoảng cũng như các yếu tố bất thường khác có thể ảnh hưởng
đến nền kinh tế. Trong các ngành trên đáng chú ý có ngành giáo dục và các hoạt
17
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
động khoa học công nghệ có mức độ tăng trưởng khá nhanh. Đến năm 2001 hoạt
động giáo dục đào tạo đã đạt 3.4% tổng sản phẩm GDP. Mặc dù tỷ trọng trong
GDP của ngành thực tế không tăng mà còn có xu hướng giảm so với những năm
trước nhưng số tuyệt đối lại liên tục tăng chứng tỏ sự phát trên của ngành. Tuy
nhiên qua đó cũng có thể thấy thực trạng là ngành giáo dục đào tạo cũng như các
hoạt động khoa học công nghệ vẫn chưa được chú ý đầu tư đầu tư đúng mức nên
mặc dù số tuyệt đối tăng nhưng tỷ trọng vẫn giảm tức là mức phát triển chưa
tương xứng với mức tăng trưởng chung của toàn xã hội. Cũng từ bảng 2 người ta
dễ dàng nhận thấy mặc dù không còn giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhưng
ngành nông nghiệp vẫn chiếm tỷ lệ khá cao và nhất là sự phát triển không đồng
đều của các ngành nông, lâm nghiệp và thuỷ sản. Ngành lâm nghiệp vẫn hầu như
không phát triển. Thuỷ sản phát triển chậm và chỉ thực sự phát triển trong khoảng
2-3 năm trở lại đây. Các ngành thuộc lĩnh vực công nghiệp nói chung đều tăng
trưởng khá trừ khai thác mỏ mặc dù vẫn tăng trưởng nhưng dường như đang có
dấu hiệu chững lại. Đây là vấn để các nhà quản lý cần quan tâm. Công nghiệp chế
biến tăng trưởng nhanh cả về số tuyệt đối lẫn tỷ trọng đóng góp vào nền kinh tế.
Đây là tín hiệu đáng mừng cho thấy chúng ta đã đi dần đến sản xuất hàng hoá thay
vì chỉ sản xuất và cung cấp những sản phẩm thô hoặc mới qua sơ chế , bán sơ chế.
Đến năm 2001 tỷ trong của ngành đạt 19,63% tức là cao nhất nền kinh tế. Chỉ số
phát triển của ngành trong năm qua là 111.3% tức là chỉ sau tốc độ phát triển của
công nghiệp nặng 114%.
Xem xét nền kinh tế ngoài chỉ số GDP còn có chỉ số GNP (Gross National
Product- tổng sản phẩm quốc gia). Cùng với sự tăng trưởng của GDP thì chỉ số
GNP cũng tăng lên tương ứng. Hơn thế nữa tỷ lệ GNP so với GDP tăng lên liên
tục trong những năm qua cho thấy xu hướng mới xuất khẩu tư bản ra nước ngoài
đã bắt đầu xuất hiện trong nền kinh tế Việt Nam nhằm tận dụng các điều kiện
thuận lợi cũng như các ưu đãi khi đầu tư ở nước ngoài để từng bước đưa hàng hoá
mang thương hiệu Việt Nam tiến ra thị trường thế giới.
18
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
Bảng 3:
TỔNG SẢN PHẨM QUỐC GIA
Năm
Tổng sản phẩm
quốc gia GNP (tỷ
đồng)
Tổng sản phẩm
quốc nội GDP (tỷ
đồng)
Tỷ lệ GNP
so với GDP (%)
1990
39284
41955
93.6
1997
307875
313623
98.2
1998
354368
361016
98.2
1999
394614
399942
98.7
2000
436922
441646
98.9
Tiếp theo chúng ta sẽ xem xét cơ cấu tổng sản phẩm quốc nội GDP theo
thành phần kinh tế. Chúng ta cũng xem xét và phân tích cơ cấu vốn sản xuất theo
thành phần kinh tế trong quan hệ với tổng giá trị sản phẩm của ngành công nghiệp
để qua đó đánh giá toàn bộ nền kinh tế nước ta. Theo nghị quyết Đại hội Đảng IX
nền kinh tế nước ta bao gồm 6 thành phần kinh tế:
1.
Thành phần kinh tế Nhà nước.
2.
Thành phần kinh tế tập thể
3.
Thành phần kinh tế tư nhân
4.
Thành phần kinh tế cá thể
5.
Thành phần kinh tế hỗn hợp
6.
Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
Trong 6 thành phần kinh tế trên thì kinh tế Nhà nước được xem là thành
phần kinh tế đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân nắm giữ các ngành
19
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
sản xuất quan trọng nhất, đảm bảo cung cấp các sản phẩm công cộng và những sản
phẩm thuộc các lĩnh vực quốc kế dân sinh. Nó tạo cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế
hàng hoá hỗ trợ cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác phát triển
theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài được đặc biệt coi trọng, khuyến khích, thành phần kinh tế cá thể cần được
đẩy mạnh và tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát triển đồng thời cần tăng cường
công tác quản lý để xây dựng nền nếp. Thành phần kinh tế tư nhân cũng cần được
đẩy mạnh và coi trọng để phát huy hết những tiềm lực đưa vào phát triển kinh tế.
Cả 6 thành phần kinh tế này cùng thống nhất và phát triển trong nền kinh tế mặc
dù giữa chúng vẫn tồn tại khá nhiều mâu thuẫn thậm chí không thể dung hoà được.
Bảng 4:
TỔNG SẢN PHẨM TRONG NƯỚC PHÂN THEO THÀNH PHẦN
KINH TẾ
Năm
1995
998
999
000
001
ỷ đồng ơ cấu
ỷ đồng ơ cấu
ỷ đồng ơ cấu
ỷ đồng ơ cấu
ỷ đồng ơ cấu
Tổng số
28892
00.00
61017
00.00
99942
00.00
41646
00.00
84493
00.00
Kinh
tế
Nhà nước
1977
0.18
44407
0.00
54927
8.74
70141
8.52
86958
8.59
Kinh
tế
tập thể
3020
0.06
2131
.90
5347
.84
7907
.58
9763
.21
Kinh tế t-
ư nhân
139
.12
2351
.41
3461
.37
4943
.38
8256
.77
20
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
Kinh
tế
cá thể
2447
6.02
22112
3.83
31706
2.92
42705
2.31
55655
1.13
Kinh
tế
hỗn hợp
881
.32
3802
.83
5543
.89
7324
.92
0337
.20
Kinh
tế
có vốn đầu tư n-
ước ngoài
4428
.30
6214
0.03
8958
2.24
8626
3.27
3524
3.11
So sánh năm 1995 và năm 2001 chúng ta thấy có nhiều sự khác biệt trong
cơ cấu tổng sản phẩm trong nước nếu phân theo thành phần kinh tế. Tuy nhiên
tính cho đến thời điểm năm 2001 thì hai thành phần kinh tế Nhà nước và kinh tế cá
thể vẫn chiếm tới 70% tổng sản phẩm quốc dân. Thành phần kinh tế tư nhân và
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài vẫn chỉ đạt khoảng 17% cơ cấu sản phẩm trong
nước. Mặc dù vậy so với thời điểm năm 1995, hai thành phần này chỉ chiếm chưa
đầy 10% thì đã có sự phát triển lớn đặc biệt là sự tăng trưởng của khu vực kinh tế
có vốn đầu tư nước ngoài. Tính ra trong vòng 6 năm tổng sản phẩm của khu vực
kinh tế này đã tăng 440% tức là tăng 4.4 lần. Cơ cấu trong GDP cũng tăng gấp đôi.
Đó là những hiệu quả dễ thấy của chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài.
Mặc dù vẫn còn khá nhiều bất cập và cũng chưa thực sự thông thoáng khi so sánh
với các nước Đông Nam á khác nhưng nói chung đã được cải thiện rất nhiều.
Trong giai đoạn 1998- 2001 đã có 3672 dự án được cấp giấy phép đầu tư với tổng
vốn đăng ký là 41603.8 triệu USD trong đó vốn pháp định là 19617.8 triệu USD,
trong đó lĩnh vực công nghiệp đã có tới hơn 2000 dự án với tổng vốn gần 2 tỷ
USD.Trong những năm qua số dự án được cấp phép liên tục tăng với tốc độ khá
cao. Năm 1996 được coi là năm có tổng vốn đầu tư nước ngoài lớn nhất với số vốn
đăng ký là 8497.3 triệu USD trong đó 2940.8 triệu USD là số vốn pháp định.
Trong những năm gần đây do ảnh hưởng của cơn bão khủng hoảng tài chính châu
á và khủng hoảng kinh tế chung toàn cầu, năm 2003 lại bị ảnh hưởng bởi dịch
21
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
SARS nên số dự án lớn đầu tư vào Việt Nam giảm đi nhưng bù lại số dự án nhỏ và
vừa lại tăng lên. Có một điều đáng chú ý là hiện nay khu vực kinh tế Nhà nước
vẫn giữ được vị trí chủ đạo trong nền kinh tế với tốc độ tăng trưởng khá mặc dù tỷ
trong trong tổng sản phẩm quốc nội giảm đi liên tục trong các năm 1995 đến 2000.
Chỉ đến năm 2001 chỉ số này mới bắt đầu tăng lên. Như vậy khu vực kinh tế này
đã không đạt được tốc độ tăng tương ứng với sự tăng trưởng của các ngành kinh tế
khác do đó để thành phần kinh tế Nhà nước có thể thực sự trở thành thành phần
kinh tế đóng vai trò chủ đạo và định hướng cho nền kinh tế thì chúng ta cần có
những biện pháp chính sách hiệu quả hơn để đẩy nhanh tốc độ phát triển. Giải
pháp đưa ra có thể là sắp xếp lại các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả, thua lỗ
lâu dài, các doanh nghiệp Nhà nước cần được chủ động hơn trong hoạt động kinh
doanh và tự chịu trách nhiệm về số vốn sở hữu. Các doanh nghiệp lớn đặc biệt là
các tổng công ty lớn cần được xem xét cải tiến cho phù hợp hơn với nền kinh tế thị
trường đặc biệt là chấm dứt sự độc quyền trong một số lĩnh vực để nâng cao tính
cạnh tranh giữa các doanh nghiệp qua đó nâng cao chất lượng sản phẩm. Việc
quốc hội nhanh chóng thông qua Luật phá sản doanh nghiệp sẽ tạo điều kiện để
tiến hành giải thể hoặc sát nhập các doanh nghiệp quốc doanh kém hiệu quả. Cũng
có thể cho phép các thành phần kinh tế khác thuê lại hoặc mua lại các cơ sở sản
xuất kinh doanh trên. Một cuộc khảo sát gần đây đã chứng tỏ đây là một hướng đi
đúng để giảm nhẹ gánh nặng cho ngân sách Nhà nước đồng thời các doanh nghiệp
mới hoạt động hiệu quả hơn hẳn so với trước đây. Cần chú ý là khu vực kinh tế tập
thể. Hai năm sau khi Luật hợp tác xã ra đời và đi vào thực hiện chúng ta mới
chuyển đổi được 300 trong tổng số khoảng 1200 hợp tác xã hoạt động kém hiệu
quả cần được chuyển đổi. Khi được chuyển đổi sang hợp tác xã nông nghiệp và
dịch vụ nông nghiệp các hợp tác xã kiểu mới này sẽ đóng vai trò trung gian giữa
nhà nông với thị trường tạo điều kiện ứng dụng khoa học vào nông nghiệp đưa
nông nghiệp phát triển thành ngành sản xuất hàng hoá theo nhu cầu thị trường. Có
như vậy bộ mặt nông thôn Việt Nam mới được cải thiện, đời sống người nông dân
mới được nâng cao nhờ chính mảnh ruộng của mình.
22
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
23
Tiếp theo chúng ta sẽ phân tích cơ cấu vốn trong ngành công nghiệp trong
mối quan hệ với kết quả sản xuất để đánh giá nền kinh tế nước ta. Công nghiệp là
ngành kinh tế phản ánh rõ nét nhất nền kinh tế nước ta do có sự tham gia của tất cả
các thành phần kinh tế và nhất là chúng ta đang muốn xây dựng nước ta trở thành
nước công nghiệp vào năm 2020. Chính vì vậy khi xem xét ngành công nghiệp
chúng ta có thể đánh giá được cả nền kinh tế nước ta. Như đã nói ở trên trong
ngành công nghiệp có sự tham gia của tất cả các thành phần kinh tế. Trong những
năm qua chúng ta đã được chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của khu vực kinh tế
này đặc biệt là khoảng năm năm trở lại đây. Do số liệu chưa được thống kê đầy đủ
chúng ta chỉ xem xét trong ba năm là 1998, 1999 và năm 2000. Nhờ những chính
sách mới thuận lợi, khu vực kinh tế quan trọng này đã có sự phát triển đặc biệt. Số
liệu được trình bày trong bảng 5 và bảng 6 dưới đây.
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
Bảng 5:
VỐN SẢN XUẤT CÔNG NGHIỆP PHÂN THEO THÀNH PHẦN KINH TẾ
Năm
1998
1999
2000
Tỷ đồng
Cơ cấu
u
Tỷ đồng
Cơ cấ
Tỷ đồng
Cơ cấu
TỔNG SỐ
253560.4
100.00
297547.1
100.00
362372.0
100.00
Khu vực kinh tế trong nư-
ớc
138143.5
54.50
163492.7
55.10
2000724.7
55.40
Doanh nghiệp Nhà nước
115771.7
45.70
129846.4
43.70
151427.4
41.80
Trung ương
91553.5
36.10
101097.8
34.00
118792.0
32.80
Địa phương
24218.2
9.60
28766.6
9.70
32635.4
9.00
Ngoài quốc doanh
22371.8
8.80
34078.3
11.50
49297.3
13.60
Tập thể
783.3
0.30
994.1
0.40
1271.5
0.40
24