BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
ĐỖ HÀ THẾ BÌNH
THỰC TRẠNG VIỆC QUẢN LÝ GIÁO DỤC GIỚI
TÍNH CHO HỌC SINH Ở CÁC TRƯỜNG THCS TẠI
HUYỆN THUẬN AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG VÀ MỘT
SỐ GIẢI PHÁP
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS-TS. BÙI NGỌC OÁNH
Thành phố Hồ Chí Minh – 2007
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong thế giới loài người là muôn hình vạn trạng, không ở đâu trong sự phát triển
xã hội của học sinh bậc trung học cơ sở hay còn gọi là ở lứa tuổi vị thành niên lại có
những thay đổi rất lớn trong những năm gần đây là lĩnh vực giới tính. Trong khi tình
dục ám chỉ khía cạnh sinh lý thì giới tính là khía cạnh xã hội của phái nam và phái
nữ. Một vài góc độ của trẻ vị thành niên xoáy sâu vào chân giá trị và vào mối quan hệ
xã hội hơn giới tính và một trong những góc độ mà giới tính đặc biệt nhắc tới đó là:
Vai trò của giới tính-niềm mong chờ mà ấn định phái nam hay phái nữ nên phải suy
nghỉ, hành động và cảm xúc như thế nào. Để giúp học sinh nhận thức đúng được cái
hay, cái đẹp của cuộc sống, ngoài việc cung cấp những tri thức khoa học qua những
môn học chính khóa, nhà trường phổ thông còn phải tạo mọi điều kiện cung cấp cho
các em các tri thức về những ảnh hưởng của sinh lý, xã hội và nhận thức đối với giới
tính.
Giáo dục giới tính là một loại hình giáo dục hết sức phức tạp nhằm giáo dục con
người ở thế hệ trẻ vươn lên làm người bao hàm những giá trị của “Chân, Thiện, Mỹ”.
Là một bộ phận góp phần giáo dục con người hình thành nhân cách ở mọi cá nhân.
Trong thời kỳ mở cửa giao lưu văn hóa như hiện nay giữa các dân tộc, các quốc gia
với nền khoa học hiện đại đang phát triển mạnh. Việc giáo dục giới tính góp phần xây
dựng nhân cách con người là một vấn đề rất quan trọng. Để giúp con người phát triển
bình thường và phát triển toàn diện về nhân cách, chúng ta cần đưa nội dung giáo dục
giới tính vào trong hoạt động giáo dục của xã hội. Giáo dục cho học sinh có năng lực
hiểu được người khác giới với mình, có tình cảm tôn trọng đối với họ không chỉ là
con người nói chung, mà còn là đại diện của nam giới, có năng lực, tính đức và tôn
trọng những đặc điểm giới tính của nhau trong quá trình hoạt động cùng nhau.
Song trong thực tế bên cạnh các bộ môn khoa học khác thì việc giáo dục giới tính
ở bậc trung học cơ sở còn bị xem nhẹ, đặc biệt là trong công tác giáo dục, sử dụng
đội ngũ giáo viên tham gia dục chuyên đề này hầu như không có đa số do giáo viên
chủ nhiệm và các bộ môn như: Giáo dục công dân và môn Sinh học kiêm nhiệm.
Vấn đề giáo dục giới tính có là vấn đề cần thiết tham gia vào quá trình giáo dục và
đào tạo vẫn đang còn nhiều ý kiến khác nhau. Thiết nghĩ bên cạnh việc học các bộ
môn văn hóa, học sinh vẫn có nhu cầu tìm hiểu, nhận thức đối với các vấn đề giới
tính. Chuyên đề này đang có sức hút nhất định và ảnh hưởng rất lớn đến việc hình
thành và phát triển nhân cách của học sinh bậc trung học cơ sở.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu: “Thực trạng việc
quản lý giáo dục giới tính cho học sinh ở các trường trung học cơ sở tại huyện
Thuận An, tỉnh Bình Dương và một số giải pháp”.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và khảo sát thực tiễn nhằm đánh giá thực trạng
giáo dục giới tính, phát hiện nhu cầu bồi dưỡng, nhu cầu người học ở các trường
THCS trong huyện Thuận An – tỉnh Bình Dương và các kiến thức, kỹ năng, nghiệp
vụ quản lý và giáo dục giới tính. Từ đó đề nghị những biện pháp có tính khả thi góp
phần nâng cao hiệu quả của việc giáo dục giới tính các trường THCS trong huyện
Thuận An.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
– Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về giới tính và công tác tổ chức quản lý
giáo dục giới tính cho học sinh bậc THCS.
– Thực trạng hoạt việc quản lý giáo dục giới tính ở các trường trung học cơ sở
trên địa bàn huyện Thuận An.
– Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tổ chức quản lý hoạt động
giáo dục giới tính ở các trường trung học cơ sở tại huyện Thuận An, tỉnh Bình
Dương.
4. Giả thuyết khoa học
Hoạt động giáo dục giới tính ở các trường THCS tại huyện Thuận An, tỉnh
Bình Dương chưa được tổ chức tốt về các mặt như: việc quản lý, tập huấn và bồi
dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, chưa đủ về số lượng CB-GV tham gia giáo dục và
chưa đồng bộ về cơ cấu nên chưa mang lại hiệu quả cao trong việc giáo dục đạo đức
và văn hóa cho học sinh nhằm đáp ứng với yêu cầu chung của sự nghiệp giáo dục và
đào tạo của đất nước.
5. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
– Đối tượng nghiên cứu:
Thực trạng việc quản lý giáo dục giới tính ở các trường trung học cơ sở trong
huyện Thuận An.
– Khách thể nghiên cứu:
Cán bộ-giáo viên các trường trung học cơ sở, học sinh và phụ huynh trên địa
bàn huyện Thuận An tỉnh Bình Dương. Khi tiến hành nghiên cứu, chúng tôi đã chọn
mẫu và tiến hành khảo sát ngẫu nhiên trên 120 giáo viên, 275 học sinh, 50 cha mẹ
học sinh của 5 trường trung học cơ sở tại huyện Thuận An, tỉnh Bình Dương.
6. Giới hạn đề tài
Đề tài chỉ tập trung chủ yếu nghiên cứu thực trạng việc tổ chức hoạt động giáo
dục giới tính của 5 trường THCS tại huyện Thuận An, tỉnh Bình Dương :
– Trường THCS Trịnh Hoài Đức
– Trường THCS Nguyễn Văn Tiết
– Trường THCS Bình Chuẩn
– Trường THCS Tân Thới
– Trường THCS Phú Long.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
Thu thập các tài liệu có liên quan đến đề tài nghiên cứu như: sách, báo, các tài
liệu, các công trình nghiên cứu khoa học.
7.2. Phương pháp quan sát
Dự một số tiết sinh hoạt chủ nhiệm, sinh học, giáo dục công dân, sinh hoạt
ngoại khóa có liên quan đến giáo dục giới tính ở các trường THCS trên địa bàn huyện
Thuận An nhằm quan sát tinh thần và thái độ học tập của học sinh về vấn đề này,
phương pháp giáo dục của giáo viên đối với chuyên đề giáo dục giới tính.
7.3. Phương pháp phỏng vấn
Tiến hành gặp gỡ chuyện trò và trao đổi với Ban giám hiệu, giáo viên đang
trực tiếp giảng dạy các môn học liên quan đến giáo dục giới tính ở các trường THCS
tại huyện Thuận An, cán bộ chuyên môn phòng Giáo dục Thuận An, một số cha mẹ
học sinh về các vấn đề có liên quan.
7.4. Phương pháp điều tra bằng phiếu thăm dò ý kiến
Sử dụng phiếu thăm dò ý kiến đối với một số cán bộ, giáo viên trực tiếp làm
công tác này, một số phụ huynh, học sinh học tại các trường trung học cơ sở thuộc
huyện Thuận An tỉnh Bình Dương về thực trạng của đội ngũ giáo viên đối với vấn đề
này và các giải pháp
7.5. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm
Thông qua các kết quả điều tra để phân tích, tổng hợp, so sánh. Từ đó rút ra
những kết luận chủ yếu mang tính sự kiện có ý nghĩa.
8. Đóng góp của đề tài
Xác định những cơ sở có tính khoa học về việc cần thiết phải tổ chức quản lý
chặt chẽ việc giáo dục giới tính ở các trường THCS trong huyện Thuận An nhằm
nâng cao hiệu quả giáo dục.
Đưa ra biện pháp nhằm chấn chỉnh công tác giáo dục giới tính ở các trường
THCS trong huyện Thuận An và các huyện khác có điều kiện tương tự như tại huyện
Thuận An, tỉnh Bình Dương.
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ GIÁO DỤC GIỚI
TÍNH Ở CÁC TRƯỜNG THCS
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Ngay từ thời Cổ đại, giới tính đã dược quan tâm tìm hiểu, tuy rằng rất thô sơ và
mang màu sắc cảm tính, mê tín. Từ thời kỳ xa xưa của văn minh loài người, giới tính
đã được đề cập đến bằng một hệ thống thần thoại cổ đại và các khảo luận về tình yêu
như Kinh “Kama Sutra” của Ấn Độ, “Nghệ thuật yêu” của Ovidius, “Chuỗi ngọc của
người yêu” của Hazma, “Phaedr” và “Bữa tiệc” của Platon… Trong đó các tác giả“
không những đặt cơ sở các chuẩn mực về đạo đức và tôn giáo cho tình yêu, mà còn
cung cấp những kiến thức về sinh học và tâm lí học tình dục”. IU.I. Kusniruk, Tính
dục học phổ thông, NXB Văn học, 1988-tr 10,11.
Vào cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, các đề tài nghiên cứu giới tính được mở
rộng hơn… Cho đến cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, các nhà khoa học J. Bachocen
(Thuỵ Sỹ), J. Mac Lennan (Anh), E. Westermach (Phần Lan), Lewis Henry Morgan
(Mĩ), X.M. Kovalevxki (Nga)… không những đã gắn sự phát triển quan hệ tính dục
với các dạng hôn nhân và gia đình, mà còn gắn cả với yếu tố khác của chế độ xã hội
và văn hoá.
Vấn đề tổ chức hoạt động giáo dục giới tính ở Việt Nam trong thời gian gần đây
đã được các nhà khoa học, các nhà quản lý, các tổ chức chính trị – xã hội quan tâm
nghiên cứu.
Trong Chỉ thị số 176A ngày 24/12/1974 do Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm
Văn Đồng kí đã nêu rõ: “Bộ giáo dục, Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Tổng
cục dạy nghề phối hợp với các tổ chức có liên quan xây dựng chương trình chính
khoá và ngoại khoá nhằm bồi dưỡng cho học sinh những kiến thức về khoa học giới
tính, về hôn nhân gia đình và nuôi dạy con cái.”. Bộ Giáo dục đã đưa ra Chỉ thị về
việc giáo dục dân số và giáo dục giới tính trong toàn bộ hệ thống trường học các cấp
và các ngành học của cả nước.
Từ năm 1985, những công trình nghiên cứu của các tác giả về giới tính, về tình
yêu, hôn nhân gia đình đã bắt đầu được công bố. Các tác giả Đặng Xuân Hoài, Trần
Trọng Thuỷ, Phạm Hoàng Gia, Nguyễn Thị Đoan, Nguyễn Thị Tho, Bùi Ngọc Oánh,
Lê Nguyên, Phạm Ngọc, Minh Đức… đã nghiên cứu nhiều vấn đề, nhiều khía cạnh
chi tiết của giới tính và giáo dục giới tính. Những công trình này đã nêu lên nhiều vấn
đề rất phong phú đa dạng về vấn đề giới tính và giáo dục giới tính ở Việt Nam.
Công trình nghiên cứu các dự án VIE/88/P09, VIE 88/P11… cấp-quốc gia do tổ
chức PATH CANADA tài trợ cùng nhóm nghiên cứu là các nhà khoa học tầm cỡ của
Việt Nam đã xem xét việc giáo dục giới tính là vấn đề mấu chốt của đức dục đối với
tuổi vị thành niên nói chung và học sinh bậc trung học cơ sở nói riêng được triển khai
thực nghiệm từ thập niên 1980 và chính thức đưa vào thực hiện rộng rãi trong các
trường THCS từ năm học 1990-1991 đã mở ra một bước ngoặc quan trọng trong việc
nghiên cứu, quy hoạch, xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên ở
các cơ sở giáo dục trực tiếp làm công tác giáo dục giới tính có phẩm chất, có năng lực
trình độ chuyên môn nhất định, có tầm nhìn trong lĩnh vực này nhằm đáp ứng kịp
thời cho sự nghiệp ”trông người”. Giáo dục giới tính bao hàm những tri thức về mối
quan hệ giữa sự phát triển tình dục và nhân cách, thể chất và tinh thần của trẻ em và
thanh thiếu niên thông qua các hình thức: lồng ghép vào một số môn văn hóa, sinh
hoạt nội khóa, sinh hoạt ngoại khóa bằng phương pháp dạy học tích cực và việc trao
đổi kinh nghiệm giáo dục để tìm ra những giải pháp tốt nhất cho việc giáo dục giới
tính trong nhà trường phổ thông nói chung và ở bậc THCS nói riêng.
Các tác giả, các nhà nghiên cứu giáo dục, các chuyên gia đầu ngành trong và
ngoài nước đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề giáo dục giới tính trong nhà
trường, về vai trò của các nhà giáo dục nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục như :
– Tác giả J.P MA-SƠ-LÔ-VA (Tiệp Khắc) đã nghiên cứu các vấn đề về giới tính
cho rằng:”Nhiều người trong chúng ta biết rằng không nên để con cái phải tự lần mò
tìm hiểu lấy chuyện tình dục, song lại không biết hướng dẫn, tác động, không biết khi
nào cần nói và nói như thế nào. Thế hệ trẻ ngày nay khác rất xa thế hệ chúng ta. Vì
vậy phải dẫn dắt họ theo kiểu khác.”, “Mục đích của toàn bộ chương trình giáo dục
tình dục từ tuổi ấu thơ tới tuổi trưởng thành không chỉ là trang bị kiến thức, xây dựng
ý thức tình dục mà điều quan trọng là xây dựng những quan niệm đúng đắn về vai trò,
trách nhiệm của người đàn ông và phụ nữ trong cuộc sống vợ chồng, trong gia đình
và trong xã hội”.- Sách ”Giới tính tuổi hoa” tr. 38,48.
– Tác giả Nguyễn Quang Dương cho rằng:” Trở ngại lớn trong việc giáo dục giới
tính trẻ vị thành niên là do thầy cô và cha mẹ thường chỉ chú trọng việc giáo dục bằng
sức ép từ trên dội xuống và tác động một chiều, không cởi mở, thiếu lắng nghe. Điều
đó càng tạo thêm hố sâu, khoảng cách giữa thầy cô, cha mẹ và con cái, làm giảm
thiểu (có khi phản tác dụng) về hiệu quả giáo dục… Chính vì vậy, mà việc liên kết
giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong vấn đề này là vô cùng quan trọng.”- Tạp chí
phát triển giáo dục số 165, tr. 56,57.
– Tác giả Võ Hưng, tại hội thảo khoa học ”Đề xuất và thử nghiệm giải pháp đưa
giáo dục giới tính vào trường trung học tại Tp. HCM” khẳng định:”Các bậc cha mẹ
cần hiểu rõ mục đích giáo dục giới tính là giúp con em biết tự tin, tự trọng và tự bảo
vệ để sau này trở thành người có trách nhiệm với xã hội, biết tôn trọng nhau trong
quan hệ nam nữ, tạo điều kiện để xây dựng cuộc sống hạnh phúc”.- Báo Giáo dục và
Thời đại số 37/2004, tr.41.
– Dự án VIE/97/P12 đã nghiên cứu về giáo dục SKSS-VTN cho rằng: ”Vị thành
niên và thanh niên là một giai đoạn trong cuộc đời con người. Lớp thanh niên này
được thông tri giáo dục về SKSS -VTN sẽ trưởng thành lên người lớn. Lại có một lớp
VTN mới cần được thông tri giáo dục về SKSS – VTN. Và vì vậy, nhu cầu về thông
tin giáo dục SKSS-VTN cho vị thành niên là một nhu cầu thường xuyên, liên tục”
tr.192.
– Dự án VIE/88/P10 đã nghiên cứu về kiến thức y học liên quan đến giới tính. Đặc
biệt là giáo dục sức khỏe sinh sản trong thanh niên.
– Đặc biệt từ năm 1988, một đề án với quy mô lớn nghiên cứu về giáo dục đời
sống gia đình và giới tính cho học sinh (gọi tắt là Giáo dục đời sống gia đình) có kí
hiệu VIE/88/P09 (gọi tắt là đề án P09) đã được Hội đồng Chính phủ, Bộ Giáo dục và
Đào tạo, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam thông qua và cho phép thực hiện với sự
tài trợ của UNFPA và UNESCO khu vực. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Giáo sư Trần
Trọng Thuỷ và Giáo sư Đặng Xuân Hoài, Đề án đã được tiến hành rất thận trọng và
khoa học, nghiên cứu khá sâu rộng nhiều vấn đề như: quan niệm về tình bạn, tình
yêu, hôn nhân, nhận thức về giới tính và giáo dục giới tính của giáo viên, học sinh,
phụ huynh… ở nhiều nơi trong cả nước, để chuẩn bị tiến hành giáo dục giới tính cho
học sinh phổ thông từ lớp 9 đến lớp 12.
Ngoài ra, còn nhiều tác giả, nhiều công trình nghiên cứu được công bố trên các
tập san chuyên nghành như: nghiên cứu giáo dục, giáo dục phổ thông,… Những công
trình này thực sự nghiên cứu những mảng đề tài hết sức thiết thực, cụ thể trong công
tác quản lý, xây dựng đội ngũ làm công tác giáo dục giới tính trong các trường phổ
thông. Riêng ở huyện Thuận An, tỉnh Bình Dương, vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ –
giáo viên tham gia làm công tác giáo dục giới tính trong nhà trường nói chung và ở
bậc THCS nói riêng chưa được quan tâm đúng mức của các cấp Chính quyền và của
ngành Giáo dục. Do đó, đối tượng này cần được nghiên cứu khách quan từ thực trạng
giáo dục giới tính hiện nay, để từng bước củng cố, đào tạo bồi dưỡng đội ngũ làm
công tác này trở thành lực lượng chủ yếu, quyết định sự phát triển nhân cách của học
sinh theo đúng hướng phát triển sự nghiệp giáo dục ở tỉnh Bình Dương nói chung và
huyện Thuận An nói riêng trong thời gian tới.
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Giới
– Giới xuất phát từ ” từ Gender ” trong tiếng Anh.
– Giới là một khái niệm rất phức tạp, được hiểu theo nhiều nghĩa:
+ Theo góc độ sinh học, giới được hiểu là một tập hợp những đặc điểm sinh lí
cơ thể đặc trưng ở con người (Ở động vật, giới ở đây có nghĩa là giống. Trong động
vật có giống đực và giống cái.). Những đặc điểm sinh lí cơ thể thường bao gồm
những đặc điểm di truyền, những hệ cơ quan sinh lí cơ thể, điển hình và quan trọng
nhất là hệ cơ quan sinh dục. Ở con người có hai hệ cơ quan sinh dục chính là hệ cơ
quan sinh dục nam và hệ cơ quan sinh dục nữ, vì vậy loài người có hai giới là giới
nam và giới nữ. Giới theo nghĩa này được hiểu là giới sinh học, giới di truyền.
+ Theo góc độ xã hội, giới là những đặc điểm mà xã hội tạo nên ở người nam
và người nữ, là quy định của xã hội về người nam và người nữ, là những đặc trưng xã
hội ở nam và nữ. Đó là giới xã hội. Giới xã hội thường bao gồm nhiều vấn đề như:
vai trò, vị trí của mỗi giới, đặc điểm và nhiệm vụ của mỗi giới trong xã hội… Những
vấn đề này thường do xã hội quy định và biến đổi theo từng giai đoạn lịch sử, từng
quốc gia, tuỳ theo truyền thống, phong tục tập quán của mỗi dân tộc…
+ Tổng quát hơn có thể định nghĩa giới như sau:
Giới là một tập hợp người trong xã hội có những đặc điểm sinh học cơ bản giống
nhau.
* Như vậy, giới bao gồm hai loại thuộc tính, thuộc tính sinh lí cơ thể và thuộc
tính xã hội.
+ Xét về mặt sinh lí cơ thể, giới là những đặc điểm bẩm sinh, có tính di truyền.
Yếu tố quan trọng và điển hình của giới ở đây là hệ cơ quan sinh dục. Và dưới ảnh
hưởng chủ yếu của hoạt động của hệ cơ quan sinh dục, cơ thể con ngưòi còn có
những biến đổi khác, tạo nên những đặc trưng của giới về hệ xương và hệ cơ, chiều
cao và cân nặng, tỉ lệ giữa cơ và mỡ, hình dáng đặc trưng của cơ thể nam và cơ thể
nữ, sức lực của từng giới và về nhiều đặc điểm sinh lí cơ thể khác. Do cấu tạo sinh lí
cơ thể khác nhau, ở mỗi giới có những chức nănh sinh lí khác nhau, như nữ giới có
khả năng thụ thai, sinh nở, có hiện tượng kinh nguyệt… gới nam không có những
chức năng trên, nhưng thường cao lớn khoẻ mạnh hơn, có khả năng sản xuất tinh
trùng…
+ Xét về mặt xã hội, giới là những đặc điểm do xã hội tạo ra, do những quy
định, luật lệ, đòi hỏi… của xã hội đối với con người là nam hay nữ. Ban đầu dưới ảnh
hưởng của đặc tính về sinh lí cơ thể như chiều cao, tầm vóc, sức mạnh,… người nam
và người nữ được phân công những công việc, những vai trò khác nhau trong đời
sống xã hội. Dần dần ở mỗi người, mỗi giới tạo nên những đặc tính về mặt xã hội như
vai trò của gia đình, địa vị xã hội, nhu cầu về đời sống tình cảm… Những yếu tố trên
chịu sự tác động của xã hội, của lịch sử tạo nên những đặc điểm, chức năng, vai trò
xã hội khác nhau. Giới được thể hiện ở vai trò, chức năng, nghĩa vụ xã hội. Giới là
tập hợp người có những vai trò chức năng xã hội nhất định.
Như vậy, giới có thể được hiểu là giới sinh học hay giới xã hội.
Khi nói đến giới sinh học, người ta thường chú ý nhiều đến hệ cơ quan sinh dục
của con người. Khi em bé lọt lòng mẹ sinh ra, người ta chỉ dựa vào hệ cơ quan sinh
dục để xếp em bé đó thuộc về giới nam hay giới nữ (em trai hay em gái). Khi em bé
lớn lên, đặc biệt là khi bước vào thời kỳ dậy thì, người ta có thể xếp một người vào
giới thứ ba nếu hoạt động của hệ cơ quan sinh dục của người đó là không bình
thường.
Khi nói đến giới xã hội, có nhiều vấn đề được quan tâm như:
– Vai trò của người nam, người nữ trong xã hội.
– Sự phân công lao động trong xã hội cho người nam và người nữ.
– Sự bình đẳng giữa giới nam và giới nữ (vấn đề bình đẳng giới).
– Những quan điểm đánh giá về vai trò của người nam và của người nữ trong
xã hội.
– Sự phát triển, sự tiến bộ của con người ở mỗi giới trong xã hội.
– Mối quan hệ xã hội và sự cư xử giữa hai giới.
Ngày nay, trong xã hội ta, còn tồn tại nhiều vấn đề phức tạp về giới xã hội
như: vấn đề bình đẳng giới, vấn đề quan hệ giữa hai giới, vấn đề giới tính ở mỗi
giới…
1.2.2. Giới tính
– Giới tính có thể được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau và thường bị sử dụng
lẫn lộn với nhiều thuật ngữ khác như: giới, tính dục, tình dục, sinh dục… Nhiều
người thường quan niệm giới tính đồng nghĩa với tình dục hoặc với tính dục. Đó là
quan niệm chưa thật sự đầy đủ, chỉ hiểu một cách đơn giản hoặc hiểu về một mặt nào
đó của giới tính.
– Giới tính cần được hiểu một cách toàn diện hơn:
+ Trước hết, theo từ ngữ, giới tính có thể được hiểu là những đặc điểm của
giới. Những đặc điểm này có thể rất phong phú và đa dạng. Vì giới vừa bao gồm
những thuộc tính về sinh học và những thuộc tính về tâm lí xã hội, nên giới tính cũng
bao gồm những đặc điểm về sinh lí cơ thể và tâm lí xã hội.
+ Giới tính cũng có thể được hiểu là những đặc điểm tạo nên những đặc trưng
của giới, giúp cho chúng ta phân biệt giới này với giới kia.
Những đặc điểm trên thường mang đặc trưng của từng giới và tạo nên sự khác
biệt giữa hai giới. Giới tính là những yếu tố xác định sự khác biệt giữa giới này và
giới kia.
Có thể định nghĩa, giới tính là toàn bộ những đặc điểm ở con người, tạo nên sự
khác biệt giữa nam và nữ.
– Trong đời sống con người, hai giới không thể tồn tại độc lập mà luôn tác
động đến nhau, có mối quan hệ qua lại mật thiết với nhau. Sự quan hệ này bị chi phối
bởi nhiều đặc điểm về sinh lí, về tâm lí ở mỗi người, bởi những đặc điểm về văn hoá,
chính trị, phong tục tập quán của xã hội, trong đó có các đặc điểm đặc trưng của mỗi
giới. Từ đó lại hình thành nên nhiều yếu tố mới, hiện tượng mới trong đời sống giới
tính như: Sự giao tiếp giữa hai giới, quan hệ bạn khác giới, quan hệ tình yêu, hôn
nhân…
Đời sống giới tính của con người rất phong phú và đa dạng. Đó là những hiện
tượng tâm lí và sinh lí nảy sinh trong đời sống của mỗi người, trong mối quan hệ giữa
người này với người kia, trong cuộc sống chung của mỗi người, trong sự tồn tại của
xã hội. Đời sống giới tính là một tổng hợp phức tạp các hiện tượng tâm lí và sinh lí có
liên quan đến mỗi giới, là mọi yếu tố, mọi mặt hoạt động, mọi mối quan hệ… trong
đời sống của con người, trong đời sống xã hội loài người.
Đời sống giới tính là toàn bộ những hiện tượng về mặt sinh lí cơ thể xuất hiện
trong con người có liên quan đến hệ cơ quan sinh dục (đời sống tính dục), những hiện
tượng tâm lí đặc trưng ở mỗi giới, những hiện tượng tâm lí người trong mối quan hệ
với người khác giới (tình bạn khác giới, tình yêu… ), những hiện tượng trong đời
sống xã hội như hôn nhân, gia đình… Gần đây còn xuất hiện những biểu hiện phức
tạp hơn của đời sống giới tính như: các quan điểm yêu đương ngoài hôn nhân, tình
dục ngoài hôn nhân, tình bạn và sự giao tiếp giữa những người khác giới…
* Như vậy, khái niệm về giới tính cần được hiểu một cách đầy đủ, toàn diện về
nhiều mặt sinh lí và tâm lí, cá nhân và xã hội, hôn nhân và gia đình, tình yêu và tình
bạn, sự giao tiếp nam nữ…
1.2.3. Giáo dục giới tính
Giáo dục giới tính là một lĩnh vực rất phức tạp. Có nhiều quan niệm, nhiều ý
kiến khác nhau về vấn đề này.
Có những ý kiến cho rằng chỉ nên tiến hành giáo dục giới tính khi các em vào
thời kỳ chín muồi giới tính.
Một số ý kiến nhầm lẫn giáo dục giới tính với giáo dục tính dục, hoặc giáo dục
tình tình dục, giáo dục tình yêu. Thực ra tính dục chỉ là một bộ phận của giới tính. Sự
thu hẹp phạm vi của giáo dục giới tính như vậy sẽ có thể đưa đến tác dụng phản diện
hoặc hạn chế hiệu quả của giáo dục giới tính.
Có một số người cho rằng, không nên giáo dục giới tính, vì như thế là làm hoen
ố tâm hồn thanh cao của các em, là thiếu tế nhị, không phù hợp với môi trường sư
phạm, là “vẽ đường cho hươu chạy”.
Nhiều ngành khoa học những năm gần đây đã xác nhận ý nghĩa đặc biệt quan
trọng của những năm tuổi thơ đối với một đời người. Cha mẹ nào cũng vậy, đều có
những phút bàng hoàng nhận ra trước mắt mình đứa con không còn là một cậu bé
vụng dại nữa mà đã là một vị thành niên. Nhiều khi cha mẹ chưa kịp nghĩ tới chuyện
giáo dục con cái một cách nghiêm túc thì những đặc tính cơ bản của tính cách con
mình đã hình thành, kể cả đặc tính tình dục.
Một sự phát triển lành mạnh hay những trục trặc, bệnh tật của đời sống tình
dục cá nhân đều liên hệ mật thiết với những biện pháp giáo dục nhất định và những
điều kiện sống nhất định.
Khoa học hiện đại đã khẳng định ý nghĩa của giáo dục, những chuẩn mực đạo
lý, những kinh nghiệm cá nhân thuộc những lĩnh vực khác trong sự hình thành và
phát triển của đời sống giới tính. Với cách xem xét biện chứng như vậy, giáo dục giới
tính là nhằm giáo dục cho con người đạt tới mục đích xã hội chân chính với tư cách là
con đường dẫn dắt tới sự nếm trải trọn vẹn của hạnh phúc làm người.
Ở nhiều nước trên thế giới, hơn ba năm nay, các hình thức giáo dục giới tính đã
có vị trí của nó trong trường phổ thông. Nếu các hình thức đó được tiến hành tốt đẹp
thì trẻ em ở từng độ tuổi đều có được những thông tin cần thiết và lĩnh hội được mọi
vấn đề có liên quan đến đời sống tình cảm của con người.
– Theo A.G. Khrivcova, D.V. Kolexev, “Giáo dục giới tính là một quá trình
hướng vào việc vạch ra những nét, những phẩm chất, những đặc trưng cũng như
khuynh hướng phát triển của nhân cách, xác định thái độ xã hội cần thiết của con
người đối với người khác.” – Cô bé-Thiếu nữ-Thanh nữ, NXB Giáo dục, 1981.
– Giáo dục giới tính là một bộ phận hữu cơ của phức hợp các vấn đề giáo dục
nhân cách, giáo dục con người mới, con người phát triển toàn diện, kết hợp một cách
hữu cơ hài hoà sự phong phú về tinh thần, sự thuần khiết về đạo đức và sự hoàn thiện
về thể xác. Theo A.X. Makarenko, “ khi giáo dục cho đứa trẻ tính ngay thẳng, khả
năng làm việc, tính chân thật, tôn trọng người khác, tôn trọng những cảm xúc và
hứng thú của họ là chúng ta đã đồng thời giáo dục nó về quan hệ giới tính”.
– Giáo sư Trần Trọng Thuỷ, Giáo sư Đặng Xuân Hoài cho rằng, giáo dục giới
tính có phạm vi rất rộng lớn, tác động toàn diện đến tâm lí, đạo đức con người, “là
hình thành tiêu chuẩn đạo đức của hành vi có liên quan đến lĩnh vực thầm kín của đời
sống con ngưòi, hình thành những quan niệm đạo đức lành mạnh giữa em trai và em
gái, thanh nam và thanh nữ, giáo dục những sự “kiềm chế có đạo đức”, sự thuần khiết
và tươi mát về đạo đức trong tình cảm của các em.”- Trần Trọng Thuỷ, Vấn đề giáo
dục đời sống gia đình và giới tính cho thế hệ trẻ, Báo cáo khoa học của đề án P09.
Theo giáo sư Phạm Hoàng Gia, giáo dục giới tính phải được xem xét như một
bộ phận hợp thành của nền giáo dục xã hội. Nó có mối liên hệ mật thiết với giáo dục
dân số, kế hoạch hoá gia đình, hôn nhân-gia đình và với các mặt giáo dục khác trong
nhà trường phổ thông. Do vậy cần phải tiến hành công tác giáo dục giới tính một cách
đồng thời, đồng bộ trong mối quan hệ có tính chất hệ thống với các mặt giáo dục
khác.
Ngoài ra còn rất nhiều quan niệm của các nhà khoa học, nhà nghiên cứu về tâm
lí học giới tính.
Có thể nói rằng, giáo dục giới tính phải gắn liền với giáo dục đạo đức, tư tưởng
và phải tiến hành trên cơ sở của giáo dục đạo đức tư tưởng. Giáo dục giới tính cũng
phải gắn bó mật thiết với các mặt giáo dục khác trong nền giáo dục toàn diện.
Từ những quan niệm trên, PGS.TS. Bùi Ngọc Oánh đã kết luận: “Giáo dục giới
tính là quá trình giáo dục con người (thanh thiếu niên), nhằm làm cho họ có nhận
thức đầy đủ, có thái độ đúng đắn về giới tính và quan hệ giới tính, có nếp sống văn
hoá giới tính, hướng hoạt động của họ vào việc rèn luyện để phát triển nhân cách toàn
diện, phù hợp với giới tính, giúp cho họ biết tổ chức tốt nhất cuộc sống riêng cũng
như xây dựng gia đình hạnh phúc, xã hội phát triển.”- Tâm lí học giới tính và Giáo
dục giới tính, NXB Giáo dục, 2006.
1.3. Tầm quan trọng của giáo dục giới tính đối với sự phát triển nhân cách học
sinh
– Góp phần phát triển toàn diện nhân cách cho thanh thiếu niên học sinh.
– Đáp ứng những quy luật phát triển về tâm lí, sinh lí cơ thể của học sinh.
– Góp phần to lớn đối với giáo dục dân số và sự phát triển xã hội, xây dựng một
xã hội lành mạnh tốt đẹp.
– Góp phần trang bị các kiến thức cho học sinh về giới tính tạo cho các em một
bản lĩnh chống lại các tệ nạn xã hội.
Nhà trường, là nơi cung cấp những kiến thức khoa học về giới và giới tính cho
học sinh, giáo dục định hướng được sự suy nghĩ của các em về giới tính nhằm hình
thành và phát triển toàn diện nhân cách để có sự gia nhập tích cực vào đời sống xã
hội trong tương lai của mỗi cá nhân.
1.4. Nhiệm vụ của giáo dục giới tính ở trường phổ thông bậc trung học cơ sở bao
gồm
a) Giáo dục ý thức trách nhiệm xã hội trong quan hệ giới tính con người.
b) Giáo dục khả năng hiểu biết những đặc điểm giới tính trong quá trình cùng
hoạt động chung với các bạn khác giới. Biết tôn trọng và giúp đỡ lẫn nhau.
c) Bồi dưỡng những hiểu biết về hành vi tốt xấu, cái cho phép và cái không
phải vượt qua trong quan hệ với ngưòi khác giới. Biết tự đánh giá hành vi của mình
trong quan hệ với người khác giới.
d) Bồi dưỡng những hiểu biết đúng đắn về sự trưởng thành sinh lí của con
người (bao gồm nội dung, những dấu hiệu thực sự thể hiện của nó).
e) Bồi dưỡng ý thức trách nhiệm đối với sức khoẻ của bản thân và của người
khác, ý thức được tác hại của việc kết hôn sớm.
f) Bồi dưỡng tinh thần phê phán và thái độ không khoan nhượng đối với những
tàn tích và quan điểm đạo đức phong kiến tư sản trong phạm trù quan hệ giới tính.
Như vậy, nhiệm vụ của giáo dục giới tính bao gồm cả việc truyền thụ tri thức
về giới tính, về mối quan hệ nam nữ và các mối quan hệ khác (với người lớn, với gia
đình, xã hội, bản thân…) và cả việc giáo dục những phẩm chất đạo đức, những hành
vi cư xử với mọi người, nhất là làm cho các em biết được những hành vi tốt và xấu,
đúng và sai trong quan hệ với người khác giới, những tri thức và quan niệm đúng đắn
về đời sống giới tính của con người. Vấn đề này, tác giả Nguyễn Bích Ngọc trong
Báo cáo khoa học tại đề án P09., Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam đã đi sâu vào hai
nhiệm vụ cơ bản:
Thứ nhất, giáo dục giới tính cần phải giúp con người biết phê phán, bác bỏ
những quan niệm, nhận thức sai về giới tính và giáo dục giới tính như:
– Phê phán, bác bỏ những nhận thức không đúng đắn về bản năng sinh dục, về
quan hệ tình dục, về khuynh hướng “giải phóng tình dục”, “cách mạng tình dục” hoặc
xu hướng tiêu cực, phó mặc mọi chuyện “cho nó đến đâu thì đến”, dẫn đến sự tan vỡ
của nhiều cuộc hôn nhân.
– Phân tích, phê phán những tư tưởng và những hành vi không lành mạnh: quan
hệ tình dục bừa bãi, yêu nhau, lấy nhau, bỏ nhau quá dễ dàng, thiếu ý thức trách
nhiệm đối với việc xây dựng gia đình, xã hội giống nòi, chỉ chạy theo khoái cảm…
– Giải quyết được những băn khoăn e ngại, cho rằng giáo dục giới tính sẽ chỉ
làm cho thanh thiếu niên bị kích thích không lành mạnh, chỉ làm cho các em hư hỏng.
Cần phải làm cho mọi người thấy rằng, bản năng tính dục có sức thúc đẩy mãnh liệt
đến độ, nếu ta không giáo dục cho con người, thì bản thân họ, đến một lúc nào đó, sẽ
tự tìm hiểu, tự đi với những vấn đề đó qua nhiều nguồn thông tin không chính thức,
và như vậy, sẽ có thể dẫn tới những hậu quả không tốt.
Thứ hai, giáo dục giới tính phải giúp cho con người hình thành được những tri
thức, những quan niệm đúng đắn, khoa học, phù hợp, có tác dụng tốt cho họ và xã
hội. Bao gồm:
– Tri thức đúng đắn khoa học về sinh lí cơ thể, đời sống tinh dục, cả về cấu tạo,
chức năng, cả về các giai đoạn phát triển của nó… để họ có thể vận dụng những tri
thức này vào cuộc sống, vào việc bảo vệ sức khoẻ, sắc đẹp và đời sống hạnh phúc.
– Những tri thức đúng đắn khoa học về đời sống tâm lí, tâm lí tính dục, tâm lí
giới tính…
– Những tri thức đúng đắn khoa học về tình yêu, hôn nhân, đời sống gia đình,
về đạo lí, tâm lí xã hội, về cách cư xử và xây dựng mối quan hệ tốt đẹp với mọi
người, với người khác giới, với người yêu, người vợ, người chồng, cha mẹ, con cái,
việc sinh đẻ và nuôi dạy con cái.
– Chính sách dân số của Nhà nước.
Có thể đi đến kết luận, nhiệm vụ của giáo dục giới tính bao gồm:
– Hình thành và trang bị cho thế hệ trẻ những tri thức khoa học, thái độ và quan
niệm đúng đắn về những hiện tượng của đời sống giới tính, sinh lí tính dục, về cấu
trúc và chức năng của các hệ cơ quan của cơ thể, nhất là hệ cơ quan sinh dục; về sự
cư xử đúng đắn, về những vấn đề đạo đức giới tính, thẩm mỹ giới tính, tình yêu, hôn
nhân và đời sống gia đình…
– Giúp cho các em có bản lĩnh vững vàng bước vào đời sống xã hội, biết bảo vệ,
giữ gìn sức khoẻ cho người bạn và cho chính mình, có khả năng chống chọi lại những
cạm bẫy, quyến rũ của lối sống ăn chơi đồi truỵ, biết phê phán, bác bỏ những quan
niện không đúng về tình yêu, tình dục, quan hệ tình dục quá sớm hoặc buông xuôi, cả
nể, dẫn tới quan hệ tình dục bừa bãi, yêu nhau, bỏ nhau quá dễ dàng.
– Giúp cho các em biết trân trọng và bảo vệ những giá trị cao cả và thiêng liêng
của tình bạn thân thiết và gắn bó, của tình yêu sâu nặng và chung thuỷ, biết được cái
hay cái đẹp của nếp sống văn hoá văn minh.
– Chuẩn bị về tinh thần và khả năng thực tiễn cho thế hệ trẻ, giúp cho họ phát
triển nhân cách toàn diện, biết cách tổ chức và xây dựng cuộc sống gia đình hạnh
phúc, nâng cao chất lượng cuộc sống, góp phần xây dựng và thúc đẩy xã hội phát
triển, giàu mạnh.
1.5. Các yêu cầu cơ bản của giáo dục giới tính
– Yêu cầu về lứa tuổi: phải căn cứ vào lứa tuổi để có những biện pháp tác động
thích hợp, có mục tiêu và nội dung tri thức khác nhau
– Tính liên tục: Tính liên tục ở đây là những hệ thống mang tính liên thông với
nhau. Mỗi hệ thống được các em đón nhận để chuẩn bị khả năng tư duy tốt hơn cao
hơn.
– Tính logic: Tính logic đảm bảo cho sự phát triển từ đơn giản đến phức tạp, từ
chỗ chưa toàn diện đến chỗ toàn diện hơn.
– Quan điểm toàn diện: Đảm bảo khả năng phát huy mọi mặt tư duy của con
người.
1.6. Những nguyên tắc của giáo dục giới tính
Việc giáo dục giới tính cho thanh niên học sinh là vấn đề quan trọng, cần thiết,
tuy nhiên cũng là một lĩnh vực phức tạp và tế nhị. Vì vậy, ngoài việc phải đảm bảo
những nguyên tắc chung như: tính khoa học, tính giáo dục, tính thực tiễn… như các
môn học khác, cần phải chú ý thêm những vấn đề sau đây:
– Giáo dục giới tính phải gắn liền với giáo dục đạo đức, giáo dục nhân cách,
hình thành thế giới quan khoa học. Giáo dục giới tính phải gắn liền với việc giáo dục
và hình thành nếp sống sinh hoạt lành mạnh, lối sống văn hoá văn minh. Cần phải xác
định rằng, đó là một trong những mục tiêu cơ bản của giáo dục giới tính.
– Giáo dục giới tính phải được thực hiện một cách toàn diện cả về sinh lí giới
tính, tâm lí giới tính, thẩm mĩ giới tính, xã hội giới tính. Không nên chỉ tập trung vào
những vấn đề sinh lí tính dục mà coi nhẹ các vấn đề tâm lí xã hội giới tính.
– Phải kết hợp việc giảng dạy tri thức khoa học với việc hình thành thái độ
đúng đắn. Khi giảng dạy những “vấn đề nhạy cảm”, không nên chỉ tập trung mô tả
các sự kiện, hiện tượng một cách “trần trụi”, “sống sượng”, mà cần chú ý kết hợp với
việc hình thành ý thức đạo đức, phê phán những biểu hiện sai trái.
– Phải kết hợp việc truyền thụ những tri thức lí luận với những kiến thức thực
tiễn nhất là những vấn đề thực tiễn trong đời sống sinh hoạt của thanh niên, học sinh.
– Giáo dục giới tính phải được thực hiện một cách phù hợp với đặc điểm tâm
sinh lí của lứa tuổi, của lớp học, của yêu cầu giáo dục đặc trưng thích hợp với đối
tượng, phải phù hợp với phong tục tập quán của từng vùng, từng địa phương.
1.7. Tổ chức hoạt động giáo dục giới tính ở nhà trường bậc trung học cơ sơ
Vấn đề giáo dục đời sống gia đình và giới tính cho học sinh là một vấn đề mới
ở nước ta. Trong quá trình tiến hành thực nghiệm cũng như trong quá trình nghiên
cứu và xây dựng chương trình giáo dục này, có nhiều vấn đề đang được các nhà
nghiên cứu quan tâm: Nên dạy những gì cho học sinh và sẽ dạy chương trình này cho
học sinh như thế nào. Từ đó có một loạt vấn đề được đặt ra:
– Trong nhiều vấn đề phong phú của nội dung giáo dục đời sống gia đình và
giới tính mà các nước đang áp dụng, chúng ta lựa chọn những vấn đề nào để
dạy cho học sinh phổ thông Việt Nam?
– Nên dạy cho học sinh từ lớp nào?
– Nên dạy lồng ghép vào các môn học có liên quan hay dạy thành một môn
riêng.
Ban chỉ đạo đề án VIE/88/P09 Cụm các tỉnh phía Nam và Thành phố Hồ Chí
Minh đã tiến hành một cuộc điều tra thăm dò ý kiến của giáo viên và học sinh về
những vấn đề trên, để thực hiện có hiệu quả hơn những nhiệm vụ của đề án do Ban
Chủ nhiệm đề án Trung ương trao cho Ban Chỉ đạo sau khi điều tra đã kết luận như
sau:
– Việc giảng dạy chương trình giáo dục đời sống gia đình và giới tính là cần
thiết và có thể tiến hành sớm trong tình hình hiện nay.
– Trước mắt, đối với một số bài, có thể dạy lồng ghép vào các môn có liên quan
như: Sinh học, Giáo dục công dân… Tuy nhiên có thể nghiên cứu để dạy thành một
môn riêng biệt. Thực tế, một số bài, rất khó ghép vào một môn nào như các bài: tình
yêu, hôn nhân,…
– Có thể dạy nội dung chương trình Giáo dục đời sống gia đình và Giới tính
trong chính khoá và trong hoạt động ngoại khoá. Đây là những kiến thức quan trọng,
cần thiết cho học sinh.
– Có thể dạy cho học sinh phổ thông từ trung học cơ sở trở lên. Việc giảng dạy
này vừa xuất phát từ đặc điểm tâm sinh lí của các em, vừa xuất phát từ thực tế giáo
dục và thực tế đời sống học sinh mà các thầy cô giáo đã phát hiện được.
1.8. Một số nét về đặc điểm tâm sinh lý học sinh Trung học cơ sở
– Bước vào bậc trung học cơ sở, các em ở độ tuổi từ 12 đến 15-16 tuổi, đây là
quản đời diễn ra những “biến cố” đặc biệt. Do sự trưởng thành và tích luỹ ở giái đoạn
trước, các em đã có một vị trí xã hội mới: nó không hoàn toàn là trẻ con nhưng cũng
chưa phải là một người lớn. Đây là giai đoạn quá độ từ trẻ con sang người lớn, là giai
đoạn đặc trưng với các dấu hiệu của tuổi dậy thì của nam và nữ.
– Đời sống xúc cảm của các em bị chi phối bởi hai yếu tố cơ bản. Đó là: Sự cải
tổ về mặt giải phẫu sinh lí dẫn đến sự phát dục (dậy thì); Hoạt động giao tiếp với bạn
bè cùng lứa tuổi và với người lớn.
– Ở học sinh khối lớp 8,9 (độ tuổi 14,15) đã nảy sinh những xúc cảm tình cảm
yêu đương đầu đời. Do đó phải giáo dục định hướng đúng đắn cho các em thông qua
việc GDGT…
Như vậy, khi giáo dục giới tính giáo viên phải nắm được các đặc điểm tâm sinh
lí diễn ra phức tạp của học sinh bậc trung học cơ sở, có sự quan tâm đúng mức đến
tâm tư, nguyện vọng của các em nhằm điều chỉnh kịp thời những hành vi lệch lạc.
1.9. Quản lý hoạt động giáo dục giới tính ở nhà trường
Việc quản lý hoạt động giáo dục giới tính trong nhà trường rất phong phú và đa
dạng bao gồm rất nhiều nội dung từ việc nâng cao nhận thức và thái độ của giáo viên,
cán bộ quản lý, cha mẹ học sinh và toàn xã hội nói chung cho đến việc xây dựng
chương trình, việc nghiên cứu phương pháp giảng dạy, tổ chức giảng dạy, đào tạo và
nâng cao trình độ giáo viên,… Tuy nhiên, trước mắt cần phải chú ý các vấn đề sau
đây:
– Phải tìm hiểu quan điểm của giáo viên về giáo dục giới tính trong nhà trường.
– Có kế hoạch tổ chức bồi dưỡng giáo viên về giáo dục giới tính.
– Có kế hoạch phân công giáo viên giảng dạy giáo dục giới tính.
– Quản lý về tài liệu giảng dạy giáo dục giới tính.
– Quản lý việc tìm hiểu nhận thức và thái độ học tập của học sinh về giáo dục
giới tính.
– Quản lý nguồn cung cấp những kiến thức về giới tính cho học sinh.
– Quản lý việc tổ chức hướng dẫn cho cha mẹ học sinh về giáo dục giới tính.
– Quản lý việc xây dựng và thực hiện kế hoạch giáo dục giới tính.
– Quản lý việc tham gia giáo dục giới tính của các đoàn thể và cán bộ trong nhà
trường.
Những vấn đề được trên là những yếu tố chủ yếu trước mắt trong tình hình
hiện nay ở các trường phổ thông. Đặc biệt là ở các trường trung học cơ sở nói chung
và tại huyện Thuận An, tỉnh Bình Dương nói riêng.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VIỆC QUẢN LÝ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH
CHO HỌC SINH Ở CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ TẠI HUYỆN
THUẬN AN,TỈNH BÌNH DƯƠNG
2.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội và giáo dục Huyện Thuận An
– Tỉnh Bình Dương
2.1.1. Vị trí địa lý, đặc điểm dân cư
Thuận An là một huyện thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Nam của tỉnh Bình
Dương, có bốn khu công nghiệp lớn : Việt nam – Singapore, Việt Hương, An Phú,
Đồng An.
– Diện tích: 84,26 Km2
– Dân số : 224,470 người
Huyện Thuận An có nhiều điều kiện thuận lợi về đất đai, thích hợp cho việc
phát triển các khu công nghiệp, khu dân cư và trung tâm dịch vụ với quy mô lớn.
Thực tế tại Thuận An với 4 khu công nghiệp đã hình thành, thu hút hàng vạn công
nhân lao động. Thuận An đang được đánh giá là một trong những huyện phát triển
mạnh nhất về công nghiệp. Năm 2002, tốc độ tăng trưởng công nghiệp 32,2%, đứng
đầu các huyện, thị của tỉnh về phát triển công nghiệp. Quy hoạch 04 khu công nghiệp
với gần 200.000 lao động.
Là đầu mối các đường giao thông quan trọng (QL13, đường sắt Xuyên Á…) nối
liền TP. HCM với các tỉnh phía Bắc. Có vị trí là cửa ngõ phía Bắc của TP. HCM.
2.1.2. Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội huyện Thuận An, tỉnh Bình
Dương
Trong những năm gần đây, huyện Thuận An đã có tốc độ phát triển nhanh.
Trên cơ sở đó chiến lược phát triển kinh tế của Thuận An đã được Hội đồng nhân dân
huyện đề ra là:
– Hình thành nền kinh tế mở theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước theo định hướng XHCN.
– Đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng kinh tế của Huyện thực hiện chiến lược công
nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh và quốc gia. Tăng tỷ trọng phi nông nghiệp, hạ thấp
tỷ trọng nông nghiệp.
– Xây dựng mạng lưới đô thị gắn với phát triển các khu, cụm công nghiệp.
– Gắn tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội, nâng cao đời sống vật chất và
văn hóa của nhân dân, tạo việc làm cho người lao động, chuyển đổi lao động sang
dịch vụ và công nghiệp. Tạo chuyển biến cơ bản về văn hóa, giáo dục, y tế và các vấn
đề xã hội khác. Ưu tiên vùng nông thôn như một số xã ở ven sông Sài Gòn. Rút ngắn
khoảng cách giữa thành thị và nông thôn (Thị trấn và các xã), giữa người nghèo và
người giàu.
– Phát triển nguồn nhân lực của huyện. Coi trọng đào tạo để nâng cao trình độ
dân trí, trình độ chuyên môn, đáp ứng yêu cầu tăng trưởng kinh tế.
– Quá trình phát triển kinh tế – xã hội phải kết hợp chặt chẽ với bảo vệ môi
trường sinh thái, bảo đảm phát triển bền vững.
– Kết hợp phát triển với an ninh quốc phòng, đảm bảo môi trường sinh thái.
2.1.3. Định hướng phát triển giáo dục từ nay đến năm 2010
Cùng với sự phát triển công nghiệp và các ngành khác, việc đầu tư để phát triển
ngành giáo dục và đào tạo là cấp bách, đáp ứng với nhu cầu lực lượng lao động về số
lượng, chất lượng ngày càng tăng của huyện Thuận An nói riêng và của tỉnh Bình
Dương nói chung. Đồng thời với chiến lược phát triển giáo dục đào tạo của cả nước
nói chung và tỉnh Bình Dương nói riêng, ngành giáo dục đào tạo huyện Thuận An
còn có vai trò hỗ trợ về giáo dục và đào tạo cho các huyện thị lân cận và TP. HCM.
Những mục tiêu tổng quát đến năm 2000: Chương trình được gọi là “Chương
trình mục tiêu quốc gia giáo dục và đào tạo”. Chương trình này gồm 4 mục tiêu, đó
là:
2.1.3.1. Mục tiêu nâng cao dân trí
– Chống mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học.
– Đảm bảo hầu hết trẻ em 5 tuổi được học chương trình mẫu giáo lớn trước khi
vào lớp một nhằm phổ cập giáo dục tiểu học trong cả nước. Tiểu học sẽ học 2
buổi/ngày. Thu nhận tối đa học sinh tiểu học vào trung học cơ sở.
– Thanh toán nạn mù chữ cho độ tuổi 15-35 nhằm phổ cập giáo dục tiểu học và
xóa mù chữ một cách vững chắc. Trong đó phải chú trọng giáo dục sức khoẻ sinh sản
và giới tính cho cộng đồng dân cư.
2.1.3.2. Mục tiêu đào tạo nguồn nhân lực
Đào tạo nguồn nhân lực phải đảm bảo về 2 mặt:
– Số lượng
– Chất lượng
Trong đó chú trọng đào tạo chuyên môn kỹ thuật tay nghề và đạo đức nghề
nghiệp. Tức là phải đào tạo cho con người phát triển toàn diện cả “đức” lẫn “tài” mà
trong đó GDGT có vai trò quan trọng trong giáo dục đạo đức nhằm giáo dục định
hướng cho con người phát triển toàn diện về mặt nhân cách.
2.1.3.3. Mục tiêu bồi dưỡng nhân lực
Chương trình xây dựng hệ thống trường sư phạm và xây dựng đội ngũ giáo
viên đạt chuẩn:
– Tăng cường đội ngũ cán bộ giỏi, đào tạo mũi nhọn, tạo điều kiện xây dựng
các trường trọng điểm, trường chất lượng cao, trường chuyên để tập trung phát hiện
và bồi dưỡng nhân tài.
– Khắc phục tình trạng thiếu giáo viên. Đội ngũ CBQL trường phổ thông phải
đạt 40-50% là thạc sĩ trở lên.
– Đào tạo đủ giáo viên cốt cán cho các loại hình giáo viên (trong đó vấn đề đào
tạo đội ngũ có trình độ chuyên môn về giáo dục giới tính là rất cần thiết).
2.1.3.4. Mục tiêu tăng cường cơ sở vật chất trường học
a) Ở Phổ thông:
– Xóa bỏ xong việc học 3 ca, các lớp tạm và tiến hành lầu hóa, có đủ trang thiết
bị, đồ dùng dạy học.
– Trường học có nhà vệ sinh, giếng nước.
– Có cơ sở vật chất tối thiểu để rèn luyện thể chất và đáp ứng đủ các yêu cầu
giảng dạy cho tất cả các bộ môn. Trong đó phải chú trọng đến cơ sở vật chất cho giáo
dục SKSS và giới tính cho học sinh.
– Chuyển dần học sinh tiểu học sang học 2 buổi/ngày
b) Ở khối đào tạo:
– Tập trung xây dựng các ký túc xá trường đại học và trung học sư phạm để
phát triển giáo dục đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và tạo điều kiện cho
con em nông dân, dân tộc nghèo có thể đi học được.
– Tăng cường trang bị cho các phòng thí nghiệm và sản xuất của trường đại
học, cao đẳng, trung học, trung học chuyên nghiệp. Trong đó có một số phòng thí
nghiệm, các thiết bị dạy học, phương tiện hiện đại phục vụ cho công tác đào tạo,
nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ. Đồng thời phải chú trọng công tác
giáo dục dân số nói chung và giáo dục giới tính nói riêng cho thế hệ công dân mới
trong giai đoạn hiện nay.
* Như vậy để thực hiện được 4 mục tiêu trên, ngành giáo dục phải đào tạo cho con
người phát triển toàn diện về cả tài năng và nhân cách. Trong đó giáo dục giới tính
phải được quan tâm.
2.2. Thực trạng việc quản lý giáo dục giới tính ở các trường Trung học cơ sở
trên địa bàn Huyện Thuận An, Tỉnh Bình Dương
2.2.1. Tìm hiểu quan điểm của giáo viên về giáo dục giới tính
2.2.1.1 Quan điểm của giáo viên về hình thức giáo dục giới tính
Kết quả điều tra được trình bày trong bảng 1 sau đây:
Bảng 2.1: Quan điểm của giáo viên về các hình thức GDGT
Số TT
Hình thức GDGT
SL
Tỉ lệ %
T.số
1
Lồng ghép vào GDCD+Sinh
95
79,2
120
2
SHCN.
72
60,0
120
3
SH Ngoại khoá
66
55,0
120
4
GD ngoài giờ lên lớp
77
64,2
120
5
Mời báo cáo viên
112
93,3
120
Nhận xét bảng 2.1:
+ Việc lồng ghép vào các môn GDCD-Sinh học: Có 79,2% ý kiến giáo viên
cho rằng việc giáo dục giới tính cho học sinh bậc THCS nên lồng ghép vào đây.