11204_Thực trạng về quản lý giảng dạy tiếng Anh tại khoa Ngữ văn Trường Cao đẳng Sư phạm Bình Dương

luận văn tốt nghiệp

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

PHAN NGUYỄN HỒNG DIỄM

Chuyên ngành : Quản lý giáo dục
Mã số : 60 14 05

LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. NGƯT. HOÀNG TÂM SƠN

Thành phố Hồ Chí Minh – 2007

LỜI CẢM ƠN

Luận văn được thực hiện và hoàn thành với sự giúp đỡ quý báu của Quý Thầy, Cô trong Ban
giám hiệu, Phòng Khoa học Công nghệ & Sau đại học, Khoa Tâm lý – Giáo dục Trường Đại học
Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, cùng các Quý Thầy, Cô trực tiếp giảng dạy đã tạo điều kiện
giúp đỡ tác giả trong suốt khoá học.

Đặc biệt chúng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS.NGƯT. Hoàng Tâm Sơn, đã tận
tâm hướng dẫn, chỉ bảo, giúp đỡ tác giả trong quá trình học tập, nghiên cứu để hoàn thành luận
văn.

Tác giả xin chân thành cảm ơn Quý Thầy, Cô trong Khoa Ngoại ngữ; Ban giám hiệu Trường
CĐSP Bình Dương, đã tạo điều kiện thuận lợi và dành thời gian quý báu để tham gia góp ý kiến,
giúp đỡ tác giả trong quá trình nghiên cứu đề tài!

Xin chân thành cảm ơn các Anh, Chị đồng môn trong lớp Cao học chuyên ngành Quản lý giáo
dục – Khoá 15, đã quan tâm giúp đỡ, động viên tác giả trong suốt khoá học.

Mặc dù đã rất cố gắng, song vẫn không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong Quý Thầy, Cô và
các Anh, Chị đồng nghiệp tận tình đóng góp ý kiến thêm.

Bình Dương, tháng 07 năm 2007
PHAN NGUYỄN HỒNG DIỄM

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

– CĐSP BD
: Cao đẳng Sư phạm Bình Dương
– CSVC
: cơ sở vật chất
– TBDH
: thiết bị dạy học
– Ths
: Thạc sĩ
– TS
: Tiến sĩ
– ĐVHT
: đơn vị học trình
– GD & ĐT
: giáo dục và đào tạo
– SV
: sinh viên
– SVC
: sinh viên chuyên
– SVKC
: sinh viên không chuyên
– GV
: giảng viên
– QL
: quản lý
– QLGD
: quản lý giáo dục
– ĐDDH
: đồ dùng dạy học
– THCS
: trung học cơ sở
– PPGD
: phương pháp giảng dạy
– PPDH
: phương pháp dạy học
– NSP
: ngoài sư phạm

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Bước sang thế kỷ XXI, hoà cùng xu thế phát triển chung của thế giới nước ta đã và đang chuyển
sang một giai đoạn phát triển mới, với yêu cầu ngày càng cao về chất lượng và quản lý chất lượng
trong tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế-xã hội. Từ các cấp lãnh đạo đến tầng lớp dân cư đều quan
tâm đến chất lượng mọi mặt của cuộc sống, chất lượng môi trường, chất lượng sản phẩm và nhất là
chất lượng giáo dục. Ở nước ta, đổi mới quản lý giáo dục nhằm phát triển và nâng cao chất lượng đào
tạo nguồn nhân lực đã và đang là một nhiệm vụ có tính chiến lược trong quá trình đổi mới giáo dục và
đào tạo theo định hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá và xã hội hoá.

Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng giáo dục và đào tạo cùng với khoa học công nghệ là quốc
sách hàng đầu. Thực hiện tư tưởng chỉ đạo đó, giáo dục và đào tạo nước ta đã đạt được những thành
tựu quan trọng.

Thực hiện chủ trương đổi mới giáo dục và đào tạo theo Nghị quyết Trung Ương II khoá VIII
của Đảng và văn kiện Đại hội Đảng lần IX, giáo dục phải không ngừng đổi mới theo mục tiêu giáo dục
toàn diện, đảm bảo chất lượng. Để thực hiện mục tiêu này thì công tác quản lý giáo dục và đào tạo mà
cụ thể là quản lý việc dạy học là một trong những vấn đề quan trọng được quan tâm. Vì quản lý giáo
dục và đào tạo chính là quản lý việc thực hiện các chủ trương chính sách giáo dục quốc gia, nâng cao
hiệu quả đầu tư cho giáo dục, chú ý thực hiện các mục tiêu giáo dục, nâng cao chất lượng giáo dục.
Đặc biệt quản lý giáo dục và đào tạo được coi là khâu then chốt nhằm bảo đảm thắng lợi của mọi hoạt
động giáo dục.

Ngày nay quá trình toàn cầu hoá đang đặt ra cho giáo dục nước ta những thách thức lớn, trong
đó việc dạy và học ngoại ngữ giữ vị trí và vai trò quan trọng. Ngoại ngữ là một công cụ giao tiếp, là
phương tiện để thực hiện đẩy mạnh hợp tác quốc tế.

Việc dạy và học ngoại ngữ được Đảng và Nhà nước ta quan tâm và đầu tư từ nhiều năm nay. Ở
các trường phổ thông, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng và đại học ngoại ngữ trở thành một trong
những môn không thể thiếu trong chương trình. Tại các trường cao đẳng, đại học, bên cạnh các ngành
chuyên ngữ, ngoại ngữ không chuyên được đưa vào giảng dạy cho các ngành khoa học khác. ngoại
ngữ được các giáo viên và sinh viên sử dụng như phương tiện học tập và nghiên cứu trong lĩnh vực
chuyên môn của mình.

Trong những năm qua, trường Cao đẳng Sư phạm Bình Dương đã đào tạo hàng ngàn sinh viên
có trình độ cử nhân đáp ứng phần nào nhu cầu nguồn nhân lực cho tỉnh nhà. Tuy nhiên, sinh viên

chuyên sau khi ra trường vẫn còn một số chưa đáp ứng được nhu cầu giảng dạy, những sinh viên lớp
không chuyên ngữ thì chưa sử dụng được tiếng Anh.

Để góp phần khắc phục tình trạng trên, việc nghiên cứu đề tài “Thực trạng về quản lý giảng dạy
tiếng Anh tại khoa ngoại ngữ trường Cao đẳng Sư phạm Bình Dương” là một việc hết sức thiết thực.
Qua công trình nghiên cứu này chúng tôi muốn làm rõ thực trạng công tác quản lý của hiệu trưởng,
trưởng khoa ngoại ngữ về nội dung, chương trình, phương pháp giảng dạy bộ môn tiếng Anh, công tác
giảng dạy của giáo viên khoa ngoại ngữ, kết quả học tập của sinh viên… trường Cao đẳng Sư phạm
Bình Dương. Từ đó đề xuất các biện pháp để việc quản lý giảng dạy có hiệu quả.

Kết quả nghiên cứu có thể được sử dụng làm cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc cải tiến công
tác quản lý giảng dạy tiếng Anh tại khoa ngoại ngữ trường Cao đẳng Sư phạm Bình Dương và các
trường Cao đẳng Sư phạm khác.
2. Mục đích của đề tài nghiên cứu
2.1. Làm rõ thực trạng về quản lý giảng dạy tiếng Anh ở khoa ngoại ngữ trường Cao đẳng Sư phạm
Bình Dương.
2.2. Đề xuất biện pháp quản lý giảng dạy tiếng Anh nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
3.1. Đối tượng: thực trạng quản lý việc giảng dạy tiếng Anh tại khoa ngoại ngữ trường Cao đẳng Sư
phạm Bình Dương.
3.2. Khách thể: hoạt động giảng dạy của khoa ngoại ngữ, cán bộ quản lý, giáo viên, sinh viên tại
trường Cao đẳng Sư phạm Bình Dương.
4. Giả thuyết khoa học

Chúng tôi cho rằng việc quản lý giảng dạy tiếng Anh ở khoa ngoại ngữ trường Cao đẳng Sư
phạm Bình Dương tương đối tốt ở một số mặt, song nhiều mặt còn hạn chế.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Làm rõ cơ sở lý luận liên quan đến đề tài nghiên cứu.

Nêu những vấn đề lý luận làm cơ sở cho hoạt động quản lý: hoạt động quản lý và các khái niệm
có liên quan, nội dung quản lý giảng dạy bộ môn tiếng Anh.
5.2. Làm rõ thực trạng về quản lý giảng dạy tiếng Anh tại khoa ngoại ngữ trường Cao đẳng Sư phạm
Bình Dương.
5.3. Đề xuất các biện pháp quản lý giảng dạy tiếng Anh.
6. Phạm vi và địa bàn nghiên cứu
6.1. Phạm vi nghiên cứu:

Chỉ nghiên cứu về quản lý giảng dạy tiếng Anh ở khoa ngoại ngữ trường Cao đẳng Sư phạm
Bình Dương.

6.2. Địa bàn nghiên cứu:

– Khoa ngoại ngữ trường Cao đẳng Sư phạm Bình Dương.

– Sinh viên năm I, II của trường CĐSP BD
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu nhằm xây dựng tổng luận nghiên cứu:

Thu thập tài liệu, nghiên cứu, phân tích, tổng hợp những tài liệu lý luận về những nội dung có
liên quan đến đề tài.
7.2. Phương pháp điều tra bằng phiếu.

Nhằm làm rõ thực trạng giảng dạy tiếng Anh với các mẫu điều tra ở các đối tượng là cán bộ
quản lý, giáo viên, sinh viên. Kết quả được xử ý bằng toán thống kê được tiến hành như sau:

– Thống kê các kết quả của bảng trưng cầu ý kiến, xử lý thô

– Thống tần số, tính tỉ lệ phần trăm

– Tính chi bình phương (X2), độ tự do (df) để tính mức xác suất (p). Nếu p< 0,05 thì có sự khác biệt ý nghĩa thống kê về các khách thể đối với đối tượng; nếu p> 0,05 thì không có sự khác biệt ý nghĩa
thống kê về các khách thể đối với đối tượng.
7.3. Ngoài hai phương pháp trên còn sử dụng phương pháp quan sát, phỏng vấn:

Tiếp cận và thu thập dữ liệu thực tế về công tác quản lý giảng dạy tại khoa ngoại ngữ trường
Cao đẳng Sư phạm Bình Dương.

Trao đổi trực tiếp với cán bộ quản lý của trường, của khoa, giáo viên trong khoa hoặc sinh viên
để có thêm những thông tin cần thiết liên quan đến đề tài.
7.4. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm:

Nghiên cứu các quyết định quản lý, các kế hoạch năm học, tháng, tuần của khoa ngoại ngữ. Căn
cứ vào các tài liệu, các kế hoạch, báo cáo tổng kết theo từng đợt thi đua, hệ thống sổ sách quản lý các
số liệu để đánh giá thực trạng quản lý giảng dạy.

Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN

1.1. SƠ LƯỢC LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ

Việc giảng dạy ngoại ngữ, đặc biệt là giảng dạy tiếng Anh đóng một vai trò vô cùng quan trọng
trong bối cảnh hiện nay khi Việt Nam đang hoà nhập vào khu vực và thế giới. Trong quá trình hoà
nhập này, một trong những nhu cầu cấp thiết là phải giỏi ngoại ngữ. Chính vì vậy mà việc tăng cường
năng lực sử dụng tiếng Anh cho sinh viên là một trọng tâm lớn trong đào tạo ở các trường Đại học,
Cao đẳng. Đã có nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu việc giảng dạy ngoại ngữ ở các trường Đại học,
Cao đẳng và vấn đề quản lý giảng dạy ngoại ngữ cũng được đề cập.

Bài viết “Dạy ngoại ngữ không chuyên ở bậc Đại học”của Ths. Lê Văn Ân, Trường CĐSP
Quảng Trị, đăng trên Tạp chí Giáo dục số 133 (kì 1- 3/2006) đã nêu lên những bất cập về phương pháp
dạy ngoại ngữ, thái độ học tập của sinh viên, trình độ ngoại ngữ chênh lệch của học sinh ở các cấp
trung học cơ sở, trung học phổ thông là những nguyên nhân dẫn đến khả năng sử dụng tiếng Anh để
giao tiếp của sinh viên còn kém.

Trong luận văn thạc sĩ “ Thực trạng và biện pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý việc giảng
dạy tiếng Anh ở các khoa không chuyên ngữ tại trường Đại học Sư phạm Thành Phố Hồ Chí Minh”
của tác giả Trần Thị Bình đã nêu thực trạng quản lý mục tiêu, nội dung chương trình, cách kiểm tra
đánh giá, phương tiện dạy học, tổ chức giảng dạy, đội ngũ giáo viên, kết quả học tập của sinh viên
khoa không chuyên ngữ, đưa ra một số biện pháp để khắc phục những yếu kém.

Tài liệu hội thảo 2 “ Đổi mới phương pháp dạy học môn tiếng Anh trong các trường Đại học –
Cao đẳng đào tạo giáo viên trung học cơ sở”, của Dự án đào tạo giáo viên trung học cơ sở, năm 2003,
đã đề cập đến vai trò của ngoại ngữ, thực trạng của dạy và học ngoại ngữ hiện nay và giải pháp, đổi
mới phương pháp giảng dạy và cách kiểm tra đánh giá.

“Giảng dạy tiếng Anh tại trường Đại học Kiến trúc Hà nội”, tác giả Nguyễn Thị Ánh Tuyết đã
khái quát về những khó khăn và tồn tại trong giảng dạy tiếng Anh, nguyên nhân của những tồn tại đó
chủ yếu đề cập đến trình độ giáo viên và cơ hội học tập, giao tiếp của giáo viên còn hạn chế.

Trong kỷ yếu hội thảo khoa học do trường Đại học Sư phạm Thành Phố Hồ Chí Minh tổ chức
vào tháng 11/2005, có nhiều bài tham luận nêu lên thực trạng giảng dạy ngoại ngữ không chuyên,
những thuận lợi cũng như những khó khăn từ việc giảng dạy của giáo viên và học tập của học sinh.
Một số bài tham luận như:

“Phấn đấu giảng dạy đạt yêu cầu của ngoại ngữ không chuyên trong các trường Đại học”, TS.
Vũ Văn Thành, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.

“Hướng tới nâng cao năng lực ngoại ngữ cho học sinh không chuyên”, Trần Thị Nga, Đại học
Quốc gia Hà Nội.

“Việc dạy và học ngoại ngữ cho sinh viên không chuyên ngữ ở trường đại học Hải Phòng”, Ths.
Lê Thị Hồng, Trường Đại học Hải Phòng.

“Thách thức và triển vọng của giảng dạy ngoại ngữ tại các trường Đại học không chuyên ngữ ở
Việt Nam” Đào Thị Tạo, Trường Đại học kiến trúc Hà Nội.

“Thực trạng và giải pháp dạy học ngoại ngữ không chuyên ở Thanh Hoá và trường Đại học
Hồng Đức”, Ths. Phạm Văn Chủ.

“Một số ý kiến về việc dạy học tiếng Anh như là một ngoại ngữ không chuyên”, Ths. Lý Thị
Mỹ Hạnh, Trường Đại học Sư phạm Thành Phố Hồ Chí Minh.

“Dạy và học ngoại ngữ – Vấn đề cần quan tâm”, TS. Nguyễn Thị Kim Anh, Trường Đại học Sư
phạm Thành Phố Hồ Chí Minh.

“Dạy – Học ngoại ngữ không chuyên sẽ có hiệu quả hơn trong khuôn khổ hoạt động chuyên
môn và hợp tác quốc tế”, Lê Thị Thuỷ, Học viện Hành chính quốc gia Thành Phố Hồ Chí Minh.

“Một số nhận xét về việc dạy học ngoại ngữ ở các trường không chuyên ngữ”, Vũ Thành Công,
Học viện Báo chí và tuyên truyền.

“Thực trạng việc dạy ngoại ngữ cho sinh viên không chuyên ngữ trường Cao đẳng Sư phạm
Hoà Bình”, Ths. Bùi Thị Kim Tuyến, Trường Cao đẳng Sư phạm Hoà Bình.

“ Thực trạng về việc giảng dạy ngoại ngữ cho sinh viên không chuyên ngữ tại Trường Cao đẳng
Sư phạm Hà Nam”, Nguyễn Minh Chinh, Trường Cao đẳng Sư phạm Hà Nam.

“Thực trạng và một số giải pháp nhằm cải thiện tình trạng dạy và học cho sinh viên khối không
chuyên Anh Trường Cao đẳng Sư phạm Hà Nội”, Ths. Nguyễn Thị Bích Liên, Trường Cao đẳng Sư
phạm Hà Nội.

“Dạy và học tiếng Anh không chuyên tại trường Cao đẳng: Thực trạng và giải pháp”, Nguyễn
Thị Châu Anh, Trường Cao đẳng Sư phạm Bến Tre.

“ Dạy ngoại ngữ cho sinh viên không chuyên ngữ trong các trường Đại học, Cao đẳng Việt
Nam: Những yêu cầu mới”, Nguyễn Thị Ngọc Hường,Trường Cao đẳng Cộng đồng Trà Vinh

Nhìn chung, các tác giả chủ yếu đề cập đến vấn đề giảng dạy ngoại ngữ, quản lý giảng dạy tiếng
Anh không chuyên mà chưa đề cập cụ thể đến quản lý việc giảng dạy tiếng Anh chuyên ngữ. Thực tế
giảng dạy ở mỗi địa phương khác nhau: môi trường giảng dạy, trình độ giáo viên, sinh viên, giáo trình
giảng dạy, cơ sở vật chất… nên biện pháp quản lý cụ thể cũng khác nhau và chưa có tác giả nào nghiên
cứu thực trạng QL giảng dạy tiếng Anh ở trường CĐSP BD. Vì vậy, chúng tôi chọn đề tài này với
mong muốn đi sâu tìm hiểu thực trạng quản lý việc giảng dạy tiếng Anh và đưa ra biện pháp nhằm
quản lý việc giảng dạy tiếng Anh tại khoa ngoại ngữ Trường Cao đẳng Sư phạm Bình Dương một cách
có hiệu quả.

1.2. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.2.1. Nhìn từ góc độ quản lý
1.2.1.1. Quản lý.

* Quản lý: Thuật ngữ “Quản lý” (Tiếng Việt gốc Hán) lột tả được bản chất của hoạt động này
trong thực tiễn. Nó bao gồm hai quá trình tích hợp vào nhau, quá trình “Quản” gồm coi sóc, giữ gìn,
duy trì ở trạng thái “ổn định”, quá trình “Lý” gồm sự sửa sang, sắp xếp, đổi mới hệ, đưa hệ vào thế
“phát triển”. Nếu người đứng đầu tổ chức chỉ lấy việc “Quản” làm chính thì tổ chức dễ trì trệ, ngược
lại chỉ quan tâm đến việc “Lý” thì sự phát triển của tổ chức không bền vững.

Người quản lý phải luôn xác định và phối hợp tốt, sao cho trong “Quản” phải có “Lý” và trong
“Lý” phải có “Quản”, làm cho trạng thái của hệ thống luôn ở trạng thái cân bằng động. Vậy quản lý
chính là quá trình giữ gìn sự ổn định để phát triển và sự phát triển phải tạo ra được sự ổn định của hệ.

Quản lý là hoạt động tất yếu nảy sinh khi có lao động chung của nhiều người, cùng theo đuổi
một mục đích. Quản lý là dạng hoạt động đặc thù (lao động đặc thù) của con người và là một thuộc
tính có trong xã hội ở bất cứ trình độ phát triển nào. Kể từ xã hội nguyên thuỷ, lao động chung nhiều
người là săn bắn, hái lượm, cũng đã cần có sự quản lý, cho đến khi nền kinh tế tri thức vẫn cần phải có
sự quản lý.

Khi xã hội phát triển, lao động quản lý tách khỏi lao động trực tiếp và đã trở thành nghề quản lý.
Nghề quản lý tuy tách thành hai bộ phận:Quản lý và lao động trực tiếp, song nó có liên quan mật thiết
với nhau, không tách rời nhau, hai bộ phận này tạo thành hệ xã hội chung toàn vẹn. Hệ có sự quản lý
trong đó gồm có hai bộ phận: Bộ phận quản lý và bộ phận bị quản lý. Bộ phận quản lý hay còn gọi là
chủ thể quản lý, bộ phận bị quản lý hay còn gọi là khách thể quản lý. Đã có nhiều tác giả đưa ra khái
niệm quản lý và theo nhiều cách tiếp cận khác nhau:

Theo tác giả Hà Sỹ Hồ, nếu như ở tầm vĩ mô, nói đến quản lý xã hội thì “Quản lý là sự tác động
liên tục, có tổ chức có định hướng của chủ thể quản lý lên khách thể quản lý về mặt chính trị, văn hoá,
kinh tế, xã hội, … bằng một hệ thống các luật lệ, các chính sách, các nguyên tắc, các phương pháp và
biện pháp cụ thể, nhằm tạo ra môi trường và điều kiện cho sự phát triển của đối tượng”[22].

Theo tác giả Bùi Trọng Tuân, nếu xét trên phương diện hoạt động của một tổ chức thì “Quản lý
là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý nhằm sử dụng có
hiệu quả nhất các tiềm năng, các cơ hội của hệ thống để đạt được mục tiêu đặt ra trong điều kiện biến
động của môi trường” [47]

Theo tác giả Đặng Quốc Bảo “Quản lý là quá trình gây tác động của chủ thể quản lý đến khách
thể quản lý nhằm đạt được mục tiêu chung” [1].

Theo tác giả Phạm Minh Hạc “Quản lý là tác động có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản
lý đến tập thể người lao động (nói chung là khách thể quản lý), nhằm thực hiện các mục tiêu dự kiến”.
[18]

Theo tác giả Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc “Quản lý là quá trình đạt đến mục tiêu
của tổ chức bằng cách vận dụng tối ưu các chức năng kế hoạch hoá, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra” [10]

Quản lý là một khoa học vì nó là lĩnh vực tri thức đã được hệ thống hoá và
là đối tượng nghiên cứu khách quan đặt biệt. Quản lý là khoa học về phân loại và xử lý các quan hệ,
đặt biệt là quan hệ giữa chủ thể quản lý và khách thể quản lý. Với tư cách là khoa học, quản lý đòi hỏi
các nhà quản lý phải không ngừng học tập để nâng cao năng lực quản lý.

Quản lý là một nghệ thuật vì nó là hoạt động đặc biệt, đòi hỏi sự khéo léo và tinh tế, linh hoạt
những tri thức, kinh nghiệm đã được đúc kết để áp dụng vào việc tổ chức con người và công việc. Với
tư cách là nghệ thuật, quản lý đòi hỏi các nhà quản lý phải không ngừng rèn luyện để nâng cao hiệu
quản quản lý.

Vậy quản lý vừa là một khoa học vừa là một nghệ thuật. Nó mang tính khoa học vì hoạt động
quản lý có tính tổ chức, có định hướng dựa trên những qui luật, những nguyên tắc và những phương
pháp hoạt động cụ thể. Đồng thời quản lý cũng mang tính nghệ thuật, vì nó vận dụng một cách sáng
tạo trên những điều kiện cụ thể trong sự kết hợp và tác động nhiều mặt của các yếu tố khác nhau trong
xã hội.

Ta có thể hiểu bản chất của hoạt động quản lý là sự phối hợp các nổ lực của con người thông
qua việc thực hiện các chức năng quản lý trong giáo dục. Hoạt động quản lý là tác động của nhà quản
lý giáo dục đến tập thể giáo viên, học sinh và các lực lượng giáo dục khác nhau trong xã hội, nhằm
thực hiện các hệ thống
mục tiêu quản lý giáo dục. Mặc dù có nhiều quan niệm khác nhau về quản lý song có thể hiểu quản lý
là những hoạt động mang tính tổ chức, điều khiển của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý, nhằm
thực hiện có hiệu quả mục tiêu mà tổ chức đã đề ra.

* Các chức năng quản lý:

Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang “Chức năng quản lý là một dạng hoạt động quản lý, thông
qua đó chủ thể quản lý tác động vào khách thể quản lý nhằm thực hiện mục tiêu nhất định” [38].

Chức năng của quản lý là hình thức biểu hiện sự tác động có chủ đích của chủ thể quản lý lên
đối tượng quản lý. Đó là tập hợp những nhiệm vụ khác nhau mà chủ thể quản lý phải tiến hành trong
quá trình quản lý. Thực chất các chức năng quản lý chính là do sự tồn tại các hoạt động quản lý. Ta có
thể hiểu chức năng quản lý là một nội dung cơ bản của quá trình quản lý, là nhiệm vụ không thể thiếu
được của chủ thể quản lý. Nhiều công trình nghiên cứu về khoa học quản lý, tuy chưa thống nhất và có
khá nhiều chức năng, nhưng về cơ bản đều thống nhất quản lý có bốn chức năng cơ bản, liên quan mật

thiết với nhau: Kế hoạch hoá, tổ chức chỉ đạo, kiểm tra và thông tin vừa là phương tiện, vừa là điều
kiện thực hiện các chức năng quản lý.

– Kế hoạch hoá: Căn cứ vào thực trạng ban đầu của tổ chức và các chức năng được giao mà xây
dựng quyết định về mục tiêu, chương trình hành động và bước đi cụ thể trong một thời gian nhất định
của một hệ thống quản lý hay xác định được mục tiêu của tổ chức, các biện pháp, các điều kiện cho tổ
chức đạt được mục tiêu đã đề ra.

– Tổ chức: Phân công trách nhiệm cho từng thành viên trong tổ chức và tổ chức thực hiện theo
nhiệm vụ, kế hoạch đã đề ra. Tổ chức là xác định một cơ cấu chủ định về vai trò, nhiệm vụ được hợp
thức hoá. Tổ chức là nguyên nhân của mọi nguyên nhân dẫn đến thành công hay thất bại trong hoạt
động của một hệ thống và giữ một vai trò to lớn vì: Tổ chức làm cho các chức năng khác của hoạt động
quản lý thực hiện có hiệu quả. Từ khối lượng công việc quản lý mà xác định biên chế, sắp xếp con
người cho hợp lý. Tạo điều kiện cho việc hoạt động tự giác và sáng tạo của các thành viên trong tổ
chức, tạo nên sự phối hợp ăn khớp, nhịp nhàng trong cơ quan quản lý và đối tượng quản lý, dễ dàng
cho việc kiểm tra. một tổ chức nếu có kế hoạch phù hợp, nhưng tổ chức không khoa học thì không thể
đạt được mục tiêu đề ra.

– Chỉ đạo: Là phương thức tác động của người quản lý nhằm điều hành tổ chức hoạt động, để
đảm bảo cho tổ chức vận hành theo đúng kế hoạch đã đề ra và đảm bảo các hoạt động của tổ chức diễn
ra trong trật tự, kỷ cương nhằm đạt được mục tiêu của tổ chức.

– Kiểm tra: Là công cụ sắc bén góp phần nâng cao hiệu quả quản lý, kiểm tra nhằm đảm bảo các
kế hoạch thành công, phát hiện kịp thời các sai sót, tìm ra nguyên nhân, biện pháp sửa chữa kịp thời
những sai sót đó. Kiểm tra là tai mắt của quản lý, thông qua kiểm tra mà chủ thể quản lý đánh giá được
kết quả công việc của mọi thành viên trong tổ chức, đánh giá được thực trạng, kết quả vận hành của tổ
chức, nhằm phát huy những mặt tốt, đồng thời phát hiện những sai lệch để uốn nắn, điều chỉnh một
cách kịp thời, đúng hướng, nhằm đạt mục tiêu đề ra.

Các chức năng quản lý tạo thành một chu trình quản lý, chúng có mối quan hệ mật thiết với
nhau, ảnh hưởng qua lại nhau, làm tiền đề cho nhau, khi thực hiện hoạt động quản lý trong quá trình
quản lý thì yếu tố thông tin luôn có mặt trong tất cả các giai đoạn với vai trò vừa là điều kiện vừa là
phương tiện để tạo điều kiện cho chủ thề quản lý thực hiện các chức năng quản lý.

Mối quan hệ giữa các chức năng quản lý và hệ thống thông tin được biểu diễn bằng sơ đồ chu
trình quản lý như sau:

Kế hoạch
Tổ chức
Kiểm tra
Chỉ đạo
Thông tin

Sơ đồ 1.1: Các chức năng quản lý trong chu trình quản lý [35] 1.2.1.2. Quản lý giáo dục

Chúng ta đã biết quản lý là một dạng tất yếu nảy sinh khi có lao động chung của nhiều người
cùng theo đuổi một mục tiêu. Vậy đương nhiên hoạt động giáo dục cũng cần được quản lý đó là:
Quản lý giáo dục. Giáo dục là một bộ phận của xã hội, nên quản lý giáo dục là một loại hình quản
lý xã hội. Quản lý xã hội là tác động có ý thức của chủ thể quản lý tới khách thể quản lý hoặc
những bộ phận của nó, trên cơ sở nhận thức và vận dụng những quy luật khách quan của đối tượng,
nhằm đảm bảo cho nó vận động và phát triển hợp lý để đạt được mục tiêu đã định. Có nhiều tác giả
đưa ra các quan niệm khác nhau về quản lý giáo dục:

Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang “ Quản lý giáo dục là hệ thống những tác động có mục
đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý (hệ giáo dục), nhằm làm cho hệ vận hành theo
đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng, thực hiện được tính chất của nhà trường xã hội chủ
nghĩa Việt Nam mà điểm hội tụ là quá trình dạy học giáo dục thế hệ trẻ, đưa hệ giáo dục tới mục
tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái mới về chất” [38]

Theo tác giả Đỗ Hoàng Toàn “ Quản lý giáo dục là tập hợp những biện pháp tổ chức, phương
pháp giáo dục, kế hoạch hoá tài chính, cung tiêu…, nhằm đảm bảo sự vận hành bình thường của
các cơ quan trong hệ thống giáo dục, đảm bảo sự tiếp tục phát triển và mở rộng hệ thống cả về mặt
số lượng, cũng như về chất lượng” [43]

Từ các khái niệm trên về quản lý giáo dục, ta có thể hiểu quản lý giáo dục là quản lý hệ thống
giáo dục, là sự tác động có mục đích, có hệ thống, có kế hoạch, có ý thức của chủ thể quản lý lên
đối tượng quản lý, theo những quy luật khách quan, nhằm đưa hoạt động sư phạm của hệ thống

giáo dục đạt tới kết quả mong muốn. Quản lý giáo dục là một dạng hoạt động quản lý chuyên biệt,
thông qua đó chủ thể quản lý tác động vào khách thể quản lý nhằm thực hiện một mục tiêu quản lý
giáo dục nhất định.
1.2.1.3. Quản lý dạy học

* Quản lý dạy học:

Là sự tác động hợp quy luật của chủ thể quản lý dạy học đến chủ thể dạy học bằng các giải pháp
phát huy tác dụng của các phương tiện quản lý như chế định giáo dục đào tạo, bộ máy tổ chức và
nhân lực dạy học, nguồn tài lực, vật lực dạy học, thông tin và môi trường dạy học nhằm đạt được
mục tiêu quản lý dạy học. Quản lý dạy học là phải quản lý đồng bộ và thống nhất các mặt hoạt
động mang tính phương tiện thực hiện mục tiêu quản lý dạy học.

Để quản lý tốt quá trình dạy học, trước hết phải đảm bảo cho mọi người tham gia vào quá trình
này quán triệt rõ mục đích và phát huy được tác dụng của các phương tiện thực hiện mục đích dạy
học. Như vậy các phương tiện dạy học có ý nghĩa quyết định trực tiếp mức độ đạt được mục tiêu
quản lý dạy học. Chất lượng và hiệu quả quản lý dạy học được quyết định bởi chất lượng và hiệu
quả các hoạt động mang tính phương tiện dạy học. Vì vậy quản lý dạy học được thông qua việc
quản lý đồng bộ và thống nhất các hoạt động mang tính phương tiện thực hiện mục đích dạy học.

Quản lý dạy học phải đồng thời quản lý hoạt động giảng dạy và học tập, nhưng trước hết là quản
lý hoạt động dạy của người thầy (ở các khâu soạn bài, giảng bài, đánh giá kết quả dạy học).

Những chủ ý của người dạy về mục đích, nội dung, phương pháp, hình thức học tập, tổ chức sẽ
quyết định mục đích, nội dung, phương pháp của người học và ngược lại. Nói cách khác hoạt động
dạy chế ước hoạt động học và ngược lại, cho nên quản lý dạy học là quản lý đồng thời các hoạt
động của giáo viên và học sinh. Mặt khác đứng ở góc độ quản lý, tuy mọi tác động quản lý của hiệu
trưởng đều đến với học sinh (vị trí trung tâm của quá trình dạy học), nhưng mọi tác động đó trước
hết được đến với giáo viên, vì lẽ đó quản lý dạy học trước hết là quản lý khâu chủ yếu của quá trình
dạy học (hoạt động giảng dạy của giáo viên).

Yêu cầu của quản lý dạy học là phải quản lý các thành tố cấu trúc của quá trình dạy học, nhưng
trước hết các thành tố đó sẽ phát huy tác dụng thông qua qui trình hoạt động của người dạy một
cách đồng bộ, hài hoà, hợp quy luật, đúng nguyên tắc dạy học. Qui trình đó có tính tuần hoàn và
được bắt đầu từ khâu soạn bài, tiếp đó là giảng bài và tạm thời kết thúc ở khâu đánh giá kết quả.
Cho nên quản lý dạy học là quản lý các khâu soạn bài, giảng bài và đánh giá kết quả dạy học của
giáo viên. Quản lý dạy học được thông qua công tác quản lý của đội ngũ cán bộ quản lý, tổ chuyên
môn, đội ngũ giáo viên chủ nhiệm lớp và ban cán sự lớp.

** Tổ trưởng chuyên môn có nhiệm vụ xây dựng kế hoạch dạy học của tổ, giám sát kế hoạch
của tổ viên, tổ chức kiểm tra, đánh giá chất lượng dạy học và đề xuất khen thưởng, kỷ luật đối với

giáo viên. Tổ trưởng hành chính có nhiệm vụ tổ chức công tác hành chính, văn thư, kế toán, thủ
quỹ, thư viện, thí nghiệm, y tế học đường, bảo vệ, … để phục vụ hoạt động giáo dục.

** Giáo viên chủ nhiệm lớp có ảnh hưởng trực tiếp về quyền uy, đạo đức và tâm lý tới học sinh,
đồng thời là nhân tố chủ yếu để cộng tác với cha mẹ học sinh, phối hợp với giáo viên bộ môn, các
đoàn thể và tổ chức xã hội nhằm góp phần thực hiện mục đích giáo dục và dạy học.

** Ban cán sự lớp trực tiếp nắm bắt tình hình của người học, đại diện phát biểu các nhu cầu và
nguyện vọng của người học và thường là hạt nhân của các tổ chức đoàn thể của người học, có trách
nhiệm tổ chức triển khai các hoạt động của tập thể người học nhằm đạt được mục đích dạy học.
Hoạt động của ba lực lượng trên có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động dạy học và quản lý hoạt
động dạy học, cho nên người quản lý phải chú ý đến việc triển khai hoạt động quản lý dạy học
thông qua cán bộ quản lý tổ chuyên môn, đội ngũ giáo viên chủ nhiệm lớp và ban cán sự lớp.
* Mối quan hệ giữa quản lý dạy học và hoạt động dạy học:

Để đạt được mục đích dạy học, người dạy và người học phải cộng tác trong việc phát huy các
yếu tố chủ quan của họ (phẩm chất và năng lực cá nhân) nhằm xác định nội dung, lựa chọn phương
pháp, tìm kiếm các hình thức, tận dụng các phương tiện và điều kiện, đánh giá kết quả thu được.

Các công việc trên của họ được thực hiện theo một kế hoạch, có tổ chức, tuân thủ sự chỉ đạo và
được sự kiểm tra đánh giá của chủ thể quản lý dạy học. Nói cụ thể hơn, trong quá trình dạy học đã
xuất hiện đồng thời các hoạt động của chủ thể quản lý dạy học, của người dạy và người học như
sau: chủ thể quản lý dạy học tác động đến người dạy và người học thông qua việc thực hiện các
chức năng: kế hoạch hoá, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra.

Người dạy vừa chịu tác động của chủ thể quản lý dạy học, vừa tự kế hoạch hoá hoạt động dạy
học, tự tổ chức việc dạy học và tổ chức việc học cho người học, tự chỉ đạo hoạt động dạy của mình
và chỉ đạo hoạt động học của người học, đồng thời tự kiểm tra đánh giá kết quả dạy của mình và
kiểm tra đánh giá kết quả học tập của người học.

Người học tự xây dựng kế hoạch, tự tổ chức, tự chỉ đạo và kiểm tra hoạt động học của mình
theo kế hoạch, cách tổ chức, chỉ đạo và phương thức kiểm tra đánh giá của người dạy. Vậy chủ thể
dạy học cần phải sử dụng những phương tiện nào để đạt được mục đích dạy học và các phương tiện
dạy học do ai tạo ra cho họ? Có thể lý giải các câu hỏi này như sau:

Một là: Những phương tiện thực hiện mục đích dạy học chủ yếu gồm: Chế định giáo dục – đào
tạo đối với việc dạy học, bộ máy tổ chức và nhân lực dạy học, nguồn tài lực và vật lực dạy học, môi
trường dạy học và hệ thống thông tin dạy học. Hai là: Các phương tiện thực hiện mục đích dạy học
chủ yếu nói trên là các yếu tố khách quan đối với người dạy và người học. Các yếu tố đó chỉ có thể
có được nhờ hoạt động quản lý của chủ thể quản lý.

Bằng các căn cứ ở trên cho thấy mối quan hệ giữa quản lý dạy học và hoạt động dạy học là: Chủ
thể dạy học đặt ra yêu cầu cho chủ thể quản lý là phải tạo ra các phương tiện thực hiện mục đích
dạy học để họ cộng tác tối ưu trong việc phát huy các yếu tố chủ quan nhằm quản lý và tự quản lý
dạy học. Cụ thể là họ cần có được hệ thống: Chế định Giáo dục và Đào tạo hoàn chỉnh, bộ máy tổ
chức và nhân lực dạy học có chất lượng cao, nguồn tài lực và vật lực dạy học đầy đủ và hiện đại, có
được môi trường dạy học thuận lợi và có đầy đủ thông tin giáo dục nói chung và thông tin dạy học
nói riêng. Chủ thể quản lý dạy học vừa có trách nhiệm tạo ra các phương tiện thực hiện mục đích
dạy học và vừa phải coi chúng là các phương tiện quản lý của chính mình để sử dụng trong quản lý
hoạt động dạy học.

Có thể mô tả trực quan mối quan hệ giữa quản lý dạy học với hoạt động dạy học bằng sơ đồ sau:

Mục đích dạy học

(Từng bước hoàn thành nhân cách người học)

Yếu tố
chủ quan:
năng lực
và phẩm
chất người
dạy
Cộng tác tối ưu
trong việc
Quản lý và tự quản
Yêú tố chủ
quan:
Năng lực
và phẩm
chất người
dạy

Hoạt động

Truyền đạt và lĩnh hội
Tri thức của nhân loại

Chế
định
giáo
dục và
đào tạo
dạy học
Bộ máy
tổ chức
và nhân
lực dạy
học
Nguồn
tài lực
và vật
lực dạy
học
Môi
trường
dạy học
Hệ
thống
thông
tin dạy
học

Các yếu tố khách quan do chủ thể quản lý dạy học tạo ra

Sơ đồ 1.2: Mối quan hệ giữa quản lý dạy học với hoạt động dạy học [40]

* Quản lý chất lượng dạy học: Dạy học có chất lượng là thực hiện tốt ba nhiệm vụ dạy học đó
là cung cấp tri thức, rèn luyện kỹ năng và hình thành thái độ. Nếu thực hiện tốt ba nhiệm vụ dạy học
nói trên thì chất lượng dạy học sẽ được nâng lên.

Quản lý chất lượng dạy học không chỉ là quản lý đơn thuần các hoạt động dạy học mà còn phải
quản lý tất cả các thành tố của hoạt động sư phạm, đăc biệt chú trọng đến các thành tố của quá trình
dạy học: Mục tiêu, nội dung dạy học, xây dựng các điều kiện cần thiết cho hoạt động dạy của thầy và
hoạt động học của trò, đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất, tài chính, môi trường (sư phạm, xã hội) và các
mối quan hệ bên trong và bên ngoài nhà trường. Quản lý chất lượng dạy học là quản lý các hoạt động
toàn diện trong nhà trường nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ dạy học.
1.2.2. Nhìn từ góc độ lý luận dạy học
1.2.2.1. Hoạt động dạy học:

Dạy học: Một bộ phận của quá trình tổng thể giáo dục nhân cách toàn vẹn, là quá trình tác động
qua lại giữa giáo viên và học sinh, nhằm truyền thụ và lĩnh hội tri thức khoa học, những kỹ năng, kỹ
xảo, hoạt động nhận thức và thực tiễn, để trên cơ sở đó hình thành thế giới quan, phát triển năng lực
sáng tạo và xây dựng các phẩm chất, nhân cách người học.

Như vậy dạy học là khái niệm chỉ hoạt động chung của người dạy và người học. Dạy học bao
gồm hai hoạt động, đó là hoạt động dạy của thầy và hoạt động học của học sinh. Hai hoạt động này
luôn gắn bó mật thiết với nhau, tồn tại cho nhau và vì nhau.

* Hoạt động dạy của thầy:

Là truyền thụ tri thức, tổ chức, điều khiển hoạt động chiếm lĩnh tri thức của học sinh, giúp học
sinh nắm được kiến thức, hình thành kỹ năng, thái độ. Hoạt động dạy có chức năng kép là truyền đạt và
điều khiển nội dung học theo chương trình qui định. Có thể hiểu hoạt động dạy là quá trình hoạt động
sư phạm của thầy, làm nhiệm vụ truyền thụ tri thức, tổ chức, điều khiển hoạt động nhận thức của học
sinh.

* Hoạt động học của học sinh:

Là quá trình tự điều khiển chiếm lĩnh khái niệm khoa học, học sinh tự giác, tích cực dưới sự
điều khiển của thầy nhằm chiếm lĩnh khái niệm khoa học. Hoạt động học cũng có chức năng kép là
lĩnh hội và tự điều khiển quá trình chiếm lĩnh khái niệm khoa học một cách tự giác, tích cực nhằm biến
tri thức của nhân loại thành học vấn của bản thân. Có thể hiểu hoạt động học của học sinh là quá trình
lĩnh hội tri thức, hình thành những hệ thống kỹ năng, kỹ xảo, vận dụng kiến thức vào thực tiễn và hoàn
thiện nhân cách của bản thân. Hai hoạt động dạy và học có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tồn tại song
song và phát triển trong cùng một quá trình thống nhất, chúng bổ sung cho nhau, kết quả hoạt động của
học sinh không thể tách rời kết quả của hoạt động dạy của thầy và kết quả hoạt động dạy của thầy
không thể tách rời kết quả học tập của học sinh.

1.2.2.2. Quá trình dạy học:

* Khái niệm quá trình dạy học: có nhiều tác giả đưa ra các khái niệm về quá trình dạy học khác
nhau:

Theo tác giả Hà Thế Ngữ – Đặng Vũ Hoạt: “ Quá trình dạy học là một quá trình bộ phận, một
phương tiện để trau dồi học vấn, phát triển năng lực và giáo dục phẩm chất, nhân cách thông qua sự tác
động qua lại giữa người dạy và người học, nhằm truyền thụ và lĩnh hội một cách có hệ thống những tri
thức khoa học, những kỹ năng, kỹ xảo, nhận thức và thực hành”[34]

Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang: “ Quá trình dạy học là một hệ toàn vẹn bao gồm hoạt động
dạy và hoạt động học. Hai hoạt động này luôn tương tác nhau, thâm nhập vào nhau và sinh thành ra
nhau, sự tương tác giữa dạy và học mang tính chất cộng tác (cộng đồng và hợp tác), trong đó hoạt động
dạy đóng vai trò chủ đạo”[40]

Trong quá trình dạy học người thầy luôn giữ vai trò chủ đạo trong việc định hướng tổ chức, điều
khiển và thực hiện các hoạt động truyền thụ tri thức, kỹ năng, kỹ xảo đến người học một cách khoa
học. Người học sẽ ý thức và tổ chức quá trình tiếp thu một cách tự giác, tích cực, độc lập, sáng tạo hệ
thống kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo nhằm hình thành năng lực, thái độ đúng đắn, tạo ra động lực cho việc
học, hình thành nhân cách cho bản thân.

Quá trình dạy của thầy và học của trò là một quá trình hoạt động trong đó thầy giữ vai trò chủ
đạo, học sinh đóng vai trò tích cực, chủ động nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ dạy học.
Dạy học là một quá trình hoạt động gồm hai mặt do thầy giáo (dạy) và học sinh (học) thực hiện.

Nhiệm vụ dạy học trong nhà trường không chỉ đảm bảo trình độ học vấn nhất định mà còn góp
phần hình thành nhân cách của học sinh.

Qua đó có thể hiểu quá trình dạy học là một quá trình toàn vẹn, nó bao gồm hoạt động dạy và
hoạt động học.

Quá trình dạy học đảm bảo sự thống nhất của giảng dạy và học tập, của truyền đạt và điều khiển
trong giảng dạy, của lĩnh hội và tự điều khiển trong học tập.

Cấu trúc của quá trình dạy học có thể biểu diễn bằng sơ đồ sau:

Cộng

tác

HỌC
Lĩnh hội
Tự điều
khiển
Điều khiển
Truyền đạt
DẠY
KHÁI NIỆM KHOA HỌC

Sơ đồ 1.3 Cấu trúc chức năng của quá trình dạy học [40]

* Bản chất của quá trình dạy học:

“Bản chất của quá trình dạy học là sự thống nhất biện chứng của dạy và học, nó được thực hiện
trong nhà trường bằng sự tương tác có tính chất cộng đồng và hợp tác giữa dạy và học, tuân theo lô gíc
khách quan của nội dung dạy học. Muốn dạy tốt thì giáo viên phải xuất phát từ khái niệm khoa học,
xây dựng công nghệ dạy học, tổ chức tối ưu các hoạt động cộng tác của dạy và học, thực hiện các chức
năng kép của dạy cũng như của học, đồng thời đảm bảo liên hệ nghịch thường xuyên, bền vững”[40]

Dạy là công việc của giáo viên bao gồm các hoạt động tổ chức, thiết kế, chỉ đạo, điều khiển việc
lĩnh hội kiến thức, hình thành hệ thống kỹ năng, kỹ xảo, hướng dẫn học sinh cách thức, phương pháp
tiếp thu, lĩnh hội kiến thức. Bản chất của việc dạy là quá trình tổ chức cho học sinh nhận thức, là quá
trình giúp học sinh chiếm lĩnh tri thức, hình thành và phát triển nhân cách.

Học là hoạt động học tập của học sinh nhằm thu nhận tri thức. Bản chất của hoạt động học là
quá trình thu nhận tri thức một cách chủ động, tích cực, sáng tạo dưới sự hướng dẫn của thầy nhằm
lĩnh hội tri thức. Có thể hiểu bản chất của quá trình dạy học là quá trình nhận thức độc đáo của học
sinh được tổ chức một cách riêng biệt dưới sự tổ chức, chỉ đạo và hướng dẫn của thầy nhằm đạt được
các nhiệm vụ dạy học.

* Mối quan hệ giữa dạy và học trong quá trình dạy học

Dạy và học là một quá trình toàn vẹn, thống nhất biện chứng, là qui luật cơ bản của quá trình
dạy học, nó phản ánh mối liên hệ tất yếu, chủ yếu và bền vững giữa hai thành tố trung tâm, đặc trưng
cho tính chất hai mặt của quá trình dạy học đó là dạy và học.

Dạy và học là một quá trình tương tác, cộng tác giữa thầy và trò. Chủ thể hoạt động dạy là thầy
giáo, chủ thể hoạt động học là học sinh.

Quá trình vận động tích cực, chủ động, sáng tạo của những chủ thể này làm phát triển và hoàn
thiện năng lực không chỉ của thầy cô giáo mà còn ở học sinh.
Quá trình cộng tác hành động của thầy giáo và học sinh càng nhịp nhàng, ăn ý, càng làm tăng
kết quả của quá trình dạy học, càng làm trưởng thành nhanh mỗi cá nhân trong quá trình đó.
Quá trình dạy học gồm hai hoạt động trung tâm đó là hoạt động dạy của thầy và hoạt động học
của trò, hai hoạt động này thống nhất nhau, phản ánh tính chất hai mặt của quá trình dạy học và tạo ra
chất lượng dạy học.

Quá trình dạy học là một quá trình xã hội gắn liền với hoạt động của con người, hoạt động này
phải nhằm mục đích nhất định, trên cơ sở hình thành những nhiệm vụ nhất định. Thầy và trò, những
phương tiện, phương pháp hoạt động nhất định và phải đạt được kết quả mong muốn.

Quá trình dạy học là một quá trình toàn vẹn, bao gồm các thành tố cấu trúc: Mục tiêu dạy học,
nội dung dạy học, phương pháp dạy học, phương tiện dạy học, lực lượng dạy học, hình thức tổ chức
dạy học, kết quả dạy học. Các thành tố này tồn tại trong mối liên hệ thống nhất với nhau và thống nhất
với môi trường (tự nhiên và xã hội).

Mối liên hệ này được thể hiện bằng sơ đồ sau:

Mục tiêu dạy học

Môi trường
tự nhiên

Môi trường
xã hội
Phương pháp dạy học
Phương tiện dạy học
Lực lượng dạy học
Hình thức tổ chức dạy học
Kết quả dạy học

Sơ đồ 1.4: Mối quan hệ giữa các thành tố cấu trúc của quá trình dạy học [6]

Sự tác động qua lại của các thành tố cấu trúc của quá trình dạy học, nhất là sự cộng tác tối ưu
giữa thầy và trò trong quá trình dạy học ở trên, ta có thể thấy rõ mối quan hệ biện chứng giữa dạy và
học trong quá trình dạy học. Trong quá trình dạy học thầy giáo là người điều khiển để học sinh tự giác,
tích cực học tập. Quá trình dạy học tồn tại trong mối quan hệ với môi trường của nó (tự nhiên và xã
hội).

1.2.3. Lý luận giảng dạy bộ môn tiếng Anh.

Dạy và học ngoại ngữ nói chung, tiếng Anh nói riêng có những đặc thù riêng biệt. Dạy học
ngoại ngữ (tiếng Anh) nhằm tạo dựng ở người học năng lực giao tiếp bằng tiếng Anh và sử dụng thành
thạo bốn kỹ năng thực hành ngôn ngữ.

Trong quá trình dạy và học đòi hỏi sinh viên và giáo viên phải có sự tương tác qua lại. Tuỳ
từng nội dung và yêu cầu của đơn vị bài học, có thể giáo viên giữ vai trò chủ đạo hoặc sinh viên.

* Đối với sinh viên:

– Phải xây dựng cho mình động cơ học tập đúng đắn. Sinh viên sẽ đạt được kết quả học tập
cao hơn nếu tích cực tham gia vào quá trình học tập. Sự tiến bộ của sinh viên trong quá trình học tập sẽ
thúc đẩy quá trình tiếp thu ngoại ngữ của họ.

– Sinh viên sẽ tiếp thu một ngoại ngữ có hiệu quả hơn nếu họ hiểu biết về quá trình học tập
và có phương pháp học ngoại ngữ, sáng tạo các chiến lược cá nhân phù hợp.

– Sinh viên cần được hướng dẫn học theo phương châm thử nghiệm – tham gia tích cực vào
các hoạt động, đồng thời biết chấp nhận mắc lỗi trong quá trình tham gia thực hành các kỹ năng ngoại
ngữ. Nguyên tắc này sẽ biến vai trò thụ động truyền thống trước đây của người học thành vai trò chủ
động.

* Đối với giáo viên:

– Để thức đẩy quá trình học tập của sinh viên, giáo viên cần sử dụng giáo trình một cách sáng
tạo và mang tính giao tiếp cao. Nếu có thể, cần tìm cách bổ sung vào chương trình các tài liệu giảng
dạy và các hoạt động hỗ trợ có khả năng cập nhật nội dung đồng thời làm cho giáo trình phù hợp hơn
với đối tượng giảng dạy

– Giáo viên cần cố gắng tạo mọi cơ hội để sinh viên có thể sử dụng ngôn ngữ đang học một
cách có nghĩa thông qua các hoạt động cả lớp, nhóm tổ và các hoạt động khác. Cần hướng sinh viên
vào việc dùng thứ tiếng đang học làm phương tiện giao tiếp trên lớp học. Giao tiếp bằng tiếng nước
ngoài giữa giáo viên và sinh viên, giữa sinh viên và sinh viên là điều kiện quan trọng để nâng cao trình
độ tiếng Anh của sinh viên. Cũng nên sử dụng kết hợp tiếng Việt khi cần thiết.
– Giáo viên cần tạo
đều kiện cho sinh viên mở mang kiến thức, tiếp xúc với việc sử dụng ngoại ngữ dạy học một cách tự
nhiên. Cần tạo điều kiện để sinh viên có cơ hội diễn đạt ý kiến cá nhân của mình bằng ngoại ngữ.
1.2.4. Quản lý giảng dạy bộ môn tiếng Anh

* Quản lý nội dung chương trình

Quản lý giảng dạy bộ môn tiếng Anh cũng dựa trên cơ sở khoa học của lý luận quản lý và lý
luận dạy học nói chung. Song ở bộ môn tiếng Anh đặc biệt phải quản lý giảng viên và sinh viên thực
hiện tốt bốn kỹ năng: Nghe (Listening), Nói (Speaking), Đọc (Reading), Viết (Writing). Bốn kỹ năng
này phải được thực hiện trong QL chương trình giảng dạy, giáo trình, lên lớp, kiểm tra,v.v…

– Trong QL nội dung chương trình người QL cần chú ý nguyên tắc điều chỉnh nội dung là
thực hiện giảm tải (mối quan hệ giữa lượng tri thức và thời gian), tôn trọng tính hệ thống, đảm bảo sự
ổn định, đảm bảo sự nhất quán và không trùng lặp. Như vậy cần chỉ đạo sao cho người dạy thống nhất
được việc chọn lọc các tri thức thiết thực và đảm bảo tính phổ thông (toàn diện) vừa đảm bảo được tính
thích ứng của nội dung (cái mà người học, cộng đồng và xã hội đang cần). Từ đó định ra được nội
dung nào phải biết, nội dung nào cần biết và nội dung nào có thể biết.

– Việc lựa chọn nội dung theo quan điểm chủ điểm và cần đảm bảo các nguyên tắc sau đây:

+ Ngữ cảnh hoá. Các chủ điểm với nội dung ngôn ngữ của chúng cần phải được đặt trong
ngữ cảnh để sinh viên có thể thực hiện các hoạt động giao tiếp gần giống với đời sống thực.

+ Bảo đảm tính phù hợp. Các chủ điểm được lựa chọn đưa vào chương trình cần phải phù
hợp với mối quan tâm, kiến thức nền, sở thích cũng như năng lực thực hành tiếng của sinh viên. Các
yếu tố văn hoá của các nước nói tiếng Anh cũng cần đưa vào chương trình một cách phù hợp.

+ Đảm bảo tính ứng dụng. Nội dung giảng dạy cần tạo cho sinh viên khả năng ứng dụng cao,
giúp sinh viên liên hệ nội dung kiến thức đang học vào môi trường thực tế và bổ sung kiến thức vào
kho tàng của họ.

+ Đảm bảo tính xác thực. Nội dung ngôn ngữ của chương trình cần đảm bảo tính xác thực
sao cho kiến thức và kỹ năng của sinh viên đạt được trong trường học phù hợp với các tiêu chí của
ngôn ngữ thực đang được sử dụng ở các nước nói tiếng Anh.

+ Đảm bảo kết hợp các kỹ năng. Chương trình cho phép phân chia khối lượng kiến thức, kỹ
năng thành các phần nhưng không vì thế chúng độc lập với nhau. Các bài tập, hoạt động cá nhân cũng
như theo nhóm, tổ cần đảm bảo việc kết hợp tất cả các kỹ năng ngôn ngữ (nghe, nói, đọc, viết) để lĩnh
hội, chuyển dịch thông tin và áp dụng thông tin.

+ Đảm bảo tính trình tự. Các hoạt động trên lớp học cần được sắp xếp theo trình tự phù hợp
với quá trình tiếp thu một ngoại ngữ, bắt đầu bằng các hoạt động có ngữ cảnh cụ thể và không đòi hỏi
nhiều đến tư duy trừu tượng tiến tới các hoạt động có ngữ cảnh khái quát và đòi hỏi tư duy trừu tượng
cao.

+ Đảm bảo nguyên tắc thông tin phản hồi. Sinh viên cần nhận được các thông tin phản hồi
theo các yêu cầu của hoạt động trên lớp học để từ đó có thể tự đánh giá sự tiến bộ của mình hoặc điều
chỉnh phương pháp học tập để đạt được hiệu quả học tập cao.

* Quản lý giảng dạy:

– Quản lý việc thực hiện chương trình giảng dạy. Thực hiện chương trình giảng dạy là thực
hiện kế hoạch đào tạo theo mục tiêu đào tạo của trường Cao đẳng Sư phạm, theo chương trình khung
của Bộ Giáo dục và Đào tạo qui định. Yêu cầu người cán bộ quản lý phải nắm được những vấn đề như:
nguyên tắc cấu tạo chương trình của bộ môn ở từng năm học; chương trình của từng môn, nội dung,

kiến thức của từng phân môn; phương pháp dạy học đặc trưng của từng phân môn và các hình thức dạy
học; kế hoạch dạy học của từng môn, khối lớp (thời lượng dạy của môn học, bài học, hình thức dạy
học, kiểm tra, đánh giá,..). Không giống với những môn học khác, môn tiếng Anh đòi hỏi GV phải rèn
luyện bốn kỹ năng cho SV và yêu cầu cần đạt được đối với các kỹ năng như sau:

+ Nghe (Listening): SV nghe hiểu được đại bộ phận nội dung thông tin, dữ kiện, phân biệt
được đúng sai, nghe được thông tin cần thiết, … thuộc nội dung của ngôn bản với vốn từ vựng được tái
tạo từ ngữ liệu đã học. GV phải có bước chuẩn bị cho SV trước khi nghe, trong khi nghe cần có những
câu hỏi gợi mở để định hướng cho SV, sau khi nghe có bài tập mở rộng như thảo luận xung quanh vấn
đề nghe được, đóng vai thực hành lại những đoạn hội thoại chẳng hạn (Speaking), bình luận bằng
những bài viết (Writing),…

+ Nói (Speaking): yêu cầu SV phải diễn đạt được các nhu cầu giao tiếp về các lĩnh vực thuộc
đời sống hàng ngày, giao tiếp xã hội, thuật lại một sự việc, miêu tả,… từ đơn giản đến phức tạp. Để
người đối thoại hiểu được mình chính xác thì SV phải sử dụng đúng từ, ngữ pháp,…với nhiều “chiến
lược” giao tiếp thích hợp với hoàn cảnh và chủ điểm. GV cần lưu ý sửa cách phát âm (pronunciation),
cũng như các lỗi khác như thì (tenses), cấu trúc câu (structures) mà SV mắc phải khi nói.

+ Đọc (Reading): Có thể hiểu được đại bộ phận thông tin, dữ kiện của các văn bản đến hiểu
đầy đủ các ý chính, ý phụ dưới nhiều dạng văn bản khác nhau,… GV phải hướng dẫn SV cách đọc từ
đọc lướt lấy thông tin nhanh đến đọc tìm chi tiết…các cấu trúc ngữ pháp phức tạp, đoán ý qua ngữ
cảnh… GV lấy thông tin phản hồi từ SV như cho SV viết tóm tắt (Writing), hoặc thảo luận
(Speaking),…

+ Viết (Writing): Có thể viết để đáp ứng các nhu cầu giao tiếp thiết yếu về các vấn đề cá
nhân, xã hội. Có thể ghi chép, mô tả sự kiện, sự việc, miêu tả, tường thuật,… bằng văn phong phù hợp
và đúng ngữ pháp. GV hướng dẫn SV viết với những cấu trúc, hình thái, cú pháp từ đơn giản đến phức
tạp, lưu ý lối diễn đạt, khắc phục cách viết dịch từ tiếng mẹ đẻ.

Như vậy dạy tiếng Anh không chỉ dạy đơn lẻ một kỹ năng nào mà có sự liên kết các kỹ năng
với nhau. Vì vậy người QL cần chú ý đặc trưng này của bộ môn để khi đánh giá việc giảng dạy của GV
được chính xác, khách quan.

– Quản lý chương trình giảng dạy của giáo viên: Giáo viên phải dạy đúng theo khung
chương trình qui định, đảm bảo thời lượng cho từng phân môn, khối lớp. Người cán bộ quản lý muốn
thực hiện được yêu cầu này cần phải chú ý một số việc sau:

+ Kế hoạch giảng dạy học phần của từng giáo viên. Kế hoạch này phải được thông qua tổ bộ
môn trao đổi và đóng góp ý kiến.

+ Tiến độ thực hiện chương trình. Thông qua thời khoá biểu, sổ theo dõi giảng dạy và học
tập, dự giờ, thăm lớp, … để kịp thời xử lý những trường hợp xảy ra ảnh hưởng đến việc thực hiện

chương trình giảng dạy . Đảm bảo cả thời gian thực hiện chương trình dạy học và nội dung chương
trình.

+ Các báo cáo về theo dõi thi đua của giáo viên, soạn giảng,… Các loại hồ sơ sổ sách liên
quan đến hoạt động chuyên môn của giáo viên.

* Quản lý giờ lên lớp:

Giờ lên lớp đóng vai trò quyết định chất lượng giảng dạy. Vì vậy cả giáo viên và người quản
lý đều cố gắng hết sức mình để chất lượng giờ lên lớp được nâng cao một cách toàn diện. Người quản
lý không trực tiếp đứng lớp nhưng vẫn có tác động đến giờ lên lớp hiệu quả. Người quản lý phải có
những biện pháp tạo khả năng, điều kiện cho giáo viên lên lớp có hiệu quả.

+ Xây dựng chuẩn đánh giá giờ lên lớp. Đây là nhiệm vụ chung của tập thể giáo viên, của tổ
bộ môn. Các tiêu chuẩn này được xây dựng dựa trên lý thuyết lý luận dạy học. Người quản lý dựa vào
các tiêu chuẩn này để kiểm tra, đánh giá, hướng tới mục tiêu nâng cao dần chất lượng giờ lên lớp.

+ Quản lý giờ lên lớp qua thời khoá biểu. Thời khoá biểu giúp duy trì nền nếp dạy học, tạo
sự nhịp nhàng trong dạy học hàng ngày, kiểm soát được tiến độ thực hiện chương trình dạy học các
môn.

+ Thăm lớp, dự giờ, trò chuyện với giáo viên, học sinh cũng là hình thức quản lý giờ lên lớp.

+ Các báo cáo của tổ chuyên môn về tình hình dạy trên lớp: thực hiện chương trình, nền nếp,
số tiết giảng dạy, điểm kiểm tra…

* Quản lý cơ sở vật chất, thiết bị dạy học

– Cơ sở vật chất và thiết bị dạy học được hiểu là những phương tiện vật chất, kỹ thuật và sản
phẩm khoa học – công nghệ được huy động và sử dụng để đạt tới mục đích của hoạt động giáo dục
trong trường học.

– Cơ sở vật chất và thiết bị dạy học đóng vai một thành tố cơ bản trong cấu trúc của quá trình
giáo dục nói chung và quá trình dạy học nói riêng. Thành tố này có nội dung quan trọng như các thành
tố nội dung, chương trình, phương pháp, hình thức tổ chức, lực lượng giáo dục và môi trường giáo dục,
… đồng thời có tác động tương hỗ đến các thành tố cấu trúc khác của quá trình giáo dục để đạt tới mục
đích giáo dục tổng thể (nhân cách người học).

– Cơ sở vật chất và thiết bị dạy học đóng vai một trong những điều kiện mang tính tất yếu để
các lực lượng giáo dục trong nhà trường (trong đó chủ yếu là người dạy và người học) thực hiện các
nhiệm vụ và chức năng của họ.

– Ở góc độ lý luận quản lý thì cơ sở vật chất và thiết bị dạy học đóng vai là một phương tiện
thực hiện mục đích quản lý; cơ sở vật chất và thiết bị dạy học đóng vai một trong những trụ cột cơ bản
của quản lý để chủ thể quản lý dựa vào nó mà thực hiện các chức năng cơ bản của quản lý (kế hoạch
hoá, tổ chức chỉ đạo và kiểm tra); cơ sở vật chất và thiết bị dạy học đóng vai phương tiện để kết nối các

hoạt động trong nhà trường với nhau và kết nối các hoạt động của trường với các cơ quan hữu quan
ngoài trường.

– Cơ sở vật chất và thiết bị dạy học là một bộ phận không thể thiếu được để thực hiện nội
dung và các phương pháp dạy học. Bởi vì cơ sở vật chất và thiết bị dạy học đã tự thân chứa đựng một
phần nội dung giáo dục – dạy học và có tác dụng giúp cho người dạy, người học lựa chọn và cải tiến
các phương pháp dạy học, thực hiện mục đích giáo dục – dạy học.

– Cơ sở vật chất và thiết bị dạy học đạt chuẩn, hiện đại có tác dụng giáo dục gián tiếp người
học về thẩm mỹ, tình cảm,… với nhà trường.

– Nhờ có cơ sở vật chất và thiết bị dạy học mà người dạy chuyển tải được nội dung giáo dục –
dạy học đến người học một cách hiệu quả.

– Cơ sở vật chất và thiết bị dạy học giúp nâng cao kết quả quá trình giáo dục nói chung và
dạy học nói riêng; mặt khác việc sử dụng đúng mục đích, tận dụng công suất của cơ sở vật chất và thiết
bị dạy học không những mang lại chất lượng và hiệu quả giáo dục mà còn mang lại hiệu quả kinh tế
giáo dục.

– Cơ sở vật chất và thiết bị dạy học gồm có các nhóm cơ bản sau:

+ Cơ sở vật chất: gồm trường, lớp, các phòng hội họp, phòng chức năng, sân chơi, nhà đa
năng…

+ Phương tiện kỹ thuật và thiết bị dạy học: gồm tất cả các đồ dùng phục vụ cho giảng dạy và
học tập: máy chiếu đa năng, máy chiếu phim trong, máy vi tính, ti vi, máy quét ảnh, đầu video, CD,
DVD, sách báo, …

Phương tiện kỹ thuật và thiết bị dạy học được sử dụng phải phù hợp với đặc điểm và khả
năng nhận thức của người học. Vì vậy khi tổ chức việc chọn lựa và thiết kế các phương tiện kỹ thuật và
thiết bị dạy học cần chú ý tới đặc điểm tâm sinh lý và lứa tuổi của người học; đồng thời cần lưu ý tính
thích ứng với khả năng và đặc điểm tư duy của người học. Ngoài ra phương tiện kỹ thuật và thiết bị
dạy học phải đảm bảo tính khoa học, tính an toàn, tính thẫm mỹ, tính hiệu quả.

– Quản lý cơ sở vật chất và thiết bị dạy học đòi hỏi chủ thể quản lý phải nắm được các yêu
cầu sau:

+ Thông hiểu về các chế định của ngành và liên ngành đối với lĩnh vực cơ sở vật chất và thiết
bị dạy học.

+ Nắm vững cơ sở lý luận và thực tiễn quản lý lĩnh vực cơ sở vật chất và thiết bị dạy học,
luôn có ý tưởng thực hiện đổi mới, chuẩn hoá và hiện đại hoá cơ sở vật chất và thiết bị dạy học và tìm
cách biến ý tưởng đó thành hiện thực.

+ Am hiểu mục tiêu, chương trình, nội dung, kế hoạch giáo dục – dạy học và biết chính xác
tính năng, tác dụng, nguyên tắc vận hành, tuổi thọ, cách phối hợp, … từng loại cơ sở vật chất, thiết bị

dạy học để tổ chức và điều hành các lực lượng giáo dục thực hiện được nội dung, chương trình và kế
hoạch đó nhằm đạt tới mục đích giáo dục; đồng thời chỉ ra được những biện pháp xây dựng, mua sắm.
trang bị, sử dụng, bảo quản và thanh lý, … cơ sở vật chất và thiết bị dạy học.

+ Biết tập trung mọi tiềm năng của nhà trường, của cộng đồng và xã hội vào việc tăng cường
cơ sở vật chất và thiết bị dạy học nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục.

+ Cập nhật được các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào việc chế tạo, sử dụng cơ sở vật chất và
thiết bị dạy học nhằm đáp ứng kịp thời sự nghiệp phát triển giáo dục nói chung và phát triển nhà
trường nói riêng.

* Quản lý cách kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của sinh viên.

Việc đánh giá kết quả học tập của SV không chỉ là cơ sở để phân loại SV mà còn có vai trò
quan trọng trong việc xác định chất lượng đào tạo, giúp việc điều chỉnh nội dung, chương trình,
phương pháp và hình thức tổ chức dạy học phù hợp hơn nhằm làm cho việc đào tạo đảm bảo tính cập
nhật, đáp ứng được các yêu cầu ngày càng cao của nền sản xuất xã hội, nhất là trong giai đoạn công
nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay. Việc kiểm tra, đánh giá tri thức, sự nhận thức của sinh viên không
chỉ nhằm mục đích kiểm tra kết quả lĩnh hội các kiến thức đơn thuần về nội dung mà còn kiểm tra các
kiến thức về phương pháp, vì quá trình học của SV là học phương pháp, học cách thức để tạo cho mình
có năng lực tiếp nhận nghề nghiệp trong tương lai.

Việc đánh giá kết quả học tập của SV có thể thông qua các đề bài thi, bài kiểm tra, tiểu
luận… Yêu cầu chung khi ra đề thi, đề kiểm tra, không nên đưa những dạng đề học thuộc lòng, mang
tính thụ động mà cần chú trọng những dạng đề phát triển tính tư duy, tính độc lập, sáng tạo của SV
nhằm đánh giá được khả năng tự học, tự nghiên cứu của SV.

Theo biên chế năm học, mỗi năm có hai học kỳ, mỗi học kỳ có 15 tuần thực học để khoa
hoàn thành chương trình đào tạo. Việc phân định các học phần cũng phù hợp với biên chế năm học của
nhà trường. Các học phần được tổ chức giảng dạy và thi kết thúc trong thời gian quy định của một học
kỳ nhất định.

Hoạt động dạy-học ngoại ngữ là một quá trình hành động liên tục, có định hướng, có điều
khiển, cho nên chỉ có việc thông qua việc thi kiểm tra và thi kết thúc các học phần mới đảm bảo được
quá trình hoạt động đi đúng mục tiêu đã định, mới thấy được vấn đề nào, kỹ năng nào đã hình thành
đến đâu nơi người học và để phát hiện còn vấn đề nào, kỹ năng nào chưa đạt yêu cầu của chương trình
đào tạo.

Theo qui định của Bộ GD & ĐT, việc thi, kiểm tra bộ môn ngoại ngữ nói chung và tiếng
Anh nói riêng từ khâu ra đề, tổ chức coi thi, chấm thi cần tổ chức phối hợp với các hình thức đánh giá.

+ Phối hợp nhiều hình thức kiểm tra: vấn đáp, trắc nghiệm, viết, nghe, để việc đánh giá được
khách quan.

Đánh giá post

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *