ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC
NGÔ THỊ TRANG
THỰC TRẠNG STRESS VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ
LIÊN QUAN Ở HỌC SINH TRƯỜNG TRUNG HỌC
PHỔ THÔNG LƯƠNG PHÚ – PHÚ BÌNH
THÁI NGUYÊN
LUẬN VĂN THẠC SĨ Y HỌC
THÁI NGUYÊN – NĂM 2017
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC
NGÔ THỊ TRANG
THỰC TRẠNG STRESS VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ
LIÊN QUAN Ở HỌC SINH TRƯỜNG TRUNG HỌC
PHỔ THÔNG LƯƠNG PHÚ – PHÚ BÌNH
THÁI NGUYÊN
Chuyên ngành: Y HỌC DỰ PHÒNG
Mã số : 60 72 01 63
LUẬN VĂN THẠC SĨ Y HỌC
HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. ĐÀM THỊ BẢO HOA
THÁI NGUYÊN – NĂM 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “Thực trạng stress và một số yếu tố liên
quan ở học sinh trường trung học phổ thông Lương Phú – Phú Bình -Thái
Nguyên” là công trình nghiên cứu của riêng tôi, do tôi thực hiện dưới sự
hướng dẫn của TS Đàm Thị Bảo Hoa.
Các số liệu, kết quả trong luận văn là trung thực và chưa từng được
công bố trong bất kỳ một công trình nghiên cứu nào khác.
Tác giả luận văn
Ngô Thị Trang
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin trân trọng cảm ơn Đảng ủy, Ban giám hiệu, Phòng đào tạo,
Khoa Y tế công cộng – Trường đại học Y Dược Thái Nguyên; Đảng ủy, Ban
Giám hiệu trường Cao đẳng Y tế Thái Nguyên đã tạo điều kiện thuận lợi cho
tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn này.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới các Thầy, Cô giáo đã tận
tình giảng dạy, cung cấp kiến thức cho tôi trong quá trình học tập, nghiên
cứu và đóng góp những ý kiến vô cùng quý giá để tôi hoàn thành luận văn và
khóa học này.
Đặc biệt tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc và lời cảm ơn chân thành
tới TS Đàm Thị Bảo Hoa – người thầy đã tận tình giảng dạy, cung cấp cho tôi
những kiến thức, phương pháp luận quý báu và trực tiếp hướng dẫn tôi suốt
quá trình nghiên cứu để tôi hoàn thành luận văn này.
Với lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin chân thành cảm ơn những người thân
yêu trong gia đình đã luôn động viên, tạo mọi điều kiện thuân lợi cho tôi
trong quá trình học tập. Tôi xin gửi lời cảm ơn tới bạn bè, đồng nghiệp đã
dành cho tôi những tình cảm tốt đẹp cũng như sự giúp đỡ tận tình để tôi vượt
qua mọi khó khăn, hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình.
Thái Nguyên, tháng 10 năm 2017
Học viên
Ngô Thị Trang
KÝ HIỆU VIẾT TẮT
ĐTNC
: Đối tượng nghiên cứu
ĐTV
KAP
PCP
: Điều tra viên
: Knowledge – Attitudes – Practices
(Kiến thức, Thái độ, Thực hành)
: Trung tâm phòng chống khủng hoảng tâm lý
PVS
: Phỏng vấn sâu
SKTT
: Sức khỏe tâm thần
THPT
: Trung học phổ thông
THCS
: Trung học cơ sở
TP
: Thành phố
VTN
: Vị thành niên
WHO
: World Health Organization
(Tổ chức Y tế thế giới)
YSR
: Youth Self – Report
(Thang đo về hành vi)
DASS
: Depression – Anxiety – Stress Scale 21
(Thang đo Trầm cảm – Lo âu – Căng thẳng)
MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ ………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………. 1
Chương 1. TỔNG QUAN
………………………………………………………………………………………………………………………………………. 3
1.1. Một số khái niệm cơ bản ………………………………………………………………………………………………………………………………….. 3
1.1.1. Khái niệm về stress
……………………………………………………………………………………………………………………………………………. 3
1.1.2. Các dấu hiệu của stress …………………………………………………………………………………………………………………………………. 3
1.1.3. Nguyên nhân của stress ………………………………………………………………………………………………………………………………… 4
1.1.4. Ảnh hưởng của stress
………………………………………………………………………………………………………………………………………. 6
1.2. Thực trạng rối loạn stress ở học sinh phổ thông trên Thế giới và Việt Nam …………. 8
1.2.1. Thực trạng rối loạn stress ở học sinh phổ thông trên Thế giới
………………………….. 8
1.2.2. Thực trạng rối loạn stress ở học sinh phổ thông tại Việt Nam ………………………….. 9
1.3. Các yếu tố liên quan đến rối loạn stress ở học sinh ………………………………………………………… 12
1.3.1. Các nghiên cứu trên thế giới………………………………………………………………………………………………………………… 12
1.3.2. Các nghiên cứu tại Việt Nam ……………………………………………………………………………………………………………… 15
1.4. Công cụ sử dụng nghiên cứu stress ở học sinh – sinh viên ……………………………………… 18
1.5. Giới thiệu về địa bàn nghiên cứu
…………………………………………………………………………………………………………. 20
Chương 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ………………………. 21
2.1. Đối tượng nghiên cứu ………………………………………………………………………………………………………………………………………. 21
2.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
………………………………………………………………………………………………………. 21
2.3. Phương pháp nghiên cứu
………………………………………………………………………………………………………………………………. 21
2.4. Cỡ mẫu và kĩ thuật chọn mẫu ………………………………………………………………………………………………………………….. 21
2.5. Công cụ và vật liệu nghiên cứu
……………………………………………………………………………………………………………… 23
2.5.1. Công cụ và vật liệu dành cho nghiên cứu thực trạng stress và tác
hại tâm lý của stress sở học sinh ………………………………………………………………………………………………… 23
2.5.2. Công cụ và vật liệu dành cho nghiên cứu các yếu tố liên quan đến
stress ở học sinh ……………………………………………………………………………………………………………………………………………. 23
2.6. Kĩ thuật thu thập số liệu
…………………………………………………………………………………………………………………………………. 23
2.6.1. Đối với học sinh và cha mẹ của học sinh
………………………………………………………………………………. 23
2.6.2. Đối với giáo viên chủ nhiệm và ban lãnh đạo nhà trường ………………………………….. 24
2.7. Chỉ số nghiên cứu …………………………………………………………………………………………………………………………………………………. 24
2.7.1. Các chỉ số về thông tin chung của đối tượng nghiên cứu ……………………………………. 24
2.7.2. Mục tiêu 1: Các chỉ số về thực trạng stress ở học sinh ………………………………………….. 24
2.7.3. Mục tiêu 2: Các chỉ số về yếu tố liên quan đến stress ở học sinh ………………. 24
2.8. Phương pháp đánh giá
……………………………………………………………………………………………………………………………………… 25
2.9. Biện pháp khống chế sai số ……………………………………………………………………………………………………………………….. 26
2.10. Xử lý và phân tích số liệu
…………………………………………………………………………………………………………………………. 27
2.11. Đạo đức nghiên cứu
………………………………………………………………………………………………………………………………………… 27
Chương 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ………………………………………………………………………………………………… 28
3.1. Đặc điểm chung của đối tượng tham gia nghiên cứu ……………………………………………………. 28
3.1.1. Các thông tin chung của học sinh ………………………………………………………………………………………………….. 28
3.1.2. Thông tin chung về nhóm cha mẹ học sinh ………………………………………………………………………… 29
3.2. Thực trạng stress ở học sinh trường THPT Lương Phú – Phú Bình –
Thái Nguyên
……………………………………………………………………………………………………………………………………………………… 30
3.3. Các yếu tố liên quan
…………………………………………………………………………………………………………………………………………… 35
Chương 4. BÀN LUẬN …………………………………………………………………………………………………………………………………………. 45
4.1. Đặc điểm chung của đối tượng tham gia nghiên cứu ……………………………………………………. 45
4.1.1. Các đặc điểm chung về nhóm học sinh nghiên cứu …………………………………………………… 45
4.1.2. Các đặc điểm chung về nhóm cha mẹ học sinh ……………………………………………………………… 46
4.2. Thực trạng stress ở học sinh trường THPT Lương Phú – Phú Bình –
Thái Nguyên
……………………………………………………………………………………………………………………………………………………… 46
4.3. Một số yếu tố liên quan đến stress ở học sinh trường Trung học phổ
thông Lương Phú – Phú Bình – Thái Nguyên …………………………………………………………….. 49
4.3.1. Liên quan theo khối học, giới tính và dân tộc ………………………………………………………………….. 49
4.3.2. Liên quan giữa yếu tố gia đình và stress ở học sinh ………………………………………………….. 51
4.3.3. Liên quan giữa các yếu tố thuộc về nhà trường với stress ở học sinh
……. 53
4.3.4. Liên quan giữa các hành vi sức khỏe và stress ở học sinh …………………………………. 55
KẾT LUẬN ……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………. 57
1. Về thực trạng stress ở học sinh trường THPT Lương Phú – Phú Bình –
Thái Nguyên
……………………………………………………………………………………………………………………………………………………… 57
2. Một số yếu tố liên quan đến stress ở học sinh trường THPT Lương Phú
– Phú Bình – Thái Nguyên
……………………………………………………………………………………………………………….. 57
KHUYẾN NGHỊ
……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………… 58
TÀI LIỆU THAM KHẢO
…………………………………………………………………………………………………………………………………………..
PHỤ LỤC
…………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
DANH MỤC BẢNG
Bảng 3.1. Đặc điểm về thông tin chung của học sinh
……………………………………………………………… 28
Bảng 3.2. Đặc điểm chung về nhóm cha mẹ học sinh ……………………………………………………………. 29
Bảng 3.3. Mức độ stress theo khối học
……………………………………………………………………………………………………. 31
Bảng 3.4. Các đặc điểm của stress theo thang đo DASS 21 ……………………………………………. 32
Bảng 3.5. Tỷ lệ lo âu và trầm cảm ở học sinh do stress theo thang DASS 21 ………. 32
Bảng 3.6. Đặc điểm của lo âu do stress theo thang DASS 21 ……………………………………….. 33
Bảng 3.7. Đặc điểm của trầm cảm do stress theo thang DASS 21
……………………………. 33
Bảng 3.8. Phân bố stress theo giới, dân tộc
………………………………………………………………………………………… 35
Bảng 3.9. Phân bố stress theo khối học
…………………………………………………………………………………………………… 35
Bảng 3.10. Phân tích đặc điểm giới tính của học sinh mắc stress theo khối lớp
…………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………… 36
Bảng 3.11. Mối liên quan giữa học thêm ngoài trường với stress ở học sinh..36
Bảng 3.12. Phân bố stress theo dự định tương lai của học sinh …………………………………… 37
Bảng 3.13. Phân bố stress theo đặc điểm của cha mẹ học sinh
…………………………………….. 37
Bảng 3.14. Phân bố stress theo các yếu tố gia đình …………………………………………………………………… 39
Bảng 3.15. Phân bố stress theo cảm nhận của học sinh về nhà trường
………………… 40
Bảng 3.16. Phân bố stress theo các yếu tố về nhà trường …………………………………………………… 41
Bảng 3.17. Phân bố stress theo các hành vi sức khỏe
……………………………………………………………… 42
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 3.1. Tỷ lệ stress ở học sinh
……………………………………………………………………………………………….. 30
Biểu đồ 3.2. Mức độ stress ở học sinh
…………………………………………………………………………………………. 30
Biểu đồ 3.3. Đặc điểm kiến thức, thái độ, thực hành của cha mẹ học sinh
về chăm sóc rối loạn stress ở học sinh
………………………………………………………….. 38
DANH MỤC HỘP KẾT QUẢ ĐỊNH TÍNH
Hộp 3.1. Các ý kiến về rối loạn stress ở học sinh ………………………………………………………………. 34
Hộp 3.2. Các ý kiến về mối quan hệ của học sinh tại lớp / trường
……………………….. 43
Hộp 3.3. Ý kiến về các hoạt động ngoại khóa, thể thao, năng khiếu ………………….. 44
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Stress là một biểu hiện thường gặp trong cuộc sống và là một trong
những vấn đề sức khoẻ đáng kể nhất trong xã hội hiện đại và thế kỷ 21 [47].
Stress là mối tương quan giữa tác nhân kích thích và phản ứng của cơ thể.
Nếu đáp ứng của cơ thể với các yếu tố stress không thích hợp và cơ thể không
tạo ra được một cân bằng mới, thì chức năng của cơ thể ít nhiều bị ảnh hưởng,
xuất hiện các dấu hiệu rối loạn tâm lý như: mất ngủ, đau đầu, buồn phiền, trầm
cảm, sợ hãi, lo âu, tức giận… thậm chí dẫn đến hành vi tự sát [5], [10], [12], [17].
Theo thống kê của Trung tâm phòng chống khủng khoảng tâm lý
(PCP), ở Việt Nam học sinh, sinh viên từ 15 – 24 tuổi là nhóm tuổi có ý định
tự tử cao nhất [27]. Điều tra quốc gia về vị thành niên và thanh niên Việt Nam
(năm 2010) đối với hơn 10.000 người trong nhóm tuổi này cho thấy có 4,1%
người nghĩ đến chuyện tự tử và 25% đã tìm cách kết thúc cuộc sống do căng
thẳng quá mức vì: không đạt được kết quả học tập như mong muốn; bị mất
danh dự, bị sỉ nhục trước trường, trước tập thể lớp; bị người thân xúc phạm,
vu oan, hiểu lầm; bị áp lực do gia đình, nhà trường kỳ vọng ở các em quá cao
trong học tập; gia đình có nhiều xung đột không thể giải quyết: cha mẹ
thường cãi vã nhau, anh em hiềm khích…[6].
Báo cáo của WHO (2003) cho thấy có 33% dân số thế giới gặp các vấn
đề liên quan đến sức khỏe tâm thần và dự đoán đến năm 2020, các vấn đề sức
khỏe tâm thần sẽ là gánh nặng bệnh tật lớn thứ hai toàn cầu, chỉ đứng sau
bệnh tim mạch. Theo đó, khoảng 20% trẻ em và vị thành niên đang mắc các
vấn đề về sức khỏe tâm thần (trong đó có stress) [55]. Tại Việt Nam vấn đề
stress học đường đang được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm bởi những hậu
quả do stress gây ra như giảm kết quả học tập, trầm cảm, lo âu, dễ giận dữ, bỏ
nhà đi bụi thậm chí là tự sát… Trong đó, học sinh trung học phổ thông là
2
nhóm tuổi dễ mắc stress. Nghiên cứu stress ở trẻ vị thành niên qua đường dây
nóng của Phạm Hồng Định trong 200 mẫu trẻ em thì học sinh trung học phổ
thông chiếm 194 trường hợp [7]. Nguyên nhân là do ở lứa tuổi này hoạt động
của các em được mở rộng và đa dạng hơn. Trong học tập, yêu cầu đối với các
em cao hơn. Càng đến cuối cấp, lịch học càng dày đặc hơn nhằm đáp ứng
mục đích chọn trường, chọn nghề của học sinh. Cùng với đó, sự thay đổi về
sinh lý của lứa tuổi cũng làm gia tăng căng thẳng cho học sinh [13]. Theo
nghiên cứu cắt ngang của Khoa nhân văn và xã hội học Viện công nghệ New
Delhi, Ấn Độ, tỷ lệ mắc các rối loạn tâm lý ở thanh thiếu niên Ấn Độ khoảng
14,4-31,7%, trong đó rối loạn stress là 20% [58]. Tại Việt Nam, Nghiên cứu
của tác giả Trần Thị Hồng Vân tại trường THPT Phan Đình Phùng, Hà Nội
cho kết quả 46,1% học sinh bị stress ở các mức độ khác nhau [29].
Hiện nay tại Thái Nguyên chưa có nhiều nghiên cứu về stress ở học
sinh trung học phổ thông trong khi đây là đối tượng chịu nhiều tác động từ
các yếu tố khác nhau như gia đình, nhà trường, xã hội… Đặc biệt là học sinh
ở các vùng nông thôn như Trường trung học phổ thông Lương Phú – Phú Bình
– Thái Nguyên ngoài việc học các em còn phải phụ giúp gia đình tăng gia sản
xuất. Vậy câu hỏi đặt ra là: Thực trạng stress ở học sinh trung học phổ thông
như thế nào? Những yếu tố nào liên quan đến tình trạng stress ở học sinh
trung học phổ thông?
Xuất phát từ những lý do trên, tôi chọn đề tài: “Thực trạng stress và
một số yếu tố liên quan ở học sinh trường trung học phổ thông Lương Phú
– Phú Bình – Thái Nguyên”
Mục tiêu nghiên cứu:
1. Mô tả thực trạng stress ở học sinh trường Trung học phổ thông
Lương Phú – Phú Bình – Thái Nguyên, năm 2016.
2. Phân tích một số yếu tố liên quan đến stress tâm lý ở học sinh trường
trung học phổ thông Lương Phú – Phú Bình – Thái Nguyên.
3
Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm về stress
Trong cuộc sống hiện đại thuật ngữ stress xuất hiện ngày càng nhiều,
tuy nhiên mỗi tác giả sử dụng thuật ngữ này với những sắc thái khác nhau.
Walter Cannon, bác sĩ chuyên khoa thần kinh nổi tiếng của Mỹ, định nghĩa
stress là biểu hiện khó chịu hay những áp lực của đời sống cá nhân [37].
Hiện nay, stress là một thuật ngữ được dùng rộng rãi. Định nghĩa của
Han Selye đưa ra năm 1976 được cho là đầy đủ nhất: “Stress là tình trạng
căng thẳng thể hiện mối tương tác giữa tác nhân công kích và phản ứng của
cơ thể” [12].
Trong điều kiện bình thường, stress là một đáp ứng thích nghi về mặt
tâm lý, sinh học và tập tính. Stress đặt con người vào quá trình dàn xếp, thích
ứng với môi trường xung quanh, tạo cho cơ thể một sự cân bằng mới sau khi
chịu đựng những tác động của môi trường. Nói cách khác, stress bình thường
đã góp phần làm cho cơ thể thích nghi. Nếu đáp ứng của cá nhân với stress
không đầy đủ, không thích hợp và cơ thể không tạo ra được một cân bằng mới
thì những chức năng của cơ thể ít nhiều sẽ bị rối loạn, những dấu hiệu bệnh lý
cơ thể, tâm lý, tập tính sẽ xuất hiện và tạo ra những stress bệnh lý cấp tính
hoặc kéo dài [17].
1.1.2. Các dấu hiệu của stress
Các dấu hiệu bị ảnh hưởng bởi stress bao gồm những bất bình thường
về thể chất, thần kinh và quan hệ xã hội. Cụ thể là sự kiệt sức, tự dưng thèm
ăn hay bỏ ăn, đau đầu, khóc, mất ngủ, rối loạn giấc ngủ hoặc là ngủ quên và
những biểu hiện khó chịu khác cũng là dấu hiệu của stress. Stress còn đi kèm
với cảm giác bất an, giận dữ hoặc sợ hãi. Người bị stress thường có biểu hiện
4
là tăng nhịp tim, tăng huyết áp, nhức đầu, mệt mỏi, hơi thở ngắn, ra mồ hôi.
Biểu hiện cảm xúc là cảm thấy khó chịu, dễ cáu gắt, lo âu, trầm cảm, buồn bã,
chán nản, thờ ơ, không thân thiện, sa sút tinh thần… Có những hành vi như
lạm dụng chất kích thích (rượu, thuốc lá), dễ gây hấn, bất cần đời, xáo trộn
các sinh hoạt hàng ngày (ăn uống, giấc ngủ), mất tập trung, hay quên, xa lánh
mọi người, có vấn đề về tình dục… Stress trầm trọng và kéo dài có thề làm
tổn hại hệ miễn dịch và các chức năng sinh lý khác, làm suy yếu khả năng
chống lại bệnh tật của cơ thể cũng như sự xâm nhập của vi trùng và làm tăng
nguy cơ tử vong [10], [19].
1.1.3. Nguyên nhân của stress
Có rất nhiều nguyên nhân gây ra stress nhưng thông thường bao gồm 4
nguyên nhân cơ bản sau:
Môi trường bên ngoài: Thiên tai, thời tiết, tiếng ồn, giao thông, bụi và sự
ô nhiễm…
Những căng thẳng từ xã hội và gia đình: Các vấn đề về tài chính, do sự
mất mát của người thân, mâu thuẫn trong gia đình (cha mẹ ly hôn, tranh chấp,
xích mích, bất hòa…), quan hệ bạn bè không tốt, tình yêu tan vỡ hay bị phụ
bạc…[3].
Các vấn đề về thể chất: Thay đổi cơ thể, không đủ chất dinh dưỡng, ốm
đau, bệnh tật.
Suy nghĩ của bản thân: Đôi khi, cách chúng ta suy nghĩ hay phiên giải
những điều đã hoặc sẽ xảy ra đem đến cho chính mình rất nhiều căng thẳng.
Thường đó là những suy nghĩ tiêu cực. Ví dụ, nếu trượt đại học, tương lai thật
mù mịt…[3], [17].
Nghiên cứu của Đỗ Thị Lệ Hằng năm 2009 cho thấy các tác nhân gây
stress ở trẻ vị thành niên bao gồm 4 nhóm tác nhân là học tập, mối quan hệ
với gia đình, mối quan hệ với bạn bè và các tình huống bất thường. Trong đó
tác nhân do các tình huống bất thường (trung bình là 1.6) cao hơn so với các
5
tác nhân khác như học tập (trung bình là 1.5), mối quan hệ với gia đình (trung
bình là 1.3) và bạn bè (trung bình là 1.2). Khi so sánh các tác nhân gây stress
cho học sinh theo cấp học thì học sinh cấp 3 chịu áp lực học tập cao hơn học
sinh cấp 2, do các em chuẩn bị cho việc lựa chọn nghề sau này và phải đối
mặt với nhiều kỳ thi quan trọng như tốt nghiệp Trung học phổ thông, thi đỗ
đại học… Cũng theo nghiên cứu này trẻ nam chịu ảnh hưởng từ áp lực học
tập cao hơn trẻ nữ [8].
Theo Nguyễn Thị Hằng Phương trong nghiên cứu “Thực trạng và
nguyên nhân gây ra rối loạn lo âu ở học sinh THPT chuyên Quảng Bình” có 4
nhóm nguyên nhân chính dẫn đến rối loạn lo âu ở học sinh trung học phổ
thông là: nhóm nguyên nhân liên quan đến học tập, liên quan đến bản thân
học sinh, liên quan đến gia đình và liên quan đến các mối quan hệ xã hội [20].
Nghiên cứu của Phùng Đức Nhật và cộng sự phát hiện các yếu tố gây
stress ở học sinh như: lo lắng về kết qủa học tập, về tương lai; lo lắng về kinh
tế gia đình, về áp lực học tập, tình hình an ninh nơi ở và thiếu bạn chia sẻ khi
buồn. Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa tỷ lệ stress ở học sinh với
tỷ lệ học sinh cảm thấy lo lắng về kết quả học tập, về tương lai và về bệnh của
bản thân. Những học sinh lo lắng về kinh tế gia đình bị stress cao gấp 1,56 lần
học sinh không lo lắng về kinh tế gia đình. Học sinh lo lắng nhiều về áp lực
học tập sẽ bị stress gấp 1,81 lần học sinh không lo lắng. Tỷ lệ học sinh lo lắng
vì không có bạn để chia sẻ cao gấp 1,57 lần học sinh không lo lắng. Nhóm
học sinh lo lắng về tình hình an ninh nơi ở bị stress gấp 1,5 lần nhóm không
lo lắng [18].
Trong nghiên cứu về stress trong học tập ở học sinh, sinh viên của tác
giả Edem Maxwell Azila-Gbettor cho rằng stress có ảnh hưởng đến kết quả
học tập của học sinh, sinh viên và stress là hậu quả của việc học tập vượt quá
khả năng của cơ thể [40].
6
Tổng quan nghiên cứu “Hiệu quả của việc quản lý căng thẳng về các
vấn đề sức khoẻ tâm thần ở thanh thiếu niên vị thành niên và thanh thiếu
niên” của tác giả Zhang Jiapeng Casper, đối với thanh thiếu niên, kiểm tra ở
trường học, xung đột gia đình và mối quan hệ bạn bè bất hòa là một yếu tố
quan trọng ảnh hưởng đến stress và trầm cảm [61].
1.1.4. Ảnh hưởng của stress
Tổng hợp từ nhiều nghiên cứu cho thấy, stress có thể gây nhiều tác
động xấu cho bản thân những người mang nó, đồng thời cũng gây ra những
bất lợi cho những người xung quanh và xã hội nói chung. Sau đây là những
tác động chính mà stress có thể gây ra:
Tác động của stress đối với cảm xúc, tâm lý: Trạng thái stress thường
biểu hiện rõ ở mặt cảm xúc với các biểu hiện thường gặp như: lo âu, dễ nổi
nóng, nổi cáu, hồi hộp, chán nản, sợ hãi, không hài lòng về bản thân (tự đổ lỗi
cho bản thân), cảm thấy trống rỗng mất phương hướng, cảm thấy dễ bị tổn
thương, căng thẳng…[3]. Đây là những ảnh hưởng ban đầu của stress với các
dấu hiệu cơ bản như tinh thần dao động, hành vi thất thường có thể làm bạn
bè và gia đình xa lánh, những người bị stress gần như luôn đắm chìm trong
các hành vi tiêu cực như bỏ học đi chơi game, dễ có hành vi hung hãn dẫn tới
bạo lực học đường, bỏ nhà đi bụi, giao du với những người xấu trong xã hội,
có thể làm những người xung quanh và cả xã hội phải trả giá đắt. Áp lực học
hành đến từ chương trình học, sự kỳ vọng của cha mẹ vào con cái, tâm lý
bằng cấp, không đánh giá đúng năng lực của bản thân con cái để có những đòi
hỏi phù hợp,… cũng đang ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe tâm thần trẻ
vị thành niên. Số lượng học sinh mắc chứng nhiễu tâm (lo âu, trầm cảm,
hoảng loạn, hung tính,…) do học tập ngày càng lớn. Thậm chí có những trẻ
dẫn tới hành vi tự sát do không biết cách vượt qua stress. Đây là những hậu
quả đáng tiếc do stress gây ra. Phản ứng gây stress thông thường có thể giúp
thanh thiếu niên phản ứng thích ứng với những thách thức của tuổi vị thành
7
niên, nhưng có thể dẫn đến sự căng thẳng trong số thanh thiếu niên có nguy
cơ cao, làm tăng khả năng bị bệnh tâm thần. Sự tăng nhạy cảm với kích thích
cảm xúc liên quan đến tuổi dậy thì có thể làm trầm trọng thêm các khuynh
hướng cá nhân đối với quá trình xử lý tình cảm phóng đại, có thể góp phần
vào sự xuất hiện các rối loạn tâm lý ở tuổi trẻ này [59].
Tác động của stress đối với cơ thể: Khi ở trong trạng thái stress, về mặt
cơ thể thường có các biểu hiện như: mệt mỏi, đau đầu, đau lưng đau cơ bắp,
chóng mặt, đổ mồ hôi, tức ngực khó thở, tay chân bủn rủn, ăn không ngon, ăn
quá nhiều hoặc quá ít, khó ngủ, mất ngủ, tim đập nhanh, thở gấp, bị tiêu chảy
hoặc táo bón …[3]. Khi rơi vào tình trạng stress tâm lý hay thể chất, cơ thể sẽ
gia tăng sản xuất các loại hormon như adrenaline và cortisol. Các hormon này
tạo ra các thay đổi rõ rệt ở nhịp tim, huyết áp, sự trao đổi chất và các hoạt
động thể chất khác. Mặc dù đôi khi phản ứng sinh học này giúp hoạt động
hiệu quả hơn trong những khoảng thời gian ngắn, nhưng nó cực kỳ nguy hại
cho cơ thể nếu xảy ra trong thời gian dài.
Tác động của stress đối với sức khỏe và đời sống: Stress kéo dài được
xem là một trong những nguyên nhân phổ biến của nhiều căn bệnh như: Bệnh
tâm thần kinh, Bệnh tim mạch, Stress làm da xuất hiện nhiều dấu hiệu xấu,
thậm chí các biểu hiện của bệnh tật, ví dụ như mụn sưng đỏ, phồng rộp lên
hay là bệnh Zona, Bệnh tiêu hóa, Bệnh tình dục, Bệnh phụ khoa, Bệnh cơ
xương khớp hay toàn thân: Suy sụp, mệt mỏi, dễ mắc các bệnh dị ứng hay
bệnh truyền nhiễm. Các thay đổi hành vi chẳng hạn như lạm dụng rượu bia,
thuốc lá cũng làm suy giảm đáng kể tình trạng thể chất con người. Các phát
hiện cũng cho thấy rằng cần sa thường được sử dụng như là một chiến lược
ứng phó với căng thẳng. Khi cơ thể phải chịu quá mức tình trạng stress, nguy
cơ bị lệ thuộc vào rượu là rất cao [3], [54], [43]. Việc sử dụng rượu quá nhiều
sẽ làm tinh thần bấn loạn và vì thế làm cho các mối quan hệ cá nhân thêm
căng thẳng, cả trong gia đình lẫn nơi công sở.
8
Tác động của stress đối với khả năng ra quyết định: Stress ảnh hưởng
khá nghiêm trọng đến mặt trí tuệ của mỗi người, các biểu hiện thường thấy
như: mất khả năng tập trung, liên tưởng chậm, phán đoán không chính xác, trí
nhớ giảm sút, khả năng nhận định, đánh giá kém. Stress ở mức độ nào cũng
nhanh chóng làm cho con người mất khả năng đưa ra các quyết định chính
xác, nhất là khi sự tự tin mất đi [19], [45].
Trong nghiên cứu Mức độ căng thẳng về tâm lý xã hội kinh niên cao có
thể dẫn đến sự gia tăng BMI đối với những cô gái thừa cân và béo phì, nghiên
cứu cũng cho thấy thanh thiếu niên nữ nhạy cảm với stress do tâm lý xã hội
hơn là thanh thiếu niên nam [50].
Nghiên cứu của tác giả Linda WP về chủ động và thụ động trong ứng
phó với sự căng thẳng với ý tưởng tự sát ở những người căng thẳng cho thấy
có mối liên quan giữa stress và ý tưởng tự tử ở mức cao và trung bình [49].
1.2. Thực trạng rối loạn stress ở học sinh phổ thông trên Thế giới và Việt Nam
1.2.1. Thực trạng rối loạn stress ở học sinh phổ thông trên Thế giới
Stress là một trong những vấn đề sức khỏe tâm thần cần được quan
tâm. Theo báo cáo của WHO (2003), khoảng 20% trẻ em và vị thành niên
đang mắc các vấn đề về sức khỏe tâm thần, tỷ lệ này khác biệt ở các quốc gia
khác nhau, do những khác biệt về kinh tế, xã hội nhưng cũng một phần do sử
dụng các công cụ đo đạc khác nhau và cách thức lấy mẫu khác nhau [56]. Các
điều tra dịch tễ học ở nhiều quốc gia trên thế giới đều cho thấy các rối loạn
tâm thần ở trẻ em và thanh thiếu niên rất phổ biến và chiếm tỷ lệ khoảng từ
13–29% [35], [36], [38], [39]. Nghiên cứu của tác giả Noelle R. Leonard về
căng thẳng, đối phó và sử dụng chất gây nghiện trong thanh thiếu niên các
trường tư thục, tỷ lệ học sinh bị stress là 31%, trong đó nữ bị stress cao hơn nam
(60% so với 41%) [54]. Trong phần tổng quan của tác giả Shilpa Taragar (2009),
nghiên cứu về yếu tố gây stress ở học sinh cho biết tỷ lệ học sinh 10 – 19 tuổi
bị stress là khoảng 10 – 20%, trong đó nguyên nhân chính gây ra stress ở học
9
sinh chủ yếu là do các yếu tố gia đình [57]. Hay trong nghiên cứu của tác giả
Kouzma NM (2004), tại Australia cũng chỉ ra rằng có 10 – 15% học sinh
trung học phổ thông bị căng thẳng [46]. Tổng quan nghiên cứu của tác giả
Zhang Jiapeng Casper (2012), có tới 25 – 30% học sinh Mỹ chịu ảnh hưởng
của stress và Hiệp hội Y tế Hoa Kỳ nghiên cứu về stress trên 16 nghìn sinh
viên thì có 33,7% sinh viên các trường Đại học, Cao đẳng bị stress [61]. Tại
Goa, Ấn Độ, theo Pillai và cộng sự (2008) nghiên cứu ở lứa tuổi 12-16 tuổi,
tỷ lệ stress thấp là 1,8% [29]. Nghiên cứu cắt ngang của Khoa nhân văn và xã
hội học Viện công nghệ New Dehi, Ấn Độ (2015), tỷ lệ mắc các rối loạn tâm
thần ở thanh thiếu niên Ấn Độ khoảng 14,4-31,7% [58]. Trong phần tổng
quan của tác giả Trần Thị Hồng Vân và cộng sự cho biết tại Israel, theo
Farbstein và cộng sự (2009) nghiên cứu ở lứa tuổi 14-17 tuổi, tỷ lệ stress là
11,7% còn tại Puerto Rico, theo Canino và cộng sự (2004) nghiên cứu ở độ
tuổi 4-17 tuổi, tỷ lệ này là 19,8%. Tại Zurich Conton Swetzerland, theo
Steinhausen và cộng sự (1998) nghiên cứu ở độ tuổi 6-17 tuổi, tỷ lệ stress là
22,5% hay theo Guan và cộng sự (2010) nghiên cứu tại Trung Quốc ở độ tuổi
5-17 tuổi, tỷ lệ trẻ stress là 16,22% [29].
1.2.2. Thực trạng rối loạn stress ở học sinh phổ thông tại Việt Nam
Ở Việt Nam, số lượng trẻ em trong độ tuổi học sinh mắc các rối loạn
stress, lo âu và trầm cảm có xu hướng tăng lên trong những năm gần đây.
Nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Hằng Phương trong tổng số 600 em tham
gia điều tra thì tất cả các em đều có biểu hiện bất thường về sức khỏe và tâm
lý trong vòng 2 tháng trở lại đây [20]. Một nghiên cứu của viện Tâm thần Mai
Hương năm 2005 cho thấy tỷ lệ học sinh có vấn đề về sức khỏe tâm thần
chung là 19,46% [5].
Một số nghiên cứu điển hình về stress như nghiên cứu của tác giả Trần
Thị Hồng Vân và cộng sự (2014), tại trường THPT Phan Đình Phùng – Hà
Nội, cho thấy có đến 46,1% học sinh bị stress, trong đó nhẹ là 18,9%, vừa là
10
20,1%, nặng là 5,2% và rất nặng là 2,5% (tính trên tổng số học sinh tham gia
nghiên cứu) [29]. Nghiên cứu của Trung tâm nghiên cứu Phụ nữ – Đại học
Quốc gia Hà Nội (2008), khảo sát trên 200 học sinh lớp 12 đã chỉ ra rằng 47%
học sinh bị stress ở các mức độ nhẹ, vừa và nặng [24]. Theo nghiên cứu mức
độ stress của học sinh lớp 12 trường THPT Đông Hà – Quảng Trị nhìn từ góc
độ tổng quát phần lớn học sinh ở trong trạng thái stress cấp tính chiếm 69.6%
và 30.4% học sinh ở mức độ bắt đầu quá tải vì stress, không đủ năng lực kiểm
soát các trở ngại gặp phải, cần được hỗ trợ để vượt qua [3]. Nghiên cứu của
tác giả Hồ Hữu Tính và Nguyễn Doãn Thành (2009) ở học sinh THPT Phan
Bội Châu, Phan Thiết, Bình Thuận trên học sinh lớp 12 cho kết quả 38% học
sinh có biểu hiện stress [25]. Theo tác giả Hoàng Cẩm Tú và Đặng Hoàng
Minh (2010) nghiên cứu trên học sinh của 2 trường THPT Nguyễn Trãi (Hà
Nội) và Vân Tảo (Hà Tây) cho thấy các trường hợp mắc vấn đề sức khỏe tâm
thần (trong đó có stress) là 25.76% [14].
Một nghiên cứu được thực hiện tại các tỉnh miền Bắc trên trẻ vị thành
niên (2012) sử dụng thang đo YSR (Youth Self – Report) cho kết quả đáng
báo động khi so sánh kết quả nghiên cứu với các quốc gia khác, thấy rằng
Việt Nam xếp cao nhất trong các quốc gia được nghiên cứu, nghiên cứu chỉ ra
rằng có 18% trẻ trong nghiên cứu gặp ít nhất 1 trong 8 triệu chứng về rối
nhiễu tâm lý được đề cập trong thang đo YSR: Lo âu/trầm cảm, Thu
mình/trầm cảm, bệnh tâm cảm, vấn đề xã hội, vấn đề suy nghĩ, vấn đề chú ý,
hành vi hung tính, phá bỏ qui tắc [16]. Nghiên cứu “Đánh giá mức độ căng
thẳng tâm lý của học sinh tiểu học ở Hà Nội” có 25.8% học sinh bị stress ở
mức độ vừa và 29% học sinh lo âu ở mức độ vừa và nhẹ [31]. Tuy nhiên một
nghiên cứu năm 2007 trên 2 tỉnh miền trung lại cho kết quả tỷ lệ trẻ vị thành
niên mắc các bệnh tâm thần là 9% [29]. Một nghiên cứu khác tại Hội thảo
quốc gia “Sức khỏe tâm thần trong trường học” do Quỹ tài năng trẻ tâm lý
học – giáo dục học (Hội Khoa học tâm lý giáo dục Việt Nam) tổ chức tại
11
Đồng Nai, nhiều chuyên gia tâm lý – SKTT đã lên tiếng cảnh báo về tình
trạng SKTT ngày càng sa sút của học sinh. Tâm lý lo sợ không hoàn thành bài
vở mới là nỗi ám ảnh với các học sinh lứa tuổi THPT, nhất là các em lớp 12.
Từ đó, học sinh cảm thấy căng thẳng trong việc học, 13,6% học sinh khá thấy
ăn không ngon, 17,6% chỉ muốn uống nước hoặc sữa và gần 20% thường
xuyên bỏ bữa. Thậm chí, một số em tâm sự đang đối mặt với một kỳ thi quan
trọng, sợ làm bài không tốt, sợ gia đình sẽ thất vọng và khi nghĩ đến những
điều đó thì các em chỉ muốn… “nổ tung” [1].
Kết quả khảo sát của một nhóm nghiên cứu xác định: có gần 27% học
sinh Tây Ninh có tâm lý buồn phiền từ nhẹ đến nặng. Tỷ lệ này được nhìn
nhận là thấp hơn TP. Hồ Chí Minh và Long An, song nếu so sánh với các tiêu
chuẩn của nhiều quốc gia trên thế giới có liên quan vấn đề này thì con số vừa
nêu thuộc loại quá cao. Nhóm nghiên cứu ghi nhận: học sinh ở bậc học càng
cao thì các trường hợp rơi vào trạng thái buồn phiền càng nhiều; tỷ lệ này ở
học sinh lớp 10 chỉ chiếm 23% nhưng ở lớp 12 là 30% [21].
Nghiên cứu gần đây nhất của Đặng Hoàng Minh và Trịnh Thị Mai
(2013) trong phần tổng quan của nghiên cứu cho biết khảo sát về sức khỏe
tâm thần của Tổ chức Y tế Thế giới trên mẫu nghiên cứu gồm 1.202 học sinh ở
Việt Nam trong độ tuổi 10-16 tuổi, tỷ lệ học sinh có vấn đề về sức khỏe tâm thần
chung là 19,46% [15]. Còn nghiên cứu gần đây nhất của Đặng Hoàng Minh,
Bahr Weiss và Nguyễn Cao Minh năm 2013 đã điều tra dịch tễ trên 1.314 trẻ
em từ 6 – 16 tuổi ở 10 tỉnh, thành phố Việt Nam đã cho thấy có 9,6% trẻ có
các vấn đề hướng nội ở mức lâm sàng. Trong đó, lo âu/ trầm cảm chiếm
1,8%, thu mình chiếm 2,1%, than phiền cơ thể chiếm 4,1%. Tỉ lệ này ở mức
ranh giới là 18,3%. Bên cạnh đó, tỉ lệ trẻ em từ 6 – 16 tuổi có các bất thường
về tình cảm là 16,29%, ở mức ranh giới là 11,59%, kết quả nghiên cứu cũng
gợi ý rằng có từ 12-13% trẻ em Việt Nam (trong độ tuổi 6-16) gặp phải những
vấn đề SKTT một cách rõ rệt. Điều này có nghĩa là có khoảng 2.7 triệu trẻ em
12
và vị thành niên trên toàn quốc gặp phải vấn đề SKTT (trong đó có stress)
[33]. Nghiên cứu tại trường THPT Yên Mô B Ninh Bình (2007) của Phạm
Thanh Bình sử dụng thang đo mức độ lo âu của Soly-Bensabel (60-90 điểm)
cho kết quả số lượng học sinh trong mức điểm 70-80 điểm chiếm số lượng
nhiều nhất, tiếp đến là số lượng học sinh 80-90 điểm, điều này có nghĩa có
một số lượng lớn học sinh được điều tra đang ở mức độ stress cao [4].
Học sinh, sinh viên là những chuyên gia tương lai của đất nước, có vai
trò quan trọng đến chất lượng của lực lượng sản xuất trong nền kinh tế tri thức
và sự bền vững của xã hội. Trong quá trình học tập, họ tích cực trau dồi, phát
triển các phẩm chất tâm lý, để thực sự làm chủ bản thân, làm chủ xã hội văn
minh, hiện đại. Do đó, hiện tượng stress luôn nảy sinh, ảnh hưởng mạnh mẽ
đến sự thành công, hay thất bại của quá trình hoàn thiện nhân cách cũng như
phẩm chất tâm lý nghề nghiệp của họ [11]
Đã có nhiều nghiên cứu về sức khỏe tâm thần của trẻ vị thành niên và
thanh niên Việt Nam nói chung, tuy nhiên chưa có nhiều nghiên cứu cụ thể về
vấn đề rối loạn stress ở học sinh, đặc biệt là học sinh Trung học phổ thông,
trong khi đây là đối tượng chịu nhiều áp lực từ gia đình, nhà trường và xã
hội…. Mặc dù các nghiên cứu không hoàn toàn nhất quán, nhưng các nghiên
cứu đều cho thấy một xu hướng rõ ràng, tỷ lệ trẻ vị thành niên, thanh niên,
học sinh Việt Nam gặp các vấn đề về rối loạn stress là đáng kể.
1.3. Các yếu tố liên quan đến rối loạn stress ở học sinh
1.3.1. Các nghiên cứu trên thế giới
Nghiên cứu tự đánh giá nguyên nhân stress ở học sinh cuối cấp 3
(2004) của Kouzma NM, Kennedy GA chỉ ra rằng nguyên nhân chính dẫn đến
stress bao gồm các kì kiểm tra, điểm số, lo lắng cho tương lai, lựa chọn nghề
nghiệp, ôn thi, khối lượng kiến thức, kỳ vọng của gia đình và bản thân [46].
Một tổng quan về nguyên nhân stress ở thanh thiếu niên vị thành niên và
thanh thiếu niên của tác giả Zhang Jiapeng Casper (2012), phần lớn học sinh cho
13
biết mức căng thẳng về tinh thần và lo lắng là do tham gia các kỳ thi. Các nghiên
cứu ở Hoa Kỳ ước tính rằng một tỷ lệ lớn trẻ em đã được báo cáo bị stress do
kiểm tra. Trong đó Hill nhận thấy rằng từ 25% đến 30% sinh viên Hoa Kỳ bị ảnh
hưởng bất lợi do stress vì những khiếm khuyết liên quan đến lo lắng. Cũng theo
đó ảnh hưởng của stress đối với sinh viên đại học là rất lớn. Hiệp hội Y tế
Trường Cao đẳng Hoa Kỳ đã khảo sát hơn 16.000 sinh viên đại học cho thấy
33.7% cho rằng stress đã can thiệp vào thành tích học tập của họ [61]. Những
học sinh có điểm trung bình cao thường gặp stress khi phải liên tục học tập để
đạt được kì vọng cao của cha mẹ, thầy cô. Đôi khi những học sinh này tự đặt áp
lực lên mình. Học sinh có điểm trung bình thấp phải đối mặt với cảm giác thất
vọng về bản thân và tự ti khi so sánh với những học sinh giỏi hơn. Khi nhận định
về những nguyên nhân gây stress ở học sinh thì yếu tố về khối lượng công
việc mà học sinh phải làm xếp thứ hai và phần lớn học sinh nhận định rằng
lượng bài tập về nhà thường xuyên làm họ mất ngủ [61]. Trong cuộc thăm dò
năm 2005 thực hiện bởi The Washington Post, Quỹ Kaiser Family và Đại học
Harvard, khảo sát hơn một nửa số thanh thiếu niên khu vực Washington the
District, trong đó 58% nói rằng các yếu tố trường học là nguyên nhân lớn nhất
gây stress [29]. Tuy nhiên một nghiên cứu trường hợp ở Bangkok, Thái Lan
(2010) của Youjaiyen M, Sirimai W, Thongsai S trên 300 học sinh trung học
phổ thông lại cho kết quả các em học sinh có kết quả học tập thấp có căng thẳng
cao hơn so với những em có thành tích học tập cao hơn [53]. Trong một
nghiên cứu thực nghiệm về stress ở học sinh trung học phổ thông của Ezila
Gbettor tại một trường ở khu vực ngoại ô New York, Mỹ cho kết quả rằng
học sinh có điểm trung bình cao thường có mức stress cao hơn những học
sinh có điểm trung bình thấp hơn, những học sinh tham gia các lớp chuyên
thường có mức độ stress cao hơn các lớp bình thường. Những học sinh nữ có
mức độ stress trong học tập nhiều hơn nam [40].
14
Nghiên cứu tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến stress ở học sinh trung học
phổ thông tham gia chương trình học dự bị đại học và học sinh bình thường
của Suldo SM, Shaunessy E, Thalji A, và cộng sự (2009) tại Mỹ trên 319 học
sinh cấp 3 (162 học sinh trong chương trình dự bị đại học và 157 học sinh
bình thường) cho kết quả: Nguyên nhân chính dẫn đến stress của những học
sinh tham gia chương trình dự bị đại học là yêu cầu học tập. Trái lại, các học
sinh bình thường thì có xu hướng bị stress bởi quan hệ bố mẹ con cái, khó
khăn trong học tập, xung đột trong gia đình và quan hệ bạn bè cũng như quá
trình chuyển đổi các vai trò trong xã hội. So với học sinh bình thường, học
sinh tham gia chương trình dự bị Đại học có nhiều biểu hiện tâm thần hơn, và
giảm khả năng học tập khi họ đối diện với stress ở mức độ cao. Cụ thể là
stress liên quan đến yêu cầu học tập, sự thay đổi vai trò và các vấn đề xã hội,
khó khăn trong học tập và các hoạt động ngoại khóa [60].
Nghiên cứu của Shilpa Taragar về căng thẳng ở học sinh cấp 3 (2009)
tại Ấn Độ cho rằng không có mối liên quan giữa một số thông tin cá nhân của
đối tượng (tuổi, số lượng anh chị em, kích cỡ gia đình, nghề nghiệp của cha,
nghề nghiệp của mẹ) với stress ở học sinh, nhưng có mối liên quan giữa nơi
sống với stress, những trẻ ở vùng ngoại thành có tỷ lệ stress ở mức độ nhẹ và
vừa thấp hơn so với thành thị, tuy nhiên đối với mức độ stress nặng thì ở khu
vực thành thị lại cao hơn nhiều so với nông thôn (22,4% so với 9,9%). Có mối
liên quan giữa giới và stress, các học sinh nam có xu hướng cao hơn các học
sinh nữ, tuy nhiên ở mức độ stress nhẹ và vừa thì nữ có xu hướng cao hơn
nam (71,7% và 21,9% so với 66% và 8,5%) [57]. Kết quả nghiên cứu của
Finkelstein DM chỉ ra rằng so với thanh thiếu niên có cha mẹ có trình độ học
vấn cao thì thanh thiếu niên có cha mẹ có trình độ học vấn thấp hơn có mức
stress cao hơn (E3 beta = 1.70, p <.01, E2 beta = 1.94, p <.01, E1 beta = 3.19,
p <.0001) [42]. Cũng trong phần tổng quan về nguyên nhân stress của tác giả
Zhang Jiapeng Casper (2012), thì yếu tố đầu tiên ảnh hưởng đến stress ở học