BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
MAI VĂN LỢI
Chuyên ngành : Quản lý Giáo dục
Mã số
: 60 14 05
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC
Người hướng dẫn khoa học :
PGS.TS. BÙI NGỌC OÁNH
Thành phố Hồ Chí Minh – 2008
LỜI CẢM ƠN
Luận văn đã được thực hiện và hoàn thành với sự giúp đỡ quý báu của
Thầy, Cô giáo, các bạn đồng nghiệp và bạn bè.
Tác giả xin chân thành cảm ơn Phòng Khoa học Công nghệ – Sau Đại
học Trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, cảm ơn quý Thầy Cô
giáo đã trực tiếp giảng dạy và giúp đỡ tác giả trong suốt quá trình học tập
nghiên cứu chương trình đào tạo Thạc sĩ quản lý giáo dục.
Tác giả xin chân thành cảm ơn Lãnh đạo Sở GD&ĐT tỉnh Cà Mau,
Ban lãnh đạo và cán bộ Phòng GD&ĐT thành phố Cà Mau, Ban giám hiệu
và giáo viên các trường tiểu học thành phố Cà Mau, các bạn đồng nghiệp đã
tận tình giúp đỡ và tạo điều kiện cho tác giả hoàn thành luận văn này.
Đặc biệt, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn đến Phó Giáo sư – Tiến sĩ Bùi
Ngọc Oánh, người đã tận tình hướng dẫn tác giả thực hiện luận văn.
Tác giả đã có nhiều cố gắng trong quá trình thực hiện, song luận văn
không tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả rất mong nhận được những ý kiến
góp ý của quý Thầy Cô và các bạn đồng nghiệp.
TP. Hồ Chí Minh, ngày tháng năm 2008
Tác giả
Mai Văn Lợi
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
– BGD&ĐT : Bộ Giáo dục và Đào tạo
– BNV
: Bộ Nội vụ
– CBQL
: cán bộ quản lý
– CSVC
: cơ sở vật chất
– ĐDDH
: đồ dùng dạy học
– GD-ĐT
: Giáo dục – Đào tạo
– GDTH
: Giáo dục tiểu học
– GS
: Giáo sư
– GS.VS
: Giáo sư Viện sĩ
– GS.TS
: Giáo sư Tiến sĩ
– GV
: giáo viên
– HS
: học sinh
– KT
: kỹ thuật
– NXB
: Nhà xuất bản
– PGS
: Phó Gáo sư
– PGS.TS
: Phó Giáo sư Tiến sĩ
– PPDH
: phương pháp dạy học
– QLGD
: quản lý giáo dục
– TBDH
: thiết bị dạy học
– THCS
: Trung học cơ sở
– THPT
: Trung học phổ thông
– TS
: Tiến sĩ
– UBND
: Ủy ban nhân dân
– VS
: Viện sĩ
– XHCN
: Xã hội chủ nghĩa
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.1. Trong công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước hiện nay, vai trò của GD-ĐT, của
khoa học và công nghệ được xác định có vị trí cực kỳ quan trọng. Giáo dục là quốc sách hàng
đầu, Giáo dục như nhân tố hết sức quan trọng xây dựng con người với ý nghĩa là nhân vật trung
tâm, là mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế – xã hội. Đại hội Đảng lần thứ X đã đề ra
phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2006 – 2010, trong đó định hướng
phát triển cho giáo dục là: “Ưu tiên hàng đầu cho việc nâng cao chất lượng dạy và học. Đổi mới
chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và
tăng cường cơ sở vật chất của nhà trường, phát huy khả năng sáng tạo và độc lập suy nghĩ của
học sinh, sinh viên”. Đối với vấn đề quản lý giáo dục, văn kiện Đại hội X của Đảng nêu rõ:
“Đổi mới và nâng cao năng lực quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo” [21].
Để GD-ĐT có thể đáp ứng được các yêu cầu ngày càng cao của cuộc sống xã hội thì vấn
đề nâng cao chất lượng giáo dục và dạy học là một đòi hỏi hết sức bức thiết; trong đó vai trò
của người giáo viên là yếu tố tiên quyết và vai trò của cán bộ quản lý giáo dục các cấp là nhân
tố hết sức quan trọng. Vì vậy, việc chăm lo đào tạo và bồi dưỡng cán bộ quản lý đã được Đảng
và Nhà nước coi đó là kim chỉ nam cho công tác quản lý trong toàn ngành. Đối tượng quản lý
của đội ngũ cán bộ quản lý là giáo viên mà sản phẩm đào tạo của người giáo viên là con người,
là thế hệ trẻ, cho nên có thể nói vai trò và ảnh hưởng của đội ngũ cán bộ quản lý có tác dụng
sâu xa đến chất lượng giáo dục và đối tượng học sinh.
1.2. Trong thực tế, từ trước đến nay, đội ngũ cán bộ quản lý được hình thành và phát triển
trên cơ sở của sự lựa chọn tự nhiên các giáo viên trong quá trình dạy học và giáo dục.
Phần đông cán bộ quản lý ở các cơ sở giáo dục chưa được đào tạo một cách có hệ thống
và chính quy. Do đó, năng lực quản lý của đội ngũ cán bộ quản lý này còn có không ít hạn chế
về trình độ lý luận, văn hoá quản lý, khả năng tác nghiệp và phong cách điều hành tiến trình
đào tạo … Họ chưa thực sự nắm vững những kiến thức cơ bản và mới của khoa học giáo dục,
chưa cập nhật được với sự phát triển của giáo dục tại cộng đồng. Tình hình của đội ngũ cán bộ
quản lý như vậy nên đã dẫn đến việc quản lý yếu kém của cơ sở giáo dục. Và quản lý yếu kém
là một trong những nguyên nhân gây nên tình trạng yếu kém của giáo dục. Đây là một khó khăn
rất lớn hiện nay trong quản lý giáo dục đối với cấp tiểu học nói riêng và trong quản lý nói
chung. Giải quyết được khó khăn này sẽ góp phần không nhỏ để nâng cao chất lượng GD-ĐT.
Trong hệ thống giáo dục phổ thông, giáo dục tiểu học có một vị trí vô cùng quan trọng,
đặt cơ sở ban đầu cho các bậc học khác. Vì vậy, tiểu học chiếm vị trí đặc biệt trong hệ thống
giáo dục, hình thành nền tảng cho sự phát triển lâu dài về tình cảm, trí tuệ, thẩm mĩ, thể chất và
các kĩ năng cơ bản để học tiếp tục trung học. Chính vì thế, Đảng và Nhà nước ta hết sức coi
trọng việc phát triển giáo dục tiểu học đó là một trong những mục tiêu để góp phần phát triển
kinh tế – xã hội ở địa phương. Vì vậy, giáo dục tiểu học cần được quan tâm đầu tư tạo điều kiện
nhằm phát triển một cách vững chắc.
1.3. Cùng với cả nước, trong thời gian qua, giáo dục của tỉnh Cà Mau nói chung và thành
phố Cà Mau nói riêng, đã đẩy mạnh mọi hoạt động giáo dục ở các bậc học, cấp học, trong đó có
giáo dục tiểu học. Bên cạnh những thành tựu to lớn (quy mô giáo dục ngày càng phát triển vai
trò đắc lực của mình đối với việc phát triển kinh tế – xã hội của địa phương), giáo dục Cà Mau
đang còn có nhiều tồn tại cần phải được khắc phục tháo gỡ (tốc độ phát triển giáo dục còn
chậm, chất lượng giáo dục còn thấp so với yêu cầu cơ sở vật chất còn nghèo nàn thiếu thốn). Có
nhiều nguyên nhân đưa đến những tồn tại ấy, một trong những nguyên nhân đó là những hạn
chế non kém của đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục trong đó có đội ngũ quản lý ở trường tiểu
học. Vì thế giải pháp nhằm xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ quản lý ở trường tiểu học
đang là vấn đề bức thiết.
Xuất phát từ những điều đã nêu trên và đối chiếu với tình hình của tỉnh Cà Mau, muốn
phát triển giáo dục của tỉnh Cà Mau nói chung, thành phố Cà Mau nói riêng, trước hết và trong
giai đoạn trước mắt cần có những giải pháp phát triển và nâng cao chất lượng đội ngũ quản lý ở
trường tiểu học.
Qua tham khảo các chuyên đề, đề tài về quản lý trường tiểu học đặc biệt trong tình hình
thực hiện giảng dạy theo chương trình và sách giáo khoa mới hiện nay, bản thân nhận thấy việc
nghiên cứu về công tác quản lý giảng dạy ở các trường tiểu học thành phố Cà Mau theo chương
trình mới chưa có ai nghiên cứu,
Do đó tôi chọn đề tài: “Thực trạng về quản lý hoạt động giảng dạy ở trường tiểu học
thành phố Cà Mau” làm luận văn tốt nghiệp về chuyên ngành Quản lý giáo dục.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Điều tra và nắm rõ thực trạng về quản lý hoạt động giảng dạy ở các trường tiểu học của
thành phố Cà Mau, nhằm phân tích nguyên nhân dẫn đến thực trạng từ đó đề xuất một vài giải
pháp cơ bản nhằm tăng cường công tác quản lý giảng dạy ở các trường tiểu học thành phố Cà
Mau.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Thực trạng về công tác quản lý hoạt động giảng dạy ở các trường tiểu học thành phố Cà
Mau.
3.2. Khách thể nghiên cứu
Công tác quản lý hoạt động giảng dạy ở các trường tiểu học thành phố Cà Mau.
4. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
Hiện nay, công tác quản lý hoạt động giảng dạy ở trường tiểu học thành phố Cà Mau vẫn
còn những hạn chế, bất cập so với yêu cầu đổi mới quản lý giáo dục hiện nay. Nếu đánh giá
đúng thực trạng, xác định được nguyên nhân, nêu được ra các giải pháp quản lý phù hợp thì sẽ
góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy ở các trường tiểu học thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau.
5. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đề tài nghiên cứu thực trạng về công tác quản lý hoạt động giảng dạy ở các trường tiểu
học thành phố Cà Mau, nhưng do khả năng và điều kiện có hạn nên chỉ nghiên cứu 33 trường
tiểu học trong thành phố Cà Mau và không nghiên cứu việc quản lý hoạt động học tập của học
sinh và các hoạt động giáo dục khác.
6. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
Từ mục đích nghiên cứu, đề tài tập trung giải quyết các nhiệm vụ sau:
– Nghiên cứu một số vấn đề lý luận liên quan đến đề tài.
– Nghiên cứu thực trạng công tác quản lý hoạt động giảng dạy ở các trường tiểu học của
thành phố Cà Mau.
– Đề xuất một số biện pháp nhằm năng cao công tác quản lý hoạt động giảng dạy ở các
trường tiểu học thuộc thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau.
7. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
7.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
– Tham khảo các loại sách, báo, tạp chí, tài liệu có liên quan đến đề tài.
– Đọc và khái quát các tài liệu có liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
– Nghiên cứu các văn bản về chủ trương chính sách của Nhà nước, Nghị quyết của Đảng
và văn bản của Ngành giáo dục.
7.2. Phương pháp điều tra khảo sát bằng phiếu
– Xây dựng phiếu trưng cầu ý kiến dựa trên cơ sở lý luận, mục đích nghiên cứu, trong đó
gồm một số lựa chọn:
+ Câu hỏi dành cho giáo viên.
+ Câu hỏi dành cho cán bộ quản lý.
– Xử lý số liệu, thống kê, tính phần trăm, bình luận từng vấn đề.
7.3. Phương pháp quan sát
Phương pháp này thực hiện bằng cách tiếp cận và xem xét để thu thập dữ liệu thực tế về
hoạt động quản lý chuyên môn ở các trường tiểu học được tiến hành khảo sát. Nhằm tìm hiểu
thực trạng hoạt động chuyên môn và thực trạng các biện pháp quản lý hoạt động chuyên môn ở
các trường tiểu học để đánh giá sự phù hợp giữa phương pháp quan sát và phương pháp điều
tra.
7.4. Phương pháp phỏng vấn
– Phỏng vấn, trao đổi với cán bộ chuyên môn Phòng Giáo dục và Đào tạo, Hiệu trưởng,
Phó Hiệu trưởng, Tổ trưởng chuyên môn để nắm bắt tình hình thực tế của trường.
– Tham khảo ý kiến của các chuyên gia với mục đích tìm các kết luận trong việc đánh giá
thực trạng công tác quản lý hoạt động dạy và đề xuất các giải pháp cho việc quản lý hoạt động
giảng dạy có chất lượng.
7.5. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động quản lý
– Sản phẩm hoạt động quản lý của trường tiểu học là những quyết định quản lý của Hiệu
trưởng; Quyết định quản lý trường được thực hiện dưới dạng các văn bản như: kế hoạch dài
hạn, kế hoạch ngắn hạn, kế hoạch năm học, kế hoạch học kì, tháng, chương trình công tác tuần.
– Căn cứ vào các tài liệu, các loại kế hoạch, báo cáo tổng kết năm học, báo cáo chuyên đề
và hệ thống sổ sách quản lý, các số liệu để nhận định, đánh giá thực trạng công tác quản lý hoạt
động giảng dạy
7.6. Phương pháp sử dụng toán thống kê
Dùng phương pháp toán thống kê để xử lý số liệu điều tra, phân tích kết quả nghiên cứu,
định lượng chính xác cho từng nội dung, nâng cao tính thuyết phục của các số liệu được nêu ra
trong luận văn.
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Hoạt động dạy học là hoạt động trung tâm của nhà trường, hoạt động dạy học do nhiều
người tham gia, chiếm giữ thời gian lớn, diễn ra suốt năm học. Vì thế, quản lý hoạt động giảng
dạy là vấn đề quan trọng nhằm đảm bảo chất lượng giảng dạy và học tập của học sinh theo yêu
cầu của “Mục tiêu giáo dục tiểu học”. Nhiều nhà khoa học, cán bộ quản lý trong và ngoài ngành
giáo dục và các giáo viên quan tâm nghiên cứu.
1.1.1.Giáo dục tiểu học một số nước trong khu vực Châu Á
* Giáo dục tiểu học Nhật Bản
Nhật Bản quốc gia Châu Á có nền văn hóa, giáo dục với những thành tựu rực rỡ; có
nhiều điều đáng được học tập, bởi vì chính nền giáo dục đó đã tạo nên những con người làm
nên một kỳ tích là đưa nước Nhật – một quốc gia tan hoang sau chiến tranh, không tài nguyên,
không đất đai màu mỡ – lên hàng quốc gia giàu mạnh trên thế giới, chỉ trong vài ba thập kỷ[31].
– Về chương trình học và sách giáo khoa, Nhật có cách giải quyết linh động, cho phép sự
sáng tạo của cấp cơ sở. Nhà nước chỉ quản lý nội dung cơ bản của chương trình, mỗi địa
phương có thể tăng giảm số môn học, số giờ …, cũng như có quyền lựa chọn một trong nhiều
loại sách giáo khoa khác nhau. Nội dung các môn học gắn với đời sống, với thực tế, với lứa
tuổi, có tính chất cụ thể hơn là lý thuyết chung chung.
– Trong việc giảng dạy tri thức, trường tiểu học Nhật ngày nay dành nhiều thời gian hơn
cho hoạt động thực hành và các hoạt động văn hóa khác. Phương pháp được áp dụng chủ yếu ở
tiểu học là nêu vấn đề , học sinh tự do tranh luận, giáo viên không gò ép các em theo một quan
điểm cố định nào. Vì thế, giờ học của học sinh nói chung rất sôi nổi, hào hứng.
– Giáo viên tiểu học được đào tạo trong 4 năm, ngay từ đầu đã phải học khoa học sư
phạm, đồng thời với các khoa học lý thuyết chứ không chia thành 2 giai đoạn (giai đoạn 1 là đại
cương và giai đoạn 2 là chuyên ngành sư phạm) như trước đây.
– Ở bậc tiểu học, mỗi giáo viên phụ trách một lớp trong năm học đó và dạy toàn bộ các
môn (trừ môn Nội trợ và Âm nhạc). Việc tổ chức các hoạt động giáo dục cực kỳ phức tạp,
ngoài công tác giảng dạy và các công việc khác, giáo viên còn phải quan tâm đến các nhu cầu
giáo dục hay các đòi hỏi của cha mẹ học sinh thông qua Hội giáo viên và cha mẹ học sinh và
đồng thời cố gắng cải thiện sự hiểu biết của bản thân.
– Việc quản lý hệ thống giáo dục Nhật Bản là phi tập trung, Bộ Giáo dục đóng vai trò của
người điều phối.
– Nhật Bản là nước rất quan tâm tới giáo dục tiền học đường, giáo dục tiểu học. Đồng
thời phát triển mạnh giáo dục người lớn bồi dưỡng tri thức mới, kỹ thuật công nghệ mới cho
người lao động và trong vòng 10 năm gần đây Nhật Bản rất chú ý đào tạo nhân tài, những
người sáng tạo lý thuyết và kỹ thuật công nghệ mới với mục tiêu vào thế kỷ XXI. Nhật Bản là
nước đứng đầu thế giới về công nghệ kỹ thuật tinh xảo.
* Giáo dục tiểu học Singapore
Singapore quốc gia Châu Á trong những năm gần đây đã vươn lên thành một trong
những con rồng của Châu Á về sự phát triển kinh tế. Sở dĩ Singapore đạt được những thành tựu
này là do sự đóng góp của ngành giáo dục[23].
Singapore là một nước phát triển về kinh tế phần lớn dựa vào công nghiệp vận chuyển và
dịch vụ. Do được cấu tạo nhiều dân tộc, Singapore là một quốc gia đa ngôn ngữ và đa văn hóa,
để giải quyết một số vấn đề như ngôn ngữ, những giá trị xã hội chung và phát triển kinh tế,
chính phủ Singapore đã đưa ra một chính sách giáo dục tương đối hoàn thiện, đặc biệt hệ thống
giáo dục tiểu học được quan tâm đáng kể.
Hệ thống giáo dục tiểu học tạo nhiều cơ hội để các loại học sinh khác nhau có thể phát
huy được khả năng của mình, đồng thời nhà nước ra quy định để tạo cho con em mọi tầng lớp
nhân dân có cơ hội đồng đều để hưởng được sự bình đẳng trong giáo dục.
Ngoài ra trong quá trình thực hiện, chính phủ Singapore cũng đưa ra một số tiêu chuẩn
cho việc xây dựng trường sở, tuyển lựa giáo viên, thu nhận học sinh. Ở Singapore không có
khái niệm: “trường chuyên, lớp chọn”, nhưng các trường được xã hội, cụ thể là phụ huynh đánh
giá xếp loại và có thể “nổi tiếng” hoặc “bị tai tiếng” tùy theo chất lượng đào tạo. Đặc biệt các
trường nói chung, các trường tiểu học nói riêng không được nhận thêm một khoản đóng góp “tự
nguyện” nào của phụ huynh học sinh.
Giáo dục Singapore có một định hướng khá tốt cho việc sử dụng người sau khi đào tạo –
chỉ chọn những môn học rất thực tiễn đáp ứng trực tiếp cho nền sản xuất và đáp ứng cho việc
xây dựng một xã hội đa dân tộc, cùng chung sống.
* Giáo dục tiểu học Philippines
Philippines là xứ đảo với những đặc trưng địa lý, lịch sử, kinh tế và chính trị vài thế kỷ
gần đây đã để lại dấu ấn sâu sắc trong cấu trúc hệ thống giáo dục, trong hoạch định mục tiêu –
nội dung – phương pháp và việc tìm kiếm các giải pháp của tiến trình giáo dục nước này[15].
Cơ cấu tổ chức quản lý, điều hành hệ thống giáo dục có những khác biệt so với nước ta,
nhưng điều quan trọng là phù hợp và hữu hiệu, tạo ra những thành tựu giáo dục đáng kể.
– Thanh tra giáo dục thường xuyên giám sát chặt chẽ Hiệu trưởng, giáo viên các trường.
Giáo viên – giảng dạy, Hiệu trưởng – quản lý chuyên môn; Thanh tra – giám sát thực hiện; đó là
cơ cấu chức năng tới cấp trường tiểu học.
– Vai trò của Hiệu trưởng tiểu học rất quan trọng, với 10 chức năng quy định, những hệ
thống lương được xếp thành bốn bậc từ Hiệu trưởng I đến Hiệu trưởng IV, cũng như bốn bậc từ
Giáo viên chính I đến giáo viên chính IV, mức lương cùng bậc bằng nhau.
– Giáo viên tiểu học được đào tạo trình độ đại học 4 năm như giáo viên trung học. Hiệu
trưởng trường tiểu học ở trường trọng điểm có thể có văn bằng Thạc sĩ, Tiến sĩ.
– Quy trình đổi mới giáo dục tiểu học ở Philippines ở cả ba lĩnh vực: đào tạo giáo viên,
cấu trúc chương trình và quản lý giáo dục.
1.1.2. Một số vấn đề rút ra từ giáo dục tiểu học của một số nước trong khu vực
Châu Á
Nghiên cứu kinh nghiệm phát triển giáo dục tiểu học ở một số nước phát triển trong khu
vực, chúng tôi nhận thấy có một số điểm đáng chú ý:
– Giáo dục tiểu học được coi trọng, được quan tâm, được xem như là nền tảng của giáo
dục, của phát triển xã hội. Ngân sách đầu tư cho giáo dục tiểu học được giải quyết thích đáng,
đảm bảo được những điều kiện tối thiểu để thực hiện mục tiêu giáo dục tiểu học.
– Mục tiêu của trường tiểu học không phải là cung cấp tri thức khoa học cho trẻ em mà là
hình thành nên nhân cách của trẻ trong đó có 3 yếu tố quan trọng nhất là cách tư duy, đạo đức
và tâm hồn.
– Có một hệ thống giáo dục đa dạng để thu hút tất cả trẻ em có những khả năng khác
nhau vào học và hoàn thành được giáo dục tiểu học ở các loại lớp khác nhau.
– Vấn đề nội dung và phương pháp giáo dục ở tiểu học là sự quan tâm thích đáng đến cá
thể, đến sự tôn trọng cá tính và tài năng của mỗi học sinh. Vấn đề cá thể hóa quá trình đào tạo
được xem như yêu cầu quan trọng, như một dấu hiệu của đổi mới giáo dục.
– Có sự đa dạng và tính chất mềm dẻo của chương trình giáo dục tiểu học. Bộ GD&ĐT
ban hành một chương trình khung, đồng thời vẫn cho phép các tỉnh thành, thậm chí mỗi trường
tiểu học có thể điều chỉnh, thay đổi một phần tùy thuộc vào điều kiện và thực tế của cơ sở. Sách
giáo khoa không phải chỉ có một bộ, mỗi địa phương có thể chọn bộ sách phù hợp với mình.
Điều đó tạo điều kiện cho mỗi Hiệu trưởng, mỗi trường có thể thực thi công tác quản lý có hiệu
quả.
Nhìn chung, có thể nói giáo dục tiểu học ở các nước phát triển trong khu vực đang được
đổi mới và phát triển về mục tiêu đào tạo, về đối tượng và phương pháp đào tạo.
Thực tế, nền giáo dục nước nào cũng có vấn đề cần giải quyết, nền giáo dục nào cũng có
những thành tựu và những điểm cần khắc phục. Việt Nam trong thời gian qua đã đạt được một
số thành tựu đáng khích lệ trong giáo dục, đặc biệt là giáo dục tiểu học do chúng ta có cách
làm độc lập và sáng tạo. Do đó, chúng ta có thể tham khảo những kinh nghiệm bổ ích và hiệu
quả của các nước để hoàn thiện phương pháp Việt Nam nhằm đưa giáo dục của đất nước phát
triển theo xu thế mới.
1.1.3. Nghiên cứu giáo dục tiểu học ở Việt Nam
Nhiều nhà khoa học, nhà giáo dục Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu về quản
lý giáo dục, quản lý trường học, quản lý hoạt động dạy học.
– PGS.TS Nguyễn Ngọc Hợi – PGS.TS Phạm Minh Hùng – TS Thái Văn Thành khi
nghiên cứu về “Một số biện pháp quản lý hoạt động chuyên môn nghiệp vụ của giáo viên” đã
khẳng định: “Tùy theo các bậc học, trong từng nội dung hoạt động chuyên môn của giáo viên
có thể có những yêu cầu biện pháp khác nhau nhằm góp phần xây dựng và nâng cao chất lượng
đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục”.[27]
– TS Trần Kiểm trong giáo trình “Quản lý giáo dục và trường học” (Giáo trình dùng cho
học viên cao học Giáo dục học) đã xác định: “Quản lý hoạt động dạy học là quá trình dạy của
giáo viên và quá trình học của học sinh. Đây là hai quá trình thống nhất gắn bó hữu cơ”.[28]
– Ở góc độ nghiên cứu khoa học giáo dục, TS Đặng Xuân Hải (Đại học quốc gia Hà Nội)
trong bài viết “Đánh giá người Hiệu trưởng nhà trường phổ thông theo hướng chuẩn hóa” trên
Tạp chí Giáo dục số 119 tháng 8/2005 đã xác định khi “chuẩn hóa” cán bộ nói chung và cán bộ
quản lý nói riêng phải gắn với “hoạt động nghề nghiệp” của cán bộ đó và chuẩn này không chỉ
có mục đích xác minh sự vật, đối tượng mà còn là công cụ đánh giá cán bộ một cách khoa
học.[26]
– Các đề tài nghiên cứu luận văn Thạc sĩ của một số tác giả: Huỳnh Thị Kim Trang với đề
tài “Thực trạng về công tác quản lý việc dạy và học ở trường tiểu học của một số Phòng
GD&ĐT quận (huyên) tại TP Hồ Chí Minh”[41]; Văn Thị Tường Oanh với đề tài “Biện pháp
xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ quản lý các trường tiểu học tỉnh Bạc Liêu”[33]; Nguyễn
Văn Tạo với đề tài “Thực trạng việc quản lý hoạt động giảng dạy ở một số trường tiểu học
huyện Chợ Lách tỉnh Bến Tre”[39]… mỗi đề tài nghiên cứu đều đề cập đến những khía cạnh
khác nhau của công tác xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý trường học.
– Gần đây nhất, vào năm 2006 Dự án phát triển giáo viên tiểu học đã cho xuất bản tài liệu
“Quản lý chuyên môn ở trường tiểu học theo chương trình và sách giáo khoa mới” (Tài liệu bồi
dưỡng cán bộ quản lý giáo dục tiểu học) nhằm cung cấp cho giáo viên và cán bộ quản lý giáo
dục tiểu học ở các cơ quan quản lý giáo dục, các trường tiểu học những kiến thức, kỹ năng về
quản lý chuyên môn để thực hiện tốt chương trình – sách giáo khoa mới ở tiểu học.[10]
Như vậy, quản lý hoạt động dạy học thực sự là vấn đề cấp thiết đã được nhiều người
quan tâm nghiên cứu và cần được tiếp tục nghiên cứu. Với nguồn tư liệu thu thập được, chúng
tôi nhận thấy chưa có tác giả nào đề cập và nghiên cứu vấn đề này ở phạm vi thành phố Cà
Mau, tỉnh Cà Mau. Nên đã chọn đề tài: “Thực trạng về quản lý hoạt động giảng dạy ở các
trường tiểu học thành phố Cà Mau” và từ đó đề xuất những biện pháp quản lý phù hợp và
hiệu quả để góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy ở trường tiểu học nhất là trong giai đoạn
thực hiện chương trình và sách giáo khoa mới.
1.2. Một số khái niệm liên quan đến vấn đề nghiên cứu
1.2.1. Quản lý
Khi con người với tư cách là những cá nhân đơn lẻ không thể thực hiện để đạt được
những mục tiêu mà họ đề ra thì họ bắt đầu hình thành các tập thể, nhóm. Quản lý xuất hiện như
một yếu tố cần thiết để phối hợp những nỗ lực cá nhân nhằm đạt tới nhũng mục tiêu chung.
Có nhiều quan niệm khác nhau về khái niệm quản lý. Dưới đây là một số quan niệm chủ
yếu.
Theo Đại Bách khoa toàn thư Liên xô, 1977 quản lý là chức năng của những hệ thống có
tổ chức với bản chất khác nhau (xã hội sinh vật, kỹ thuật), nó bảo toàn cấu trúc xác định của
chúng, duy trì chế độ hoạt động, thực hiện những chương trình, mục đích nhất định.
Một số quan niệm khác:
– Theo định nghĩa của các tác giả trong tác phẩm “Khoa học tổ chức và quản lý – một số
vấn đề lý luận và thực tiễn” – Trung tâm nghiên cứu khoa học tổ chức quản lý – NXB Thống kê
– Hà Nội -1999 cho rằng “Quản lý là một quá trình tác động gây ảnh hưởng của chủ thể quản
lý đến khách thể quản lý nhằm đạt được mục tiêu chung”.
– Quản lý là tác động có định hướng, có kế hoạch của chủ thể quản lý đến tập thể những
người lao động nói chung là khách thể quản lý nhằm thực hiện được mục tiêu dự kiến. Theo
Nguyễn Ngọc Quang – Những khái niệm cơ bản về quản lý giáo dục – Trường CBQL TW –
1989.[35]
– Quản lý là nhằm phối hợp nỗ lực của nhiều người, sao cho mục tiêu của từng cá nhân
biến thành những thành tựu của xã hội. Trần Kiểm: Giáo trình “Quản lý giáo dục và trường
học” (Giáo trình dùng cho học viên cao học Giáo dục học). Viện Khoa học Giáo dục, Hà Nội,
1997[28, tr. 15].
– Quản lý là tác động có mục đích đến tập thể những con người để tổ chức và phối hợp
hoạt động của họ trong quá trình lao động. TS Nguyễn Bá Sơn: Một số vấn đề cơ bản về khoa
học quản lý, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000 [37, tr. 15].
Có nhiều góc độ xem xét quản lý:
– Góc độ chung nhất: quản lý là vạch ra mục tiêu cho một bộ máy, lựa chọn phương tiện,
điều kiện tác động đến bộ máy để đạt tới mục tiêu.
– Góc độ kinh tế: quản lý tính toán sử dụng hợp lý các nguồn lực nhằm đạt tới mục tiêu
đã đề ra.
Như vậy, quản lý bao gồm các thành phần:
. Chủ thể quản lý và tác động trong quản lý
. Mục tiêu quản lý
. Đối tượng quản lý
Có thể xem xét quản lý dưới 2 góc độ:
– Góc độ tổng hợp mang tính chất chính trị xã hội.
– Góc độ mang tính chất hành động.
Từ những điểm chung của các khái niệm trên, có thể hiểu: quản lý là tác động có tổ chức,
có hướng đích của chủ thể quản lý (người quản lý) lên khách thể quản lý và đối tượng quản lý
trong một tổ chức nhằm sử dụng có hiện quả nhất các tiềm năng, các cơ hội của tổ chức để đạt
được mục tiêu đặt ra trong biến động của môi trường, làm cho tổ chức vận hành (hoạt động) có
hiệu quả.
Sơ đồ 1.1: quan hệ trong hệ thống quản lý.
Chủ thể
quản lý
Khách thể
Mục tiêu
quản lý
Đối tượng
quản lý
1.2.2. Quản lý giáo dục
Giáo dục xuất hiện nhằm thực hiện cơ chế truyền kinh nghiệm lịch sử – xã hội của loài
người, của thế hệ đi trước cho thế hệ sau và để thế hệ sau có trách nhiệm kế thừa, phát triển nó
một cách sáng tạo, làm cho xã hội, giáo dục và bản thân con người phát triển không ngừng. Để
đạt mục đích đó, quản lý được coi là nhân tố tổ chức, chỉ đạo việc thực thi cơ chế nêu trên. Như
vậy, giáo dục và quản lý giáo dục là tồn tại song hành, nếu nói giáo dục là hiện tượng xã hội tồn
tại lâu dài cùng xã hội loài người thì cũng có thể nói như thế về quản lý giáo dục.
Giống như khái niệm “quản lý” đã trình bày ở trên, khái niệm “quản lý giáo dục” cũng có
nhiều quan niệm khác nhau. Sau đây tác giả chỉ nêu một vài quan niệm phù hợp với đề tài này.
Theo GS.TS Nguyễn Ngọc Quang quan niệm “Quản lý giáo dục là hệ thống những tác
động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý (hệ giáo dục) nhằm làm cho
hệ vận hành theo đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng, thực hiện được các tính chất của
nhà trường XHCN của Việt Nam mà tiêu điểm hội tụ là quá trình dạy học, giáo dục thế hệ trẻ,
đưa hệ thống giáo dục tới mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái mới về chất”[35].
Tiến sĩ Nguyễn Gia Quý “Quản lý là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý đến khách
thể quản lý nhằm đưa hoạt động giáo dục tới mục tiêu đã định, trên cơ sở nhận thức vận dụng
đúng những quy luật khách quan của hệ thống giáo dục quốc dân”[36].
Theo TS Trần Kiểm thì khái niệm “quản lý giáo dục” có nhiều cấp độ. Ít nhất có hai cấp
độ chủ yếu: cấp vĩ mô và cấp vi mô[28].
Đối với cấp vĩ mô: Quản lý giáo dục được hiểu là những tác động tự giác (có ý thức, có
mục đích, có kế hoạch, có hệ thống, hợp quy luật) của chủ thể quản lý đến tất cả các mắt xích
của hệ thống (từ cấp cao nhất đến các cơ sở giáo dục là nhà trường) nhằm thực hiện có chất
lượng và hiệu quả mục tiêu phát triển giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ mà xã hội đặt ra cho ngành
Giáo dục.
Đối với cấp vi mô: Quản lý giáo dục được hiểu là hệ thống những tác động tự giác (có ý
thức, có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống, hợp quy luật) của chủ thể quản lý đến tập thể giáo
viên, công nhân viên, tập thể học sinh, cha mẹ học sinh và các lực lượng xã hội trong và ngoài
nhà trường nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu giáo dục của nhà trường.
Những khái niệm trên tuy được diễn đạt theo nhiều cách khác nhau nhưng tựu trung:
Quản lý giáo dục là sự tác động liên tục có tổ chức, có định hướng, của chủ thể quản lý (người
quản lý hay tổ chức quản lý) lên đối tượng giáo dục và khách thể quản lý giáo dục về các mặt
chính trị, văn hóa, xã hội, kinh tế,…bằng một hệ thống các luật lệ, các chính sách, các nguyên
tắc, các phương tiện, các biện pháp cụ thể nhằm tạo ra môi trường và điều kiện cho sự phát
triển của đối tượng.
1.2.3. Quản lý nhà trường
Nhà trường trong hệ thống giáo dục quốc dân được tổ chức theo các loại hình công lập,
dân lập và tư thục. Nhà trường trong hệ thống giáo dục quốc dân thuộc mọi loại hình đều được
thành lập theo quy hoạch, kế hoạch của Nhà nước nhằm phát triển sự nghiệp giáo dục. Khái
niệm quản lý trường học đã được các nhà khoa học, nhà giáo giải thích như sau:
– Trong bối cảnh xã hội Việt Nam, GS.VS Phạm Minh Hạc xác định “Quản lý nhà trường
là thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà
trường vận hành theo nguyên lý giáo dục để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo với
ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và từng học sinh”[25].
– PGS.TS Trần Tuấn Lộ quan niệm “Quản lý trường học là sự quản lý của Hiệu trưởng
trường đó đối với toàn bộ những con người, những hoạt động, những tổ chức và những phương
tiện vật chất, kỹ thuật, tài chính của trường để đạt cho được mục tiêu của sự giáo dục (và dào
tạo) học sinh loại trường đó[29].
Trên cơ sở các khái niệm trên, có thể được hiểu “Quản lý nhà trường là những hoạt động
có ý thức, có kế hoạch và hướng đích của chủ thể quản lý tác động đến các hoạt động của nhà
trường hướng vào việc thực hiện mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo có chất lượng và hiệu
quả”
1.2.4. Quản lý hoạt động giảng dạy
Hoạt động là sự tương tác giữa chủ thể và đối tượng nhằm biến đổi đối tượng theo mục
tiêu mà chủ thể đặt ra. Quá trình chủ thể tác động vào đối tượng nhằm tạo ra sản phẩm.
Dạy học là dạng đặc biệt của hoạt động nhận thức, trong quá trình đó, học sinh dưới sự
chỉ đạo của giáo viên đạt tới mục đích trí dục. Như vậy trí dục và dạy học gắn bó chặt chẽ với
nhau: trí dục là mục đích, là kết quả của dạy học; còn dạy học là phương tiện, là con đường
chính yếu để đạt tới mục đích trí dục.
Hoạt động dạy học bao gồm hoạt động dạy của giáo viên và hoạt động của học sinh. Hai
hoạt động này có sự gắn bó chặt chẽ, mật thiết với nhau, tồn tại cho nhau và vì nhau.
Hoạt động dạy và học trên lớp là hoạt động chủ yếu, được tiến hành thông qua các môn
học quy định theo chương trình và kế hoạch giáo dục do Bộ GD&ĐT ban hành.
Như vậy, quản lý hoạt động giảng dạy là tổ chức thực hiện nhiệm vụ giảng dạy theo
chương trình cụ thể trong điều kiện cụ thể của cơ sở vật chất, đội ngũ nhà trường. Do đó, ngoài
việc am hiểu về hoạt động dạy học như trên, để quản lý tốt, người cán bộ quản lý phải căn cứ
vào: những văn bản pháp quy đối với hoạt động dạy học và các hoạt động có liên quan; thực
trạng dạy học của giáo viên; sự chỉ đạo trực tiếp, cụ thể của cơ quan chuyên môn cấp trên trong
từng năm, từng thời kỳ.
1.3. Một số vấn đề lý luận liên quan đến quản lý trường tiểu học
1.3.1. Trường tiểu học
Theo điều lệ trường tiểu học ban hành kèm theo Quyết định số 51/2007/QĐ-BGDĐT
[14].
– Trường tiểu học là cơ sở giáo dục phổ thông của hệ thống giáo dục quốc dân, có tư cách
pháp nhân, có tài khoản và con dấu riêng.
Trường tiểu học có nhiệm vụ tổ chức giảng dạy, học tập và các hoạt động giáo dục đạt
chất lượng theo mục tiêu, chương trình giáo dục tiểu học do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo
ban hành; huy động trẻ em đi học đúng độ tuổi, vận động trẻ em tàn tật, khuyết tật, trẻ em đã bỏ
học đến trường, thực hiện kế hoạch phổ cập giáo dục và chống mù chữ trong cộng đồng. Nhận
bảo trợ và quản lý các hoạt động giáo dục của các cơ sở giáo dục khác thực hiện chương trình
giáo dục theo sự phân công của cấp có thẩm quyền. Tổ chức và công nhận hoàn thành chương
trình tiểu học của học sinh trong nhà trường và trẻ em trong địa bàn quản lý của trường.
Trường tiểu học có trách nhiệm quản lý giáo viên, nhân viên, học sinh và tổ chức tham
gia các hoạt động xã hội trong phạm vi cộng đồng; quản lý, sử dụng đất đai, trường sở, trang
thiết bị và tài chính theo quy định của pháp luật; phối hợp với gia đình học sinh, tổ chức và cá
nhân trong cộng đồng thực hiện các hoạt động giáo dục.
Trường tiểu học do Ủy ban nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh quản lý.
Phòng giáo dục và đào tạo thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với mọi loại hình trường,
lớp tiểu học và các cơ sở giáo dục khác thực hiện chương trình giáo dục tiểu học trên địa bàn.
– Trường tiểu học đạt chuẩn quốc gia là nhà trường được xây dựng hoàn chỉnh về cơ cấu
tổ chức, cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học… nhằm tạo điều kiện cho học sinh phát triển toàn
diện nhân cách của mình, từng học sinh có điều kiện phát triển mọi khả năng sẵn có của mình
và đó chính là tiền đề, cơ sở phát triển những mầm mống tài năng của đất nước một cách cơ bản
và vững chắc phục vụ kịp thời những yêu cầu của đất nước trong giai mới – công nghiệp hóa,
hiện đại hóa.
Chuẩn quốc gia về trường tiểu học nhằm xây dựng hệ thống trường tiểu học theo một mô
hình thống nhất trong cả nước. Đây thực sự là dấu hiệu cơ bản đánh dấu bước phát triển mới ở
bậc tiểu học – Bậc học nền tảng trong hệ thống giáo dục quốc dân.
1.3.2. Quản lý trường tiểu học
Quản lý trường tiểu học là quản lý quá trình diễn ra trong nhà trường bằng cách sử dụng
có hiệu quả nhất đầu vào (cơ sở vật chất, tài chính, nguồn nhân lực) để đạt kết quả đào tạo có
chất lượng cao nhất khi sử dụng các phương pháp, phương tiện phù hợp với các quy luật tâm lý,
quy luật giáo dục học, để tiến hành việc biến đổi đối tượng đào tạo từ chưa biết đến biết.
Theo Điều lệ trường tiểu học về cơ cấu bộ máy quản lý và các mối quan hệ phối hợp
quản lý được thể hiện như sau:
– Hiệu trưởng trường tiểu học là người chịu trách nhiệm tổ chức, quản lý các hoạt động
và chất lượng giáo dục của nhà trường. Hiệu trưởng do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện bổ
nhiệm đối với các trường công lập, công nhận đối với trường tiểu học tư thục theo đề nghị của
Trưởng phòng giáo dục và đào tạo. Nhiệm kỳ của Hiệu trưởng trường công lập là 5 năm; hết
nhiệm kỳ, Hiệu trưởng được luân chuyển đến một trường khác lân cận hoặc theo yêu cầu điều
động. Hiệu trưởng chỉ được giao quản lý một trường tiểu học.
Sau mỗi năm học, Hiệu trưởng trường tiểu học được cấp thẩm quyền đánh giá về công
tác quản lý các hoạt động và chất lượng giáo dục của nhà trường.
Người được bổ nhiệm hoặc công nhận làm Hiệu trưởng trường tiểu học phải là giáo viên
có thời gian dạy học ít nhất 3 năm ở cấp tiểu học, đã hoàn thành chương trình bồi dưỡng cán bộ
quản lý, có uy tín về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống. chuyên môn, nghiệp vụ; có năng
lực quản lý trường học và có sức khỏe. Trường hợp do yêu cầu đặc biệt của công việc, người
được bổ nhiệm hoặc công nhận Hiệu trưởng có thể có thời gian dạy học ít hơn theo quy định.
Hiệu trưởng trường tiểu học là người đại diện cho trường về mặt pháp lý, có trách nhiệm
và thẩm quyền cao nhất về hành chính, chuyên môn trong trường, là người trực tiếp tổ chức,
quản lý, chỉ đạo việc thực hiện các công tác của trường theo đường lối, quan điểm giáo dục của
Đảng, pháp luật, thể lệ quy định của Nhà nước và mục tiêu, chương trình, nội dung kế hoạch
giáo dục của Bộ GD&ĐT.
Hiệu trưởng trường tiểu học là người tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương (xã,
phường) các vấn đề thuộc lĩnh vực giáo dục, là người tuyên truyền vận động các đoàn thể, tổ
chức xã hội và cha mẹ học sinh tham gia vào việc xây dựng và phát triển nhà trường.
Hiệu trưởng trường tiểu học là nhà giáo dục có tâm hồn, phẩm chất cao đẹp; có trình độ
văn hóa, chuyên môn, nghiệp vụ vững vàng, đồng thời là người hướng dẫn chuyên môn, nghiệp
vụ cho giáo viên, cán bộ, nhân viên nhà trường.
– Hiệu trưởng trường tiểu học có nhiệm vụ và quyền hạn:
Xây dựng quy hoạch phát triển nhà trường; lập kế hoạch và tổ chức thực hiện kế hoạch
dạy học, giáo dục từng năm học; báo cáo, đánh giá kết quả thực hiện trước Hội đồng trường và
các cấp có thẩm quyền;
Thành lập các tổ chuyên môn, tổ văn phòng và các hội đồng tư vấn trong nhà trường; bổ
nhiệm tổ trưởng, tổ phó. Đề xuất các thành viên của Hội đồng trường trình cấp có thẩm quyền
quyết định;
Phân công, quản lý, đánh giá, xếp loại; tham gia quá trình tuyển dụng, thuyên chuyển;
khen thưởng, thi hành kỷ luật đối với giáo viên, nhân viên theo quy định;
Quản lý hành chính; quản lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài chính, tài sản của nhà
trường;
Quản lý học sinh và tổ chức các hoạt động giáo dục của nhà trường, tiếp nhận, giới thiệu
học sinh chuyển trường; quyết định khen thưởng, kỷ luật, phê duyệt kết quả đánh giá, xếp loại,
danh sách học sinh lên lớp, ở lại lớp; tổ chức kiểm tra, xác nhận việc hoàn thành chương trình
tiểu học cho học sinh trong nhà trường và các đối tượng khác trên địa bàn trường phụ trách;
Dự các lớp bồi dưỡng về chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ quản lý; tham gia giảng dạy
bình quân 2 tiết trong một tuần; được hưởng chế độ phụ cấp và các chính sách ưu đãi theo quy
định;
Thực hiện quy chế dân chủ cơ sở và tạo điều kiện cho các tổ chức chính trị – xã hội trong
nhà trường hoạt động nhằm nâng cao chất lượng giáo dục. Thực hiện xã hội hóa giáo dục, phát
huy vai trò của nhà trường đối với cộng đồng.
Tổ chức học tập bồi dưỡng nhằm nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho giáo
viên, cán bộ và nhân viên; quan tâm đến đời sống vật chất, tinh thần cho giáo viên, cán bộ, nhân
viên.
Thường xuyên cải tiến công tác quản lý trường học, đảm bảo các hoạt động giáo dục của
nhà trường đồng bộ, có hiệu quả.
– Phó Hiệu trưởng trường tiểu học:
Phó Hiệu trưởng là người giúp việc cho Hiệu trưởng và chịu trách nhiệm trước Hiệu
trưởng, do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện bổ nhiệm đối với trường công lập, công nhận
đối với trường tư thục theo đề nghị của Trưởng phòng Giáo dục và Đào tạo. Trường hạng I có 2
Phó Hiệu trưởng; trường hạng II, hạng III có 1 Phó Hiệu trưởng; trường tiểu học có từ 20 học
sinh khuyết tật trở lên được bố trí thêm 1 Phó Hiệu trưởng. Các hạng I, II, III của trường tiểu
học được quy định tại Thông tư 35/2006/TTLT-BGDĐT-BNV ngày 23 tháng 8 năm 2006 liên
tịch Bộ GD&ĐT và Bộ Nội vụ về hướng dẫn định mức biên chế viên chức ở các cơ sở giáo dục
phổ thông công lập[12].
Người được bổ nhiệm hoặc công nhận làm Phó Hiệu trưởng trường tiểu học phải là giáo
viên có thời gian dạy học ít nhất 2 năm ở cấp tiểu học, có uy tín về phẩm chất chính trị, đạo
đức, lối sống, chuyên môn, nghiệp vụ; có năng lực quản lý trường học và có sức khỏe. Trường
hợp do yêu cầu đặc biệt của công việc, người được bổ nhiệm hoặc công nhận Phó Hiệu trưởng
có thể có thời gian dạy học ít hơn theo quy định.
Phó Hiệu trưởng có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
Chịu trách nhiệm điều hành công việc do Hiệu trưởng phân công. Điều hành hoạt động
của nhà trường khi được Hiệu trưởng ủy quyền;
Dự các lớp bồi dưỡng về chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ quản lý; tham gia giảng dạy
bình quân 4 tiết trong một tuần; được hưởng chế độ phụ cấp và các chính sách ưu đãi theo quy
định.
1.3.3. Giáo viên tiểu học
Giáo viên trường tiểu học là người làm nhiệm vụ giảng dạy giáo dục học sinh trong
trường tiểu học và cơ sở giáo dục khác thực hiện chương trình giáo dục tiểu học. Giáo viên tiểu
học là người góp phần quyết định trong việc thực hiện có chất lượng hoạt động dạy và hoạt
động học.
Giáo viên tiểu học là người thầy đầu tiên gần gũi và có uy tín đối với học sinh tiểu học.
Lời nói, cử chỉ, cuộc sống và lao động sư phạm của họ có ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển
nhân cách của mỗi học sinh.
Giáo viên tiểu học là người có hiểu biết, có uy tín và gắn bó với cộng đồng. Hoạt động
của họ trong và ngoài nhà trường có tác động to lớn đến sinh hoạt văn hóa và đời sống ở địa
phương. Đặc biệt ở các vùng núi cao xa xôi hẻo lánh, vùng dân tộc thiểu số.
Nhiệm vụ của giáo viên tiểu học:
Giảng dạy, giáo dục đảm bảo chất lượng theo chương trình giáo dục, kế hoạch dạy học;
soạn bài, lên lớp, kiểm tra, đánh giá, xếp loại học sinh; quản lý học sinh trong các hoạt động
giáo dục do nhà trường tổ chức; tham gia các hoạt động của tổ chuyên môn; chịu trách nhiệm
về chất lượng, hiệu quả giảng dạy và giáo dục.
Trau dồi đạo đức, nêu cao tinh thần trách nhiệm, giữ gìn phẩm chất, danh dự, uy tín của
nhà giáo; gương mẫu trước học sinh, thương yêu, đối xử công bằng và tôn trọng nhân cách của
học sinh; bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của học sinh; đoàn kết, giúp đỡ đồng nghiệp.
Tham gia công tác phổ cập giáo dục tiểu học ở địa phương.
Rèn luyện sức khỏe, học tập văn hóa, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ để nâng cao chất
lượng, hiệu quả giảng dạy và giáo dục.
Thực hiện nghĩa vụ công dân, các quy định của pháp luật và của ngành, các quyết định
của Hiệu trưởng; nhận nhiệm vụ do Hiệu trưởng phân công, chịu sự kiểm tra của Hiệu trưởng
và các cấp quản lý giáo dục
Phối hợp với Đội Thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh, Sao Nhi đồng Hồ Chí Minh, với
gia đình học sinh và các tổ chức xã hội có liên quan trong hoạt động giảng dạy và giáo dục.
1.3.4. Đặc điểm lao động sư phạm của người giáo viên tiểu học
Trong giảng dạy người giáo viên không những truyền đạt thông tin, kiến thức cho học
sinh mà còn tổ chức, hướng dẫn điều khiển quá trình nhận thức của học sinh. Mặt khác người
giáo viên còn tổ chức cho học sinh các hoạt động giáo dục, tạo điều kiện để học sinh có thể
hình thành và phát triển những phẩm chất, năng lực cần thiết cho việc lao động và sinh hoạt
trong một xã hội không ngừng biến đổi. Ngoài ra người giáo viên còn nghiên cứu khoa học và
tham gia nhiều hoạt động xã hội khác phục vụ cho việc giảng dạy và giáo dục học sinh. Từ cách
nhìn nhận về người giáo viên tiểu học như trên, có thể thấy lao động sư phạm của người giáo
viên có những đặc điểm cơ bản sau:
– Hoạt động của người giáo viên tiểu học rất đa dạng, phong phú nhưng cũng rất phức
tạp. Lao động sư phạm là một nội dung lao động nghề nghiệp đặc biệt có những nét đặc thù do
mục đích, đối tượng và công cụ của lao động sư phạm qui định.
Lao động sư phạm là quá trình tác động qua lại giữa người dạy và người học. Trong đó
người dạy là những người có trình độ chuyên môn và nghiệp vụ nghề nghiệp, còn người học có
nhiệm vụ học tập, tiếp thu những giá trị văn hóa của xã hội loài người.
– Đối tượng lao động sư phạm của người giáo viên tiểu học rất đa dạng, phong phú, có
những đặc điểm tâm sinh lý riêng. Sản phẩm của lao động sư phạm được thể hiện ra tri thức,
thể chất, kĩ năng, ý chí, phẩm chất và tính cách của học sinh. Do đó, người giáo viên tiểu học
cần phải tổ chức, điều khiển quá trình tác động sư phạm một cách hợp qui luật.
Đối tượng lao động của sư phạm là học sinh tiểu học, chúng không chỉ chịu tác động của
giáo viên, nhà trường mà còn chịu ảnh hưởng của gia đình, bạn bè, các phương tiện thông tin
đại chúng…Những tác động này có mặt tích cực hoặc tiêu cực, tự giác hoặc tự phát theo nhiều
mức độ và cách thức khác nhau. Vì vậy lao động sư phạm của người giáo viên tiểu học có
nhiệm vụ điều chỉnh mọi tác động từ các phía đến người học sinh nhằm đạt được hiệu quả cao
nhất.
– Để tác động đến học sinh tiểu học – đối tượng đặc biệt của lao động sư phạm, người
giáo viên cần có tri thức, kĩ năng, kĩ xảo cần thiết để giáo dục học sinh và tổ chức các dạng hoạt
động như học tập, vui chơi giải trí…Đồng thời giáo viên là người đào luyện con người, vì vậy
người giáo viên tiểu học cần phải giảng dạy và giáo dục học sinh với tất cả tình cảm và tâm hồn
mình. Mặt khác nhân cách của người giáo viên tiểu học cũng có ý nghĩa giáo dục rất quan trọng
và ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển nhân cách của học sinh.
Ngoài những công cụ lao động sư phạm trên còn phải kể đến những phương tiện tác động
khác như đồ dùng dạy học, thiết bị kĩ thuật… có tác dụng quan trọng trong việc nâng cao hiệu
quả dạy học và giáo dục học sinh.
1.3.5. Những văn bản chỉ đạo của trung ương và địa phương về quản lý giảng dạy ở
tiểu học
– Ngày 15 tháng 6 năm 2004, Ban chấp hành Trung ương đã ban hành Chỉ thị số 40-
CT/TW về việc xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục.
Mục tiêu là xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục được chuẩn hóa, đảm bảo
chất lượng, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đặc biệt nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất,
lối sống, lương tâm, tay nghề của nhà giáo, thông qua việc quản lý, phát triển đúng định hướng
và có hiệu quả sự nghiệp giáo dục để nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực, đáp ứng
những đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
– Ngày 11 tháng 1 năm 2005 Phó Thủ tướng Phạm Gia Khiêm đã ký quyết định số
09/2005/QĐ-TTg về việc phê duyệt Đề án “Xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và
cán bộ quản lý giáo dục giai đoạn 2005-2010”. Mục tiêu tổng quát là xây dựng đội ngũ nhà
giáo và cán bộ quản lý giáo dục theo hướng chuẩn hóa, nâng cao chất lượng, đảm bảo đủ về số
lượng, đồng bộ về cơ cấu, đặc biệt chú trọng nâng cao chất lượng, đảm bảo đủ số lượng, đồng
bộ về cơ cấu, đặc biệt chú trọng nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất, lối sống, lương tâm
nghề nghiệp và trình độ chuyên môn của nhà giáo, đáp ứng những đòi hỏi ngày càng cao của sự
nghiệp giáo dục trong công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”[17].
– Ngày 18 tháng 3 năm 2004, Bộ trưởng Bộ GD&ĐT đã ký quyết định về Chương trình
hành động của ngành Giáo dục thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 Ban chấp hành Trung
Ương Đảng khoá IX, trong đó có ghi: “Nhanh chóng triển khai thực hiện đề
án Xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý”.
– Chương trình tiểu học được ban hành theo Quyết định số 16/2006/QĐ-BGDĐT ngày
05/5/2006 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo là chương trình để đảm bảo sự thống nhất về
dạy học và giáo dục trong phạm vi cả nước, được vận dụng linh hoạt theo đặc điểm từng vùng,
từng địa phương, từng đối tượng học sinh[11].
– Điều lệ trường tiểu học được ban hành theo Quyết định số 51/2007/QĐ-BGDĐT ngày
31/8/2007 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo. Điều lệ quy định tổ chức và hoạt động của
trường tiểu học bao gồm: tổ chức và quản lý nhà trường; chương trình và các hoạt động giáo
dục; giáo viên; học sinh; tài sản của nhà trường; nhà trường, gia đình và xã hội[14].
– Kế hoạch số 1142/KH-SGD&ĐT ngày 21/8/2006 của Giám đốc Sở Giáo dục và Đào
tạo Cà Mau, về việc thực hiện Đề án “Xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán
bộ quản lý giáo dục tỉnh Cà Mau giai đoạn 2005-2010”[47].
1.3.6. Nội dung quản lý hoạt động giảng dạy ở trường tiểu học.
1.3.6.1.Quản lý mục tiêu giáo dục tiểu học.
Mục tiêu của GDTH theo điều 27 – Luật giáo dục năm 2005 có ghi: “Giáo dục tiểu học
nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về
đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học trung học cơ
sở” [30]. Song trong quá trình thực hiện giáo dục, cần phát triển tính sáng tạo, khả năng độc lập
giải quyết vấn đề.
Quản lý mục tiêu giáo dục tiểu học được cụ thể hóa thành quản lý các mục tiêu của các
môn học và các hoạt động giáo dục khác trong chương trình tiểu học. Đặc biệt, được cụ thể hóa
và quản lý thực hiện các yêu cầu cơ bản cần đạt của học sinh tiểu học bao gồm các yêu cầu cơ
bản về kiến thức, kỹ năng, thói quen, niềm tin, thái độ, hành vi, định hướng…,
Quản lý mục tiêu giáo dục là quản lý việc thực hiện các yêu cầu về nội dung giáo dục
tiểu học. Đó là “Giáo dục tiểu học phải đảm bảo cho học sinh có hiểu biết đơn giản, cần thiết về
tự nhiên, xã hội và con người; có kỹ năng cơ bản về nghe, nói, đọc, viết và tính toán; có thói
quen rèn luyện thân thể, giữ gìn vệ sinh; có hiểu biết ban đầu về hát múa, âm nhạc, mỹ thuật”.
Quản lý mục tiêu giáo dục là sự phối hợp điều khiển các tác động có chủ đích vào đối
tượng (học sinh) giáo dục để các khía cạnh của mục tiêu giáo dục được thực hiện một cách
đồng bộ.
1.3.6.2. Quản lý việc phân công giảng dạy
Phân công giảng dạy cho giáo viên là khâu đầu tiên và quan trọng trong việc sử dụng
nhân sự, do đó nếu Hiệu trưởng hiểu đúng, biết rõ, đánh giá chính xác từng giáo viên để phân
công một cách hợp lý, phù hợp với khả năng, đúng sở trường thì sẽ tạo cho họ có niềm tin trong
nghề nghiệp và thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.
Hiệu trưởng phân công giáo viên cần đảm bảo nguyên tắc kết hợp giữa yêu cầu công tác
và khả năng chuyên môn nghiệp vụ của từng người, đồng thời phân công theo hướng chuyên
sâu những giáo viên có trình độ chuyên môn vững vàng nên được bố trí dạy ở các lớp đầu cấp
và cuối cấp, trong đó có một số trường hợp phân công giáo viên theo lớp suốt cấp học. Hiện
nay, do yêu cầu phải dạy đủ 9 môn nên việc bố trí giảng dạy ở một số môn năng khiếu (Âm
nhạc, Mĩ thuật, Thể dục) có thể mời giáo viên thỉnh giảng để đảm trách các môn này.
Việc phân công giảng dạy phải căn cứ vào năng lực của giáo viên, điều kiện cụ thể của
nhà trường, quyền lợi của học sinh, đặc điểm yêu cầu của đối tượng học sinh theo từng lớp, có
tham khảo nguyện vọng của giáo viên và phải mang tính ổn định.
Việc phân công giáo viên có thể thực hiện như sau:
– Trên cơ sở thống kê trình độ, năng lực và tình hình thực tế của từng giáo viên, Hiệu
trưởng dự kiến phân công;
– Tham khảo ý kiến của phó Hiệu trưởng , tổ trưởng chuyên môn;
– Thảo luận tại phiên họp liên tịch;
– Ra quyết định phân công.
Phân công giáo viên đúng với khả năng sẽ đem lại hiệu quả tốt. Ngược lại, nếu phân
công không đúng nguyên tắc, nặng về cảm tính, tình cảm cá nhân sẽ dẫn đến hậu quả xấu đối
với công tác quản lý giảng dạy . Do đó, người Hiệu trưởng phải lựa chọn và cân nhắc kỹ lưỡng
trước khi phân công để phát huy tối đa năng lực của đội ngũ giáo viên.
1.3.6.3. Quản lý hoạt động giảng dạy của giáo viên
– Quản lý việc thực hiện chương trình.
Điều 3 trong điều lệ trường tiểu học ban hành năm 2007 có ghi: “Trường tiểu học có
nhiệm vụ tổ chức giảng dạy, học tập và hoạt động giáo dục đạt chất lượng theo mục tiêu,
chương trình giáo dục tiểu học do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành”[14].
Chương trình tiểu học được ban hành theo Quyết định số 16/2006/QĐ-BGDĐT ngày
05/5/2006 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo là chương trình khung để đảm bảo sự thống
nhất về dạy học và giáo dục trong phạm vi cả nước, được vận dụng linh hoạt theo đặc điểm
từng vùng, từng địa phương, từng đối tượng học sinh[11].
Thực hiện chương trình dạy học là thực hiện kế hoạch giảng dạy theo mục tiêu giáo dục
tiểu học. Về nguyên tắc chương trình là pháp lệnh nhà nước do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban
hành.
Hiệu trưởng phải tổ chức để cán bộ, giáo viên nhà trường quán triệt đầy đủ chương trình
tiểu học; quán triệt các hướng dẫn thực hiện và các chỉ thị năm học của Bộ GD&ĐT. Hiệu
trưởng điều khiển hoạt động dạy học phải dựa vào nội dung chương trình theo yêu cầu và
hướng dẫn của chương trình. Do đó, việc nắm vững chương trình dạy học là một tiền đề để đảm
bảo hiệu quả quản lý dạy và học, cụ thể là nắm vững những vấn đề:
. Những nguyên tắc cấu tạo chương trình của cấp học;
. Những nguyên tắc cấu tạo chương trình dạy học môn học, nội dung phạm vi kiến thức
của từng môn học;
. Phương pháp dạy học đặc trưng của từng môn học;
. Kế hoạch dạy học từng môn học.
Quản lý việc thực hiện chương trình dạy học của giáo viên là quản lý việc dạy đúng và
đủ chương trình quy định. Thực hiện yêu cầu này, người hiệu trưởng làm tốt một số việc sau
đây:
. Yêu cầu giáo viên lập kế hoạch dạy học môn học. Đây là kế hoạch chủ yếu của người
giáo viên và cần phải được trao đổi trong tổ chuyên môn;
. Bảo đảm thời gian qui định cho chương trình (trong chỉ thị của Bộ GD&ĐT gọi là biên
chế năm học). Nghiêm cấm việc cắt xén chương trình để dành thời gian cho những hoạt động
khác;
. Hiệu trưởng, Phó Hiệu trưởng và tổ chuyên môn phải theo dõi việc thực hiện chương
trình hàng tuần, hàng tháng của giáo viên;
. Sử dụng các phương tiện hỗ trợ cho việc theo dõi như biểu bảng, sổ sách, phiếu báo
giảng, sổ dự giờ, lịch kiểm tra học tập, sổ ghi đầu bài…
– Quản lý việc chuẩn bị giờ lên lớp.
Chuẩn bị giờ lên lớp là khâu quan trọng nhất của người giáo viên, do đó quản lý tốt việc
chuẩn bị giờ lên lớp của giáo viên là trách nhiệm của Hiệu trưởng.
Soạn bài là khâu chuẩn bị cần thiết của giáo viên cho giờ lên lớp, nó thể hiện các vấn đề
về nội dung; phương pháp giảng dạy và phải sát với từng đối tượng học sinh, đúng yêu cầu của
chương trình quy định.
Để quản lý việc chuẩn bị giờ lên lớp của giáo viên có hiệu quả, Hiệu trưởng cần hướng
dẫn giáo viên lập kế hoạch bài dạy, biết và thực hiện đúng các quy định, các yêu cầu chung về
soạn bài phù hợp với tình hình cụ thể của trường. Chuẩn bị và hướng dẫn các quy định về cung
cấp, sử dụng sách, tài liệu, trang thiết bị phục vụ dạy học theo quy định và theo thực tế của
trường. Để quản lý tốt việc chuẩn bị giờ lên lớp của giáo viên, Hiệu trưởng chỉ đạo cho phó
Hiệu trưởng và các tổ trưởng chuyên môn:
. Giúp đỡ giáo viên chuẩn bị soạn bài khó;
. Tổ chức trao đổi trong tổ những vấn đề liên quan đến giờ lên lớp;
. Chuẩn bị tốt các phương tiện dạy học cần thiết cho giờ lên lớp;
. Kiểm tra, theo dõi, nắm tình hình soạn bài để kịp thời khuyến khích hoặc nhắc nhở giáo
viên thực hiện tốt quy chế chuyên môn.
– Quản lý giờ lên lớp của giáo viên.
Giờ lên lớp là hình thức tổ chức cơ bản và chủ yếu nhất của quá trình dạy học để thực
hiện mục tiêu dạy học. Giờ lên lớp quyết định chất lượng dạy học cơ bản, trong đó giáo viên là
người trực tiếp quyết định và chịu trách nhiệm. Do vậy, giờ lên lớp thể hiện rõ nhất trách nhiệm
và khả năng của GV.
Để quản lý giờ lên lớp có hiệu quả, yêu cầu trong quản lý là:
. Xây dựng được tiêu chuẩn giờ lên lớp là nội dung cần thiết, đây là cơ sở để giáo viên
nhận thấy được trình độ nghề nghiệp của mình đạt ở mức độ nào so với chuẩn, từ đó có hướng
phấn đấu vươn lên;
. Xây dựng nề nếp giờ lên lớp sẽ giúp giáo viên có thói quen tự giác và nghiêm túc trong
khi lên lớp là cơ sở để tác động một cách tích cực để giờ lên lớp góp phần thực hiện mục tiêu
dạy học.
. Hiệu trưởng sử dụng tiêu chuẩn đánh giá giờ lên lớp làm cơ sở kiểm tra, đánh giá và
từng bước nâng cao chất lượng giờ lên lớp.
– Quản lý việc dự giờ.
Dự giờ và phân tích sư phạm bài học để chỉ đạo hoạt động chính là một nhiệm vụ trọng
tâm của Hiệu trưởng, là công việc đặc thù, cơ bản làm cho việc quản lý trường học khác với các
dạng quản lý khác.