10656_Pháp luật về xử lý tài sản đảm bảo tiền vay tại các tổ chức tín dụng và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Quảng Ninh

luận văn tốt nghiệp

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ

PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ TÀI SẢN ĐẢM BẢO TIỀN
VAY TẠI CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG VÀ THỰC TIỄN
ÁP DỤNG TẠI TỈNH QUẢNG NINH

Ngành: Luật kinh tế

Họ và tên học viên : Đào Xuân Tùng

Hà Nội, năm 2019
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ

PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ TÀI SẢN ĐẢM BẢO TIỀN
VAY TẠI CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG VÀ THỰC TIỄN
ÁP DỤNG TẠI TỈNH QUẢNG NINH

Ngành: Luật kinh tế
Mã số: 8380107

Họ và tên học viên : Đào Xuân Tùng
Người hướng dẫn : TS Hà Công Anh Bảo

Hà Nội, năm 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả
nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kì công trình nghiên cứu nào khác.
Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và
trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa
vụ tài chính theo quy định của trường Đại học Ngoại Thương.
Tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật, khoa sau Đại học – trường Đại
học Ngoại Thương xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

Ngƣời cam đoan

Đào Xuân Tùng

LỜI CẢM ƠN

Học viên xin gửi lời cảm ơn chân thành và tri ân sâu sắc tới Thầy, Cô và các
nhà khoa học công tác tại Khoa Luật, khoa Sau đại học- trường Đại học Ngoại
Thương đã giúp đỡ về tài liệu tham khảo, kiến thức học thuật, kinh nghiệm thực tế
để có thể hoàn thành Luận văn này. Đặc biệt, học viên xin gửi lời cảm ơn chân
thành nhất tới tiến sĩ Hà Công Anh Bảo đã nhiệt tình hướng dẫn, giúp học viên lựa
chọn đề tài nghiên cứu, hướng tiếp cận và chỉnh sửa những thiếu sót trong suốt quá
trình nghiên cứu đề tài, hoàn thiện Luận văn.
Trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn, do trình độ lý luận cũng
như kinh nghiệm thực tế của bản thân còn hạn chế, nên khó tránh khỏi những sai
sót. Vì vậy, học viên rất mong nhận được ý kiến đóng góp để luận văn được hoàn
thiện hơn nữa.

Học viên

Đào Xuân Tùng

DANH MỤC VIẾT TẮT
1. BLDS 2015: Bộ luật dân sự 2015
2. TCTD: Tổ chức tín dụng
3. TSBD: Tài sản bảo đảm
4. VAMC: Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên quản lý tài sản của
các tổ chức tín dụng Việt Nam
5. DATC: Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Mua bán nợ Việt Nam
6. NHNN: Ngân hàng nhà nước

MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC VIẾT TẮT
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU ……………………………………………………………………………………………..
1
CHƢƠNG 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÁC BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM, TÀI SẢN
BẢO ĐẢM VÀ XỬ LÝ TÀI SẢN BẢO ĐẢM TIỀN VAY TẠI CÁC TỔ CHỨC
TÍN DỤNG
……………………………………………………………………………………………………
5
1.1. Tổng quan về các biện pháp bảo đảm trong hoạt động tín dụng
……………
5
1.1.1. Khái niệm các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong hoạt động
tín dụng ………………………………………………………………………………………………….
5
1.1.2. Phân loại và đặc điểm của các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
trong hoạt động tín dụng
………………………………………………………………………….
7
1.1.3. Các yêu cầu thực hiện biện pháp bảo đảm trong hoạt động tín dụng
….
9
1.2. Khái niệm, đặc điểm pháp lý và phân loại tài sản bảo đảm tiền vay tại
các tổ chức tín dụng …………………………………………………………………………………
14
1.2.1. Khái niệm về tài sản bảo đảm tiền vay tại các tổ chức tín dụng ………..
14
1.2.2 Đặc điểm pháp lý của tài sản bảo đảm tiền vay tại các tổ chức tín dụng
…………………………………………………………………………………………………………….
16
1.2.3. Phân loại tài sản bảo đảm tiền vay tại các tổ chức tín dụng
……………..
18
1.3. Khái niệm, đặc điểm pháp lý và nguyên tắc xử lý tài sản bảo đảm khoản
vay tại các tổ chức tín dụng ……………………………………………………………………..
23
1.3.1. Khái niệm xử lý tài sản bảo đảm khoản vay tại các tổ chức tín dụng ..
23
1.3.2. Đặc điểm của xử lý tài sản bảo đảm tiền vay tại các tổ chức tín dụng .
26
1.3.3. Nguyên tắc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay các tổ chức tín dụng ……….
27
Kết luận Chƣơng 1 ……………………………………………………………………………………..
31
CHƢƠNG 2 PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ TÀI SẢN BẢO ĐẢM TIỀN VAY TẠI
CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI TỈNH QUẢNG
NINH …………………………………………………………………………………………………………
32
2.1. Pháp luật xử lý tài sản bảo đảm tiền vay tại các tổ chức tín dụng
………..
32
2.1.1. Các trường hợp xử lý tài sản bảo đảm tiền vay tại các tổ chức tín dụng
…………………………………………………………………………………………………………….
32
2.1.2. Trình tự, thủ tục xử lý tài sản bảo đảm tiền vay tại các tổ chức tín dụng
…………………………………………………………………………………………………………….
33
2.1.3. Phương pháp xử lý tài sản bảo đảm tiền vay tại các tổ chức tín dụng .
34
2.1.4. Chủ thể, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia quan hệ xử lý tài
sản bảo đảm tiền vay tại các tổ chức tín dụng ………………………………………….
39
2.1.5. Thứ tự thanh toán thu hồi nợ từ việc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay tại
các tổ chức tín dụng ………………………………………………………………………………
41
2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật xử lý tài sản bảo đảm tiền vay tại các tổ
chức tín dụng trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh …………………………………………….
42
2.2.1. Giới thiệu về hoạt động của các Tổ chức tín dụng trên địa bàn Quảng
Ninh
……………………………………………………………………………………………………..
42
2.2.2. Một số kết quả đạt được trong xử lý tài sản bảo đảm tiền vay tại các tổ
chức tín dụng trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh …………………………………………..
43
2.2.3. Hạn chế, bất cập trong quá trình xử lý tài sản bảo đảm tiền vay tại các
tổ chức tín dụng và nguyên nhân ……………………………………………………………
44
Kết luận Chƣơng 2 ……………………………………………………………………………………..
71
CHƢƠNG 3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT XỬ
LÝ TÀI SẢN BẢO ĐẢM TIỀN VAY TẠI CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG TẠI
VIỆT NAM ………………………………………………………………………………………………..
72
3.1. Định hƣớng nhằm hoàn thiện pháp luật về tài sản bảo đảm và xử lý tài
sản bảo đảm tiền vay tại các tổ chức tín dụng …………………………………………..
73
3.1.1. Hoàn thiện các quy định pháp luật về tài sản bảo đảm và xử lý tài sản
bảo đảm tiền vay tại các tổ chức tín dụng nhằm khắc phục những bất cập, kẽ
hở của pháp luật khi áp dụng vào thực tế ………………………………………………..
73
3.1.2. Hoàn thiện các quy định pháp luật về tài sản bảo đảm và xử lý tài sản
bảo đảm tiền vay tại các tổ chức tín dụng phải gắn mới việc hoàn thiện cơ
chế bảo đảm thực hiện pháp luật…………………………………………………………….
74
3.1.3. Hoàn thiện các quy định pháp luật về tài sản bảo đảm và xử lý tài sản
bảo đảm tiền vay tại các tổ chức tín dụng phải bảo đảm kích thích phát triển
kinh tế và duy trì hài hòa lợi ích chung của xã hội …………………………………..
75
3.1.4. Hoàn thiện các quy định pháp luật về tài sản bảo đảm và xử lý tài sản
bảo đảm tiền vay tại các tổ chức tín dụng phải được đặt trong một giải pháp
tổng thể đẻ hoàn thiện chế định về giao dịch bảo đảm trong hệ thống pháp
luật nói chung và pháp luật dân sự nói riêng …………………………………………..
77
3.1.5. Hoàn thiện các quy định pháp luật về tài sản bảo đảm và xử lý tài sản
bảo đảm tiền vay tại các tổ chức tín dụng phải có sự tương thích với pháp
luật của các nước trong điều kiện hội nhập quốc tế………………………………….
78
3.2. Một số giải pháp nhằm thúc đẩy quá trình xử lý tài sản tiền vay tại tại
các tổ chức tín dụng tại Quảng Ninh ………………………………………………………..
79
3.2.1. Hoàn thiện mô hình quản lý rủi ro tín dụng, trong đó có quản lý rủi ro
của tài sản bảo đảm
……………………………………………………………………………….
79
3.2.2. Các tổ chức tín dụng phải tăng cường vai trò của công tác kiểm tra,
kiểm soát nội bộ …………………………………………………………………………………….
80
3.2.3. Các tổ chức tín dụng phải nâng cao công tác bồi dưỡng cán bộ
……….
81
3.2.4. Tăng cường sự phối hợp giữa các tổ chức tín dụng với các cơ quan tƣ
pháp, đặc biệt là cơ quan thi hành án trong công tác xử lý tài sản bảo đảm ….
82
3.3. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về tài sản bảo đảm và xử lý
tài sản bảo đảm tiền vay tại các tổ chức tín dụng tại Việt Nam ………………….
83
3.3.1. Nhóm các kiến nghị liên quan đến hoàn thiện pháp luật về tài sản bảo
đảm ………………………………………………………………………………………………………
83
3.3.2. Nhóm các kiến nghị liên quan đến hoàn thiện pháp luật về xử lý tài
sản đảm bảo tiền vay ……………………………………………………………………………..
86
3.3.3. Nhóm các kiến nghị tới các cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhằm
hoàn thiện pháp luật về xử lý tài sản đảm bảo tiền vay tại các tổ chức tín
dụng
……………………………………………………………………………………………………..
90
3.3.4. Kiến nghị với Ngân Hàng Nhà Nước
…………………………………………….
91
Kết luận chƣơng 3 ………………………………………………………………………………………
92
KẾT LUẬN CHUNG ………………………………………………………………………………….
93
TÀI LIỆU THAM KHẢO …………………………………………………………………………..
94

1
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong những năm trở lại đây, hệ thống các tổ chức tín dụng nói chung, hệ
thống ngân hàng tại Việt Nam nói riêng phát triển nhanh và cung cấp một lượng
vốn khá lớn cho các nhu cầu đầu tư và tiêu dùng. Các hoạt động dịch vụ ngày một
đa dạng, phong phú và tiện ích hơn. Nhiều cơ chế chính sách tiền tệ, tín dụng đã đi
vào cuộc sống, nhiều đổi mới về tổ chức và công nghệ đã được triển khai. Tuy
nhiên, những biểu hiện của sự phát triển thiếu bền vững cũng không ít.
Một trong những hoạt động chiếm đến gần 80% doanh thu của các tổ chức
tín dụng tại Việt Nam là cung ứng tín dụng. Cung ứng tín dụng là nội dung cơ bản
và cốt lõi nhất trong các hoạt động truyền thống của hệ thống ngân hàng và các tổ
chức tín dụng. Cung ứng tín dụng là hoạt động mang tính phức tạp và ẩn chứa rủi ro
cao. Vì vậy, nhiệm vụ đầu tiên của các tổ chức tín dụng là đưa ra các biện pháp bảo
vệ nguồn vốn của mình và giảm thiểu tối đa rủi ro trong hoạt động tín dụng.
Sau giai đoạn tăng trưởng nóng của thời kì đầu hội nhập thì thị trường tín
dụng Việt Nam đã rơi vào trạng thái kém ổn định. Đặc biệt là lãi suất trên thị trường
biến động bất thường và khó kiểm soát đã dẫn đến việc Ngân hàng nhà nước buộc
phải áp dụng biện pháp hành chính áp đặt mức lãi suất trần. Sự tăng trưởng quá
nóng này dẫn tới hệ quả quy mô tín dụng cung ứng vượt quá năng lực của các tổ
chức tín dụng. Đi kèm với đó là năng lực quản trị rủi ro kém hiệu quả, dẫn đến nợ
xấu gia tăng. Bên cạnh đó là mối nguy hiểm của mối liên thông giữa các thị trường
tín dụng ngân hàng – chứng khoán – bất động sản chưa được nhận thức đầy đủ, đã
khiến cho hệ thống các tổ chức tín dụng Việt Nam không có rào cản cần thiết. Các
tổ chức tín dụng mở rộng cho vay đối với các hoạt động kinh doanh chứng khoán và
bất động sản nhưng không lường hết được rủi ro. Bởi vậy, cùng với sự đi xuống của
thị trường chứng khoán và bất động sản, tín dụng ngân hàng nhanh chóng rơi vào
trạng thái khó khăn, nợ xấu tăng nhanh. Hợp đồng tín dụng phá vỡ vì người đi vay
không còn khả năng trả nợ. Xử lý tài sản bảo đảm tiền vay thực sự trở thành là hoạt
động quan trọng trong hoạt động cung ứng tín dụng. Việc xử lý tài sản bảo đảm tiền

2
vay tuy không phải là cái đích cuối cùng mà các bên trong quan hệ tín dụng hướng
tới. Tuy nhiên, xử lý tài sản bảo đảm tiền vay là biện pháp tối ưu nhất và quan trọng
để thu hồi vốn của tổ chức tín dụng khi mà hợp đồng tín dụng không được thực hiện
theo đúng thỏa thuận giữa các bên giao kết hợp đồng. Tuy nhiên, hiện nay việc xử
lý tài sản bảo đảm vẫn gặp nhiều khó khăn, nguyên nhân là từ phía người vay, tổ
chức tín dụng, các quy định của pháp luật, trình tự thủ tục xử lý tài sản bảo đảm các
các cơ quan thi hành án còn rườm rà.
Vì vậy, việc nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện về xử lý tài sản
bảo đảm tiền vay là một vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc trong bối
cảnh nền kinh tế hiện nay. Đây là lý do cơ bản để tác giả lựa chọn đề tài: Pháp luật
về xử lý tài sản đảm bảo tiền vay tại các tổ chức tín dụng và thực tiễn áp dụng
tại tỉnh Quảng Ninh để làm đề tài nghiên cứu cho luận văn cao học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Liên quan đến việc nghiên cứu các quy định của pháp luật về bảo đảm tiền
vay, đã có một số đề tài khoa học nghiên cứu về các quy định và thực tiễn áp dụng
biện pháp bảo đảm tiền vay như:
• Lê Thị Thu Ánh (2015), “Thực tiễn áp dụng pháp luật về bảo đảm tiền vay
bằng tài sản thế chấp của bên thứ ba tại ngân hàng thương mại ở Việt Nam”, luận
văn thạc sỹ, Khoa Luật – Đại học Quốc Gia Hà Nội
Liên quan đến việc nghiên cứu các quy định về xử lý tài sản bảo đảm có
một số đề tài như:
• Trần Thị Thu Trang (2013) “Pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm trong hoạt
động cho vay của các ngân hàng thương mại, thực tiễn áp dụng tại ngân hàng
thương mại cổ phần công thương Việt Nam – Chi nhánh Đống Đa”, luận văn thạc
sỹ, Khoa Luật – Đại học Quốc Gia Hà Nội,
• Đỗ Thanh Huyền, Xử lý tài sản bảo đảm tiền vay là bất động sản của ngân hàng
thương mại ở Việt Nam, luận văn thạc sĩ, Khoa Luật – Đại học Quốc Gia Hà Nội,
• Nguyễn Thanh Vân (2014), “Pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay từ
thực tiễn tại ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương Việt Nam”, luận văn thạc
sỹ, Học viện Khoa học xã hội,

3
• Hoàng Thị Quỳnh Trang (2013), “Pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng bất
động sản tại ngân hàng thương mại ở Việt Nam”, luận văn thạc sỹ, Khoa Luật – Đại
học Quốc Gia Hà Nội,
Ngoài ra, nhiều bài báo, công trình nghiên cứu khác về bảo đảm tiền vay, tài
sản bảo đảm và xử lý tài sản bảo đảm đã được công bố. Tuy nhiên, chưa có công
trình nghiên cứu nào nghiên cứu một cách sâu sắc về xử lý tài sản bảo đảm dưới góc
độ thực tiễn thi hành tại Quảng Ninh. Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn này,
học viên mong muốn làm rõ hơn các biện pháp xử lý tài sản bảo đảm và thực tiễn
thi hành các quy định pháp luật cũng như đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện
pháp luật về tài sản bảo đảm, xử lý tài sản bảo đảm trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm rõ các vấn đề lý luận và thực tiễn
về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay từ thực tiễn xử lý tài sản bảo đảm tiền vay trên địa
bàn tỉnh Quảng Ninh để từ đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về xử lý tài
sản bảo đảm tiền vay ở Việt Nam. Để đạt được mục đích nghiên cứu như trên,
nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn là: (i) Nghiên cứu các vấn đề lý luận về các biện
pháp bảo đảm, tài sản bảo đảm và xử lý tài sản bảo đảm tiền vay; (ii) Tìm hiểu thực
trạng quy định pháp luật về tài sản bảo đảm, xử lý tài sản bảo đảm tiền vay và thực
tiễn thi hành pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay tại Quảng Ninh; (iii) Kiến
nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay tại
các tổ chức tín dụng ở Việt Nam.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quan điểm khoa học, các học
thuyết về các biện pháp bảo đảm nghĩa vụ dân sự nói chung và bảo đảm nghĩa vụ
hoàn trả tiền vay cũng như việc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay nói riêng; các quy
định pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay và thực tiễn thực hiện các quy định
này trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn tập trung vào việc làm rõ cơ sở lý luận, cơ
sở pháp lý và cơ sở thực tiễn của việc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay để từ đó đề

4
11xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả xử lý tài sản
bảo đảm tiền vay ở Việt Nam.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phối hợp các phương pháp nghiên cứu cụ thể trong khoa
học xã hội và nhân văn như: phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp so
sánh, đối chiếu để giải quyết các vấn đề lý luận và thực tiễn thuộc phạm vi nghiên
cứu của đề tài.
6. Ý nghĩa khoa học và những đóng góp mới của đề tài
Kết quả nghiên cứu của luận văn thể hiện những đóng góp mới sau đây:
Thứ nhất, luận văn làm rõ cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý và cơ sở thực tiễn của
tài sản bảo đảm và việc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay để từ đó tạo tiền đề cho việc
đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật về xử lý
tài sản bảo đảm tiền vay ở Việt Nam.
Thứ hai, luận văn đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật và tổ chức thực
hiện pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay ở Việt Nam trên cơ sở khảo sát từ
thực tiễn tại địa bàn một địa phương cụ thể là tỉnh Quảng Ninh
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được
thiết kế gồm 3 chương như sau:
Chương 1: Lý luận về các biện pháp bảo đảm, tài sản đảm bảo và xử lý
tài sản bảo đảm tiền vay tại các Tổ chức tín dụng
Chương 2: Pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay tại các tổ chức tín
dụng và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Quảng Ninh
Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật xử lý tài sản bảo
đảm tiền vay tại các tổ chức tín dụng tại Việt Nam

5
CHƢƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÁC BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM, TÀI SẢN BẢO ĐẢM VÀ
XỬ LÝ TÀI SẢN BẢO ĐẢM TIỀN VAY TẠI CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG
1.1. Tổng quan về các biện pháp bảo đảm trong hoạt động tín dụng
1.1.1. Khái niệm các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong hoạt
động tín dụng
Việc xác lập và thực hiện các giao dịch dân sự trước hết là dựa vào sự tự giác
của các bên tham gia. Nhưng thực tế, không phải bất cứ ai khi tham gia giao dịch
dân sự đều có thiện chí trong việc thực hiện nghiêm chỉnh các nghĩa vụ của mình.
Trong một quan hệ nghĩa vụ, người có quyền được chủ động yêu cầu người có nghĩa
vụ phải thực hiện nghĩa vụ của họ hoặc không được thực hiện một công việc nhất
định; và chỉ khi nào công việc đó được thực hiện đúng thì người có quyền mới thực
hiện được lợi ích của mình. Tuy nhiên, về cách thức thì biện pháp thực hiện nghĩa
vụ dân sự và việc thực hiện hay không thực hiện như thế nào lại phụ thuộc vào hành
vi của người có nghĩa vụ. Nói cách khác, quyền chủ động của người có quyền rơi
vào thế bị động bởi phải phụ thuộc vào hành vi của người khác.
Nhằm khắc phục tình trạng trên và tạo cho bên có quyền trong các quan hệ
nghĩa vụ có được thế chủ động được hưởng quyền dân sự, pháp luật cho phép các
bên có thỏa thuận đặt ra các biện pháp bảo đảm việc giao kết hợp đồng cũng như
việc thực hiện các nghĩa vụ dân sự. Thông qua các biện pháp này, người có quyền
có thể chủ động tiến hành các hành vi của mình để có thể tác động trực tiếp đến tài
sản của phía bên kia, nhằm thỏa mãn quyền lợi của mình khi đến thời hạn mà phía
bên kia không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ.
Trong pháp luật thực định Việt Nam, không có điều khoản nào đưa ra khái
niệm các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Để bảo đảm cho quyền và
lợi ích của các chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng được thực hiện, Bộ luật dân sự
năm 2015 đã ghi nhận 9 biện pháp bảo đảm nghĩa vụ dân sự tại Mục 7 chương 17
phần nghĩa vụ dân sự và hợp đồng dân sự (từ Điều 309 đến Điều 350). Điều 292 Bộ
luật dân sự 2015 quy định các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ gồm: cầm cố

6
tài sản, thế chấp tài sản, đặt cọc, ký cược, ký quỹ, bảo lưu quyền sở hữu, bảo lãnh,
tín chấp và cầm giữ tài sản.
Khi nghiên cứu về khái niệm bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, xuất hiện
một vài quan điểm khác nhau. Quan điểm thứ nhất cho rằng, bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ dân sự là một biện pháp dân sự có “tính dự phòng” nhằm thúc đẩy việc
thực hiện đúng nghĩa vụ theo cam kết hoặc theo quy định của pháp luật. Bên cạnh
đó, biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự còn có tính bắt buộc đối với tất cả
các bên trong giao dịch và được bảo đảm bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước.
Quan điểm khác lại cho rằng, biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự là loại
trách nhiệm dân sự đặc biệt trong đó các bên có thể thỏa thuận phạm vi trách nhiệm,
mức độ trách nhiệm và cả các biện pháp thực hiện, áp dụng; có thể tự mình thực
hiện, áp dụng trách nhiệm đó. Như vậy, bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự được
hiểu theo 2 phương diện:
– Phương diện khách quan: bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự là sự quy định
của pháp luật, cho phép các chủ thể trong giao dịch dân sự hoặc các quan hệ dân sự
khác áp dụng các biện pháp mà pháp luật cho phép để bảo đảm cho một nghĩa vụ
chính được thực hiện đồng thời xác định và bảo đảm quyền, nghĩa vụ của các bên
trong các biện pháp đó.
– Phương diện chủ quan: bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự là việc thỏa
thuận giữa các bên nhằm đặt ra các biện pháp tác động mang tính chất dự phòng để
bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ, đồng thời ngăn ngừa và khắc phục những hậu
quả xấu do việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ gây ra.
Tóm lại, bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự là sự thỏa thuận của các bên
trong việc lựa chọn và áp dụng một hoặc một số biện pháp nhất định nhằm bảo đảm
quan hệ nghĩa vụ mà họ đang tham gia. Biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân
sự là các phương thức dự phòng, do các bên chủ thể thỏa thuận lựa chọn hoặc phát
sinh trên cơ sở do pháp luật quy định để bảo đảm lợi ích của bên có quyền bằng
cách cho phép bên có quyền được xử lý những tài sản thuộc sở hữu của bên có
nghĩa vụ để khấu trừ giá trị nghĩa vụ trong trường hợp nghĩa vụ đó bị vi phạm. Các
biện pháp này góp phần bảo đảm cho các quyền và nghĩa vụ đã thỏa thuận trong hợp

7
đồng được thực hiện, nói cách khác bảo đảm cho các quan hệ hợp đồng được thực
hiện theo đúng quy định của pháp luật và đúng thỏa thuận đặt ra. Đây chính là một
trong những cơ sở để xây dựng một xã hội ổn định và phát triển về mọi mặt.
1.1.2. Phân loại và đặc điểm của các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa
vụ trong hoạt động tín dụng
Bộ luật dân sự 2015 quy định 9 biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự tại
điều 292 bao gồm: Thế chấp tài sản, bảo lãnh, cầm cố tài sản, đặt cọc, kí cược, kí quỹ,
bảo lưu quyền sở hữu, tín chấp và cầm giữ tài sản. So với bộ luật dân sự 2005, BLDS
2015 bổ sung thêm hai biện pháp bảo đảm mới là: bảo lưu quyền sở hữu và cầm giữ tài
sản. Phạm vi chế định các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong BLDS 2015 bao
trùm cả các biện pháp bảo đảm đối vật (cầm cố, thế chấp, đặt cọc, ký cược, ký quỹ, bảo
lưu quyền sở hữu, cầm giữ tài sản) và biện pháp bảo đảm đối nhân (bảo lãnh, tín chấp).
Chế định cũng điều chỉnh cả các biện pháp bảo đảm được xác lập trên cơ sở thỏa thuận
và biện pháp bảo đảm phát sinh do luật định.
Đặc điểm của các biện pháp bảo đảm đối vật phát sinh theo thỏa thuận là xác
lập một vật quyền của bên nhận bảo đảm trên tài sản bảo đảm thông qua hợp đồng,
vì vậy quyền của bên nhận bảo đảm bằng tài sản mang tính chất phức hợp: vừa có
tính chất vật quyền, vừa có tính chất trái quyền. Tính chất vật quyền được thể hiện ở
hai điểm:
– Thứ nhất, khi xảy ra sự kiện vi phạm của bên có nghĩa vụ được quy định
trong hợp đồng bảo đảm, bên nhận bảo đảm được thực thi quyền trực tiếp trên tài
sản bảo đảm (quyền xử lý tài sản bảo đảm) mà không phụ thuộc vào ý chí của bên
bảo đảm (không cần sự đồng ý, hợp tác của bên bảo đảm). Vật quyền bảo đảm cho
phép chủ thể thực hiện quyền của mình đối với tài sản ngay cả khi tài sản đó đang
thuộc sự chiếm hữu của chủ thể khác. Như vậy, giống như các vật quyền khác, vật
quyền bảo đảm cho phép người có quyền đối vật được phép thực hiện quyền của
mình trên vật bất kể vật đang nằm trong tay ai.
– Thứ hai, tuy quyền của bên nhận bảo đảm được xác lập trên cơ sở hợp đồng
giao dịch bảo đảm, nhưng nó không chỉ có hiệu lực giữa hai bên trong hợp đồng, mà
còn có hiệu lực đối kháng với bên thứ ba không tham gia vào giao dịch bảo đảm khi

8
thỏa mãn các điều kiện nhất định. Điều này có nghĩa, khi vật quyền bảo đảm đã được
công khai với bên thứ ba (thông qua cơ chế đăng ký hoặc chiếm giữ tài sản) thì quyền
ưu tiên chính thức được xác lập lên tài sản, mà không phụ thuộc vào ý chí của chủ thể
nhận bảo đảm sau. Như vậy, khi vật quyền đã được xác lập hợp pháp thì tất cả các
chủ thể, dù với tư cách nào cũng phải tôn trọng quyền năng của người có vật quyền đã
được xác lập hợp pháp, phù hợp với các điều kiện do pháp luật quy định.
Trong khi đó, bản chất của biện pháp bảo đảm đối nhân (bảo lãnh, tín chấp)
là có thêm một bên thứ ba cam kết với bên có quyền sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho
bên có nghĩa vụ nếu bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng
nghĩa vụ. Trong trường hợp này, mức độ bảo đảm thực hiện nghĩa vụ được xem xét
theo nhiều phương diện như về tư cách, độ tin cậy và khả năng của bên thứ ba này.
Bên nhận bảo đảm không xác lập một vật quyền nào trên tài sản cụ thể của bên bảo
đảm, do đó không đặt ra vấn đề xử lý tài sản của bên bảo lãnh hay thứ tự ưu tiên
giữa bên nhận bảo lãnh với bên nhận bảo đảm bằng tài sản.
Với bản chất là một tổ chức kinh tế đặc thù có chức năng kinh doanh tiền
tệ, các tổ chức tín dụng thực hiện hoạt động kinh doanh của mình thông qua các
quan hệ tín dụng, từ các quan hệ này mối quan hệ giữa các tổ chức tín dụng với các
tổ chức, cá nhân được thiết lập và phát triển, gắn các tổ chức tín dụng gần với các
hoạt động sản xuấ kinh doanh trong xã hội. Nếu không có những thiết chế cơ bản để
bảo đảm các khoản tiền vay và cho vay hiệu quả, các tổ chức tín dụng sẽ tự đặt
mình trước những rủi ro khó lường đối với một loại hàng hóa đặc biệt vốn dĩ đã
chứa đựng rất nhiều rủi ro. Những thiết chế cơ bản về các biện pháp bảo đảm trong
Bộ luật Dân sự 2015 sẽ được các tổ chức tín dụng lựa chọn, tuy nhiên trong số chín
biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự bao gồm: cầm cố tài sản, thế chấp tài
sản, đặt cọc, ký cược, ký quỹ, bảo lãnh, tín chấp… thì các biện pháp cầm cố,
thế chấp và bảo lãnh được các tổ chức tín dụng ưu tiên sử dụng nhiều hơn cả. Sở dĩ
các biện pháp cầm cố, thế chấp và bảo lãnh được các tổ chức tín dụng ưu tiên sử
dụng nhiều hơn các biện pháp còn lại bởi lẽ các biện pháp bảo đảm cầm cố, thế chấp
và bảo lãnh có chung đặc điểm là sử dụng tài sản cụ thể của chính khách hàng vay,
của bên cầm cố/thế chấp hoặc bên bảo lãnh để đảm bảo thi hành nghĩa vụ trả nợ, khi

9
khách hàng vay vi phạm nghĩa vụ trả nợ thì tài sản bảo đảm cho khoản vay sẽ được
xử lý để thu hồi nợ cho tổ chức tín dụng. Như vậy, khi xảy ra rủi ro tín dụng liên
quan đến các khoản vay, thì phương thức xử lý tài sản của 03 biện pháp nêu trên
đem lại được hiệu quả cao hơn so với 06 biện pháp bảo đảm còn lại. Bộ luật Dân sự
2015 và Nghị định số 102/2017/NĐ-CP của Chính phủ về đăng kí các biện pháp
bảo đảm tiền tiền vay của các TCTD cũng đã tập trung hướng dẫn cụ thể về các
biện pháp bảo đảm cầm cố, thế chấp và bảo lãnh để các Tổ chức tín dụng có thể dễ
dàng áp dụng vào thực tế.
1.1.3. Các yêu cầu thực hiện biện pháp bảo đảm trong hoạt động tín dụng
1.1.3.1. Phạm vi nghĩa vụ được bảo đảm
Nghĩa vụ được bảo đảm là nghĩa vụ dân sự mà bên có nghĩa vụ trong quan hệ
nghĩa vụ bảo đảm phải thực hiện trước bên có quyền, bao gồm nghĩa vụ chuyển
giao vật, nghĩa vụ chuyển giao quyền, chuyển giao giấy tờ có giá, trả tiền và một số
nghĩa vụ thực hiện công việc khác.
Khoản 1, điều 293, bộ luật dân sự 2015 quy định: “Nghĩa vụ có thể được bảo
đảm một phần hoặc toàn bộ theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật; nếu
không có thỏa thuận và pháp luật không quy định phạm vi bảo đảm thì nghĩa vụ coi
như được bảo đảm toàn bộ, kể cả nghĩa vụ trả lãi, tiền phạt và bồi thường thiệt
hại”. Điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 là toàn bộ nghĩa vụ ở đây ngoài
nghĩa vụ trả lãi và bồi thường thiệt hại còn bổ sung thêm nghĩa vụ trả tiền phạt. Đây
là một điểm mới rất tích cực của BLDS 2015 bởi nếu theo quy định của BLDS 2005
thì nghĩa vụ trả tiền phạt không được coi thuộc phạm vi bảo đảm, như vậy sẽ rất bất
lợi cho bên có quyền trong trường hợp bên có nghĩa vụ có hành vi vi phạm nhưng
nghĩa vụ trả tiền phạt lại không nằm trong phạm vi nghĩa vụ bảo đảm.
1.1.3.2. Bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong tương lai
Bộ luật dân sự 2015 đã bổ sung thêm quy định về thực hiện nghĩa vụ trong
tương lai. Theo đó, khoản 3, điều 293 quy định: “Trường hợp bảo đảm nghĩa vụ
trong tương lai thì nghĩa vụ được hình thành trong thời hạn bảo đảm là nghĩa vụ
được bảo đảm, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”. Bảo đảm nghĩa vụ trong tương
lai là nghĩa vụ dân sự mà giao dịch dân sự làm phát sinh nghĩa vụ đó, được xác lập

10
sau khi giao dịch bảo đảm được giao kết. BLDS 2005 không có quy định nào về bảo
đảm nghĩa vụ trong tương lai mà chỉ quy định các bên có quyền thỏa thuận về các
biện pháp bảo đảm nghĩa vụ dân sự để bảo đảm thực hiện các loại nghĩa vụ, kể cả
nghĩa vụ hiện tại, nghĩa vụ trong tương lai hoặc nghĩa vụ có điều kiện. Ngoài ra, tại
điều 294 BLDS 2015 quy định:
• Trường hợp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong tương lai, các bên có quyền
thỏa thuận cụ thể về phạm vi nghĩa vụ được bảo đảm và thời hạn thực hiện nghĩa vụ
được bảo đảm, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
• Khi nghĩa vụ trong tương lai được hình thành, các bên không phải xác lập
lại biện pháp bảo đảm đối với nghĩa vụ đó.”
Cũng giống như các loại nghĩa vụ khác, đối với nghĩa vụ hình thành trong
tương lai BLDS 2015 quy định theo hướng tôn trọng sự thỏa thuận tích cực của các
bên trong quan hệ dân sự bằng việc đặt quyền thỏa thuận của các bên trước quy định
pháp luật: “… các bên có quyền thỏa thuận cụ thể về phạm vi nghĩa vụ được bảo đảm
và thời hạn thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm, trừ trường hợp pháp luật có quy định
khác”. Để tạo thuận lợi cho các bên tham gia giao dịch bảo đảm và tránh rủi ro cho
các bên, khoản 2 của Điều luật đã quy định khi nghĩa vụ trong tương lai được hình
thành, các bên không phải xác lập lại biện pháp bảo đảm đối với nghĩa vụ đó.
1.1.3.3. Hiệu lực đối kháng với người thứ ba
Khái niệm hiệu lực đối kháng với người thứ ba là khái niệm lần đầu tiên
được đề cập trong Bộ luật Dân sự năm 2015 liên quan đến giao dịch bảo đảm. Tuy
nhiên, đây không phải là quy định mới. Bản chất của quy định này chính là đăng ký
giao dịch bảo đảm có giá trị pháp lý đối với người thứ ba, được quy định tại Điều
323 BLDS năm 2005. Tuy nhiên, tại khoản 1,2 Điều 297 BLDS 2015 đã thay bằng
“hiệu lực đối kháng với người thứ ba”:
Khi giao dịch bảo đảm được xác lập hợp pháp thì quyền và nghĩa vụ giữa các
bên trong trong giao dịch bảo đảm không chỉ phát sinh đối với các chủ thể trực tiếp
tham gia giao dịch (bên nhận bảo đảm và bên bên bảo đảm) mà trong những trường
hợp luật định còn phát sinh hiệu lực và có giá trị pháp lý đối với cả người thứ ba
không phải là chủ thể trong giao dịch bảo đảm. Như vậy, người thứ ba mặc dù

11
không tham gia quan hệ giao dịch bảo đảm nhưng vẫn chịu sự ràng buộc của quan
hệ này, bởi bên nhận bảo đảm được quyền truy đòi tài sản bảo đảm và được quyền
thanh toán theo quy định tại Điều 308 của Bộ luật này và luật khác có liên quan1.
Thời điểm phát sinh hiệu lực kể từ khi đăng ký biện pháp bảo đảm hoặc bên nhận
bảo đảm nắm giữ hoặc chiếm giữ tài sản bảo đảm. Thời điểm phát sinh hiệu lực đối
kháng với người thứ ba là kể từ khi đăng kí biện pháp bảo đảm hoặc bên nhận bảo
đảm nắm giữ hoặc chiếm hữu tài sản đó. Không phải tất cả biện pháp bảo đảm
nhằm thực hiện nghĩa vụ được quy định tại điều 292 Bộ luật Dân sự 2015 đều có
thể phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba. Dựa theo các quy định của pháp
luật thì chỉ có 4 biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, bao gồm:
• Cầm cố tài sản: cầm cố tài sản có hiệu lực đối kháng với người thứ ba kể từ thời
điểm bên nhận cầm cố nắm giữ tài sản cầm cố, riêng với trường hợp cầm cố bất
động sản thì hiệu lực đối kháng với người thứ ba kể từ thời điểm đăng ký.
• Thế chấp tài sản: Thế chấp tài sản phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ
ba kể từ thời điểm đăng ký.
• Bảo lưu quyền sở hữu: Bảo lưu quyền sở hữu phát sinh hiệu lực đối kháng với
người thứ ba kể từ thời điểm đăng ký.
• Cầm giữ tài sản: cầm giữ tài sản phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba
từ thời điểm bên cầm giữ chiếm giữ tài sản.
Theo quy định tại Khoản 2 điều 297 Bộ luật Dân sự 2015 thì khi biện pháp
bảo đảm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba bên nhận bảo đảm có những
quyền lợi cụ thể như sau:
– Bên nhận bảo đảm được quyền truy đòi tài sản bảo đảm, quyền này được
thực hiện và áp dụng khi bên nhận bảo đảm không nắm giữ hoặc chiếm giữ tài sản
bảo đảm mà tài sản bảo đảm vẫn đang thuộc quản lý của bên bảo đảm hoặc do
người thứ ba chiếm giữ.
– Bên nhận bảo đảm được quyền ưu tiên thanh toán theo quy định của Điều
308 BLDS 2015. Một tài sản có thể được dùng để bảo đảm nhiều nghĩa vụ khi đáp

1 Nguyễn Thị Quỳnh Yến, Ngô Quốc Chiến, Người thứ ba trong bộ luật dân sự 2015,
https://thegioiluat.vn/bai-viet-hoc-thuat/nguoi-thu-ba-trong-bo-luat-dan-su-2015-5605/
truy
cập
ngày 1/12/2018

12
ứng đủ các điều kiện quy định tại Điều 296 BLDS 2015 và Điều 308 BLDS 2015,
quy định cụ thể về việc xác định thứ tự ưu tiên thanh toán giữa các bên cùng nhận
bảo đảm. Theo đó: Khi một tài sản được dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ thì
thứ tự ưu tiên thanh toán giữa các bên cùng nhận bảo đảm được xác định như sau:
a) Trường hợp các biện pháp bảo đảm đều phát sinh hiệu lực đối kháng với
người thứ ba thì thứ tự thanh toán được xác định theo thứ tự xác lập hiệu lực đối
kháng;
b) Trường hợp có biện pháp bảo đảm phát sinh hiệu lực đối kháng với người
thứ ba và có biện pháp bảo đảm không phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ
ba thì nghĩa vụ có biện pháp bảo đảm có hiệu lực đối kháng với người thứ ba được
thanh toán trước;
c) Trường hợp các biện pháp bảo đảm đều không phát sinh hiệu lực đối
kháng với người thứ ba thì thứ tự thanh toán được xác định theo thứ tự xác lập biện
pháp bảo đảm.
Thứ tự ưu tiên thanh toán có thể thay đổi, nếu các bên cùng nhận bảo đảm
có thỏa thuận thay đổi thứ tự ưu tiên thanh toán cho nhau. Bên thế quyền ưu tiên
thanh toán chỉ được ưu tiên thanh toán trong phạm vi bảo đảm của bên mà mình
thế quyền”.
Pháp luật hiện hành chưa làm rõ khái niệm “người thứ ba” khi quy định đăng
ký là điều kiện để quyền thế chấp có giá trị đối kháng với người thứ ba. Quy định tại
Điều 308 Bộ luật dân sự năm 2015 khiến nhiều người hiểu rằng đăng ký bảo đảm chỉ
có giá trị đối kháng giữa những người cùng nhận bảo đảm trên cùng một tài sản. Trên
thực tế còn rất nhiều các chủ thể khác có cùng lợi ích trên tài sản bảo đảm như chủ nợ
không có tài sản bảo đảm của bên bảo đảm, cơ quan thuế, quyền lợi của người lao
động khi bên thế chấp tuyên bố phá sản… Bên cạnh đó, Bộ luật dân sự năm 2015
cũng chưa làm rõ giá trị của đăng ký bảo đảm đối với người thứ ba như thế nào. Quy
định tại Điều 308 Bộ luật dân sự năm 2015 mới chỉ đề cập đến quyền được ưu tiên
thanh toán của bên nhận thế chấp đối với các chủ thể cùng nhận bảo đảm trên tài sản
thế chấp, mà không có quy định về quyền được truy đòi tài sản đó từ bất kỳ sự chiếm
giữ của ai, kể cả sự chiếm giữ của bên thế chấp là chủ sở hữu tài sản.

13
Để việc áp dụng hiệu quả quy định về hiệu lực đối kháng với người thứ ba
trong giao dịch, cụ thể là bảo đảm tài sản, pháp luật cần phải quy định rõ ràng về
khái niệm “người thứ ba” và giá trị của đăng ký bảo đảm đối với người thứ ba. Phải
xác định “người thứ ba” được dùng để chỉ các chủ thể khác ngoài mối quan hệ giữa
các chủ thể trong một giao dịch được xác lập hoặc một hợp đồng được ký kết. Như
vậy, bên nhận bảo đảm và bên bảo đảm là hai chủ thể của hợp đồng thì tất cả những
người có quyền và lợi ích liên quan đến tài sản thế chấp đều thuộc phạm vi những
người thứ ba, bao gồm: các chủ nợ không có bảo đảm của bên thế chấp, người lao
động mà bên thế chấp còn nợ lương trong trường hợp bên thế chấp phá sản, cơ quan
thuế… Giá trị pháp lý của đăng ký cần được giải thích rõ là bên nhận bảo đảm có
quyền được ưu tiên thanh toán từ việc bán tài sản bảo đảm, có quyền truy đòi tài sản
bảo đảm từ bất kỳ chủ thể nào.
1.1.3.4. Đăng kí biện pháp bảo đảm
Đăng ký biện pháp bảo đảm là việc cơ quan đăng ký ghi vào sổ đăng ký hoặc
nhập vào cơ sở dữ liệu về đăng ký. Việc đăng ký biện pháp bảo đảm được thực hiện
trên cơ sở các quy định của pháp luật về đăng ký biện pháp bảo đảm. Đối với những
biện pháp bảo đảm mà luật không quy định bắt buộc phải đăng ký thì các chủ thể tự
nguyện đăng ký để có hiệu lực đối kháng với người thứ ba. Bộ luật dân sự 2015 quy
định về đăng ký biện pháp bảo đảm mà không phải là đăng ký giao dịch bảo đảm
như sau:
“1. Biện pháp bảo đảm được đăng ký theo thỏa thuận hoặc theo quy định
của luật. Việc đăng ký là điều kiện để giao dịch bảo đảm có hiệu lực chỉ trong
trường hợp luật có quy định.
2. Trường hợp được đăng ký thì biện pháp bảo đảm phát sinh hiệu lực đối
kháng với người thứ ba kể từ thời điểm đăng ký.
3. Việc đăng ký biện pháp bảo đảm được thực hiện theo quy định của pháp
luật về đăng ký biện pháp bảo đảm.” (Điều 298, Bộ luật dân sự 2015).
Việc đăng ký là điều kiện để giao dịch bảo đảm có hiệu lực chỉ trong trường
hợp pháp luật có quy định. Giao dịch bảo đảm là sự thỏa thuận thống nhất ý chí của
các bên đã lựa chọn một biện pháp bảo đảm để bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ.

14
Khi giao dịch bảo đảm có hiệu lực pháp luật thì các bên có quyền, nghĩa vụ theo nội
dung của biện pháp bảo đảm đã lựa chọn, cho nên các bên phải đăng ký biện pháp
bảo đảm đã lựa chọn thì giao dịch bảo đảm đó mới có hiệu lực. Khi pháp luật quy
định các chủ thể xác lập biện pháp bảo đảm phải đăng ký biện pháp bảo đảm là điều
kiện làm phát sinh hiệu lực của giao dịch đã giao kết thì buộc các bên phải tuân theo.
Việc đăng ký biện pháp bảo đảm có thể do các bên thỏa thuận hoặc pháp luật
quy định. Khi biện pháp bảo đảm được đăng ký, hiệu lực đối kháng với người thứ
ba sẽ phát sinh. Quyền và lợi ích của bên nhận bảo đảm được áp dụng biện pháp
bảo đảm có đăng ký sẽ được pháp luật bảo đảm thực hiện. Ngay cả trường hợp có
tranh chấp xảy ra đối với chủ thể thứ ba thì quyền và lợi ích này vẫn được bảo vệ.
Việc đăng ký biện pháp bảo đảm được thực hiện do các bên trong quan hệ nghĩa vụ
có thể thỏa thuận về việc đăng ký biện pháp bảo đảm hoặc pháp luật có quy định bắt
buộc đăng ký biện pháp bảo đảm thì giao dịch bảo đảm mới có hiệu lực. Khi biện
pháp bảo đảm được đăng ký thì trình tự thủ tục đăng ký theo quy định của pháp luật
và được thực hiện tại các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Tùy thuộc vào loại đối
tượng của biện pháp bảo đảm thì việc đăng ký được thực hiện tại những cơ quan
nhà nước khác nhau.
1.2. Khái niệm, đặc điểm pháp lý và phân loại tài sản bảo đảm tiền vay tại
các tổ chức tín dụng
1.2.1. Khái niệm về tài sản bảo đảm tiền vay tại các tổ chức tín dụng
Tài sản bảo đảm là tài sản mà bên bảo đảm dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa
vụ dân sự đối với bên nhận bảo đảm. Tài sản bảo đảm bao gồm: Động sản (động
sản không phải đăng ký quyền sở hữu và động sản phải đăng ký quyền sở hữu) và
Bất động sản.
Tài sản đảm bảo tồn tại dưới ba hình thức chủ yếu là vật, giấy tờ có giá và
quyền tài sản -Tài sản đảm bảo là vật như phương tiện giao thông, kim khí đá quý,
máy móc thiết bị, nguyên nhiên vật liệu, hàng hóa -Tài sản đảm bảo là các giấy tờ
có giá như cổ phiếu, trái phiếu, hối phiếu, kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi,
séc, chứng chỉ quỹ, giấy tờ có giá khác theo quy định của pháp luật, trị giá được
thành tiền và được phép giao dịch- Tài sản đảm bảo là quyền tài sản như quyền tài

15
sản phát sinh từ quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đòi nợ, quyền
được nhận bảo hiểm, quyền góp vốn kinh doanh, quyền khai thác tài nguyên, lợi tức
và các quyền phát sinh từ tài sản cầm cố, các quyền tài sản khác.
Pháp luật Việt Nam hiện hành đã có những quy định tương đối rõ ràng và cụ
thể về điều kiện của tài sản bảo đảm, có tác dụng định hướng cho sự lựa chọn của
các chủ thể khi kí kết các hợp đồng bảo đảm. Pháp luật hiện hành quy định: “Tài
sản bảo đảm vẫn phải thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm và chỉ loại trừ hai biện
pháp bảo đảm là cầm giữ và bảo lưu quyền sở hữu” (khoản 1, điều 295 BLDS
2015.) Điều này được giải thích rằng, khi đưa tài sản trở thành đối tượng của các
biện pháp bảo đảm phải đảm bảo tài sản đó thuộc sở hữu của bên bảo đảm. Quy
định này loại bỏ phần nào đó rủi ro cho bên nhận bảo đảm. Phương thức thường sử
dụng để xác định quyền sở hữu của tài sản là xác nhận tài sản đó có đăng kí hay
không đăng kí quyền sở hữu theo quy định của pháp luật. Đối với tài sản có đăng kí
quyền sở hữu thì bên bảo đảm là người đứng tên chủ sở hữu trong các giấy đăng kí
quyền sở hữu tài sản với điều kiện là giấy tờ gốc, còn hiệu lực. Một trong những tài
sản bảo đảm phổ biến nhất là giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Theo các quy
định của pháp luật hiện hành, sẽ chỉ có một giấy chứng nhận thống nhất theo mẫu
của Bộ Tài Nguyên và Môi Trường ban hành là: Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, nhà và tài sản gắn liền với đất. Còn đối với tài sản không có đăng kí quyền sở
hữu hoặc pháp luật có quy định về đăng kí quyền sở hữu nhưng chưa được cấp giấy
chứng nhận đăng kí quyền sở hữu thì bên bảo đảm có thể chứng minh qua các giấy
tờ liên quan đến nguồn gốc của tài sản đó (ví dụ: Hợp đồng mua bán hàng hóa, hóa
đơn chứng từ mua bán…).
Tài sản bảo đảm có thể được mô tả chung nhưng phải xác định được. Vì tài
sản bảo đảm có thể là tài sản hiện có hoặc tài sản hình thành trong tương lai nên luật
dự liệu quy định tài sản có thể được mô tả chung nhưng phải xác định được. Mô tả
chung tức là không thể cụ thể hóa loại tài sản đó, do thực tế tài sản bảo đảm chưa
hình thành hoặc chưa hình thành một cách đồng bộ nhưng phải xác định được, tức
là có cơ chế xử lý chính xác loại tài sản đó khi phát sinh vấn đề xử lý tài sản bảo
đảm. Việc cho phép mô tả chung về tài sản bảo đảm có thể giúp cho một số loại
hình tín dụng phát triển như: tài sản bảo đảm là hàng tồn kho của các siêu thị và các

16
doanh nghiệp tư nhân hoặc tín dụng trong nông nghiệp mà tài sản bảo đảm là hoa
màu hoặc vật nuôi…Đặc biệt, quy định của pháp luật cho phép mô tả chung đối với
tài sản bảo đảm cũng tạo điều kiện cho các bên lựa chọn tài sản sẽ hình thành trong
tương lai làm tài sản bảo đảm.
Giá trị của tài sản bảo đảm có thể lớn hơn, bằng hoặc nhỏ hơn giá trị nghĩa
vụ được bảo đảm. Thông thường giá trị tài sản bảo đảm phải lớn hơn giá trị nghĩa
vụ được bảo đảm để khi xử lý tài sản bảo đảm thì số tiền thu được từ việc bán tài
sản bảo đảm để thanh toán các nghĩa vụ tài chính khác như chi phí bảo quản, chi phí
xử lý tài sản. Tuy nhiên các bên có thể thỏa thuận giá trị tài sản bảo đảm bằng hoặc
nhỏ hơn giá trị nghĩa vụ bảo đảm. Trường hợp này nếu tài sản bị xử lý thì bên nhận
bảo đảm có thể chịu thiệt hại khi bên bảo đảm không còn tài sản khác để thanh toán.
Quy định này được cho là góp phần thúc đẩy các giao dịch dân sự. Bởi vì, nếu trong
trường hợp tài sản bảo đảm bằng hoặc lớn hơn nghĩa vụ được bảo đảm thì quyền lợi
của người nhận bảo đảm sẽ được chắc chắn và giao dịch được thực hiện một cách
dễ dàng. Còn trong trường hợp tài sản bảo đảm nhỏ có giá trị hơn nghĩa vụ cần bảo
đảm thì phần nghĩa vụ chỉ được bảo đảm một phần tương ứng với giá trị tài sản bảo
đảm, phần nghĩa vụ còn lại không có bảo đảm. Tuy nhiên, bên nhận bảo đảm chấp
nhận rủi ro, đồng ý với thỏa thuận của bên bảo đảm. Đây cũng là quy định mới thể
hiện pháp luật dân sự mở rộng sự công nhận, tôn trọng tự do thỏa thuận của các chủ
thể trong quan hệ dân sự.
Các quy định của pháp luật hiện hành đã có những bước đổi mới tích cực
theo hướng mở rộng phạm vi đối tượng của tài sản bảo đảm. Tài sản bảo đảm có thể
là tài sản hiện có hoặc tài sản hình thành tương tương lai. Bộ luật Dân sự 2015 cho
phép tài sản hình thành trong tương lai được làm tài sản bảo đảm. Tài sản hình
thành trong tương lai là tài sản thuộc sở hữu của bên bảo đảm sau thời điểm nghĩa
vụ được xác lập hoặc giao dịch bảo đảm được giao kết.
1.2.2 Đặc điểm pháp lý của tài sản bảo đảm tiền vay tại các tổ chức tín dụng
Qua nghiên cứu, phân tích các quy định của pháp luật hiện hành, có thể rút ra
các đặc điểm pháp lý cơ bản của tài sản bảo đảm tiền vay tại các tổ chức tín dụng
như sau:

17
Thứ nhất, tài sản bảo đảm tiền vay phải đặt trong sự chi phối có tính logic
với chế định về quyền sở hữu. Quyền sở hữu là căn cứ hình thành nên quyền bảo
đảm tài sản, bởi chỉ có chủ sở hữu của tài sản mới có quyền dùng tài sản của mình
bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ của mình hoặc người khác. Bởi vậy, trong Bộ
luật dân sự 2015 có quy định ” Tài sản bảo đảm phải thuộc quyền sở hữu của bên
bảo đảm” (điều 295, Bộ luật dân sự 2015). Các nguyên lý trong quyền sở hữu tài
sản cũng là căn cứ để xác đinh tài sản bảo đảm, cụ thể: nguyên lý hoa lợi luôn thuộc
về chủ sở hữu của tài sản gốc nên có thể xác định tời trong thời hạn bảo đảm, hoa
lợi phát sinh từ tài sản bảo đảm sẽ thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm; chỉ khi nào
đến hạn mà có sự vi phạm nghĩa vụ thì hoa lợi thu được từ tài sản bảo đảm mới là
đối tượng dùng để khấu trừ cho giá trị nghĩa vụ vi phạm; nguyên lý phần tài sản
tăng thêm của bất động sản cũng thuộc về tài sản bảo đảm để giải quyết các trường
hợp bên bảo đảm đã đầu tư xây dựng hay trồng cây trên bất động sản đã bảo đảm tại
các TCTD. Tóm lại, việc xác định tài sản bảo đảm tiền vay đều xuất phát dựa trên
các chế định tài sản và quyền sở hữu.
Thứ hai, tài sản bảo đảm tiền vay là đối tượng của các hợp đồng tín dụng và
hợp đồng bảo đảm. Do vậy, tài sản bảo đảm phải tuân thủ tính định tính (xác định
được) và có thể chuyển giao trong các giao dịch dân sự. Tính định tính của tài sản
bảo đảm được xác định trên hai yêu tố: tính xác định về pháp lý và tính xác định về
vật lý. Nếu tài sản bảo đảm là vật, các bên phải xác định được đó là động sản hay
bất động sản, người chiếm giữ đang là ai (nếu người chiếm giữ không đồng thời là
người chủ sở hữu của tài sản thì họ có quan hệ như nào với bên bảo đảm), xác định
được giá trị của tài sản đó. Nếu tài sản bảo đảm là quyền thì cần phải xác định được
chủ thể có nghĩa vụ với quyền đó hay giấy tờ đăng kí độc quyền đối với tài sản đó.
Ngoài ra, tài sản bảo đảm còn phải đáp ứng được tính xác định về chủ sở hữu của
tài sản, tình trạng pháp lý của tài sản.
Thứ ba, tài sản bảo đảm tiền vay là căn cứ cơ bản để các bên xác lập hợp
đồng tín dụng và hợp đồng bảo đảm. Nhưng giá trị của tài sản bảo đảm mới là nội
dung và đích đến của bên nhận bảo đảm vì chỉ có giá trị của tài sản mới bù đắp
được những giá trị của nghĩa vụ bị vi phạm. Tài sản bảo đảm rất đa dạng và luôn
trong tình trạng có thể bị thay đổi, chuyển hóa từ dạng này sang dạng khác. Có thể

Đánh giá post

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *