10638_Pháp luật về hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động của các ngân hàng thương mại VN

luận văn tốt nghiệp

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ

PHÁP LUẬT VỀ HÀNH VI QUẢNG CÁO NHẰM CẠNH
TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA
CÁC NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI VIỆT NAM

Ngành: LUẬT KINH TẾ

NGUYỄN MINH THẮNG

Hà Nội – năm 2019
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ

Pháp luật về hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh
trong hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam

Ngành: Luật kinh tế
Mã số: 8380107

Họ và tên học viên: Nguyễn Minh Thắng

Người hướng dẫn: TS. Nguyễn Văn Cảnh

Hà Nội – năm 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của bản thân, các số liệu, kết
quả trình bày trong luận văn được thu thập từ nguồn thực tế, được công bố trên các
báo cáo của các cơ quan nhà nước; được đăng tải trên các tạp chí, báo chí, các
website hợp pháp. Những thông tin và nội dung nêu trong đề tài đều dựa trên
nghiên cứu thực tế và hoàn toàn đúng với nguồn trích dẫn.

Hà Nội, ngày tháng năm 2018
Tác giả luận văn

LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên tôi xin trân trọng cảm ơn sâu sắc nhất đến TS. Nguyễn Văn
Cảnh, người đã hướng dẫn tôi hết sức tận tâm, nhiệt tình, khoa học để tôi hoàn
thành luận văn Thạc sỹ này. Đồng thời, tôi cũng xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ
của các Thầy, Cô giáo của Trường Đại học Ngoại Thương, đặc biệt là các Thầy cô
trong khoa sau Đại học đã giúp tôi trong quá trình thực hiện luận văn. Tôi cũng xin
gửi lời cảm ơn tới gia đình, đồng nghiệp, những người đã quan tâm, sát cánh bên
cạnh và ủng hộ tôi là động lực cho tôi hoàn thành luận văn này một cách thuận lợi.

Hà Nội, ngày tháng năm 2018
Tác giả luận văn

MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ………………………………………………………………………………………… i
LỜI CẢM ƠN ……………………………………………………………………………………………. iii
MỤC LỤC
…………………………………………………………………………………………………. iv
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
……………………………………………………………………… vii
TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ……………………………………………………… viii
MỞ ĐẦU ……………………………………………………………………………………………………..
1
1. Tính cấp thiết của đề tài
……………………………………………………………………………
1
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài ………………………………………………………………..
3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu …………………………………………………………….
4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ……………………………………………………………..
5
5. Phương pháp nghiên cứu ………………………………………………………………………….
5
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
………………………………………………..
6
7. Kết quả nghiên cứu của luận văn
……………………………………………………………….
7
8. Kết cấu của luận văn
………………………………………………………………………………..
7
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT HÀNH VI QUẢNG
CÁO NHẰM CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH TRONG HOẠT ĐỘNG
CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI ……………………………………………………
8
1.1. Khái quát về hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh
……….
8
1.1.1. Khái niệm hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh
…………….
8
1.1.2. Đặc điểm hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh ……………
10
1.1.3. Phân biệt hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh với các
hành vi quảng cáo bị cấm …………………………………………………………………………..
11
1.2. Pháp luật về hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh trong
hoạt động của các ngân hàng thƣơng mại ……………………………………………………
13
1.2.1. Khái niệm pháp luật về hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành
mạnhtrong hoạt động của các ngân hàng thương mại …………………………………….
13
1.2.2. Đặc điểm pháp luật về hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành
mạnh trong hoạt động của các ngân hàng thương mại ……………………………………
19
1.2.3. Nội dung của pháp luật về hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành
mạnh trong hoạt động của các ngân hàng thương mại ……………………………………
22
1.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc xây dựng và thực hiện pháp luật về hành vi
quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động của các ngân hàng
thương mại ……………………………………………………………………………………………….
26
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VÀ THỰC TIỄN
THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ HÀNH VI QUẢNG CÁO NHẰM CẠNH
TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC NGÂN
HÀNG THƢƠNG MẠI VIỆT NAM ……………………………………………………………
30
2.1. Thực trạng pháp luật Việt Nam hiện hành về hành vi quảng cáo nhằm
cạnh tranh không lành mạnh ………………………………………………………………………
30
2.1.1. Thực trạng quy định về các hành vi quảng cáo nhằm cạch tranh không lành
mạnh trong hoạt động của các Ngân hàng thương mại …………………………………..
30
2.1.2. Đánh giá thực trạng pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh của
các Ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay
……………………………………………..
38
2.2. Thực tiễn thực thi pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh của
Ngân hàng thƣơng mại Việt Nam hiện nay ………………………………………………….
46
2.2.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật ………………………………………………………………
46
2.2.2. Thực tiễn xử lý hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh trong
hoạt động của các ngân hàng thương mại
……………………………………………………..
52
Chương 3: ĐỊNH HƢỚNG VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ HÀNH VI QUẢNG CÁO NHẰM CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH
MẠNH TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI
VIỆT NAM ………………………………………………………………………………………………..
62
3.1. Định hƣớng hoàn thiện pháp luật về hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh
không lành mạnh trong hoạt động của các ngân hàng thƣơng mại Việt Nam
..
62
3.1.1.
Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về hành vi quảng cáo nhằm cạnh
tranh không lành mạnh ………………………………………………………………………………
62
3.1.2. Một số định hướng hoàn thiện pháp luật về hành vi quảng cáo nhằm cạnh
tranh không lành mạnh của các Ngân hàng thương mại………………………………….
64
3.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh
không lành mạnh trong hoạt động của các ngân hàng thƣơng mại Việt Nam
..
66
3.2.1. Hoàn thiện các quy định pháp luật về hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh
không lành mạnh
……………………………………………………………………………………….
66
3.2.2. Giải pháp nâng cao khả năng thực thi pháp luật về hành vi quảng cáo nhằm
cạnh tranh không lành mạnh của các Ngân hàng thương mại
………………………….
74
KẾT LUẬN ………………………………………………………………………………………………..
79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
NHNN
Ngân hàng nhà nước
NHTM
Ngân hàng thương mại
TCTD
Tổ chức tín dụng
UBCTQG
Ủy ban cạnh tranh quốc gia

TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Để thực hiện đề tài: “Pháp luật về hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh
không lành mạnh trong hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam”, tác
giả đã tổng quan tình hình nghiên cứu về đề tài, qua đó nhận thức được sự cần thiết
của nghiên cứu pháp luật về vấn đề này. Đồng thời, đề tài sử dụng các phương pháp
thu thập dữ liệu thứ cấp để có những dữ liệu hữu ích phục vụ phân tích thực trạng
đề tài, sử dụng phương pháp thống kê, so sánh và phương pháp phân tích, tổng hợp
số liệu để phân tích các nội dung nghiên cứu của luận văn thông qua hệ thống hóa
các vấn đề lý luận về cạnh tranh, cạnh tranh không lành mạnh, hành vi quảng cáo
nhằm cạnh tranh không lành mạnh; pháp luật về hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh
không lành mạnh trong hoạt động của các NHTM Việt Nam.
Trên cơ sở đánh giá thực trạng pháp luật Việt Nam hiện hành liên quan đến
hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh. Thực tiễn áp dụng các quy
định này trong hoạt động của các NHTM, để từ đó tìm ra những hạn chế của pháp
luật về hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động của
các NHTM ở Việt Nam. Luận văn nghiên cứu đề xuất các phương hướng, giải pháp
góp phần hoàn thiện pháp luật về hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành
mạnh trong hoạt động của các NHTM ở Việt Nam, cụ thể: Xây dựng các tiêu chí để
nhận diện hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh; Hoàn thiện các
quy định liên quan đến việc xử lý hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành
mạnh của các NHTM; Hoàn thiện và sớm ban hành Nghị định quy định về hành vi
cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực ngân hàng và giải pháp nâng cao khả
năng thực thi pháp luật về hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh của
các NHTM.

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cạnh tranh có vai trò quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Thông qua việc
cạnh tranh, người kinh doanh không ngừng cải tiến chất lượng hàng hóa, dịch vụ để
giành, giữ và nâng cao vị thế của mình trên thương trường. Tuy nhiên, bên cạnh
những tác động tích cực, cạnh tranh cũng có thể tác động tiêu cực đối với cho nền
kinh tế, doanh nghiệp và người tiêu dùng. Do vậy, hoạt động cạnh tranh của các chủ
thể kinh doanh trên thị trường bao giờ cũng phải được điều chỉnh bởi các thiết chế
nhà nước và các định chế pháp luật. Sự can thiệp của Nhà nước và tư duy cạnh
tranh từ đối đầu sang hợp tác cùng có lợi là xu hướng tất yếu bảo đảm cho nền kinh
tế phát triển bền vững. Trong quá trình thực hiện các hoạt động kinh doanh để nâng
cao vị thế của mình trên thị trường, doanh nghiệp sử dụng nhiều công cụ khác nhau,
trong đó có hoạt động quảng cáo. Có thể nói, quảng cáo là một trong những phương
tiện hữu hiệu để doanh nghiệp thông tin về sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ của mình
đến người tiêu dùng. Cùng với sự gia tăng về số lượng thì vấn đề cạnh tranh không
lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo ngày càng có xu hướng phát triển về quy mô và
thủ đoạn. Chính vì vậy, đây được coi là một trong những vấn đề rất được xã hội
quan tâm hiện nay. Trong điều kiện nước ta đang xây dựng nền kinh tế thị trường,
việc nghiên cứu để làm rõ những vấn đề lý luận cũng như thực trạng các quy định
pháp luật về hành vi cạnh tranh, chống cạnh tranh không lành mạnh nói chung và
hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh nói riêng là rất cần thiết.
Trong thời gian qua, việc nghiên cứu về cạnh tranh và chống cạnh tranh không lành
mạnh đã được nhiều nhà khoa học quan tâm, song các nghiên cứu về hành vi quảng
cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh vẫn còn khiêm tốn. Vẫn còn không ít các
vấn đề lý luận và thực tiễn về hành vi quảng cáo nhằm
Bên cạnh đó, Theo cam kết khi gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới
(WTO), kể từ ngày 01/04/2009, các TCTD nước ngoài được thành lập ngân hàng
100% vốn nước ngoài tại Việt Nam với các ràng buộc về vốn. Đây đang là sức ép
rất lớn đối với các NHTM trong nước, bởi lẽ, với một thị trường tài chính còn non
trẻ, chưa có kinh nghiệm thích ứng và xử lý với những biến động của kinh tế thị

2
trường, nhưng lại có quá nhiều chủ thể cung ứng dịch vụ ngân hàng, bởi vậy, việc
bảo đảm cho các NHTM trong nước có vị trí xứng đáng trên thị trường quả là công
việc khó khăn, nhất là tiềm lực tài chính và kinh nghiệm kinh doanh. Thực thi các
cam kết quốc tế, các NHTM trong nước buộc phải thay đổi các phương thức kinh
doanh, đặc biệt là cần phải có các giải pháp để nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị
trường khi có sự hiện diện của các NHTM nước ngoài tại Việt Nam.
Bên cạnh đó, Luật Cạnh tranh cũng bộc lộ nhiều điểm còn bất cập và khó
khăn khi đưa vào thực tế áp dụng. Trong đó có hoạt động quảng cáo, với tư cách là
một phần vô cùng quan trọng đối với hoạt động cạnh tranh của các tổ chức nói
chung và các NHTM nói riêng. Minh chứng là hoạt động quảng cáo nhằm cạnh
tranh không lành mạnh đang ngày có xu hướng gia tăng trong thời gian qua và có
những tác động không nhỏ đến đời sống xã hội của người dân. Số vụ việc bị điều tra
liên quan đến hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh tăng từ 41 vụ
(năm 2013) lên tới 53 vụ (năm 2015) và 77 vụ (năm 2017), trong đó c ó những vụ
việc liên quan đến cạnh tranh không lành mạnh của các NHTM thông qua hoạt động
quảng cáo. Mặc dù thời gian qua, các NHTM trong nước cũng đã tập trung mọi
nguồn lực để nâng cao năng lực tài chính và mở rộng quy mô, tuy nhiên, vấn đề
cạnh tranh giữa các NHTM tại thị trường Việt Nam cũng đang trở nên nóng bỏng và
khốc liệt. Là một lĩnh vực quan trọng và nhạy cảm trong nền kinh tế, ngành Ngân
hàng cần phải có những quy định pháp lý hết sức chặt chẽ và hiện đại để điều chỉnh
kịp thời các hành vi cạnh tranh đa dạng và thay đổi liên tục để duy trì môi trường
kinh doanh lành mạnh cho tất cả các TCTD. Pháp luật về hành vi quảng cáo nhằm
cạnh tranh không lành mạnh cần được giải quyết sâu hơn, đầy đủ hơn, qua đó, giúp
cho các cơ quan nhà nước, các NHTM, người dân có được công cụ và sự hiểu biết
nhất định để chống lại sự cạnh tranh không lành mạnh thông qua hành vi quảng
cáo. Vì vậy, học viên đã lựa chọn vấn đề “Pháp luật về hành vi quảng cáo nhằm
cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động của các ngân hàng thương mại
Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn luật học của mình.

3
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Cạnh tranh giữa các NHTM nói chung và hành vi cạnh tranh không lành
mạnh thông qua quảng cáo của các NHTM nói riêng là một trong những vấn đề
quan trọng, phong phú và phức tạp trong lĩnh vực hoạt động ngân hàng, nên từ
trước đến nay, nó đã được một số nhà luật học đề cập đến trong các nghiên cứu của
mình như:
Tác giả Phạm Văn Lợi, Lê Thị Hoàng Oanh, Nguyễn Văn Cương, Hoàng
Thế Anh, Vũ Thị Hiệp, (2004), Pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh ở
Việt Nam – Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Hà Nội; Tác giả Đỗ Văn Đại và
Nguyễn Thị Hoài Trâm (2012), Bồi thường thiệt hại do hành vi cạnh tranh không
lành mạnh gây ra, Tạp chí Khoa học pháp lý số 2, tr.62-71; Tác giả Quách Thị
Hương Giang (2011), Chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo
pháp luật Việt Nam, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà
Nội; Tác giả Nguyễn Kiều Giang (2007), cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh
vực ngân hàng – nhìn từ góc độ pháp lý, Tạp chí Luật học số 12, tr. 13 – 19; Tác giả
Viên Thế Giang (2013), Quảng cáo nhằm mục đích cạnh tranh không lành mạnh
trong hoạt động ngân hàng ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số
2(298) tr. 73 – 79; Tác giả Viên Thế Giang (2014), Pháp luật về chống cạnh tranh
không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng của các NHTM ở Việt Nam, Luận án
Tiến sĩ ngành Luật học.
Tác giả Nguyễn Văn Tuyến (2006),“Áp dụng Luật Cạnh tranh trong lĩnh vực
ngân hàng” đăng trên Tạp chí Luật học số 06/2006; Tác giả Bùi Thanh Lâm,
(2010),“Hành lang pháp lý liên quan đến sáp nhập và thâu tóm ngân hàng ở Việt
Nam” đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 11/2010;
Một số công trình luận văn thạc sĩ như: “Giải pháp nâng cao năng lực cạnh
tranh của các NHTM Việt Nam thông qua hoạt động sáp nhập và mua lại”, Luận
văn Thạc sĩ Kinh tế, Phạm Thị Tuyết Vân, Trường Đại học Kinh tế TP.Hồ Chí
Minh, 2008; “Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Ngân hàng Đầu tư và

4
Phát triển Việt Nam đến 2015”, Luận văn Thạc sĩ Kinh tế, Đặng Hoàng An Dân,
2010…
Các công trình nghiên cứu khoa học trên đã đưa ra những bàn luận và giải
quyết được một số vấn đề về lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật, song đều
nghiên cứu ở khía cạnh nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng. Tuy nhiên, kết quả nghiên
cứu của các công trình này cũng cho thấy, vấn đề cạnh tranh giữa các NHTM mặc
dù là một trong những chế định cơ bản nhưng cũng là một trong những chế định còn
nhiều nội dung chưa đạt đến sự đồng thuận và gây tranh luận sôi nổi trong giới khoa
học và kinh doanh từ trước đến nay. Trên cơ sở kế thừa những giá trị khoa học của
các công trình nghiên cứu trước đây, Luận văn này tiếp tục đi sâu, phát triển nhằm
hoàn thiện hơn nữa pháp luật về hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành
mạnh trong hoạt động của các NHTM ở Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ một số vấn đề lý luận pháp luật về
hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động của các
NHTM Việt Nam. Từ đó, phân tích, đánh giá thực trạng, tìm ra những bất cập và đề
xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về hành vi quảng cáo nhằm cạnh
tranh không lành mạnh trong hoạt động của các NHTM ở nước ta, góp phần bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của các NHTM, các doanh nghiệp và người tiêu dùng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có các nhiệm vụ nghiên cứu sau:
Thứ nhất, luận văn hệ thống hóa các vấn đề lý luận về cạnh tranh, cạnh tranh
không lành mạnh, hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh; pháp luật
về hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động của các
NHTM Việt Nam.
Thứ hai,luận văn phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật Việt Nam hiện
hành liên quan đến hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh. Thực tiễn

5
áp dụng các quy định này trong hoạt động của các NHTM, để từ đó tìm ra những
hạn chế của pháp luật về hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh
trong hoạt động của các NHTM ở Việt Nam.
Thứ ba, luận văn nghiên cứu đề xuất các phương hướng, giải pháp góp phần
hoàn thiện pháp luật về hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh trong
hoạt động của các NHTM ở Việt Nam.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các vấn đề liên quan đến hành vi quảng
cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh; các quy định của pháp luật về hành vi
quảng cáo nhằm mục đích cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động của các
NHTM Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung:cạnh tranh không lành mạnh được thực hiện thông qua nhiều
hành vi và trong nhiều lĩnh vực hoạt động khác nhau của tổ chức.Tuy nhiên, để phù
hợp với nội dung của đề tài, luận văn chỉ giới hạn sự nghiên cứu của mình trong các
quy định của pháp luật Việt Nam về các hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh
không lành mạnh trong hoạt động của các NHTM ở Việt Nam và cơ chế xử lý các
hành vi này.
Về thời gian và không gian: Luận văn nghiên cứu các quy định của pháp luật
và thực tiễn thực hiện các quy định về hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không
lành mạnh trong hoạt động của các NHTM ở Việt Nam từ năm 2014 đến nay. Trong
quá trình nghiên cứu, có liên hệ, so sánh với quy định của một số quốc gia, khu vực
về hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để làm rõ các vấn đề nghiên cứu, luận văn đã sử dụng phương pháp luận
nghiên cứu là chủ nghĩa Mác – Lê Nin về duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Các
quan điểm của Đảng và nhà nước ta về phát triển kinh tế trong thời kì đổi mới, xây

6
dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó có phát triển
thương mại và các hoạt động cạnh tranh, xúc tiến thương mại.
Ngoài ra, để hoàn thiện luận văn, các phương pháp nghiên cứu tổng hợp dưới
đây cũng được sử dụng như:
Phương pháp so sánh luật học được sử dụng xuyên suốt đề tài nhằm đối
chiếu quy định pháp luật với các nước để tìm ra những điểm hợp lý trong các quy
định pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh nói chung và hành vi quảng
cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh nói riêng.
Phương pháp nghiên cứu tổng hợp, phân tích các tư liệu được sử dụng để
khái quát hóa rút ra những nhận xét, kết luận về từng nội dung của luận văn. Cụ thể
là phương pháp này được sử dụng để đi sâu vào tìm tòi, trình bày các hiện tượng,
quan điểm của pháp luật về hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh
trong hoạt động của các NHTM ở Việt Nam; khái quát lại để từ đó đưa ra các đánh
giá, kết luận, kiến nghị và giải pháp phù hợp nhằm hoàn thiện pháp luật về hành vi
quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động của các NHTM ở
Việt Nam.
Phương pháp hệ thống hóa: được sử dụng xuyên suốt toàn bộ luận văn nhằm
trình bày các vấn đề, nội dung trong luận văn theo một trình tự, một bố cục hợp lý,
chặt chẽ, có sự gắn kết, kế thừa, phát triển các vấn đề, nội dung để đạt được mục
đích, yêu cầu đã được xác định cho luận văn.
Phương pháp tiếp cận hệ thống, đa ngành và liên ngành khoa học xã hội nhân
văn như lịch sử, kinh tế, luật học nhằm làm rõ bản chất kinh tế, xã hội, pháp lý của
cạnh tranh không lành mạnh và pháp luật về hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh
không lành mạnh trong hoạt động của các NHTM ở Việt Nam; đánh giá mức độ
phù hợp hay không phù hợp và nhất là tính khả thi của các quy định này.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Về mặt khoa học: Đây là công trình nghiên cứu cơ bản có tính hệ thống về pháp
luật về hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động của các
NHTM ở Việt Nam hiện nay. Các kết quả nghiên cứu của luận án sẽ góp phần làm

7
sáng tỏ thêm nhiều vấn đề lý luận về hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành
mạnh và pháp luật về hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh.
Về mặt thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng để
giải quyết nhiều vấn đề mà hoạt động thực tiễn đang đặt ra trong hoạt động của các
NHTM ở Việt Nam, đây là tài liệu tham khảo cho các cơ quan lập pháp, nhà hoạch
định chính sách, cơ quan quản lý nhà nước liên quan trong việc xây dựng và thực
hiện các quy định về hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh trong
hoạt động của các NHTM ở Việt Nam. Luận văn cũng là nguồn tài liệu tham khảo
cho việc nghiên cứu, giảng dạy, học tập nhiều lĩnh vực pháp luật, đặc biệt là pháp
luật về cạnh tranh tại các cơ sở đào tạo luật và kinh tế ở nước ta.
7. Kết quả nghiên cứu của luận văn
Trên cơ sở hệ thống lý luận về hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không
lành mạnh của NHTM và hệ thống các quy định của pháp luật về vấn đề này, đề tài
đã phân tích những kết quả đạt được, những hạn chế và nguyên nhân của những hạn
chế này khi thực thi các quy định của pháp luật về hành vi quảng cáo nhằm cạnh
tranh không lành mạnh của các NHTM. Luận văn đã đề xuất các giải pháp hoàn
thiện pháp luật như: Xây dựng các tiêu chí để nhận diện hành vi quảng cáo nhằm
cạnh tranh không lành mạnh; Hoàn thiện các quy định liên quan đến việc xử lý hành
vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh của các NHTM; Hoàn thiện và sớm
ban hành Nghị định quy định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực
ngân hàng và giải pháp nâng cao khả năng thực thi pháp luật về hành vi quảng cáo
nhằm cạnh tranh không lành mạnh của các NHTM.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm có 3 chương, gồm:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về pháp luật hành vi quảng cáo nhằm cạnh
tranh không lành mạnh trong hoạt động của các NHTM
Chương 2: Thực trạng pháp luật về hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh
không lành mạnh trong hoạt động của các NHTM ở Việt Nam

8
Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về hành vi quảng
cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động của các NHTM ở Việt Nam
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT HÀNH VI QUẢNG
CÁO NHẰM CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH TRONG HOẠT ĐỘNG
CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI
1.1. Khái quát về hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh
1.1.1. Khái niệm hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh
Quảng cáo với vai trò là công cụ xúc tiến thương mại có lịch sử hình thành
từ lâu đời và cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ, quảng cáo cũng không
ngừng phát triển.
Theo Hiệp hội quảng cáo Mỹ American Advertising Association 2008, một
trong những hiệp hội quảng cáo lâu đời và có uy tín nhất trên thế giới thì quảng cáo
được hiểu là “hoạt động truyền bá thông tin trong đó nói rõ ý đồ của chủ quảng cáo,
truyền tin hàng hoá, dịch vụ của chủ quảng cáo trên cơ sở có thu phí quảng cáo”.
Theo tác giả Philip Kotler 2008: “Quảng cáo là hình thức truyền thông không
trực tiếp được thực hiện thông qua những phương tiện truyền tin phải trả tiền và xác
định rõ nguồn kinh phí”. Trong một cuốn sách khác ông viết “Quảng cáo là một
hình thức trình bày gián tiếp và khuếch trương ý tưởng, hàng hoá hay dịch vụ được
người bảo trợ nhất định trả tiền”.
Dưới góc độ pháp lý, quảng cáo cũng được đề cập đến trong các từ điển luật
học và các văn bản pháp luật.
Theo pháp luật Việt Nam, khái niệm quảng cáo cũng được đề cập trong
nhiều văn bản khác nhau. Pháp luật quảng cáo điều chỉnh hoạt động quảng cáo
chung, bao gồm quảng cáo nhằm mục đích lợi nhuận và không nhằm mục đích lợi
nhuận. Trong khi đó, Luật Thương mại chỉ điều chỉnh hoạt động quảng cáo với tư
cách là hoạt động xúc tiến thương mại. Như vậy, cho dù tiếp cận ở nhiều cách khác
nhau nhưng giữa chúng đều có điểm chung khi coi quảng cáo có bản chất thông tin.

9
Trong khoa học pháp lý, khi xác định hành vi cạnh tranh không lành mạnh
người ta thường đặt nó trong mặt đối lập với hành vi cạnh tranh lành mạnh. Cho đến
nay, cạnh tranh lành mạnh được nghiên cứu, tiếp cận, phản ánh trong nhiều học
thuyết và công trình khác nhau.
Dưới góc độ luật học, cạnh tranh lành mạnh được hiểu là “Sự ganh đua một
cách hợp pháp, trong sạch, đàng hoàng giữa các nhà kinh doanh trong cùng lĩnh
vực, ngành nghề để chiếm lĩnh thị phần mà không sử dụng thủ đoạn mờ ám, bất
chính nhằm loại bỏ đối thủ, tranh giành thị trường”. Thế nhưng, để đánh giá thế nào
là trong sạch, đàng hoàng, trung thực, công bằng là không đơn giản, bởi lẽ, các quan
điểm tiếp cận ở trên đều có chung nhận định, hành vi cạnh tranh lành mạnh phải
hợp pháp (phù hợp với quy định của pháp luật) và chuẩn mực thông thường về đạo
đức kinh doanh.
Công ước Paris 1883, về Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp cũng đề cập đến
hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Theo đó, bất kì hành động nào trái với tập
quán trung thực trong công nghiệp và thương mại đều bị coi là hành động cạnh
tranh không lành mạnh. Các hành động sẽ bị cấm nếu có dấu hiệu: (i) hành động có
khả năng gây nhầm lẫn dưới bất kì hình thức nào; (ii) những khẳng định sai lệch
trong hoạt động thương mại có khả năng gây mất uy tín của người cạnh tranh; (iii)
những chỉ dẫn hoặc khẳng định mà việc sử dụng chúng trong hoạt động thương mại
có thể gây nhầm lẫn cho công chúng về bản chất, quá trình sản xuất, tính chất, tính
thích hợp để sử dụng hoặc số lượng của hàng hoá.
Luật Cạnh tranh năm 2018 đã đưa ra khái niệm về hành vi cạnh tranh không
lành mạnh, đó là “hành vi của doanh nghiệp trái với nguyên tắc thiện chí, trung
thực, tập quán thương mại và các chuẩn mực khác trong kinh doanh, gây thiệt hại
hoặc có thể gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác”.
Nhìn chung, cách tiếp cận hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo quy định của
pháp luật Việt Nam về cơ bản là phù hợp với Công ước Pari năm 1883 về bảo hộ
quyền sở hữu công nghiệp cũng như pháp luật một số nước. Bản chất pháp lý của
hành vi cạnh tranh không lành mạnh chính là tính trái với các chuẩn mực trung thực

10
và lành mạnh trong quan hệ thương mại, gây thiệt hại chủ yếu đến doanh nghiệp là
đối thủ cạnh tranh trên thị trường liên quan.
Có thể thấy, có nhiều quan niệm khác nhau về cạnh tranh không lành mạnh
nhưng đều coi cạnh tranh không lành mạnh là những hành vi cụ thể, đơn phương, vì
mục đích của các chủ thể kinh doanh khi thực hiện hành vi là không lành mạnh (chứ
không chỉ là tính bất hợp pháp), mà hậu quả của nó là gây ra sự bất lợi hay thiệt hại
cho đối thủ cạnh tranh trong kinh doanh. Ở Việt Nam, Pháp lệnh Quảng cáo năm
2001, Luật Quảng cáo 2012, Luật Thương mại 2005 chỉ đề cập đến các hành vi
quảng cáo bị cấm, Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh là một trong số các
hành vi đó.
Trong phạm vi luận văn, khái niệm hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh
không lành mạnh được hiểu là “hành vi quảng cáo được thương nhân thực hiện
trong hoạt động kinh doanh, trái với chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh
doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và
lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc của người tiêu dùng”.
Sở dĩ phải là hành vi quảng cáo thương mại bởi vì mặc dù hoạt động quảng
cáo không tham gia vào quá trình sản xuất ra hàng hóa, nhưng có vai trò rất lớn đối
với hoạt động sản xuất, kinh doanh của các chủ thể kinh doanh.
1.1.2. Đặc điểm hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh
Thứ nhất, hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh là hành vi
quảng cáo thương mại. Với tư cách là chủ thể kinh doanh, thương nhân mong muốn
giới thiệu hàng hoá, dịch vụ của mình đến với rộng rãi công chúng. Thông qua
quảng cáo, thương nhân truyền tải thông tin về hàng hoá, dịch vụ của mình đến thị
trường, giúp cho người tiêu dùng biết nhãn hiệu, tính năng, công dụng, cách bảo
dưỡng, giá cả, cách mua và địa điểm mua hàng hoá mình mong muốn bán. Nhờ vậy,
thương nhân có thể lôi kéo, thuyết phục lượng khách hàng, tăng doanh thu và tối đa
lợi nhuận. Việc thông tin này cũng rất cần thiết cho khách hàng, giúp họ có sự so
sánh trước khi quyết định lựa chọn sản phẩm nào. Có thể nói, quảng cáo có khả
năng định hướng tiêu dùng, qua đó giúp doanh nghiệp canh tranh, giành thị phần

11
trên thị trường. Do vậy, hành vi quảng cáo thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật
Cạnh tranh phải được hiểu theo khái niệm mà Luật Thương mại đã đề cập, theo đó,
quảng cáo phải là hành vi thương mại của thương nhân.
Thứ hai, hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh là hành vi
thương mại của thương nhân trái với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh
doanh trong hoạt động quảng cáo. Trái với chuẩn mực thông thường về đạo đức
kinh doanh là căn cứ lý luận để xác định bản chất không lành mạnh của hành vi. Để
làm rõ “chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh” cần dựa vào hai căn cứ:
(i) Căn cứ luật định; (ii) Các tập quán kinh doanh, đạo đức kinh doanh thông thường
đã được thừa nhận. Khi xác định tính không lành mạnh của quảng cáo, cần dựa vào
động cơ, mục đích của hành vi trên cơ sở pháp luật cạnh tranh, pháp luật quảng cáo,
các văn bản chuyên ngành liên quan và chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh
doanh trong hoạt động quảng cáo.
Thứ ba, hậu quả của hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh là
gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích
hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng. Thiệt hại mà hành vi gây ra
có thể có thật, xác định được hoặc cũng có thể chỉ là tiềm năng, có căn cứ rằng hậu
quả chắc chắn sẽ xẩy ra nếu không ngăn chặn hành vi.
1.1.3. Phân biệt hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh với các
hành vi quảng cáo bị cấm
Trước khi Luật Cạnh tranh năm 2004 được ban hành, hoạt động quảng cáo
được điều chỉnh trực tiếp bởi Luật Thương mại 1997 và Pháp lệnh Quảng cáo 2001.
Bên cạnh việc ghi nhận quảng cáo là quyền của người kinh doanh, các văn bản pháp
luật này cũng quy định các hành vi quảng cáo bị cấm. Từ khi Luật Cạnh tranh năm
2004 ra đời và được thay thế bởi Luật cạnh tranh năm 2018, các hành vi quảng cáo
bị cấm được bổ sung thêm là hành vi quảng cáo có nội dung nhằm cạnh tranh không
lành mạnh theo quy định của pháp luật về cạnh tranh (Điều 45, Luật Cạnh tranh
năm 2018). Mặc dù, cùng là hành vi quảng cáo so sánh trực tiếp, quảng cáo đưa
thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn cho khách hàng và quảng cáo bắt chước,

12
nhưng khi xem xét các hành vi này từ phương diện là hành vi quảng cáo bị cấm
(theo Luật Quảng cáo năm 2012 và Luật Thương mại năm 2005) và phương diện là
hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh có sự khác biệt. Đối chiếu cấu
thành của hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh và các hành vi
quảng cáo so sánh trực tiếp, quảng cáo bắt chước, quảng cáo đưa thông tin gian dối
hoặc gây nhầm lẫn cho khách hàng bị cấm theo Luật Thương mại năm 2005, Luật
Quảng cáo năm 2012 và các văn bản liên quan khác có thể thấy, có một số nét khác
biệt rõ rệt như sau:
Thứ nhất, cả hành vi quảng cáo bị cấm và hành vi quảng cáo nhằm cạnh
tranh không lành mạnh đều do chủ thể thực hiện trong hoạt động kinh doanh, nhằm
thúc đẩy hoạt động mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ của mình. Tuy nhiên, sẽ
không thể khẳng định một hành vi quảng cáo là nhằm cạnh tranh không lành mạnh
nếu trên thực tế, các chủ thể không phải là “đối thủ” của nhau, không cùng thị
trường liên quan. Đây chính là dấu hiệu đầu tiên để phân biệt hai hành vi này. Đối
tượng bị mang ra để so sánh, hoặc bị bắt chước không cùng thị trường liên quan với
người quảng cáo nếu cho rằng quyền và lợi của mình bị xâm phạm thì có quyền
khởi kiện đến cơ quan có thẩm quyền về hành vi quảng cáo bị cấm theo Luật
Thương mại, Luật Quảng cáo nhưng không thể khởi kiện vụ việc cạnh tranh không
lành mạnh.
Thứ hai, rõ ràng, hành vi quảng cáo nhằm mục đích cạnh tranh không lành
mạnh không thể được thực hiện bởi lỗi vô ý. Bởi vì khi thực hiện hành vi quảng cáo
so sánh hay đưa thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn, chủ thể đã có mục đích
“nhằm cạnh tranh không lành mạnh”, có động cơ, mục đích rõ ràng, dù biết rằng,
hành vi đó trái với pháp luật, trái chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh.
Động cơ để thực hiện hành vi là gây thiệt hại cho đối thủ cạnh tranh để tối đa hóa
lợi nhuận cho mình, lôi kéo khách hàng thông qua việc tạo cho họ có nhận thức sai
lệch theo chiều hướng tích cực về hàng hóa, dịch vụ, từ đó đưa ra quyết định giao kết
hợp đồng. Các hành vi quảng cáo nhằm mục đích cạnh tranh không lành mạnh có bản
chất là việc tạo ra những lợi thế không chính đáng trong tương quan cạnh tranh trên
thị trường. Hậu quả của hành vi là điều mà người quảng cáo mong muốn xẩy ra. Trên

13
thực tế có thể bắt gặp những hành vi quảng cáo so sánhnhưng không phải nhằm mục
đích cạnh tranh, vì hàng hóa, dịch vụ của chủ thể không cùng thị trường liên quan.
Hành vi này sẽ được xem xét dưới góc độ là hành vi quảng cáo bị cấm.
Bên cạnh đó, khi thực hiện các hành vi quảng cáo bị cấm, chủ thể có thể biết
hoặc không biết mình đang thực hiện hành vi mà pháp luật cấm. Do vậy, trong cấu
thành của hành vi quảng cáo bị cấm, lỗi là không phải là yếu tố bắt buộc phải có.
1.2. Pháp luật về hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh trong
hoạt động của các ngân hàng thƣơng mại
1.2.1. Khái niệm pháp luật về hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành
mạnhtrong hoạt động của các ngân hàng thương mại
1.2.1.1. Ngân hàng thương mại và hành vi cạnh tranh không lành mạnh của các
Ngân hàng thương mại
Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh
tế. Ngân hàng bao gồm nhiều loại tuỳ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói
chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó, NHTM thường chiếm tỷ trọng lớn
nhất về quy mô tài sản, thị phần và số lượng các ngân hàng. Khoản 3 Điều 4 Luật
các TCTD 2010 đã định nghĩa: “NHTM là loại hình ngân hàng được thực hiện tất
cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của
Luật này nhằm mục tiêu lợi nhuận”. Nói cách khác, NHTM là một doanh nghiệp
kinh doanh tiền tệ, là một TCTD thực hiện huy động vốn nhàn rỗi từ các chủ thể
trong nền kinh tế để tạo lập nguồn vốn tín dụng và cho vay phát triển kinh tế, tiêu
dùng… cho xã hội.
Hoạt động ngân hàng là lĩnh vực kinh doanh đặc thù, đòi hỏi phải có những
hướng dẫn cụ thể riêng về vấn đề này. Mặc dù vậy, cho đến thời điểm hiện nay, mới
chỉ có một vài quy định rải rác trong các văn bản pháp luật về mà chưa có những
quy định chi tiết mang tính đặc thù cho lĩnh vực ngân hàng.
Luật các TCTD năm 2010 chỉ có duy nhất một quy định liên quan đến cạnh
tranh không lành mạnh của NHTM, đó là quy định về hợp tác và cạnh tranh trong
hoạt động ngân hàng (Điều 9). Theo đó, TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

14
được hợp tác và cạnh tranh trong hoạt động ngân hàng và hoạt động kinh doanh
khác theo quy định của pháp luật. Nghiêm cấm hành vi hạn chế cạnh tranh hoặc
hành vi cạnh tranh không lành mạnh có nguy cơ gây tổn hại hoặc gây tổn hại đến
việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, an toàn của hệ thống các TCTD, lợi ích
của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và giao cho Chính
phủ quy định cụ thể các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân
hàng và hình thức xử lý các hành vi này.
Từ các quy định mang tính nguyên tắc trên đây, có thể rút ra những dấu hiệu
về hành vi quảng cáo nhằm CTKLM của NHTM như sau:
– Đó là hành vi quảng cáo của các NHTM phát sinh trong hoạt động kinh
doanh ngân hàng, trái với đạo đức thông thường trong kinh doanh;
– Gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của NHTM khác hoặc với khách hàng. Về dấu hiệu này, cần quy định
hết sức thận trọng, đặc biệt là xác định như thế nào là thiệt hại hoặc có thể gây thiệt
hại, ai là người chứng minh thiệt hại.
+ Thiệt hại ở đây được hiểu là những thiệt hại về vật chất, tức là ảnh hưởng
tới doanh thu, khả năng sinh lợi trong hoạt động của đối thủ cạnh tranh và những
tổn hại về uy tín của đối thủ cạnh tranh trên thị trường. Về dấu hiệu có thể gây thiệt
hại cần xem xét kỹ lưỡng, vì hoạt động ngân hàng rất nhạy cảm với những thông tin
không tốt, những thông tin này có thể “giết chết” một NHTM cũng như gây tác
động xấu đối với xã hội, đặc biệt là bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền. Do vậy, khi
có dấu hiệu có thể gây thiệt hại, đối thủ cạnh tranh cần tìm đến một giải pháp hỗ trợ
từ phía cơ quan nhà nước có thẩm quyền để tránh thiệt hại cho cả hai bên cũng như
đối với nền kinh tế và xã hội;
+ Người phải chứng minh mức độ thiệt hại là đối thủ cạnh tranh của NHTM.
Cơ quan quản lý nhà nước trong quá trình thực thi công vụ nếu phát hiện ra hành vi
quảng cáo nhằm CTKLM thì phải báo cáo kịp thời đến NHNN, UBCTQG, Bộ
Công Thương để có biện pháp phối hợp xử lý;

15
+ Thông thường, hành vi quảng cáo nhằm CTKLM có mức độ ảnh hưởng
tiêu cực trên thị trường hẹp, thường chỉ tác động lên một số chủ thể nhất định mà
không ảnh hưởng đến một khu vực thị trường rộng như hành vi hạn chế cạnh tranh.
Tuy nhiên, đối với lĩnh vực ngân hàng, do sự khác biệt trong hoạt động nên
việc xác định mức độ ảnh hưởng của hành vi quảng cáo nhằm CTKLM trong lĩnh
vực ngân hàng cần được hiểu là trên phạm vi rộng, trên toàn bộ thị trường ngân
hàng, bởi các lý do sau:
Thứ nhất, hoạt động ngân hàng là hoạt động rủi ro cao và mang tính dây
chuyền. Do vậy, hậu quả của mà hành vi quảng cáo nhằm CTKLM gây ra thường là
rất lớn, trên diện rộng, và có nguy cơ ảnh hưởng đến toàn bộ hệ thống ngân hàng.
Thứ hai, hậu quả của hành vi quảng cáo nhằm CTKLM trong lĩnh vực ngân
hàng thường diễn ra rất nhanh chóng và khắc phục rất khó khăn. Hoạt động ngân
hàng gắn liền với phạm trù “niềm tin” – niềm tin của người gửi tiền vào ngân hàng.
Một khi niềm tin vào một ngân hàng bị một hành vi quảng cáo nhằm CTKLM làm
cho đổ vỡ thì hậu quả diễn ra rất nhanh chóng và phải mất nhiều thời gian mới phục
hồi lại được.
Thứ ba, hành vi quảng cáo nhằm CTKLM trong lĩnh vực ngân hàng có tác
động nhất định đến nền kinh tế. Hệ thống ngân hàng được coi là xương sống của
nền kinh tế, là nơi tập trung những nguồn vốn lớn của xã hội. Ngân hàng là trung
gian giữa người thừa vốn và người thiếu vốn. Vậy nên, một khi ngân hàng bị ảnh
hưởng bởi hành vi quảng cáo nhằm CTKLM thì cả người thừa vốn và người thiếu
vốn sẽ bị ảnh hưởng theo. Bên cạnh đó, mọi biến động của mỗi mắt xích trong hệ
thống ngân hàng đều gây ảnh hưởng không nhỏ đến nền kinh tế nói chung và từng
lĩnh vực có liên quan nói riêng.
Thứ tư, hoạt động ngân hàng mang tính chuyên ngành cao. Các hành vi quảng
cáo nhằm CTKLM cũng vì vậy mà mang tính chất chuyên ngành và tinh vi hơn.
Tóm lại, các dấu hiệu hành vi quảng cáo nhằm CTKLM của NHTM bao
gồm: (i) Cạnh tranh giữa các NHTM với nhau hoặc với tổ chức khác có hoạt động
ngân hàng; (ii) Hành vi trái với chuẩn mực kinh doanh ngân hàng; (iii) Hành vi gây

16
thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại cho NHTM khác, ảnh hưởng đến an toàn hệ thống
ngân hàng, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của khách hàng. Trong bối cảnh chưa có
các văn bản của NHNN quy định chi tiết về hành vi quảng cáo nhằm CTKLM giữa
các NHTM, việc chỉ ra những dấu hiệu chung của hành vi quảng cáo nhằm CTKLM
trong lĩnh vực ngân hàng để giúp nhận diện được các hành vi này là điều cần thiết.
Để làm được điều đó, có thể sử dụng các dấu hiệu hành vi quảng cáo nhằm CTKLM
được ghi nhận ở trong Luật Cạnh tranh 2018 trên cơ sở có tính đến các đặc thù của
lĩnh vực ngân hàng.
1.2.1.2. Pháp luật về hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh của các
Ngân hàng thương mại
Pháp luật cạnh tranh không phải là loại pháp luật có mục tiêu trực tiếpnhằm
nâng cao năng lực cạnh tranh của các chủ thể kinh doanh hay rộng hơn là của nền
kinh tế quốc gia. Thực chất, mục tiêu của pháp luật cạnh tranh là ngăn cản và xử lý
những hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp với động cơ cạnh tranh nhưng trái với
pháp luật, chuẩn mực đạo đức kinh doanh, tập quán kinh doanh, qua đó tìm cho
mình những lợi thế cạnh tranh mà đúng ra sẽ không có được nếu không thực hiện
hành vi vi phạm. Trong pháp luật cạnh tranh, chủ thể thực hiện các hành vi cạnh
tranh là các doanh nghiệp nói chung, những người được quyền tự do kinh doanh, tự
do sáng tạo để nâng cao năng lực cạnh tranh của mình. Pháp luật điều chỉnh hoạt
động này thuộc về luật tư. Tuy nhiên, những quy định cấm đoán, ngăn cản các hành
vi vi phạm pháp luật, trái đạo đức xã hội cũng như trình tự thủ tục, cơ chế, chế tài
xử lý các hành thuộc về các quy định của luật công. Do vậy, pháp luật cạnh cạnh
vừa mang tính chất của luật tư và mang tính chất của luật công.
Quyền tự do kinh doanh được quy định trong Hiến pháp – đạo luật cơ bản,
đạo luật gốc của Nhà nước đã tạo nền tảng quan trọng cho việc hình thành và phát
triển của khung pháp luật cho nền kinh tế thị trường. Các quan điểm về thiết lập thể
chế kinh tế thị trường phải dựa trên ba trụ cột tương ứng với các thiết chế pháp luật
cần thiết: i) Quyền tự do kinh doanh; ii) Tự do cạnh tranh và chống độc quyền –
pháp luật cạnh tranh; iii) Bảo đảm rút lui khỏi thị trường một cách có trật tự – pháp
luật phá sản. Theo Maria-Eleni K. Agoraki, Manthos D. Delis và Fotios Pasiouras

Đánh giá post

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *