10195_KLTNĐH – Điều kiện để đồng tiền Việt Nam thành đồng tiền chuyển đổi

luận văn tốt nghiệp

LUẬN VĂN:

Điều kiện và lộ trình để đồng tiền Việt
Nam trở thành đồng tiền chuyển đổi

Lời mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong những năm qua, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã đạt được nhiều thành
tựu to lớn trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước. Trong đó phải kể đến
đóng góp của những chính sách vĩ mô đúng đắn, như mở cửa, đổi mới, chuyển đổi cơ
cấu ngành kinh tế… Việc thực hiện thành công những chính sách được đưa ra đã đẩy
nhanh tốc độ phát triển kinh tế- xã hội và quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới của
nước ta. Tuy nhiên, để chúng ta có thể đặt chân lên bậc thang cuối cùng của sự hội nhập
toàn diện vào nền kinh tế thế giới thì vấn đề cần đặt ra là phải thiết lập cơ chế chuyển
đổi cho VND.

Vậy thực chất “chuyển đổi VND” là gì? Tại sao nó lại được các nhà hoạch định
chính sách quan tâm tìm hiểu, bàn bạc? Và làm thế nào để có thể “ chuyển đổi đồng
Việt Nam” thành côn và thực sự đưa nền kinh tế Việt Nam hội nhập, sánh vai cùng các
cường quốc kinh tế?.. Các nhà chính sách, các chuyên gia về tài chính- tiền tệ, các giảng
viên… đã đưa ra nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí trái ngược nhau về những vấn đề
phức tạp này. Song một lộ trình hợp lý cho chuyển đổi VND vẫn là điều chúng ta đang
nghiên cứu và chưa có câu trả lời chính xác.

Chính vì vậy, việc nghiên cứu đề tài “Điều kiện và lộ trình để đồng tiền Việt
Nam trở thành đồng tiền chuyển đổi” mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn trong tình
hình hiện nay.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài

Mục đích của đề tài là nhằm áp dụng những kiến thức và cách nhìn nhận tác giả
để tiếp cận có hệ thống và khoa học những vấn đề lý luận chung về chuyển đổi tiền tệ
và đưa ra những phân tích, đánh giá đồng thời đề xuất lộ trình “ chuyển đổi đồng Việt
Nam” trong tương lai.
3 Pham vi nghiên cứu của đề tài

Về lý luận, đề tài cố gắng tập trung những quan điểm lý luận chủ yếu xung quanh
vấn đề thiết lập cơ chế đồng tiền chuyển đổi từ trước đến nay để đưa ra một cái nhìn bao
quát về vấn đề này, đặc biệt là phân tích, đánh giá về những ảnh hưởng của chuyển đổi

tiền tệ trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ từ giữa năm năm 80
của thế kỷ 20.

Về kinh nghiệm quốc tế, đề tài chỉ giới hạn nghiên cứu thực tiễn về nững chuyển
đổi tiền tệ của các nước đang phát triển có nhiều nét tương đồng với Việt Nam, như:
Maylaysia, Ấn Độ và Argentina.

Về thực tiễn Việt Nam, đề tài chỉ nghiên cứu trong phạm vi thời gian từ năm
1986 đến nay, tập trung đánh giá những thành công và hạn chế của những cải cách liên
quan đến chuyển đổi tiền tệ, từ đó đưa ra một số giải pháp và chính sách để thiết lập cơ
chế chuyển đổi cho đồng VND trong tương lai.

4. Về phương pháp nghiên cứu

Đề tài vận dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ
nghĩa Mác-Lênin, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng kết hợp với các phương
pháp so sánh, phân tích, tổng hợp, mô hình hoá… dựa trên nguyên tắc kế thừa các kết
quả nghiên cứu một cách có chọn lọc gắn liền với thực tiễn Việt Nam.
5. Kết cấu đề tài

Để đạt được mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, ngoài phần mở đầu, kết luận và
tài liệu tham khảo, đề tài kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về tính chuyển đổi của một đồng tiền.
Chương 2: Những kinh nghiệm về thiết lập cơ chế đồng tiền chuyển đổi ở một
số nước đang phát triển.
Chương 3: Một số định hướng và giải pháp nhằm thiết lập cơ chế chuyển đổi
cho đồng Việt Nam

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÍNH CHUYỂN ĐỔI
CỦA MỘT ĐỒNG TIỀN

1.1 KHÁI NIỆM VỀ ĐỒNG TIỀN
1.1.1/Khái niệm về đồng tiền
Do từ “tiền” (money) được dùng một cách tự nhiên trong các cuộc nói chuyện
hàng ngày, nó có thể có nhiều nghĩa, nhưng đối với nhà kinh tế, nó có một nghĩa riêng.
Đầu tiên, cần thấy rằng Tiền là vật ngang giá chung được chấp nhận trong thanh toán.
Như vậy, nếu mọi người cùng chấp nhận lá cây hay thậm chí là cát thì đương nhiên
những vật ấy cuũng được gọi là tiền. Các nhà kinh tế cũng xuất phát từ quan điểm trên
và đưa ra định nghĩa: “tiền” được coi là bất cứ cái gì được chấp nhận chung cho việc
thanh toán hàng hóa, dịch vụ hoặc trả các món nợ. Đồng tiền (currency) là những tờ
VNĐ giấy hay tiền kim loại, rõ ràng là phù hợp với định nghĩa vừa nêu trên của một
kiểu tiền.

Ban đầu, tiền chỉ là những vật ngẫu nhiên được chọn làm trung gian trong thanh
toán, trao đổi như vỏ sò, đồng, nhôm,…Nhưng dần dần, vai trò đó được cố định ở vàng
và bạc bởi vì chúng đáp ứng được nhiều nhất những gì mà một đồng tiền hàng hóa
(commodity) cần có.

Theo thời gian, nền sản xuất xã hội càng ngày càng phát triển, thúc đẩy sự gia
tăng không ngừng của nhu cầu tiền tệ phục vụ lưu thông hàng hóa. Đồng thời, kim loại
quý được sử dụng trong các ngành công nghiệp và trang sức cũng ngày càng nhiều hơn.
Trong khi lượng kim quý khai thác được ngày càng khan hiếm. Mâu thuẫn này đã dẫn
tới sự sụp đổ của chế độ tiền kim quý. Thay vào đó, người ta phát hành tiền trên cơ sở
một hàm lượng vàng nhất định làm bảo đảm. Bắt đầu từ đây, khái niệm đồng tiền
chuyển đổi đã bắt đầu xuất hiện.

1.1.2/Sự chuyển đổi của đồng tiền
Ban đầu, trong chế độ bản vị vàng, tính chất chuyển đổi của một đồng tiền được
hiểu là khả năng chuyển đổi tự do ra vàng theo một tỷ giá do Nhà nước ấn định. Cơ chế
chuyển đổi tiền tệ trong thời kỳ này yêu cầu một dự trữ vàng rất lớn mới có thể đáp ứng
được nhu cầu của dân chúng

Tuy nhiên, có thể thấy chế độ bản vị vàng tồn tại rất nhiều hạn chế. Vì vậy, đến
năm 1933, hệ thống bản vị vàng chính thức sụp đổ, chỉ còn lại một số ít các quốc gia có
dự trữ vàng mạnh như Anh, Mỹ…là còn cho phép đồng tiền của mình chuyển đổi ra
vàng, còn đa số các quốc gia khác đều từ chối mua bán nội tệ đổi lấy vàng. Trong giai
đoạn này, khái niệm chuyển đổi tiền tệ được hiểu theo hai nghĩa: Theo nghĩa rộng, đó là
khả năng đồng tiền được chuyển đổi tự do ra vàng (thuộc nhóm này là những đồng tiền
mạnh, của các quốc gia có dự trữ vàng lớn thời bấy giờ như: GBP, USD, DEMAC…).
Theo nghĩa hẹp, đó là khả năng đồng tiền được chuyển đổi tự do ra các ngoại tệ khác
phục vụ cho các giao dịch thương mại và đầu tư quốc tế ( thuộc nhóm này là đồng tiền
của các nước có tỷ trọng lớn trong thương mại quốc tế thời bấy giờ, như: Hà Lan, Đan
Mạch,…) Trên thực tế, các đồng tiền khác tuy có quy định nội dung vàng, nhưng do dự
trữ vàng của các nước không đủ để đảm bảo cho việc chuyển đổi, nên chỉ có khả năng
chuyển đổi ra ngoại tệ khác.
Vào những năm 1940, xuất hiện một động cơ tạo ra một trật tự tiền tệ quốc tế
mới để tránh sự tan rã của các mối quan hệ tiền tệ trên phạm vi quốc tế như đã từng xuất
hiện vào những năm 1930. Năm 1944, trong một bản báo cáo có sức thuyết phục trước
liên đoàn các dân tộc (League ò nations), Râgnr Nurkse lý luận rằng chế độ tỷ giá thả
nổi gây ra nhiều bất lợi và thực sự không hiệu quả. Tháng 3 năm 1947, hệ thống tỷ giá
cố định Bretton Woods được chính thức đưa vào vận hành. Lúc này, sự phân biệt khái
niệm về tính chất chuyển đổi của một đồng tiền thành hai cấp độ như trên vẫn còn tồn
tại nhưng việc hiểu nó theo nghĩa hẹp (khả năng chuyển đổi lẫn nhau giữa các đồng
tiền) ngày càng phổ biến hơn.

Chế độ tỷ giá cố định Bretton Woods (BWS) cũng không tồn tại được lâu. Do
vấn đề thanh khoản, quy luật Gresham, sự thiếu vắng một cơ chế điều chỉnh và vấn đề
đặc quyền phát hành USD, đến năm 1971, BWS hoàn toàn sụp đổ. Khi đó, vàng không
còn làm vật ngang giá chung để đo lường giá trị các đồng tiền, khái niệm đồng tiền
chuyển đổi cũng được thống nhất lại theo một quan niệm phổ biến: Một đồng tiền được
coi là có khả năng chuyển đổi khi mà bất cứ ai có đồng tiền đó đều có quyền tự do
chuyển đổi sang một đồng tiền khác; đúng hơn là một trong số những đồng tiền dự trữ
quốc tế chủ yếu, như: USD, GBP….theo tỷ giá thị trường.

Nói như cách của giáo sư McKinnon (Đại học tổng hợp Stanford) thì “ đồng tiền
của một nước được coi là đồng tiền chuyển đổi nếu công dân của nước đó, khi có nhu
cầu mua hàng hóa, dịch vụ của nước ngoài, có thể bán nội tệ để lấy ngoại tệ trên thị
trường theo tỷ giá thống nhất, có thể dao động, được áp dụng cho tất cả các hợp đồng
hiện hành, bao gồm cả tín dụng thương mại thông thường; đồng thời người không cư trú
có tài sản bằng nội tệ thu được từ các hoạt động vãng lai có thể bán chúng cũng theo tỷ
giá thống nhất trên thị trường, hoặc tự do mua hàng hóa các nước sở tại theo giá cả phổ
biến bằng đồng nội tệ đó”.
Tuy nhiên hiện nay, để một đồng tiền được thừa nhận là đồng tiền chuyển đổi thì
theo Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), quốc gia thành viên có đồn tiền đó phải chấp nhận diều
VIII bản điều lệ IMF. Không một quốc gia thành viên nào được phép có những hạn chế
về thực hiện các khoản thanh toán và chuyển tiền trên tài khoản vãng lai mà chưa được
sự phê chuẩn của IMF.
Khi nói đến khả năng chuyển đổi tự do của một đồng tiền là nói tới khả năng
đồng tiền đó được chuyển sang đồng tiền khác, đúng hơn là sang một ngoại tệ mạnh có
khả năng chuyển đổi tự do. Như vậy, một đồng tiền của một quốc gia nào đó được xem
là tự do chuyển đổi khi đồng tiền đó được chuyển đổi tự do ngay ở trong nước và cả khi
ra khỏi biên giới quốc gia theo tỷ giá hối đoái thị trường sang những ngoại tệ tự do
(ngoại tệ mạnh, mang đầy đủ chức năng thanh toán và dự trữ quốc tế…), như USD,
GBP, EUR, JPY, …

1.2 CÁC HÌNH THÁI CHUYỂN ĐỔI TIỀN TỆ

Mức độ cao nhất của một đồng tiền chuyển đổi là chuyển đổi toàn phần. Ở mức
độ này, đồng nội tệ được chấp nhận chuyển đổi sang ngoại tệ vào bất cứ lúc nào, trong
tất cả các lĩnh vực kinh tế đối ngoại, với tất cả các pháp nhân, thể nhân là người cư trú
và người không cư trú và có giá trị khắp mọi nơi trên thế giới. Đây là trạng thái lý tưởng
của một đồng tiền chuyển đổi, tạo điều kiện thúc đẩy sự tăng trưởng, phát triển kinh tế –
xã hội. Song chuyển đổi toàn phần chỉ đạt được đối với một số rất ít các đồng tiền thực
sự mạnh, gắn liền với các quốc gia có tiềm lực kinh tế và trao đổi thường mại hàng đầu
thế giới như Mỹ, Anh, Nhật, Đức, Pháp và tín chung cho cả Cộng đồng Châu Âu.

Đối với đa số các đồng tiền chuyển đổi khác, tuy ở những phạm vi và mức độ
khác nhau, song hầu hết chúng mới chỉ đạt được trạng thái chuyển đổi từng phần. Ở
mức độ này đồng tiền của một quốc gia chỉ có thể đổi ra một đồng tiền khác đối với một
đối tượng nhất định, để phục vụ cho những mục tiêu nhất định (thanh toán các giao dịch
vãng lai, các luồng chu chuyển vốn,…).

Cần lưu ý rằng, đối với chuyển đổi từng phần, người ta thường xem xét các hình
thức chuyển đổi của nó. Đó là: chuyển đổi tài khoản vãng lai, chuyển đổi tài khoản vốn
và chuyển đổi đối nội. Trong đó, tự do chuyển đổi tiền tệ để thực hiện các giao dịch
thanh toán thuộc tài khoản vãng lai la yêu cầu tối thiểu mà IMF buộc các thành viên
phải chấp nhận khi muốn đồng tiền của mình trở thành đồng tiền chuyển đổi.

1.2.1 Chuyển đổi tài khoản vãng lai
Tài khoản vãng lai, cùng với tài khoản vốn là một trong hai bộ phận chủ yếu của
cán cân thanh toán quốc tế (BP), bao gồm: cán cân thương mại, cán cân dịch vụ, cán cân
thu nhập, cán cân chuyển giao vãng lai một chiều. Qua đó các dịch vụ kinh tế giữa
người cư trú và không cư trú được ghi chép trên các lĩnh vực:
– Xuất nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ
– Thu và chi các khoản thu nhập từ cổ tức, trái tức, lợi nhuận góp vốn, tiền lãi
ngân hàng…
– Thu và chi các khoản chuyển giao vãng lai một chiều như nhận kiều hối, gửi
ngoại tệ cho nhân thân ở nước ngoài…

Trong đó các giao dịch về xuất nhập khẩu được ghi chép trên cán cân thương mại
là bộ phận quan trọng nhất trên tài khoản vãng lai.

Từ đó có thể thấy chuyển đổi tài khoản vãng lai có ý nghĩa là không có bất cứ
một hạn chế nào trong việc thanh toán, kể cả hạn chế về chuyển đổi tiền tệ cũng như các
hạn chế về thanh toán, đối với các giao dịch và chuyển giao đơn phương thuộc tài khoản
vãng lai. Đây là mức độ chuyển đổi phổ biến nhất, khi khả năng chuyển đổi từ nội tệ
sang ngoại tệ chỉ được phép đối với các hoạt động vãng lai, mà không được phép đối
với các giao dịch vốn đầu tư nước ngoài và các luân chuyển vốn quốc tế khác.

Tại sao IMF lại coi đây là mức độ tối thiểu bắt buộc mà các quốc gia thành viên
phải tuân thủ nếu muốn đồng tiền của mình trở thành đồng tiền chuyển đổi? Bởi vì khả
năng chuyển đổi của đồng tiền phải xuất phát từ nền tảng tự do hóa kinh tế nói chung,

tự do hóa mậu dịch (xuất, nhập khẩu) nói riêng, từ đó thúc đẩy quá trình tự do hóa kinh
tế, tạo ra môi trường cạnh tranh cần thiết cho các chủ thể sản xuất kinh doanh, đầu tư ở
trong nước. Đồng thời đưa thị trường trong nước tiếp cận, hội nhập với thị trường quốc
tế theo những thông lệ quốc tế hoặc khu vực khối kinh tế.
1.2.2 Chuyển đổi tài khoản vốn
Như đã đề cập ở trên, tài khoản vốn cũng là một bộ phận quan trọng của cán cân
thanh toán quốc tế (BP). Tuỳ mục đích nghiên cứu, tài khoản vốn có thể được phân tích
thành các hạng mục khác nhau như:
– Vốn đầu tư trực tiếp
– Vốn đầu tư gián tiếp
– Chuyển giao vốn một chiều
Hoặc:
– Vốn ngắn hạn
– Vốn trung dài hạn
– Chuyển giao vốn một chiều
Như vậy tài khoản vốn ghi chép tất cả các giao dịch liên quan đến luồn chu
chuyển vốn vào và ra của một quốc gia. Các giao dịch này trực tiếp làm thay đổi quy
mô tài sản nợ và tài sản có của quốc gia đối với phần còn lại của thế giới. Trong đó
luồng vốn chảy vào bao gồm cả phần vốn mới nhận đầu tư và các khoản thu hồi vốn gốc
đã đầu tư trước đây. Ngược lại luồng vốn chảy ra bao gồm phần vốn mới đầu tư ra nước
ngoài và các khoản hoàn trả vốn gốc đầu tư cho người không cư trú. Cần lưu ý rằng thu
nhập chi trả lãi từ hoạt động đầu tư (kể cả đầu tư trực tiếp và gián tiếp) được hạch toán
vào tài khoản vãng lai chứ không phải vào tài khoản vốn. Do đó chuyển đổi tài khoản
vốn có nghĩa là không có bất cứ một hạn chế nào, cả phạm vi và mức độ, trong việc
chuyển đổi đồng tiền phục vụ cho các giao dịch vốn giữa người cư trú và người không
cư trú.
Xu thế quốc tế hóa thị trường không chỉ diễn ra ở mậu dịch thế giới mà ở cả
lĩnh vực thị trường vốn. Ngày nay tổng kim ngạch mậu dịch thế giới hàng năm khoảng
3000 tỷ USD thì khối lượng giao dịch vốn trên thế giới vào khoảng 1000 tỷ USD và
khối lượng di chuyển vốn giữa các quốc gia đương nhiên là rất lớn.

Với đồng tiền chuyển đổi ở những nước công nghiệp phát triển, đặc trưng này
thể hiện rõ nét ở cả hai chiều. Thứ nhất chiều di chuyển vốn ra nước ngoài thể hiện chủ
yếu qua kênh xuất khẩu tư bản bằng các hình thức đầu tư ở nước ngoài. Thứ hai chiều di
chuyển vốn vào trong nước chủ yếu qua kênh các nước khác đầu tư, mua chứng khoán ở
nước đó. Ví dụ như trong 8 năm kể từ năm 1985 đến năm 1992, các loại trái phiếu của
Nhật phát hành đã thu hút tới 16.250 tỷ Yên từ nước ngoài, chiếm 56,3% tổng khối
lượng trái phiếu được phát hành.
Ở những nước đang phát triển và nhất là các nước chậm phát triển, xu hướng di
chuyển vốn chủ yếu diễn ra ở chiều từ nước ngoài qua các hình thức đầu tư, còn di
chuyển ra là rất ít. Ví dụ như tính đến năm 2000, Việt Nam mới chỉ có 18 dự án đầu tư
đối với Nga, Lào và Singapore.

1.2.3 Chuyển đổi đối nội
Thông thường người ta quan niệm rằng chuyển đổi đối ngoại hay tính chất
chuyển đổi quốc tế (international hay etrnal convertibility) chính là chuyển đổi toàn
phần. Có quan niệm đó là do khi đã thiết lập được cơ chế chuyển đổi đối ngoại đồng
bản tệ ở trình độ cao, các quốc gia thường đồng thời cam kết chuyển đổi toàn phần hay
hoàn toàn đồng bản tệ. Tuy nhiên hai khái niệm chuyển đổi hoàn phần và chuyển đổi
đối ngoại không thể được coi là trùng khít với nhau vì được coi là chuyển đổi toàn phần,
ngoài hai hình thức chuyển đổi tài khoản vãng lai và chuyển đổi tài khoản vốn, đồng
tiền phải đảm bảo tính chất chuyển đổi đối nội.
Cũng tương tự như chuyển đổi tài khoản vãng lai và chuyển đổi tài khoản vốn,
chuyển đổi đối nội là khái niệm phản ánh một giới hạn nhất định trong khả năng chuyển
đổi của đồng bản tệ. Tuy nhiên khác với hai hình thức trên giới hạn chuyển đổi đối nội
không dựa trên bản chất, nội dung của hoạt động kinh tế mà căn cứ vào phạm vi, chủ
thể tham gia trong các hoạt động đó để xác định. Theo đó chuyển đổi đối nội là giới hạn
cho phép tất cả các pháp nhân, thể nhân là ngươi cư trú được quyền mua, nắm giữ, sử
dụng các loại ngoại hối không hạn chế phạm vi trong lãnh thổ biên giới quốc gia, tuy
nhiên không được chuyển chúng ra nước ngoài dưói bất kỳ hình thức nào.
Như vậy có thể thấy rằng trong chuyển đổi đối nội, phạm vi ứng dụng là tất cả
các giao dịch kinh tế nhưng chỉ diễn ra trong nội bộ quốc gia, bị hạn chế bởi chủ thể
tham gia là người cư trú và ranh giới địa lý hành chính của quốc gia đó. Có nghĩa là

Nhà nước cho phép những người cư trú được tự do nắm giữ một số tài sản bằng ngoại
tệ, mở tài khoản tiền gửi ngoại tệ tại ngân hàng, và như vậy là được quyền đổi đồng tiền
trong nước ra các tài sản bằng ngoại tệ. Tuy nhiên quyền tự do được giữ ngoại tệ không
có nghĩa là được phép tiến hành thanh toán với nước ngoài hoặc được giữ tài sản ở nước
ngoài.
1.3. NHỮNG ĐIỀU KIỆN CẦN THIẾT ĐỂ THIẾT LẬP CƠ CHẾ ĐỒNG
TIỀN CHUYỂN ĐỔI.

Đồng tiền chuyển đổi bao hàm trong nó cả những cơ hội và những thách thức to
lớn đối với sự ổn định và phát triển của bất kỳ một nền kinh tế nào dù đã phát triển hay
chỉ mới bắt đầu cải cách. Vì vậy những điều kiện được trình bày sau đây là tiền đề cần
thiết để một quốc gia có thể thực hiện chuyển đổi tiền tệ thành công, khai thác tốt những
lợi ích đồng thời hạn chế tối đa những ảnh hưởng tiêu cực do quá trình này đưa lại.
Những điều kiện này có thể được chia thành ba nhóm lớn là: (i) sự ổn định của nền kinh
tế vi mô, (ii) giá cả và các công cụ chính sách phù hợp với cơ chế thị trường và hệ thống
tài chính lành mạnh với những quy định thận trọng.

1.3.1 Sự ổn định của nền kinh tế vĩ mô.
Dưới sự tác động của sự biến đổi tỷ giá linh hoạt, sự độc lập và hiệu quả của
chính sách tiền tệ trong nước với một tài khoản vốn mở chỉ có thể được duy trì nếu như
các chính sách đó phù hợp với xu thế chung. Cũng như mọi chính sách đối nội khác,
trong nền kinh tế thế giới hiện nay, chính sách tiền tệ mang tính cạnh tranh cao, do đó
đã tạo nên một xu thế trong đó các nguồn lực sẽ dồn về những khu vực mà ở đó sự quản
lý tiền tệ là tốt nhất.
Môi trường kinh tế vĩ mô ổn định có thể giảm thiểu rủi ro của nền kinh tế, thu
hút nhiều nguồn vốn đầu tư vào trong nước hơn là đầu tư ra nước ngoài mà không cần
dùng đến sự đền bù bằng tỷ lệ lãi suất cao không tưởng.
Những biểu hiện quan trọng của một nền kinh tế vĩ mô ổn định có thể được tóm
lại như sau:
1. 3.1.1 Tỷ lệ lạm phát hợp lý
Một vấn đề đặt ra là tỷ lệ lạm phát như thế nào thì được coi là hợp lý khi mà ở
các nước phát triển, tỷ lệ này chỉ nên ở mức 3% – 5% còn ở các nước đang phát triển lại
có thể chấp nhận ở mức 9% – 10%.

Thông thường tỷ lệ lạm phát của một quốc gia phải phù hợp với các đối tác
thương mại của quốc gia đó. Có một kinh nghiệm đã được các quốc gia đúc rút qua
nhiều thập kỷ, đó là hai mục tiêu ổn định tương đối tỷ giá hối đoái và thiết lập cơ chế
đồng tiền chuyển đổi không thể tồn tại song song trong một môi trường kinh tế có lạm
phát cao. Nếu mặt bằng giá cả ở một quốc gia tăng nhanh hơn so với các bạn hàng của
nó thì sẽ không thể duy trì được trạng thái cân bằng của cán cân thanh toán mà không sử
dụng những hạn chế về nhập khẩu hay thanh toán hoặc phá giá. Nói cách khác là nếu
nền kinh tế có lạm phát cao thì quốc gia đó phải từ bỏ việc thiết lập đồng tiền chuyển
đổi hoặc sự ổn định danh nghĩa của đồng bản tệ.
1.3.1.2 Cải cách về tài khóa
Liên quan chặt chẽ với sự cần thiết phải có mức lạm phát hợp lý là nhu cầu về cải
cách tài khoá bằng cách giảm thâm hụt ngân sách Nhà nước và tài trợ cho những thâm
hụt này bằng con đường phi lạm phát.
Thâm hụt tài khóa lớn được tài trợ bởi phát hành tiền sẽ khuyến khích người cư
trú chuyển tiền ra nước ngoài để tránh khoản “thuế” do lạm phát đánh vào những số dư
tiền thực tế (còn gọi là thuế lạm phát). Để thiết lập lòng tin vào sự duy trì liên tục của
cải cách tài khóa và chuyển đổi tài khoản vốn, điều cần phải làm trước tiên là thực hiện
một cải cách tài khóa thực sự với mục đích cuối cùng là ổn định giá cả và tăng trưởng
kinh tế. Cần lưu ý rằng, cùng với cải cách tài khóa , các quốc gia cần nên đánh thuế cao
làm nảy sinh động lực khiến nguồn vốn chảy ra nước ngoài nhiều hơn.
1.3.1.3 Dự trữ quốc tế đủ lớn
Dự trữ quốc tế của một quốc gia bao gồm quỹ dự trữ ngoại hối hiện có (như các
ngoại tệ chuyển đổi tự do, vàng, các chứng khoán ghi bằng ngoại tệ) và khả năng tiếp
cận với các nguồn tài chính quốc tế như vay nợ, nhận viện trợ…từ các tổ chức quốc tế
chẳng hạn như IMF, WB, ADB,… Ngoài ra một số quốc gia còn có những lượng lớn
ngoại tệ dưới dạng tài sản trong dân chúng. Tuy nhiên quan trọng nhất là quỹ dự trữ
chính thức của Nhà nước, bao gồm toàn bộ lượng ngoại tệ do các tổ chức tín dụng và
các định chế tài chính của Nhà nước quản lý.
Dự trữ quốc tế đủ lớn trước hết tạo ra lòng tin của công chúng và bạn bè quốc tế
về một chương trình cải cách có cơ sở vững chắc, có thể đối phó với những thay đổi đột
biến trên thị trường ngoại hối và tỷ giá hối đoái do tiến trình cải cách gây ra. Hơn nữa

nó còn là sự đảm bảo cung cấp đủ ngoại tệ cho các nhu cầu chuyển đổi ngoại tệ của
công chúng, thực thi thực sự các cam kết về chuyển đổi ngoại tệ. Ngoài ra, nó còn là
một nguồn lực vật chất có sẵn trong tay Nhà nước để tiến hành các hoạt động can thiệp
vào nền kinh tế, thiết lập một chính sách tỷ giá hối đoái hợp lý, chống lại các cú sốc từ
bên ngoài và từ chính nội bộ nền kinh tế, duy trì môi trường kinh tế vĩ mô ổn định.
Tuy nhiên dự trữ quốc tế như thế nào được coi là đủ lớn lại rất khác nhau giữa
những quốc gia và những thời kỳ phát triển. Có quan điểm cho rằng trong giai đoạn đầu
của quá trình chuyển đổi có thể không cần tích luỹ dự trữ chính thức quá lớn vì đồng
tiền chuyển đổi trên thực tế là phương tiện tăng cường dự trữ chính thức. Song theo các
chuyên gia của IMF, một quốc gia muốn thành công trong việc thiết lập cơ chế chuyển
đổi cho đồng bản tệ thì ít nhất cũng phải có một nguồn dự trữ ngoại tệ đủ đảm bảo 5
tháng nhập khẩu các mặt hàng thiết yếu với quy mô thông thường của nền kinh tế.
Ngoài những biểu hiện trên, để đánh giá sự ổn định của nền kinh tế vĩ mô, người
ta còn dựa vào những tiêu chí về tốc độ tăng trưởng hay cán cân thanh toán…có ảnh
hưởng rất lớn tới sự thành công hay thất bại của việc thiết lập cơ chế đồng tiền chuyển
đổi.
1.3.2 Giá cả và các công cụ chính sách phù hợp với cơ chế thị trường
Hoạt động của cơ chế thị trường có thể hình dunug như sau:

Thị trường yếu tố sản xuất
Thị trường hàng hóa dịch vụ
Chính phủ
Các công ty
Thị trường quốc tế
Thị trường tài chính
Người tiêu dùng

Cần phải khẳng định rằng, biện pháp cơ bản để xử lý những vướng mắc thị trường
không phải là thông qua sự kiểm soát trao đổi và thương mại mà phải bằng việc giảm
thiểu những mâu thuẫn giữa các chính sách đối nội và sự phát triển linh hoạt của thị
trường tài chính, yếu tố sản xuất và sản phẩm trong nước.
Việc thiết lập cơ chế đồng tiền chuyển đổi yêu cầu hệ thống tiền tệ và tài khóa
phát triển và được điều chỉnh chủ yếu bởi cơ chế thị trường. Nếu tiền tệ không thực hiện
đầy đủ chức năng của nó ở ngay trong nước thì không thể có một hy vọng nào cho vị trí
của nó trong thị trường quốc tế.
Kiên định với chủ trương dỡ bỏ các kiểm soát đối với chu chuyển vốn, ngày nay
tất cả các nước công nghiệp đều sử dụng các công cụ gián tiếp của chính sách tiền tệ đối
với việc giải phóng các luồng vốn để cho phép lãi suất có thể tự do tác động qua lại với
các rủi ro về tỷ giá nhằm chống lại những chu chuyển bất lợi. Sử dụng những công cụ
gián tiếp thay vì những công cụ trực tiếp tạo điều kiện cho nền kinh tế trong nước thích
ứng với những biến động của kinh tế thế giới . Ở đây có ba lĩnh vực liên quan được gọi
là các biến số thị trường : tỷ lệ lãi xuất thực hợp lý ,chế độ tỷ giá thả nổi và thị trường
yếu tố sản xuất ,sản phẩm linh hoạt.

Trong cơ chế đồng tiền chuyển đổi ,tỷ giá thực phải phù hợp với trạng thái cán
cân thanh toán trong trung hạn . Từ đó,sự xoá bỏ những hạn chế về trao đổi sẽ dẫn đến
sự biến mất hoàn toàn của thị trường tự do cho trao đổi đối ngoại và tạo nên sự hội tụ
của tỷ giá chính thức và tự do .

Cùng với sự toàn cầu hoá của thị trường vốn quốc tế ,lịch sử đã chứng kiến ở
nhiều quốc gia ,nguồn vốn từ nước ngoài có thể đe doạ mục tiêu lạm phát trong nước,
kết quả là sự thiếu độc lập trong chính sách tiền tệ hay sức cạnh tranh bị xói mòn thông
qua mối quan hệ giữa các luồn vốn và tỷ giá .Trong trường hợp như vậy,những hành
động nâng tỷ giá thay vì mở rộng tiền tệ do ảnh hưởng của các nguồn vốn sẽ đe doạ sức
cạnh tranh .Ngược lại ,việc đảm bảo sức cạnh tranh bằng cách không cho phép tăng tỷ
giá sẽ chống lại mục tiêu lạm phát .
Kinh nghiệm cho thấy ,nguồn vốn đầu tư vào trong nước nên đi cùng với sự linh
hoạt hơn của thị trường yếu tố sản xuất và sản phẩm để xu hướng tăng tỷ giá có thể
được đền bù bởi sự giảm giá thành và giá cả trong nước ,từ đó giữ được sức cạnh tranh
tránh xã sự ảnh hưởng của lạm phát .Các nước có tài khoản vốn mở cũng pải tìm cách

tạo điều kiện cho thị trường trong nước thích nghi kịp thời với những thay đổi của giá
tài sản ,việc làm ,sản lượng và của cải .Những biến động về giá tài sản có thể ảnh hưởng
tiêu cực lên những nền kinh tế với quy chế khắt khe ,không cho phép có những thay đổi
trong giá cả và tiền công .Việc giảm thiểu các quy chế này có thể đóng vai trò quan
trọng ,cho phép một nền kinh tế có những thay đổi uyển chuyển trước những cú sốc
thực và những cú sốc tài chính .

Rõ ràng chỉ có một cơ chế thị trường đồng bộ ,hiệu quả mới phản ánh được thực
chất nền kinh tế ,tăng hiệu quả các chính sách kinh tế vĩ mô và lấp đầy những khoảng
trống khi hội nhập kinh tế sau khi thực hiện cơ chế đồng tiền chuyển đổi.

1.3.3 Hệ thống tài chính lành mạnh và những quy định thận trọng

Sự xoá bỏ hoàn toàn những kiểm soát trong trao đổi đặc biệt là kiểm soát về vốn
sẽ làm xuất hiện những kĩ thuật , công cụ tài chính mới cùng với ngững nguồn vốn và
chủ thể mới trên thị trường tài chính .Trong khi đó ,những thay đổi này làm tăng áp lực
cạnh tranh trên thị trường tài chính ,một mặt có thể đem lại nhiều lợi ích song cũng gây
ra những rủi ro cho hệ thống tài chính đòi hỏi hệ thống đó thật lành mạnh với những
quy định thận trọng.
3.3.1 Sự cần thiết của những quy chế thận trọng
Suốt những năm gần đây ,một khối lượng khổng lồ các luồng vốn đua nhau chảy
vào các đang phát triển , đặc biệt là ASEAN: năm 1999 dư nợ trên tài khoản vốn của
các nước đang phát triển là 90737 tỷ USD ,năm 2005 là 300708 tỷ USD ;riêng đối với
ASEAN, con số này là 38345 tỷ USD và 144137 tỷ USD.
Sự gia tăng quá nhanh như vậy đang rung lên một hồi chuông cảnh báo về sự bất
ổn mà kết quả là làm tăng rủi ro khi những nguồn vốn này bị thu hồi .Nếu những cơ hội
đầu tư vào những nơi luồng vốn được phân luồng là không lành mạnh, nó có thể gây ra
những sự đổi chiều nguồn vốn đột ngột nếu lãi suất dự kiến không như mong đợi.
Nguồn vố chảy ra lớn như vậy có thể gây ra những thiệt hại lớn cho nền tài chính và do
đó ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế vĩ mô của các nước đang phát triển.
Những luồng vốn chảy nhanh vào một quốc gia có thể đem lại sự hào hứng nhất
thời nhờ mở rộng hệ thống tài chính và các dự án đầu tư nhưng không phải khi nào một
khối lượng đầu tư lớn cũng đem lại những dự án hiệu quả và nếu nhà đầu tư cảm thấy
thất vọng, họ sẽ rút vốn về. Những khoản đầu tư xấu này nếu được tài trợ bởi chứng

khoán thì sẽ gây ra ít thiệt hại hơn tuy nhiên sự lo ngại sẽ làm giảm hiệu qủa của các
nguồn vốn.
Hệ thống ngân hàng là trung gian của ít nhất của một phần nguồn vốn trực tiếp
hay gián tiếp chảy vào một quốc gia, cung cấp khả năng thanh toán để mở rộng các dự
án. Vì vậy, với sự thiếu vắng của kiểm soát vốn, các ngân hàng có vai trò quan trọng
trong việc phân luồng nguồn vốn cho những cơ hội đầu tư hiệu quả, từ đó hạn chế các
thiệt hại tiềm ẩn đối với nền kinh tế do đầu cơ vốn. Bằng những quy chế thận trọng đối
với các định chế tài chính, dòng chảy của vốn sẽ được phân luồng một cách hợp lý giúp
khai thác tối đa tiềm năng và hạn chế rủi ro.
1.3.3.2 Những hình thức quy định thận trọng
Những quy định trong lĩnh vực tài chính có ảnh hưởng tới sự kiểm soát và phân
luồng vốn có thể được chia làm 2 nhóm, dựa trên 2 cách nhìn khác nhau về các chiến
lược đầu tư .
Thứ nhất, nhà đầu tư hưởng lợi từ quy luật may rủi của hệ thống tài chính, nhất
là ở các định chế được bảo vệ bởi mạng lưới tài chính an toàn. Quy định thận trọng
trong trường hợp này nhằm đảm bảo khả năng thanh khoản của các định chế riêng lẻ,
hạn chế những thất bại có tác động dây chuyền đến bảng cân đối của các định chế khác.
Những biện pháp được sử dụng trong trường hợp này rất nghiêm khắc, bao gồm:
– Các yếu tố về vốn
– Các điều kiện về khả năng thanh khoản
– Những yêu cầu về dự trữ
– Giới hạn cho từng ngành kinh doanh
– Yêu cầu về các báo cáo tài chính
– Các tiêu chuẩn kế toán
– Những quy định về tín dụng và rủi ro
– Các giới hạn về lãi suất
– Mức trần của số dư trên ảng cân đối
– Các giới hạn khác
Thứ hai, nhóm giới hạn đưa ra những quy định chống đầu cơ nhằm hướng nguồn
vốn tránh xa các dự án có độ rủi ro cao. Việc đặt ra các quy định này là do các nhà lập

chính sách lo ngại rằng hành vi đầu cơ có thể gây ra sự đổi chiều vốn trên quy mô lớn.
Những quy định cụ thể như sau:
– Hạn chế phát hành, chỉ cho phép các định chế đã được quy định trong danh
sách được quyền phát hành
– Cấm việc mua, bán nóng chứng khoán
– Cấm những chứng khoán nhất định và một số sản phẩm phái sinh
– Hạn chế sở hữu vốn nước ngoài hay giớ hạn đầu vào của các nhà giao dịch….
1.3.3.3 Những nguy cơ đe doạ hiệu lực của các quy định
Các ngân hàng hiện đại có những cách để lẩn tránh quy định này bằng cách tham
gia vào các nghiệp vụ ngoại bảng hoặc sử dụng các công cụ phái sinh ở nước ngoài. Để
tránh những sự đi vòng này, cần phải có một môi trường quy chế nghiêm túc trong đó
nhà điều hành có thể tiếp cận các ngân hàng và chi nhánh của nó ở trong và ngoài nước.
Tuy nhiên, thậm chí nếu các nhà điều hành có quyền phạt những hành vi đó, thì
việc thực thi sẽ bị chi phối bởi quyền lực chính trị. Các ngân hàng thường có sự bảo trợ
về chính trị rất mạnh, có thể làm vô hiệu hóa hoạt động của các nhà điều hành. Do đó,
cần có quan điểm thống nhất giữa các lĩnh vực công nghiệp, ngân hàng và chính quyền
để tránh những tác động nghiêm trọng do các ngân hàng gây ra cho nền kinh tế. Chỉ khi
nào các nhà điều hành được thả lỏng từ các giới hạn quyền lực khác thì lĩnh vực ngân
hàng mới thực sự tránh được những biến động, rủi ro mang tính hệ thống.
Trên đây là những điều kiện cơ bản nhất để có được một tiến trình chuyển đổi tiền
tệ thành công, thực sự là động lực thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế của các quốc gia
trong quá trình hội nhập với kinh tế thế giới.

Chương 2
NHỮNG KINH NGHIỆM CHUYỂN ĐỔI TIỀN TỆ
Ở MỘT SỐ NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN

2.1. TÌNH HÌNH CHUNG VỀ THIẾT LẬP CƠ CHẾ ĐỒNG TIỀN
CHUYỂN ĐỔI TRÊN THẾ GIỚi
Qua những phân tích trên đây, có thể thấy thiết lập tính chất chuyển đổi của đồng
tiền là một vấn đề khó khăn, phức tạp, đòi hỏi một quá trình chuẩn bị, tạo đủ những điều
kiện tiên quyết mới đạt được kết quả mong muốn, tránh được những rủi ro, những tác
động tiêu cực đến công cuộc cải cách và toàn bộ hoạt động kinh tế nói chung của đất
nước.
Chính vì vậy, đa số các quốc gia trên thế giới, dù là những nước đang phát triển
hay những nước công nghiệp phát triển, chỉ thiết lập tính chất chuyển đổi đồng tiền của
họ sau khi nền kinh tế đã ổn định và phát triển, thườn là sau khi đã tiến hành cải cách

công nghiệp, tự do hoá thương mại và thật sự yên tâm về một cơ cấu kinh tế đủ sức
cạnh tranh cùng với một mức dự trữ phương tiện thanh toán quốc tế tương đối đảm bảo.
Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, chỉ có Mỹ và Thuỵ Sỹ là hai nước có đồng
tiền chuyển đổi. Lúc này, các nước Tây Âu cũng mong muốn thiết lập đồng tiền chuyển
đổi nhưng vì khả năng cạnh tranh thương mại so với Mỹ còn yếu nên họ vẫn e ngại và
hết sức thận trọng. Năm 1947, Anh có ý đồ thiết lập khả năng chuyển đổi cho đồng tiền
của mình. Rõ ràng nền kinh tế của Anh thuộc vào hàng những quốc gia đứng đầu thế
giới, hơn nữa lại được Mỹ cho vay 3,75 tỷ USD để ủng hộ cho đồng Bảng Anh trở
thành đồng tiền chuyển đổi. Nhưng cuối cùng, họ đã thất bại nặng nề vì chưa hội đủ các
điều kiện tiên quyết và số tiền được Mỹ cho vay đã hết sạch chỉ sau một tháng. Ngày
20/08/1947, Anh buộc phải đình chỉ việc chuyển đổi đồng Bảng Anh. Cho đến năm
1961, các nước Tây Âu mới thiết lập tính chất chuyển đổi vãng lai còn tính chất chuyển
đổi vốn thì mới được thực hiện trong những năm gần đây mà điển hình là Pháp và Ý chỉ
thực hiện từ cuối những năm 80.
Nhật Bản có thể được coi là một cường quốc kinh tế song cũng chỉ thực hiện
chuyển đổi vãng lai vào năm 1964 còn chuyển đổi vốn thì phải đến những năm 80 mới
được thiết lập.
Các nước công nghiệp mới (NICs) nhờ có những biện pháp tự do hoá thương mại
và hối đoái, đã có nhiều thành công trong phát triển kinh tế suốt hai thập kỷ vừa qua
nhưng cũng còn rất thận trọng và dè dặt trong việc thiết lập tính chất chuyển đổi đồng
tiền của họ. Có thể thấy Hàn Quốc là một ví dụ điển hình, cho tới năm 1988, họ mới bắt
đầu thiết lập khả năng chuyển đổi của đồng Won trong thanh toán vãng lai.
Bước đầu của chuyển đổi tiền tệ là việc các quốc gia cam kết thực hiện điều VIII
bản điều lệ của IMF (đã được đề cập ở chương 1)

Bảng 2.1: Số nước tham gia vào Điều 8 bản điều lệ IMF
(Tính đến ngày 31/10/1997, xuất khẩu thế giới theo số liệu năm 1996)
Năm
Số nước
Tỷ trọng trong hạn
ngạch của IMF (%)
Tỷ trọng xuất
khẩu thế giới (%)
Những năm 40
6
19,8
13,1
Những năm 50
3
3,1
3,8

Những năm 60
26
41,7
52,5
Những năm 70
18
4,3
3,0
Những năm 80
15
4,7
7,6
Những năm90
73
18,4
10,9
Nguồn: Thống kê tài chính quốc tế 12 – 1997
Tính đến ngày 20/12/96 đã có 137 thành viên của IMF cam kết thức hiện điều VIII
của bản điều lệ IMF. Trong đó, tất cả các nước công nghiệp đã dỡ bỏ kiểm soát vốn; các
nước SADC, chỉ có Mauritius và Zanbia chuyển đổi tài khoản vốn còn những nước
khác như ở Nam Phi thì vẫn còn đang trong giai đoạn chuẩn bị.
Qua nhiều năm có nhiều cuộc chuyển đổi tiền tệ thành công nhưng cũng không ít
quốc gia thất bại. Để áp dụng một cách thiết thực nhất các kinh nghiệm về chuyển đổi
tiền tệ, chúng ta cần nghiên cứu sâu hơn về quá trình này ở các nước đang phát triển.
2.2. ĐẶC TRƯNG KINH TẾ CHỦ YẾU CỦA CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT
TRIỂN
2.2.1. Sự gia tăng của các luồng vốn đầu tư
Bắt đầu từ những năm 80, khuynh hướng tự do hoá tài khoản vốn và tăng cường
liên kết kinh tế toàn cầu của các nước đang phát triển đã thu hút những khối lượng lớn
vốn đầu tư nước ngoài. Theo các số liệu thống kê của IMF, luồng vốn ròng chảy vào
các nước đang phát triển đã tăng từ 0,5% GDP trong những năm 70, 80 lên xấp xỉ 3%
GDP vào năm 1998 sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á.
Biểu đồ 2.1: Nguồn vốn đầu tư nước ngoài chảy vào các nước
đang phát triển
0
50
100
150
200
250
300
350
400
1990
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
Nguån vèn t­ nh©
n
Nguån vèn chÝ
nh thøc

Nguồn: UNCTAD
Tất nhiên, sự gia tăng này có những dấu hiệu đáng mừng nhưng nó cũng tạo ra
nguy cơ tiềm ẩn về sự đổi chiều đột ngột trên quy mô lớn của các luồng vốn, đặc biệt là
các khoản vốn đầu tư tư nhân, ngoại trừ vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài. Sự đổi chiều
của các luồng vốn đầu tư nhạy cảm một mặt là hệ quả, mặt khác là nguyên nhân trực
tiếp của sự đổ vỡ dây chuyền và tổn thất nguồn lực trong nền kinh tế. Điều này càng
được chứng minh rõ ràng khi khảo sát hậu quả khủng hoảng tài chính tiền tệ cho thấy
những nền kinh tế tự do hoá tài khoản vốn và hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới đã
chịu ảnh hưởng sâu sắc hơn rất nhiều các nền kinh tế tương đối đóng cửa và độc lập với
hệ thống tài chính – tiền tệ quốc tế.
2.2.2. Thường trực đối mặt với rủi ro tỷ giá
Một thực tế đang tồn tại tại phổ biến hiện nay là các nước đang phát triển chưa có
một đồng bản tệ mạnh với khả năng chuyển đổi quốc tế rộng rãi. Vì vậy cá nhân, tổ
chức là người cư trú rất khó huy động vốn trên thị trường không muốn duy trì trạng thái
trường ngoại tệ đối với đồng tiền của các nước đang phát triển ngoại trừ những mục
đích tạm thời cho các giao dịch thương mại hoặc chi trả trên lãnh thổ quốc gia đang phát
triển thường vượt xa rất nhiều giá trị tài sản có ngoại tệ mà họ nắm giữ. Nói cách khác,
các quốc gia đang phát triển thường xuyên phải duy trì một trạng thái nợ ngoại tệ ròng
dương trên bảng tổng kết tài sản và do đó phải đối mặt với rủi ro tỷ giá, lo ngại tỷ giá
tăng lên. Ngay cả những nước đang phát triển có nền kinh tế mạnh như Hàn Quốc hay
các nước theo tỷ giá cố định với đồng USD như Thái Lan, Argentina….cũng không
nằm ngoài quy luật này.
2.2.3. Tính đa dạng trong danh mục đầu tư
Tính quốc tế hoá trên bảng tổng kết tài sản của các tổ chức, cá nhân ở các nước
đang phát triển gia tăng mạnh mẽ như một hệ quả trực tiếp của toàn cầu hoá tài chính.
Số liệu cho thấy trong 3 năm từ 1996 đến 1998, có trên 28% giá trị chứng khoán quốc tế
phát hành tại các nước đang phát triển đã được định giá bằng các đồng tiền khác nhau
ngoài USD.
2.2.4. Tăng cường mức độ mở cửa và giao lưu thương mại
Có thể khẳng định rằng, mức độ mở cửa của các nước đang phát triển đã tăng lên
nhanh chóng trong vài thập kỷ qua. Bằng chứng là chỉ tiêu bình quân tổng kim ngạch

ngoại thương trên GDP ở các nước đang phát triển đã tăng từ 30% cuối những năm 60
lên hơn 40% vào những năm cuối thập kỷ 90. Khuynh hướng này càng đặc biệt nổi bật
ở các nước công nghiệp mới và ASEAN.
0
10
20
30
40
50
60
70
68 69 70 71 72 73 74 75 76 77 78 79 80 81 82 83 84 85 86 87 88 89 90 91 92 93 94 95 96 97 98
Cac nuoc dang phat trien
CMA
ASEAN

Biểu đồ 2.2: Tỷ lệ % tổng kim ngạch ngoại thương trên GDP 1968 -1998
Nguồn: World economics outlooks
Thêm vào đó, cơ cấu hàng hoá xuất khẩu của các nước đang phát triển cũng có sự
thay đổi đáng kể, chuyển sang xuất khẩu hàng công nghiệp và công nghiệp chế tạo.
Bước chuyển này một mặt góp phần ổn định hoá điều kiện thương mại của các nước
đang phát triển, mặt khác lại tạo ra sự phụ thuộc chặt chẽ hơn nữa của ngoại thương vào
các vấn đề tiền tệ quốc tế như chính sách tỷ giá, khả năng chuyển đổi của bản tệ…..
Ngoài ra, cùng với xu hướng toàn cầu hoá kinh tế, phạm vi thương mại của các
nước đang phát triển cũng ngày càng mở rộng, đặc biệt đối với các nền kinh tế mới nổi.
Ngoại trừ trường hợp của Mê hi cô với hơn 80% giao dịch ngoại thương diễn ra với Mỹ,
các quốc gia khác ở Châu Âu, Châu Phi, Trung Cận Đông và Đông Á đều có tỷ lệ trao
đổi thương mại với một khu vực kinh tế không quá 30 – 40%.
Sự ra đời và phát triển của khối mậu dịch và mậu dịch tự do mang tính khu vực đã trở
thành một khuynh hướng phổ biến ở các quốc gia đang phát triển từ sau chiến tranh thế giới
thứ hai. Xu hướng này đã tạo ra sự tăng trưởng đáng kể trong giá trị kim ngạch trao đổi
thương mại nội vùng, đặc biệt là ở một số khu vực kinh tế năng động như Mecosour và
Asean. Thống kê cho thấy, xuất nhập khẩu nội bộ khối Asean đã tăng từ 15% năm 1980 lên
22% năm 1998 và ở một số vùng kinh tế năng động khác cũng có sự gia tăng tương tự.
2.2.5. Xu thế lạm phát thấp dần và nền tài chính ngày càng hoàn thiện

Các số liệu thống kê đã chỉ ra rằng tỷ lệ lạm phát bình quân ở các nước đang phát
triển đã giảm từ 10% trong những năm 70, 80, 90 xuống 5% vào cuối những năm 90.
Đây là một tỷ lệ có thể chấp nhận được, đảm bảo cho sự tăng trưởng kinh tế và đáp ứng
công ăn việc làm cho nền kinh tế mà không làm mất đi tính ổn định của nó.
Biểu đồ 2.3. Tỷ lệ lạm phát ở các nước đang phát triển (%)
55.4
23.2
15.4
10
10.5
6.9
0
10
20
30
40
50
60
94
95
96
97
98
99

Nguồn: World economic outlooks
Dưới tác động của xu thế toàn cầu hoá và liên kết kinh tế, với sự hỗ trợ của tiến
bộ khoa học – công nghệ và thông tin viễn thông, nền tài chính của các nước đang phát
triển cũng có những tiến bộ rõ rệt. Ngày nay, hầu hết các nước đang phát triển được một
thị trường chứng khoán tương đối sôi động, thị trường hối đoái linh hoạt toàn phần. Có
quan niệm đó là do đã thiết lập cơ chế chuyển đổi đối ngoại đồng bản tệ ở trình độ cao,
các quốc gia thường cam kết chuyển đổi toàn phần hay hoàn toàn đồng bản tệ. Tuy
nhiên, hai khái niệm chuyển đổi toàn phần và chuyển đổi đối ngoại không thể được coi
là trùng khít với nhau vì để được coi là toàn phần, ngoài hai hình thức chuyển đổi vãng
lai và chuyên đổi tài khoản vốn, đồng tiền phải đảm bảo tính chất chuyển đối đối nội.
Cũng như chuyển đổi tài khoản vãng lai và tài khoản vốn, chuyển đổi đối nội là
khái niệm phản ánh một giới hạn nhất định trong khả năng chuyển đổi của đồng bản tệ.
Tuy nhiên, khác với hai hình thức trên, giới hạn chuyển đổi đối nội không dựa trên cơ
sở bản chất, nội dung của hoạt kinh tế mà căn cứ vào phạm vi, chủ thể tham gia trong
các hoạt động đó để xác định. Theo đó, chuyển đổi đối nội là giới hạn cho phép tất cả
các tác nhân, thể nhân là người cư trú được quyền mua, nắm giữ, sử dụng các loại ngoại
hối không hạn chế trong phạm vi biên giới lãnh thổ quốc gia, tuy nhiên không được
chuyển chúng ra nước ngoài dưới bất kì hình thức nào.

Như vậy, có thể thấy rằng trong chuyển đổi đối nội, phạm vi áp dụng là tất cả các
giao dịch kinh tế nhưng chỉ diễn ra trong nội bộ quốc gia, bị hạn chế bởi chủ thể tham gia là
người cư trú và ranh giới địa lý hành chính quốc gia đó. Có nghĩa là nhà nước cho phép
những người cư trú được tự do nắm giữ tài sản bằng ngoại tệ, như mở tài khoản tiền gửi
ngoại tệ tại ngân hàng và như vậy là được quyền đổi đồng tiền trong nước ra các tài sản
bằng ngoại tệ. Tuy nhiên quyền tự do được giữ ngoại tệ không có nghĩa là được phép tiến
hành thanh toán với nước ngoài hoặc được giữ tài sản ở nước ngoài.

2.3. ẢNH HƯỞNG CỦA ĐỒNG TIỀN CHUYỂN ĐỔI LÊN NỀN KINH TẾ
Việc nghiên cứu tác động chuyển đổi tiền tệ lên nền kinh tế quốc dân là một vấn
đề rất phức tạp. Bởi vì tuỳ từng quốc gia và trong mỗi thời kỳ khác nhau, do những
điều kiện kinh tế xã hội mà chuyển đổi tiền tệ đưa lại những ảnh hưởng tích cực và
tiêu cực cho nền kinh tế. Như đã khẳng định ở trên, chuyển đổi tiền tệ là nấc thang
cuối cùng của quá trình và nó tạo ra nhiều động lực cho sự phát triển của nền kinh
tế. Vì vậy, trước tiên cần xem xét những tác động tích cực của chuyển đổi tiền tệ lên
nền kinh tế quốc dân.
2.3.1. Những tác động tích cực của đồng tiền chuyển đổi
2.3.1.1. Giúp tăng cường sức mạnh của đồng bản tệ
Theo quan điểm của các nhà kinh tế học hiện đại, đồng tiền có ba chức năng là
thước đo giá trị, phương tiện thanh toán và phương tiện cất giữ. Theo đó, tiêu chí để đo
lường sức mạnh của một đồng tiền là phạm vi và mức độ mà nó thực hiện các chức
năng đó.
Trong thanh toán quốc tế, các đồng tiền không được tự do chuyển đổi là các
đồng tiền không sử dụng làm đồng tiền định giá và đồng tiền thanh toán và vì vậy chúng
chỉ thực hiện được các chức năng của mình trong phạm vi hẹp và mức độ hạn chế. Chỉ
có các đồng tiền mạnh, tự do chuyển đổi như USD, GBP,EUR,…mới có thể thực hiện
tốt các chức năng không chỉ trong phạm vi quốc gia mà cả trên phạm vi quốc tế.
Các quốc gia có đồng tiền yếu hơn có xu hướng không dùng bản tệ để đinh giá
thanh toán các giao dịch lớn hoặc tích luỹ giá trị, thậm chí chấp nhận đôla hoá chính
thức (Panama, Ecuardo…). Điều này do những nguyên nhân sau đây:
-Để bảo vệ quyền lợi của bên mua, bên bán, các bạn hàng thường sử dụng đồng
tiền của nước thứ ba, thường là đồng tiền tự do chuyển đổi có giá trị ổn định trên thị
trường để làm đồng tiền đối chiếu bị mất giá so với ngoại tệ tự do chuyển đổi nào đó thì
rủi ro này đều do người bán hàng phải gánh chịu.
-Trong điều kiện thanh toán không dùng tiền mặt chưa tốt thì việc kí gửi
chuyển tiền phục vụ cho thanh toán hàng hoá, dịch vụ (chủ yếu là từng lần) không
chỉ làm tăng phí mà còn làm đọng vốn.

-Nếu công tác kiểm soát ngoại hối không được tổ chức thực hiện một cách chặt
chẽ, thường xuyên thì việc người bán hàng sử dụng bản tệ thu được của người mua hàng
để chuyển về nước là điều không thể trách khỏi.
Việc cá nhân, doanh nghiệp ở các nước này dùng các đồng ngoại tệ mạnh tự do
chuyển đổi để định giá, thanh toán và cất giữ một mặt phản ánh nhu cầu khách quan của
công chúng trong việc lựa chọn phương tiện tiền tệ, nhất là trong xu hướng liên kết kinh
tế toàn cầu hiện nay, nhưng mặt khác cũng thể hiện rõ sự yếu kém của hệ thống tiền tệ
quốc gia, đặt quốc gia phụ thuộc chặt chẽ vào biến động kinh tế nước ngoài.
Để bảo vệ vị trí của đồng bản tệ, các quốc gia này thường tăng cường các quy chế
quản lý ngoại hối, kể cả các biện pháp cưỡng chế. Nhưng do quy luật khách quan, người
ta vẫn ngầm sử dụng ngoại tệ trong các giao dịch kinh tế giống như việc buôn lậu các
hàng hoá thông thường vì những lợi ích mà nó mang lại. Vì vậy, để khẳng định chủ
quyền tiền tệ, các quốc gia phải có chiến lược lâu dài trong việc tăng cường sức mạnh
kinh tế của đồng bản tệ mà nội dung cốt lõi là nâng cao hơn nữa trình độ phát triển kinh
tế.
Song song với quá trình này, việc thiết lập khả năng chuyển đổi tiền tệ cũng là
giải pháp giúp tăng cường sức mạnh của đồng bản tệ trên thị trường trong nước. Bởi vì,
với một cam kết chuyển đổi tiền tệ như vậy, công chúng có cơ sở để tin tưởng rằng việc
định giá, thanh toán và tích luỹ bằng đồng nội tệ cũng không khác gì sử dụng bất cứ một
ngoại tệ mạnh nào do người ta có thể chuyển đổi từ nội tệ sang ngoại tệ và ngược lai bất
cứ lúc nào với số lượng không hạn chế. Điều này cũng giống như trong chế độ bản vị
hối đoái – vàng, khi mà cục dự trữ liên bang Mỹ (FED) cam kết sẵn sàng chuyển đổi
không hạn chế đồng USD ra vàng tại tỷ giá cố định 35USD/1 ounce như là một mỏ neo
tin cậy cho phép ngân hàng trung ương các nước yên tâm nắm giữ USD làm đồng tiền
dự trữ quốc tế chủ chốt. Để củng cố niềm tin này, việc cam kết và duy trì ổn định tỷ giá
hối đoái cũng góp phần đưa đồng bản tệ lên vị trí chính yếu trong nền kinh tế quốc dân.
2.3.1.2. Giúp khai thác tốt hơn những lợi ích từ tự do thương mại
Không ai có thể phủ nhận sự ưu việt của nền kinh tế mở cửa giao lưu thương mại
so với nền kinh tế tự cung tự cấp. Những cường quốc như Mỹ, Nhật, Anh…Những nước
đang phát triển giàu tài nguyên và dồi dào lao động nhưng thiếu vốn và công nghệ như

Đánh giá post

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *