11213_Tiểu luận Biện pháp xử lý hành chính đối với người vi phạm hành chính

luận văn tốt nghiệp

  

Biện pháp xử lý hành chính đối với người
chưa thành niên vi phạm pháp luật

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Những năm gần đây tình hình người chưa thành niên (NCTN) không được quản lý,
bảo vệ tốt, sa ngã thành nạn nhân của vi phạm pháp luật (VPPL) hoặc trở thành người VPPL
đã trở nên phổ biến hơn. Từ năm 2006, cả nước đã có hơn 2,6 triệu trẻ em cần được bảo vệ
đặc biệt. Trong số đó, trẻ em bị lạm dụng, bị bóc lột và trẻ em lang thang cơ nhỡ; trẻ em vi
phạm pháp luật; bị lôi cuốn vào các hành vi phạm tội… Tình hình NCTN VPPL, tái VPPL gia
tăng cho thấy đạo đức, lối sống xuống cấp, lệch chuẩn của một bộ phận trẻ em đang trở thành
nỗi lo của gia đình và xã hội đã phản ánh đòi hỏi của thực tiễn phải được giải quyết kịp thời.
Bên cạnh đó, các biện pháp xử lý hành chính (BPXLHC) đối với NCTN VPPL tiếp
tục được ghi nhận tại Luật XLVPHC, nhưng vẫn còn những vấn đề bất cập cần nghiên cứu
hoàn thiện.
Theo Công ước Liên hiệp quốc về quyền trẻ em và pháp luật Việt Nam luôn xem
NCTN là những nhóm đối tượng yếu thế và dễ bị tổn thương cần được chăm sóc và đối xử
đặc biệt. Đây cũng là một trong các quyền con người, quyền công dân của NCTN được ghi
nhận tại Hiến pháp năm 2013, đặc biệt là những vấn đề liên quan đến hạn chế và tước bỏ tự do
của NCTN. Thực tế đến thời điểm hiện nay chưa có công trình nghiên cứu toàn diện, có hệ
thống và chuyên sâu các vấn đề về BPXLHC đối với NCTN VPPL; nhất là những công trình
nghiên cứu tiếp cận theo hướng hiện đại, phù hợp với xu thế phát triển chung của thế giới
nhằm tăng cơ hội chia sẻ kinh nghiệm và yêu cầu nội địa hóa những cam kết quốc tế về quyền
trẻ em trong lĩnh vực này. Do đó, việc nghiên cứu đề tài Biện pháp xử lý hành chính đối với
người chưa thành niên vi phạm pháp luật nhằm hoàn thiện cơ sở pháp lý và giải pháp bảo vệ
quyền con người, quyền công dân theo Hiến pháp năm 2013 đối với NCTN bị áp dụng
BPXLHC là yêu cầu cần thiết và cấp thiết.
2 C ở ế cứ
2 s thu t
2 u h i nghiên c u
– Kết quả nghiên cứu của luận án là làm rõ các vấn đề: vì sao phải nghiên cứu
BPXLHC đối với NCTN VPPL? Kinh nghiệm tiếp cận cơ sở lý thuyết cũng như cơ sở thực
tiễn về vấn đề này ở các quốc gia khác và ở Việt Nam thế nào?
– Đặc điểm VPPL của NCTN là đối tượng bị áp dụng BPXLHC và đặc điểm của các
BPXLHC nói chung thế nào Đối với NCTN thì các BPXLHC này là gì, ản chất pháp l
hác so với các BPXLHC đối với người thành niên như thế nào Cơ sở áp ụng cho vi phạm
gì ì sao cần áp ụng các iện pháp đó mà không xử phạt hình sự hoặc xử phạt PHC
p ụng các iện pháp này thì đạt được mục đ ch gì Đối với xã hội Đối với người
vi phạm Cần quy định, ãi ỏ hay sửa đổi theo cách khác L o về l luận và l o thực tế
của iệt Nam
2

– Hiệu quả áp ụng BPXLHC đối với NCTN PPL trước nay thế nào Tác ụng tốt
hay không tốt Nhân tố nào ảnh hưởng quyết định đến hiệu quả, nếu không tốt thì nên như thế
nào
– Trong điều kiện khách quan hiện nay, cần xây dựng mô hình, giải pháp tốt hơn cho
NCTN VPPL ở Việt Nam và mô hình đó cần thế nào để đáp ứng yêu cầu trước mắt và lâu dài.
2 thu t nghiên c u
Lý thuyết nền tảng của luận án là nhận thức luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
đường lối, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam và chính sách pháp luật hình sự, hành
chính của Nhà nước về xử lý, quản lý và giáo dục NCTN VPPL. Cụ thể, đề tài được xây dựng
dựa trên nghiên cứu lý thuyết và nghiên cứu quan sát thực nghiệm từ góc độ mở rộng cơ sở lý
luận về cấu thành VPPL của NCTN bị áp dụng BPXLHC; phân t ch đánh giá một số quan
điểm, quan niệm của các nhà khoa học trong và ngoài nước về lĩnh vực xử lý NCTN VPPL,
tìm ra những vấn đề tương đồng, khác biệt và giá trị kế thừa. Làm rõ tính chất, đặc điểm
VPPL của NCTN cũng như ản chất, đặc điểm của các BPXLHC và cơ sở pháp lý của việc áp
dụng. Theo đó, chỉ ra vai trò của BPXLHC và những VPPL thuộc đối tượng áp dụng của
chúng là những phạm trù pháp lý với đầy đủ mặt tích cực và tiêu cực mà chúng đã thể hiện ở
những quy phạm thực định cũng như ộc lộ trên thực tiễn đời sống. Mục tiêu chủ yếu của đề
tài là hướng đến hoàn thiện hệ thống lý luận pháp lý và mô hì ù ợp cho
NCTN VPPL thuộc đố ợng áp dụng các BPXLHC nêu trên.
2 c gi thu t nghiên c u
+ Các chế định luật liên quan trong xử lý NCTN VPPL còn chồng chéo, trùng lắp
giữa BPXLHC và biện pháp tư pháp của Luật Hình sự;
+ VPPL của NCTN bị áp dụng BPXLHC hầu hết là những hành vi phạm tội hình sự,
một số ít là vi phạm hành chính nhiều lần nhưng không thể xử lý hình sự cũng không thể xử
phạt hành chính. Chúng là một phạm trù pháp lý có tính chất và đặc điểm riêng biệt đã xuất
hiện trên thực tế từ trước nay nhưng chưa được luật hóa.
+ BPXLHC là chế định luật “đặc biệt” có ản chất trừng phạt mang tính hình sự
nhằm xử l các đối tượng PPL “đặc biệt” nêu trên. Thực tế áp dụng những năm qua đã ộc
lộ nhiều bất cập và sẽ còn phát sinh thách thức mới trong thời gian tới.
+ Chỉ với việc luật hóa BPXLHC và xây dựng mô hình tư pháp phù hợp cho NCTN
VPPL mới có thể là giải pháp khả thi, có khả năng giải quyết các bất cập và phù hợp xu thế
phát triển chung.
2 i n t qu nghiên c u
– Làm rõ những vấn đề còn bất cập ở cácquy định pháp luật liên quan, cơ chế, phương
tiện và thủ tục áp dụng các BPXLHC đối với NCTN PPL. Đề xuất mô hình, cơ chế, giải
3

pháp trước mắt và lâu ài để hoàn thiện hệ thống tư pháp cho NCTN ở Việt Nam, phù hợp với
điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền và tăng cường hội nhập quốc tế trong tình hình mới.
2.2. hư ng ph p nghiên c u
Luận án được thực hiện theo phương pháp nghiên cứu định tính (Quatitative
Research) và kết hợp định t nh, định lượng (Qualitative Research). Cụ thể:
– Nghiên cứu lý luận: trên cơ sở phương pháp định tính thực hiện thu thập và tổng
hợp hơn hai trăm tài liệu sơ cấp và phân thành các nhóm. Các thông tin tài liệu được xử lý
theo phương thức quy nạp, tạo ra lý thuyết, kết hợp sử dụng quan điểm diễn giải và dùng
thuyết kiến tạo trong nghiên cứu để đưa ra những phán đoán l t nh về đặc điểm của NCTN
VPPL, về bản chất, đặc điểm của các BPXLHC. Qua đó, so sánh phản ánh điểm tương đồng
và khác biệt giữa các chế định xử lý NCTN VPPL ở nước ta với một số quốc gia khác, chỉ ra
những hạn chế, bất cập của các BPXLHC đối với NCTN VPPL, yêu cầu hoàn thiện pháp luật
hiện hành và thực hiện Công ước quốc tế về quyền trẻ em.
– Nghiên cứu thực tiễn: nhằm làm rõ mối liên hệ bản chất giữa các khách thể nghiên
cứu, từ kết quả nghiên cứu định tính hỗ trợ việc xác định các chủ đề phù hợp với phương pháp
điều tra, luận án sử dụng phương pháp định lượng mà chủ yếu là kiểm dịch lý thuyết, sử dụng
mô hình thực chứng luận1 kết hợp với các thủ pháp thống kê, phân tích và phỏng vấn sâu làm
sáng tỏ cơ sở khoa học của giả thuyết nghiên cứu, rút ra kết luận, chỉ ra những vấn đề còn tồn
tại. Cụ thể, sàng lọc nguồn từ tư liệu, báo cáo của các cơ quan quản l nhà nước, khảo sát
bằng 132 bảng hỏi đối với Chủ tịch UBND, Cán bộ Thương inh – xã hội, Chuyên viên Tư
pháp cấp xã và Cảnh sát khu vực về nhận thức và đánh giá đối với các BPXLHC (53 phiếu
của biện pháp Đ TGD và 79 phiếu của biện pháp GDTXPTT). Nghiên cứu văn ản, tài liệu
về quy trình lập hồ sơ và ản tự thuật của các em theo cách thức lựa chọn ngẫu nhiên 120 hồ
sơ NCTN PPL tại quận 2 Tp.HCM thuộc diện áp dụng BPXLHC ở thời điểm thực hiện Pháp

1Phương pháp luận thực chứng: đại diện tiêu biểu là Comte, Durkheim;
– Auguste Comte (1798 – 1857) nhà triết học Pháp, sáng lập hệ nguyên tắc của xã hội học và các học thuyết của thực
chứng. Comte là một ảnh hưởng lớn đến các nhà tư tưởng xã hội như Karl Marx , John Stuart Mill và George Eliot ở
thế kỷ 19. (Nguồn: Comte, A . Một cái nhìn tổng quát về th c ch ng [Discours sur l’Esprit positif 1844] London,
1856, Internet Archive).
-Emile Durkhem(1858 – 1917) nhà xã hội học nổi tiếng người Pháp, đặt nền móng xây dựng chủ nghĩa chức năng và
chủ nghĩa cơ cấu; đã góp công lớn trong sự hình thành bộ môn xã hội học và nhân chủng học. Theo Durkheim, việc
giải th ch đầy đủ một sự kiện xã hội được tiến hành theo trình tự: trước là đi tìm “nguyên nhân tác động gây ra hiện
tượng ấy”, sau khi tìm được nguyên nhân rồisẽ tìm “chức năng mà hiện tượng ấy thực hiện” trong xã hội (Nguồn:
Emile Durkhem, Các quy tắc của phư ng ph p xã hội học. Nxb.Trí thức 2012).
– Theo Phương pháp luận thực chứng, một nghiên cứu xã hội học thực nghiệm đ ch thực phải xuất phát từ việc xây
dựng giả thuyết và kiểm chứng giả thuyết đã xác định. Xã hội học thực nghiệm không nhất thiết là cứ phải điều tra,
khảo sát thực tế rồi trình bày bảng biểu, số liệu theo kiểu mô tả thực trạng và kết thúc bằng cách nêu các “kiến nghị,
giải pháp”. Có thể nâng cao trình độ, chất lượng tri thức xã hội học thông qua cơ chế tổng – tích hợp các yếu tố lý
thuyết và yếu tố quan sát, qua việc khai thác mối quan hệ hữu cơ giữa lý thuyết với phương pháp. ụ, theo
Durkheim, quy tắc cơ ản và quan trọng nhất của phương pháp xã hội học là “coi các sự kiện xã hội như là các sự
vật.” (Nguồn: Lê Ngọc Hùng, “Xã hội học: Vấn đề nâng cấp và nguyên lý phát triển tri thức”, Tạp chí Xã hội học,
tháng 12/2005).
4

lệnh XL PHC năm 2002, từ năm 2005 đến 2011.2 Ở thời điểm các BPXLHC theo Luật
XL PHC năm 2012 có hiệu lực (01/7/2014), thực hành phương pháp chuyên gia (phỏng vấn)
với khách thể nghiên cứu, gồm: 48 NCTN đang học tại trường Giáo ưỡng Xuân Lộc, Đồng
Nai; 50 Cán bộ, Chuyên viên thuộc Tòa Hành ch nh; Phòng Tư pháp ở hai cấp tỉnh và cấp
huyện tại thành phố Hồ Chí Minh; một số Chủ tịch, Phó Chủ tịch, Cán bộ Tư pháp phường, xã
thuộc tỉnh Bà rịa – ũng Tàu. Thực hiện 190 bảng hỏi “đóng” (100 ảng hỏi về biện pháp
Đ TGD; 90 ảng hỏi về biện pháp GDTXPTT), khách thể nghiên cứu là các Cán bộ, Chuyên
viên ở Tp.HCM, tỉnh Bà Rịa- ũng Tàu và Bình Phước là những người trực tiếp công tác liên
quan đến áp dụng BPXLHC đối với NCTN.
Kết quả điều tra được xử lý: chia thành hai nhóm. Nhóm NCTN VPPL bị áp dụng
BPXLHC và nhóm những người có thẩm quyền, trách nhiệm tham gia trong quá trình phát
hiện, ngăn chặn VPPL của NCTN, lập hồ sơ và quyết định áp dụng BPXLHC đối với họ. Đối
với nhóm NCTN VPPL, chúng tôi quan tâm hai vấn đề: (i) Nguồn gốc xuất thân và nguyên
nhân PPL; (ii) Thái độ đối với môi trường đang thi hành quyết định. Dựa trên sự mô phỏng
phương pháp của Eysenck3 để phân tích 132 hồ sơ điều tra và bản tự thuật về VPPL của các
em, qua đó xác định tỷ lệ và sự tương quan giữa nguyên nhân VPPL do hoàn cảnh môi trường
xuất thân và do yếu tố tâm l . Tương tự, đối với yêu cầu tìm hiểu về thái độ trong môi trường
chấp hành biện pháp và qua đó nhằm đánh giá hiệu quả tác động của các biện pháp đối với
các em, chúng tôi phân chia các bản tự thuật VPPL của các em thành ba dạng “Đồng ”,
“ hông đồng ” và “ hông nói được”.
Đối với nhóm những người có thẩm quyền, trách nhiệm tham gia áp dụng BPXLHC,
mục tiêu điều tra nhằm định lượng nhận thức và quan điểm của những “người trong cuộc” về
hiệu quả của BPXLHC đối với NCTN theo Luật XLVPHC….thể hiện ở mức độ tác động của
BPXLHC (biến số phụ thuộc) đối với hành vi PPL, độ tuổi VPPL và tính chất VPPL của
NCTN trên thực tế (các biến số độc lập). Giá trị định lượng này là bổ sung cho tính chính xác
của nghiên cứu định tính. Cùng với các phương pháp kỹ thuật nêu trên, luận án nghiên cứu
vấn đề về NCTN VPPL dựa trên các kỹ năng, tri thức phổ thông kết quả nghiên cứu thực
nghiệm của các ngành khoa học xã hội liên quan như tâm l học tội phạm, tâm lý học trẻ em,
giáo dục học và xã hội học.4

2 Trong thời gian từ năm 2006 – 2013, tác giả làm Trường phòng Tư pháp và thường trực Hội đồng tư vấn áp dụng
các BPXLHC tại quận 2, Tp.HCM. Số hồ sơ nêu trên là tài liệu nghiên cứu để xét duyệt và được ghi chép trong quá
trình công tác.
3Eysenck (Eysenck Peronality Inventory – EPI).GS tâm lý học người Anh H.J.Eysenck (1947) đã phân t ch các tài
liệu nghiên cứu ở 700 người lính yếu thần kinh. Ông đã phát hiện có 2 nhân tố chính (trong 39 biến số được phân
tích) : tính thần kinh (dễ bị kích thích hay ổn định) và t nh hướng ngoại (hay hướng nội), ký hiệu N và I. Từ đó, ông
và các cộng sự đã vạch ra rằng: đó là 2 thông số cơ ản của cấu trúc nhân cách.
4 Đặng Thanh Nga, Đặc điểm tâm lý của người chưa thành niên có hành vi phạm tội, luận án tiến sĩ năm 2007 tại
Viện Tâm lý học – Viện Khoa học xã hội Việt Nam ;
– Kỷ yếu hội thảo khoa học “Tâm l học, giáo dục học trong thời kỳ đổi mới: Thành tựu và triển vọng”, Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ IV Hội khoa học Tâm lý – Giáo dục Việt Nam, tháng 12/2006, Hà Nội.
5

3. Mục đíc ệm vụ của luận án
3.1. Mục đích nghiên c u
Làm rõ những vấn đề còn bất cập về cơ sở lý luận và thực tiễn áp dụng các BPXLHC
đối với NCTN PPL. Qua đó, đề xuất phương hướng và giải pháp hoàn thiện hệ thống tư
pháp và biện pháp tư pháp NCTN ở Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên c u
Để đạt được mục đ ch nghiên cứu, luận án có nhiệm vụ giải quyết những vấn đề cụ
thể sau:
– Nghiên cứu các vấn đề lý luận pháp lý cụ thể về đặc điểm của NCTN VPPL thuộc
đối tượng áp dụng các BPXLHC, cũng như đặc điểm của các BPXLHC theo quy định của
Luật XLVPHC.
– Nghiên cứu thực tiễn áp dụng các BPXLHC đối với NCTN VPPL. So sánh, phân
t ch, đối chiếu giữa lý luận và thực tiễn khảo sát ở các địa phương, chỉ ra những bất cập trong
việc áp dụng các biện pháp nêu trên. Đưa ra các ự báo phát sinh những tồn tại, bất cập mới,
làm rõ yêu cầu cần thiết và cấp thiết phải có sửa đổi chế định luật hoàn thiện hơn.
– Nghiên cứu đề xuất xây dựng mô hình tư pháp cho NCTN phù hợp yêu cầu cải cách
tư pháp và Công ước quốc tế về quyền trẻ em.
4. Đố ợng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tư ng nghiên c u
– Vấn đề bản chất, đặc điểm của VPPL của NCTN thuộc đối tượng áp dụng
BPXLHC; mối liên hệ và những yếu tố ảnh hưởng đến quá trình phát sinh, phát triển VPPL
của NCTN;
– Vấn đề bản chất, đặc điểm của các BPXLHC. Hiệu quả tác động của trên thực tế đối
với NCTN VPPL thuộc đối tượng của chúng và t nh tương quan giữa BPXLHC với các biện
pháp chế tài khác (chế tài hình sự, chế tài hành chính, chế tài đạo đức xã hội). Vị trí pháp lý
của chúng trong hệ thống pháp luật;
– Vấn đề cần thiết duy trì, sửa đổi hay thay thế BPXLHC theo yêu cầu cải cách tư
pháp và hội nhập quốc tế ở Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên c u
– Phạm vi lĩnh vực nghiên cứu: Luận án nghiên cứu các quy định cụ thể của pháp luật
XLVPHC liên quan trực tiếp đến các BPXLHC đối với NCTN VPPL ở Việt Nam.
– Phạm vi không gian nghiên cứu: Luận án nghiên cứu, tổng quát một số tài liệu, công
trình nghiên cứu và các định chế pháp lý ở những quốc gia phát triển nhằm so sánh điểm
tương đồng và khác biệt với định chế pháp lý ở Việt Nam về xử l NCTN PPL, nhưng
không đi sâu nghiên cứu cơ sở nhận thức và thực tiễn xử lý NCTN VPPL ở các quốc gia đó.
6

– Phạm vi thời gian nghiên cứu: Luận án khảo sát chủ yếu quá trình và thực tiễn áp
dụng các BPXLHC đối với NCTN VPPL từ sau khi có Pháp lệnh XL PHC năm 2002 đến
năm 2012 và tình hình áp ụng biện pháp nàyở Tp.HCM và một số tỉnh, thành phố sau ngày
có hiệu lực theo Luật XLVPHC (từ 01/7/2014).
5. Nhữ đó ó mới của luận án
– Xây dựng cơ sở lý luận về bản chất, đặc điểm của NCTN VPPL thuộc đối tượng áp
dụng các BPXLHC và bản chất, đặc điểm của các biện pháp đó. Làm rõ các yếu tố đặc thù và
yêu cầu khách quan cần được h p điển hóa.
– Nghiên cứu thực trạng nhằm chỉ ra nguyên nhân bất cập và dự báo những thách thức
mới tiếp tục phát sinh trong cơ chế áp dụng các BPXLHC đối với NCTN VPPL.
– Làm rõ sự trùng lặp giữa các BPXLHC của Luật XLVPHC và các biện pháp tư
pháp của BLHS, đề xuất hợp nhất, cấu trúc lại thành Luật về các biện ph p tư ph p.
– Kiến nghị xây dựng tiêu chí pháp lý về cấu thành VPPL của NCTN.
– Đề xuất xây dựng mô hình Ủy ban quốc gia Thanh thi u niên.
– Đề xuất mô hình bổ trợ tư pháp với cơ chế “mở” về Thẩm phán h p đồng trong hệ
thống Tòa án Thanh thi u niên chuyên trách, có chức năng xử lý trách nhiệm hình sự, hành
chính và áp dụng biện pháp tư pháp đối với NCTN VPPL.
6 Ý ĩa k oa ọc và thực tiễn của luận án
Luận án là một công trình khoa học nghiên cứu lý thuyết và nghiên cứu ứng dụng
hoàn chỉnh về chế định BPXLHC đối với NCTN VPPL.
Các kết quả nghiên cứu Biện pháp xử lý hành chính đối với người chưa thành niên
vi phạm pháp luật của luận án có thể là đóng góp có nghĩa đối với hoàn thiện hệ thống tư
pháp NCTN ở Việt Nam.
Kết quả nghiên cứu mà luận án đạt được có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo
cho cơ quan xây ựng pháp luật hoặc cho công tác nghiên cứu, giảng dạy, đào tạo về pháp
luật xử l đối với NCTN VPPL.
7. Nội dung, kết cấu của luận án:
Gồm: Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục. Phần nội dung luận
án có kết cấu 4 chương:
C 1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu khoa học liên quan đến đề tài
C 2. Cơ sở lý luận của biện pháp xử l hành ch nh đối với người chưa thành
niên vi phạm pháp luật
C 3. Cơ sở pháp lý và thực trạng áp dụng các biện pháp xử l hành ch nh đối
với người chưa thành niên vi phạm pháp luật
7

C 4. Vấn đề hoàn thiện pháp luật về biện pháp xử lý hành chính đối với người
chưa thành niên vi phạm pháp luật.
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC LIÊN QUAN ĐỀ TÀI
Tình hình nghiên cứu liên quan đề tài được tổng quan theo thứ tự như sau: (1) Tình
hình nghiên cứu ở nước ngoài. (2) Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam. (3) Đánh giá tổng quan
tình hình nghiên cứu.
1.1. Tình hình nghiên cứu ở ớc ngoài
Hầu hết các học giả nước ngoài quan tâm nghiên cứu lĩnh vực pháp luật đối với NCTN ở
các vấn đề liên quan đến “quyền trẻ em”, ghi nhận khái lược các công trình tiêu iểu, như sau:
– Sách chuyên khảo Juvenile Crime – Juvenile Justice của iện nghiên cứu khoa học
thuộc iện y học Hoa ỳ là ấn phẩm vận động vì công lý trẻ em: xét xử không công khai;
không ị tuyên là có tội mà là phạm tội ành cho NCTN. Công trình này cũng phản ánh
những thủ tục còn bất cập của Tòa án TN, đó là: (i) iệc xét xử bởi một thẩm phán mà
không có Ban Hội thẩm có thể ảnh hưởng đến kết quả xét xử (tương tự thủ tục một Thẩm
phán xét quyết định Đ TGD theo Luật XLVPHC Việt Nam). (ii) Vấn đề đại diện theo pháp
luật của NCTN. Nếu bị xử tại Tòa án ành cho người thành niên, NCTN có quyền được đại
diện bởi người bào chữa. Nhưng phần lớn các tiểu bang lại cho phép NCTN được “quyền tự
mình từ bỏ quyền có người bào chữa” mà không có tư vấn pháp l trước khi đưa ra quyết
định. Thực tế đó không phù hợp với quan điểm cho rằng NCTN là khác biệt, do vậy phải được
đối xử khác biệt với người thành niên. Các nghiên cứu cho thấy NCTN không có khả năng
như người thành niên để có thể từ bỏ quyền của mình một cách “có hiểu biết và thông minh”
(knowledgeable and intelligent). (iii) Bên cạnh chế tài hình sự, hệ thống tư pháp NCTN còn
áp dụng các biện pháp xử lý khác, bao gồm: quản chế, phục vụ cộng đồng hoặc vào trường
Cải huấn (alternative school). Các nhà nghiên cứu chỉ ra rằng thực chất đó là các chế tài trừng
phạt, không phải vì mức độ VPPL nghiêm trọng của NCTN mà mục đ ch nhằm ngăn chặn
NCTN tiếp tục tham gia vào các hành vi phạm tội như người lớn. Nhưng vấn đề ở chỗ, ù nơi
quản chế của nhà nước có biện pháp phù hợp thế nào thì khi trở về cộng đồng NCTN cũng sẽ
khó khăn để hòa nhập.
Goldson và Muncie, là đồng tác giả của bình luận chuyên đề Rethinking Youth
Justice: a comparative analysis, human rights and international research evidence (2006),
nhằm mục đ ch phê ình, chất vấn khuynh hướng lấy các ưu tiên ch nh trị là nền tảng trong
chính sách công lý cho NCTN ở Anh và xứ Wales. Trong lời giới thiệu, các tác giả khẳng
định “trên cơ sở phân t ch so sánh, nhân quyền quốc tế và ằng chứng nghiên cứu, chúng tôi
thách thức các quỹ đạo ch nh sách hiện hành và cung cấp một công thức thay thế: một nền
công l cho người chưa thành niên với t nh toàn vẹn”.
8

Elizabeth S. Scott và Laurence Steinberg trong công trình Rethinking Juvenile Justice
(2010) ình luận về t nh trừng phạt ngày càng tăng của Tòa án VTN ở Hoa ỳ. Đưa ra mô
hình phục vụ công lý, t lãng ph tiền ạc và cuộc sống của NCTN hơn so với ch nh sách hình
sự khắc nghiệt và không hiệu quả của các thế hệ trước.
Beth Cal well (Hoa kỳ) là tác giả của nhiều công trình nghiên cứu về tư pháp
NCTN5, cũng là người ủng hộ mạnh mẽ quan điểm xử l NCTN PPL không phải là các iện
pháp trừng phạt, mà cần áp ụng iện pháp phục hồi đối với họ. Công trình nghiên cứu nhan
đề “Xử l phục hồi: so sánh luật xử phạt vị thành niên tại Hoa ỳ và Mexico” (2011). Bình
luận tập trung về vấn đề ch nh sách xử l NCTN PPL ở các quốc gia đang trở thành một vấn
đề gây nhiều tranh cãi và phân theo hai khuynh hướng: “Mô hình trừng phạt” ưu tiên kiểm
soát tội phạm, trừng phạt và giam giữ. “Mô hình phục hồi” nhấn mạnh quyền con người,
nghiên cứu sự phát triển của NCTN và khắc phục thiệt hại cho các nạn nhân.
Tình hình nghiên cứu về công l cho NCTN ở khu vực Châu có thể được ao quát
khá đầy đủ qua thông tin của ài viết “Thông điệp tương lai của tư pháp vị thành niên trong
khu vực Châu Thái Bình Dương (APCJJ)” của tác giả Alice MrGrat – có thể xem đây là ản
áo cáo tổng quan về sáng kiến cải cách tư pháp NCTN của các chuyên gia, nhà khoa học và
các cơ quan đại iện quốc gia tại hội nghị này. Trong đó, có nhiều chuyên gia của APCJJ làm
việc thường xuyên với nhóm NCTN có nguy cơ, đã đóng góp, chia sẻ kinh nghiệm, kiến thức
ở quốc gia và khu vực của họ.
1.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
(i) Nhóm nghiên c u về c s lý luận
– Giáo trình Luật hành chính Việt Nam và bài viết “Một số vấn đề đổi mới pháp
luật vi phạm hành chính ở nước ta hiện nay” (2009) của tác giả Nguyễn Cửu Việt, nhận
định BPXLHC là biện pháp cưỡng chế hành ch nh đặc biệt.
Tác giả ũ Thư có công trình Ch tài hành chính – lý luận và th c tiễn (2000),
cho rằng BPXLHC là biện pháp cưỡng chế “có bản chất hình sự hoặc gần hình sự hơn là
hành chính”.
Tác giả Hoàng Thị Kim Quế với bài viết “Về các BPXLHC khác: thực trạng và
định hướng hoàn thiện” (2008), nêu lên vấn đề bất cập của BPXLHC là biện pháp cưỡng
chế không o cơ quan xét xử áp dụng. Nghiên cứu c B X H h c theo qu định của
ph p uật Việt Nam của tác giả Nguyễn Thị Hà (2011), về vai của BPXLHC trong việc
giáo ục, cải tạo cho người phạm pháp.
(ii) Nhóm nghiên c u c ch , thủ tục th c hiện

5Giảng viên Trường Luật Thomas Jefferson.
9

Tác giả Nguyễn Ngọc Bích có công trình Hoàn thiện pháp luật về xử lý hành
chính với người chưa thành niên (2003), cho rằng phải tăng cường tính nghiêm khắc cần
thiết đối với NCTN.
Viện Khoa học pháp lý thuộc Bộ Tư pháp có công trình“ s lý luận và th c
tiễn xây d ng mô hình Bộ luật xử lý vi phạm hành chính Việt Nam” (2009), nghiên cứu
kinh nghiệm nước ngoài để xây dựng Bộ luật XLVPHC trong nước.
Tháng 12/2008, Tạp chí Nghiên c u lập pháp thuộc ăn phòng Quốc hội đã ành
riêng số chuyên đề bình luận về tư pháp NCTN, cụ thể gồm: nhóm bài bình luận về hoàn
thiện pháp luật XL PHC đối với NCTN, như: “Pháp luật Việt Nam về tư pháp người chưa
thành niên” (tác giả Đặng Thanh Sơn); “Hoàn thiện pháp luật về xử lý chuyển hướng đối
với người chưa thành niên vi phạm pháp luật” (tác giả Đỗ Thúy Vân); “Tư pháp phục hồi
trong việc xử l người chưa thành niên vi phạm pháp luật” (tác giả Đỗ Hoàng Yến); “Hệ
thống điều tra thân thiện với người chưa thành niên” (tác giả Phạm ăn Hùng).
Bình luận về thực tiễn pháp luật XL PHC đối với NCTN, có các bài: “Thực trạng
và giải pháp phòng, chống vi phạm pháp luật của người chưa thành niên” (tác giả Đinh
Xuân Nam); “Tái hòa nhập cộng đồng đối với người chưa thành niên vi phạm pháp luật”
(tác giả Nguyễn ăn Hoàn);…
1 3 Đ ổ q a ì ì cứ
a) Tình hình nghiên cứu khoa học nước ngoài liên quan đề tài, tuy có hạn chế o
thể chế pháp l khác iệt và mức độ quan tâm vấn đề khác nhau, nhưng vẫn có ý nghĩa
tiếp thu cơ ản về cách thức tiếp cận, vấn đề tiếp cận và phạm vi, yêu cầu giải quyết
những vấn đề đặt ra đối với hệ thống tư pháp vị thành niên. Bằng chứng nghiên cứu và
phương pháp tiếp cận hệ thống tư pháp hiện nay theo hướng tách ạch hệ thống tư pháp
của NCTN và các chương trình phục hồi công l cho NCTN PPL. Tăng cường trách
nhiệm gia đình, nhà trường, xã hội.
b) Nghiên cứu khoa học trong nước liên quan đề tài, đã tiếp cận các vấn đề về
hoàn thiện cơ sở pháp l và cơ chế áp ụng BPXLHC. Tạo điều kiện kế thừa cho luận án
về một số phương hướng, giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật đối với NCTN. Tuy
nhiên, còn một số vấn đề đặt ra cần được tiếp tục nghiên cứu đầy đủ hơn về cơ sở l luận
và thực tiễn từ giác độ của luận án này. Cụ thể: (i) Chưa có công trình nào đề cập một cách
trực tiếp đến nội ung ch nh của luận án: Biện ph p xử hành chính đối với người chưa
thành niên vi phạm ph p uật. (ii) Các công trình nghiên cứu liên quan đến các BPXLHC
chủ yếu về hình thức các iện pháp, nhưng chưa quan tâm cơ chế thay thế. Phạm vi liên
quan hệ thống tư pháp NCTN rất rộng, nên các vấn đề được đề cập còn ở giai đoạn “xới”
lên những yêu cầu, chưa đủ lượng thông tin và tính nghiên cứu hệ thống. Do đó, trên cơ sở
10

lý thuyết nền tảng đã nêu ở Phần mở đầu (mục 2.1.2, tr.4), khung thi t k nghiên c u đề
tài bao gồm:
Th nhất, nghiên cứu bản chất, đặc điểm VPPL của NCTN thuộc đối tượng áp
dụng BPXLHC, với tư cách là một phạm trù pháp lý – là vấn đề chưa được nghiên cứu
hoặc bình luận nào đề cập; Th hai, làm rõ bản chất, đặc điểm của các BPXLHC đối với
NCTN VPPL – là góc độ tuy có được chú ý ở một số nghiên cứu nhưng mới ở tầm mức
nêu vấn đề; Th ba, nghiên cứu mối tương quan giữa chế định BPXLHC và NCTN VPPL
thuộc đối tượng áp dụng của chúng cùng các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý, giáo
dục, liên quan đến sự tăng trưởng VPPL ở NCTN – là nội dung hoàn toàn mới của đề tài.
Th tư, nghiên cứu tình hình thực trạng trước và sau khi có Luật XL PHC, trên sơ sởkết
quả khảo sát, bản hỏi, phỏng vấn… Qua đó, đánh giá khả năng tiếp tục duy trì, loại bỏ hay
sửa đổi, thay thế định chế khác nhằm phù hợp yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc
tế trong điều kiện mới. Vấn đề này có đề cập trong quá trình dự thảo Luật XLVPHC và
cũng đã được luật sửa đổi. Tuy nhiên, việc sửa đổi các BPXLHC còn chưa toàn iện và
chưa phù hợp với tinh thần của Hiến pháp 2013 về bảo hộ và bảo đảm quyền trẻ em, trên ý
nghĩa của Công ước quốc tế. Th năm, trên cơ sở tổng quan kinh nghiệm về xây dựng mô
hình cải cách tư pháp cho NCTN ở một số quốc gia phát triển, chỉ ra những triển vọng
hoàn thiện nền tư pháp cho NCTN ở Việt Nam. Đề xuất mô hình tư pháp phù hợp cho
NCTN VPPL và mối quan hệ hài hòa giữa NCTN VPPL với các định chế của nó; giải
pháp để tạo ra mối quan hệ hài hòa.
Trên cơ sở khung thiết kế nêu trên, hy vọng và mong muốn nghiên cứu đề tài Các
biện pháp xử lý hành chính đối với người chưa thành niên vi phạm pháp luật có thể là
một đóng góp có nghĩa l luận và thực tiễn đang đặt ra. Đồng thời, việc chọn đề tài này
để làm luận án tiến sĩ luật học là không trùng lặp với các công trình khoa học đã công ố.

CHƯƠNG 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH ĐỐI VỚI NGƯỜI
CHƯA THÀNH NIÊN VI PHẠM PHÁP LUẬT
2.1. Lý luận chung về khái niệm, đặc đ ểm vi phạm pháp luậtcủa ờ c a
thành niên bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính
2.1.1. Khái niệm người chưa thành niên và khái niệm vi phạm pháp luật
2.1.1.1. Khái niệm người chưa thành niên
Làm rõ khái niệm NCTN và độ tuổi của NCTN là yêu cầu cần thiết cho nội dung
nghiên cứu đề tài, có nghĩa khi xem xét thực tiễn áp dụng chính sách pháp luật và là cơ
sở khách quan đánh giá đúng đắn hành vi VPPL của NCTN. Hầu hết các quốc gia đều dựa
trên Công ước quốc tế về độ tuổi của NCTN là người “ ưới 18 tuổi”. Do đó, theo quy định
11

về người thành niên của Hiến pháp năm 2013 (Điều 27) và quy định về NCTN của Bộ luật
Dân sự (Điều 20), Luật XLVPHC và các luật hiện nay cần ghi nhận rõ: Người chưa thành
niên/vị thành niên à người dưới 18 tuổi.
2.1.1.2. Khái niệm vi phạm pháp luật
Hoạt động thực tiễn của con người thường xảy ra ở một trong hai tình huống cụ
thể: hành động và không hành động h p pháp hoặc hành động và không hành động bất
h p pháp. Hành động và không hành động bất hợp pháp là làm trái với yêu cầu của pháp
luật, là dấu hiệu tiên quyết để xác định một hành vi là VPPL và là cơ sở phát sinh trách
nhiệm pháp lý; có những dấu hiệu bắt buộc: hành vi trái pháp luật, có lỗi do chủ thể có
năng c trách nhiệm pháp lý th c hiện, xâm hại các quan hệ xã hội đư c pháp luật b o
vệ.
2.1.2. Khái niệm, đặc điểm vi phạm pháp luật của người chưa thành niên bị áp
dụng biện pháp xử lý hành chính
2.1.2.1. Khái niệm vi phạm pháp luật của người chưa thành niên bị áp dụng biện
pháp xử lý hành chính
a) Về chủ thể: NCTN là chủ thể VPPL trong một số quan hệ pháp luật cụ thể. Luật
XLVPHC, một NCTN ình thường và phải từ đủ 12 tuổi trở lên mới có thể trở thành chủ
thể PPL hành ch nh; BLHS quy định độ tuổi tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự là
từ đủ 14 tuổi trở lên, như vậy, NCTN là một loại chủ thể V có điều kiện (cũng là đặc
điểm VPPL của NCTN).
b) Về khách quan: VPPL của NCTN cũng đủ các yếu tố như PPL của người
thành niên, nhưng về tính chất không đa ạng, phức tạp hoặc là có hệ thống. VPPL của
NCTN đa số là hành vi thông thường, dễ biết và có tính hạn chế. Hầu hết VPPL thuộc 4
nhóm: xâm hại về sức khỏe, tính mạng; tài sản; trật tự công cộng và ma túy; không thực
hiện được mọi hành vi trái luật như người thành niên, ví dụ: giả mạo người có chức vụ.
VPPL của NCTN thể hiện về mặt khách quan là tính hạn chế của hành vi.
c) Về khách thể: bị xâm hại do VPPL của NCTN là một số khách thể nhất định.
d) Về chủ quan: có sự khác biệt về mối quan hệ giữa các dấu hiệu chủ quan không
phải luôn đồng nhất, gắn bó chặt chẽ. Ví dụ, NCTN trộm cắp nhưng không vì động cơ
kiếm sống; dùng hung kh chém người thành thương nhưng không phải động cơ mâu
thuẫn cá nhân. Tóm lại, về mặt chủ quan VPPL của NCTN có dấu hiệu lỗi thường là bột
phát, có t nh cơ hội, vì vậy: VPPL của NCTN bị áp dụng BPXLHC là hành vi VPPL về an
ninh, trật t , an toàn xã hội (gồm các nhóm quan hệ pháp luật về tài s n; tính mạng, s c
kh e và trật t công cộng), theo luật định không ph i là tội phạm hoặc vi phạm hành
chính nhưng thuộc trường h p áp dụng BPXLHC (H.2).
12

2.1.2.2. Đặc điểm vi phạm pháp luật của người chưa thành niên ị áp dụng biện
pháp xử lý hành chính
Th nhất, NCTN là chủ thể có điều kiện trong một số quan hệ pháp luật nhất định,
o đó các yếu tố điều kiện cấu thành PPL mang nội hàm khác iệt so với người thành
niên, cụ thể: (a) hành vi trái luật có t nh chất đặc iệt nguy hiểm hoặc ở mức rất nghiêm
trọng, nghiêm trọng phải kèm theo điều kiện nhận thức “cố ”; ( ) T nh chất, mức độ nguy
hiểm của hành vi trái luật đó còn phải tương ứng với độ tuổi cụ thể theo luật định. ụ,
khi một NCTN từ đủ 12 tuổi đến ưới 14 tuổi hoặc từ đủ 14 tuổi đến ưới 16 tuổi thực
hiện hành vi có ấu hiệu của một tội phạm rất nghiêm trọng o vô ý thì chưa đủ điều kiện
áp ụng iện pháp GDTXPTT hoặc iện pháp Đ TGD. Do đó, đặc điểm thể hiện ở hình
thức pháp l là tính chất, m c độ của hành vi tr i uật ph i tư ng ng với độ tuổi và tính
chất ỗi trong quan hệ ph p uật cụ thể.
Th hai, so với các chủ thể trong quan hệ pháp luật hình sự hoặc ân sự, luật quy
định năng lực hành vi rất sớm đối với NCTN thuộc đối tượng áp ụng BPXLHC là từ đủ
12 tuổi.
Th ba, theo chính sách, NCTN có hành vi PPL hình sự rất nghiêm trọng o cố
ý tuy có thể không ị xử l hình sự, nhưng phải chịu áp ụng BPXLHC.
2 2 K ệm, đặc đ ểm b ệ xử c í đố ớ ờ c a
thành niên ạm ậ

2.2.1. Khái niệm các biện pháp xử hành chính đối với người chưa thành niên vi
phạm pháp luật
Các BPXLHC6 xuất hiện từ khi có Nghị quyết số 49/NQ-TVQH ngày 20/6/1961
của Ủy an Thường vụ Quốc hội về việc tập trung cải tạo những phần tử có hành động
nguy hại cho xã hội nhưng “xét thấy không cần đưa ra Tòa án xử lý. Nghị quyết quy định
hai đối tượng gồm: phần tử phản cách mạng ngoan cố và loại lưu manh chuyên nghiệp,
trộm cắp, lừa đảo, tiêu thụ tài sản o người khác phạm tội mà có, chủ chứa gái điếm, phá
rối trị an, côn đồ, ngang ngược… Vì vậy, còn những nhận thức chưa thống nhất về các
BPXLHC. Theo quan điểm của luận án, nghiên cứu BPXLHC đối với NCTN VPPL ngoài
những quy phạm thực định, còn phải dựa trên cơ sở pháp l đặc thù, là: (a) NCTN luôn là
mối quan tâm chăm sóc, ảo vệ của pháp luật, khi họ VPPL thì việc xử lý chủ yếu là bằng
giáo dục, thuyết phục. (b) Về cơ ản, bản chất xã hội hành vi VPPL của NCTN là khuynh
hướng phát triển “lệch chuẩn” o nhiều nguyên nhân khác nhau: thiếu tình thương gia
đình, nạn nhân của bạo lực gia đình, mồ côi, thất học, phải tranh đấu mưu sinh, tự ti do
nghèo, chính sách xã hội chưa hoàn thiện của nhà nước… Vì thế, yêu cầu đặt ra cho
BPXLHC vai trò chế tài hành ch nh đặc biệt, nếu nhìn theo cách của các nhà luật học Xô-
viết (Liên-xô cũ) trước đây, đó là: “chế tài khôi phục cũng có mục đ ch trừng trị, hiểu theo

6Bộ Tư pháp, (2011), Tài liệu Hội th o d th o Luật xử lý vi phạm hành chính.
13

nghĩa rộng”7 thì khái niệm về mục đ ch “phục hồi” đối với NCTN VPPL bị áp dụng
BPXLHC có thể được xem là tương tự. Cưỡng chế là để quản lý, giúp NCTN sửa chữa sự
“lệch chuẩn”, phục hồi tự trọng và xóa bỏ những tổn thương nhân cách, nhưng t nh cưỡng
chế bắt buộc – về bản chất, không phải là yêu cầu có tính mục đ ch của BPXLHC.
Tuy nhiên, t nh “hình phạt” của BPXLHC đối với NCTN PPL được thể hiện ở
cách thức áp chế nghiêm khắc, đó là: hạn chế tự do theo cách bắt buộc (biện pháp
GDTXPTT) hoặc tước quyền tự do và cách ly khỏi xã hội có thời hạn (biện pháp
Đ TGD). ì vậy, dù giải thích về mục đ ch của nó thế nào cũng phải nhìn nhận trên thực
tế, cách thức áp dụng chúng mang t nh cưỡng chế nghiêm khắc. Như vậy, mấu chốt vấn đề
theo kết quả tiếp cận của chúng tôi, giữa nhà làm luật – nhà quản lý hành chính – nhà tổ
chức thực hiện đã không có “tiếng nói chung”. Nói cách khác, nhà làm luật khi ban hành
các BPXLHC nhằm đến yêu cầu giải quyết các đối tượng “vướng mắc về xử l ”: hành vi
là phạm pháp hình sự mà không thể xử lý hình sự; hành vi PHC thường xuyên, tái phạm
nhiều lần (thời điểm thực hiện Pháp lệnh XL PHC 2002 được xem là đối tượng “hình sự
nhỏ”: trộm cắp vặt, đánh ạc nhỏ…) mà không thể xử phạt hành chính. Nhà quản lý thì
mong muốn BPXLHC là công cụ giữ vững “thế trận” an ninh trật tự ở địa phương, tránh
ảnh hưởng đến thành t ch thi đua ở địa bàn mình trách nhiệm. Nhà tổ chức thực hiện xem
BPXLHC là cơ chế thực thi nhiệm vụ “cải tạo” những kẻ hư hỏng, chống đối pháp luật…
Chúng tôi đã xem 42 hồ sơ NCTN PPL từ hơn 15 tuổi đến ưới 18 tuổi được xét duyệt
đưa đi trường Giáo ưỡng trong năm 2012, ghi nhận có 37 trường hợp (tỷ lệ 88%) VPPL
hình sự nhiều lần, hầu hết đã ị áp dụng biện pháp GDTXPTT. Tại bản tự thuật, các em
đều biết lần này sẽ bị đi cải tạo 2 năm, nên mong muốn được “thả” sớm. 58 hồ sơ NCTN
khác VPPL về trật tự công cộng nhiều lần thuộc đối tượng giáo dục tại địa phương ( iện
pháp GDTXPTT) đều xin không phải đi cải tạo ở trường.
Tóm lại, có thể nói, BPXLHC đối với NCTN VPPL là biện pháp quản lý giáo dục
đặc biệt có tính bắt buộc của nhà nước đối với NCTN VPPL về an ninh, trật t , an toàn
xã hội, nhưng không bị xử lý hình s do chưa đủ tuổi hoặc theo những qu định khác của
pháp luật.
Đặc điểm biện pháp xử hành chính đối với người chưa thành niên vi
phạm pháp luật

2.2.2.1. Đặc điểm về phạm vi và đối tượng áp dụng
a) Phạm vi áp dụng
BPXLHC là một chế định pháp l độc lập và là bộ phận cấu thành Luật XLVPHC
(Điều 89 và 91). Đặc điểm phạm vi áp dụng của chúng thể hiện: đối với NCTN có hành vi

7“ hôi phục” theo nghĩa là: khôi phục trật tự pháp luật. S.N.Bratus: Trách nhiệm pháp lý và pháp ch , NXB. Pháp lý,
Mátxcơva, tiếng Nga, 1976, tr.138-141. Nguồn: ũ Thư, Ch tài hành chính – lý luận và th c tiễn, (tr.23). Tlđ .
14

VPPL về an ninh, trật tự, an toàn xã hội, nhưng theo luật định không phải là tội phạm và
không phải là vi phạm hành chính mà thuộc trường hợp cần áp dụng BPXLHC.
b) Đối tư ng áp dụng
BPXLHC chỉ áp dụng đối với cá nhân. Cá nhân bị áp dụng BPXLHC cũng là loại
chủ thể đặc biệt vì luật định độ tuổi tối thiểu thấp hơn so với độ tuổi bị xử lý hình sự hoặc
bị xử phạt hành chính.
2.2.2.2. Đặc điểm về thủ tục, thẩm quyền quyết định áp dụng
Luật XL PHC (Điều 97 – 100) các biện pháp này được phân chia thực hiện bởi
hai nhánh thẩm quyền khác nhau: biện pháp GDTXPTT vẫn do Chủ tịch UBND cấp xã
quyết định theo trình tự hành chính; biện pháp Đ TGD o thẩm phán Tòa án nhân dân
cấp huyện quyết định theo trình tự hành chính – tư ph p, hay có thể gọi là b n tư ph p. Do
đó, thẩm quyền áp dụng có đặc điểm hai nhánh thủ tục, thẩm quyền xử lý cùng một nguồn
đối tượng, nhưng mang t nh phân công mà không phân cấp và không có tính liên k t phối
h p.
2.2.2.3. Đặc điểm về tổ chức thực hiện
Áp dụng BPXLHC là một cách thức áp dụng pháp luật, nhưng nó xuất hiện không
phải từ những sự kiện pháp l hành ch nh ình thường mà từ sự phát sinh của “NCTN
VPPL về an ninh, trật tự an toàn xã hội”, vì vậy, về cơ chế tổ chức thực hiện có đặc điểm
riêng là: (i) Do lực lượng Công an lập hồ sơ. (ii) Hạn chế tự do hoặc tước bỏ tự do có thời
hạn. (iii) Nơi thi hành quyết định quản lý tại địa phương hoặc quản lý tại cơ sở biệt lập của
ngành Công an.
2.2.2.4. Đặc điểm tính giáo dục kết hợp cưỡng chế
Các BPXLHC được áp dụng chủ yếu cho NCTN VPPL có dấu hiệu về một tội
phạm hình sự, nhưng không bị xử lý hình sự, đa phần o chưa đủ điều kiện độ tuổi hoặc
o không đủ chứng cứ chứng minh tội phạm; kết quả điều tra có sai sót về thủ tục mà
không thể khắc phục hoặc o đã hết thời hạn điều tra… hi được chuyển hóa thành đối
tượng của BPXLHC thì nghĩa về răn đe trừng phạt của chế tài hình sự được thay thế
bằng yêu cầu giáo dục, phục hồi là cơ ản. Tuy nhiên, thực tế về hình thức là được miễn
truy cứu trách nhiệm pháp l , nhưng NCTN VPPL thuộc các trường hợp này vẫn bị áp
dụng “hình phạt” ất lợi hơn so với bị xử phạt hành chính hoặc thậm chí, xét từ góc độ
minh bạch còn nặng nề hơn so với một số hình phạt của BLHS (Ví dụ…).
2.2.2.5. Đặc điểm trùng lắp các biện pháp tư pháp của Bộ luật Hình sự
Hình thức và nội ung cũng như các yếu tố pháp l cơ ản giữa BPXLHC và biện
pháp tư pháp của BLHS hiện hành tương tự nhau (H.4). Cụ thể: (i) tên gọi hai biện pháp
trùng nhau và đối tượng xử lý là NCTN VPPL hình sự. Chỉ khác biệt ở độ tuổi tối thiểu và
15

thời hạn: BPXLHC quy định NCTN từ đủ 12 tuổi đến ưới 18 tuổi. Thời hạn GDTXPTT
từ 03 tháng đến 06 tháng và thời hạn Đ TGD từ 06 tháng đến 02 năm. Biện pháp tư pháp
quy định NCTN từ đủ 14 tuổi đến ưới 18 tuổi và quy định áp dụng đối với cả hai biện
pháp: GDTXPTT và Đ TGD đều cùng một loại thời hạn từ 01 năm đến 02 năm. (ii) Cơ
quan tổ chức thi hành và nơi thi hành như nhau. Như vậy, hai hệ thống hoàn toàn giống
nhau, cùng có biện pháp GDTXPTT (Điều 89, 90 Luật XL PHC và điểm a, khoản 1 Điều
70 BLHS); biện pháp Đ TGD (Điều 91, 92 Luật XL PHC và điểm , Điều 70 BLHS).
Tóm lại, o đặc thù có tính lịch sử và do yêu cầu phát triển trong tình hình mới,
BPXLHC đối với NCTN PPL đã ộc lộ nhiều bất cập khó có thể khắc phục, như nêu
trên –giữa cơ sở pháp lý và hình thức tổ chức thực hiện chúng. Như vậy, đã đến lúc trong
hệ thống lý luận về tội phạm, vi phạm truyền thống phải thừa nhận một số phạm trù pháp
lý mới, đó là: “Biện pháp xử l hành ch nh” và “ i phạm pháp luật mà không phải là tội
phạm”. hi đã thừa nhận “luật nội ung” thì cần hợp thức hóa cả “luật hình thức”, có
nghĩa là cần chuyển hóa các chế định BPXLHC thành luật độc lập và có trình tự, thủ tục
thực hiện phù hợp với tầm của một đạo luật có vị trí ngang hàng với BLHS và Luật về xử
phạt hành ch nh (khi đã tách các BPXHC ra khỏi Luật XLVPHC hiện nay thì cần đổi tên
luật này cho phù hợp).
2.3. Những yếu tố ả ở đến hiệu quả của việc áp dụng biện pháp xử lý
c í đối vớ ờ c a ạm pháp luật
ch th c hiện
Trước hết, vấn đề bất cập ở quy phạm sửa đổi của Luật XLVPHC: biện pháp được
quy định áp dụng cho VPPL thuộc trường hợp “không cần thiết phải cách ly khỏi cộng
đồng”, nhưng lại hoàn toàn trái ngược với tính chất VPPL của đối tượng mà điều luật nêu
cụ thể (Điều 90), là: NCTN từ đủ 12 tuổi đến ưới 16 tuổi, đã có hành vi phạm tội nghiêm
trọng do cố ý hoặc rất nghiêm trọng do cố ý.
Thứ hai, nhìn từ ph a quan điểm phản biện cho thấy Luật XLVPHC vẫn duy trì
thẩm quyền của Chủ tịch UBND cấp xã là thể hiện việc sửa đổi chưa triệt để, chưa đảm
bảo nguyên tắc thống nhất trong hệ thống chế tài của pháp luật hành chính.
Thứ ba, về tổ chức thực hiện, Chính phủ giao thẩm quyền cho Bộ Công an thành lập
và thống nhất quản l các trường Giáo ưỡng; là lực lượng thực hiện xuyên suốt từ việc
phát hiện PPL, điều tra, xác minh, lập hồ sơ đến việc tổ chức thực hiện BPXLHC, quản
lý giáo dục NCTN… Như vậy, chuỗi thẩm quyền liên hoàn đa chức năng tập trung vào lực
lượng vũ trang: điều tra → qu n hành chính → thi hành và b o đ m thi hành quy t
định hành chính → t , giáo dục, văn hóa, dạy nghề, … đã phản ánh quy trình áp dụng và
tổ chức thi hành BPXLHC đối với NCTN hiện nay là cơ chế vừa kiêm nhiệm, lại vừa “độc
bộ” thường dễ sa vào tùy tiện, bảo thủ.
16

2.3.2. Y u tố tâm lý
Nếu chưa tạo được nhận thức xã hội đối với VPPL của NCTN chủ yếu không phải
là chống đối pháp luật mà chỉ là sự phản ứng tạm thời đối với cộng đồng thì sẽ luôn có rào
cản cho sự phục hồi của họ. Cần xây dựng rõ quan điểm về bản chất, động cơ chủ yếu của
những VPPL của NCTN là sự phản ứng mang t nh cơ học, tạm thời đối với môi trường
cộng đồng xung quanh. Nếu không có được môi trường thân thiện ngay từ thời điểm họ bị
phát hiện và bị ngăn chặn việc làm PPL, thì sau hành vi “lệch chuẩn” đó, tâm l đã xa
lánh cộng đồng, lại được giáo dục bằng cách tiếp tục cách ly cộng đồng, về lô-gích là làm
tăng lên t nh đối lập. Tâm thức hòa nhập trở lại xã hội đời thường sẽ khó khăn hơn.
2.3.3. Y u tố xã hội
(i) Gia đình là môi trường tiếp xúc đầu tiên có vai trò hình thành tính cách và thái
độ “đối nhân, xử thế” của trẻ em.
(ii) Hầu hết các ý kiến đánh giá về thực trạng bất cập hiện nay ở trường học, đó là:
việc giáo dục đạo đức và kỹ năng sống cho học sinh trong trường học, cộng đồng chưa
được quan tâm đúng mức.
(iii) Gia đình và Nhà trường đều là thành tố nằm trong lòng xã hội, do vậy khó có
thể xây dựng được gia đình thân thiện, nhà trường thân thiện khi phải tồn tại trong lòng
một xã hội không thân thiện.
CHƯƠNG 3
CƠ SỞ PHÁP LÝ VÀ THỰC TRẠNG ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH
CHÍNH ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN VI PHẠM PHÁP LUẬT
3.1. C ở pháp lý của các biện pháp xử c í đối vớ ờ c a
thành niên vi phạm pháp luật
3.1 s pháp lý về áp dụng các biện pháp xử hành chính đối với người
chưa thành niên vi phạm pháp luật theo luật hiện hành
3.1.1.1. Biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn
a) hủ thể/đối tư ng p ụng: NCTN đủ 12 tuổi đến dưới 14 thực hiện hành vi có
ấu hiệu một tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý.NCTNđủ 14 tuổi đến ưới 16 tuổi thực
hiện hành vi có ấu hiệu của một tội phạm nghiêm trọng do cố ý. NCTN đủ 14 tuổi đến
ưới 18 tuổi, có 02 lần trở lên trong 06 tháng thực hiện hành vi trộm cắp, lừa đảo, đánh
ạc… mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự (Điều 90 Luật XL PHC). Thời hạn:
từ 3 tháng đến 6 tháng.
b)Thẩm quyền: Chủ tịch UBND cấp xã (khoản 1, Điều 105 Luật XLVPHC).
c)Thủ tục: Trưởng Công an cấp xã tự mình hoặc theo đề nghị của Chủ tịch Ủy
ban Mặt trận Tổ quốc cấp xã hoặc đại diện cơ quan, tổ chức, đơn vị ân cư ở cơ sởcó
17

trách nhiệm lập hồ sơ PPL và đề xuất áp dụng biện pháp. Chủ tịch UBND cấp xã chủ trì
cuộc họp và quyết định việc áp dụng hay không (Điều 97, 98 Luật XLVPHC).
3.1.2. Biện pháp đưa vào trường giáo ưỡng
a) Chủ thể/đối tư ng áp dụng: Đưa vào trường giáo ưỡng đối với NCTN có hành
vi VPPLnhằm mục đ ch giúp họ học văn hóa, học nghề, lao động, sinh hoạt ưới sự quản
lý, giáo dục của nhà trường. Thời hạn áp dụng từ 06 tháng đến 24 tháng.Gồm 4 nhóm đối
tượng: NCTN đủ 12 tuổi đến ưới 14 tuổi đã có hành vi phạm tội ở mức đặc biệt nghiêm
trọng do cố ý; NCTN từ đủ 14 tuổi đến ưới 16 tuổi đã có hành vi phạm tội ở mức rất
nghiêm trọng do vô ý hoặc ở mức nghiêm trọng do cố ýmà trước đó đã ị áp dụng biện
pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn. NCTNđủ 14 tuổi đến ưới 18 tuổi 02 lần trở lên
trong 06 tháng thực hiện hành vi trộm cắp, lừa đảo, đánh ạc, gây rối trật tự công cộng mà
chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự và trước đó đã ị áp dụng biện pháp giáo dục
tại xã, phường, thị trấn (Điều 92 Luật XLVPHC).
b) Thẩm quyền: Do Tòa án nhân dân cấp huyện tiến hành và chủ trì phiên họp xét,
quyết định áp dụng biện pháp (khoản 2 Điều 105), Viện Kiểm sát nhân dân cùng cấp thực
hiện chức năng kiểm sát hồ sơ.
c) Thủ tục: hủ tịch UBN cấp xã (Trưởng Công an xã giúp thực hiện xác minh,
lập hồ sơ, đề xuất) → Trư ng phòng Tư ph p cấp hu ện (kiểm tra pháp l ) → Trư ng
ông an cấp hu ện (xét, quyết định việc đề xuất áp ụng iện pháp và chuyển hồ sơ đến
Tòa án cấp huyện) → Thẩm ph n Tòa n cấp hu ện (thụ l , tổ chức họp, xét quyết định
áp ụng hoặc không áp ụng) → Kiểm s t viêncấp hu ện thực hiện việc kiểm sát (Điều
99, 100 Luật XL PHC).
Nhìn chung, các quy định về BPXLHC đối với NCTN PPL trên đây đều có
chung vấn đề ất cập là sử ụng tiêu ch phạm tội hình sự của người thành niên làm
“thước đo” cho tiêu ch NCTN ị áp ụng BPXLHC. Đây là ất cập cả về cơ sở l luận và
thực tiễn khách quan.
3.1.1.3. Biện pháp ngăn chặn và việc bảo đảm thực hiện biện pháp xử lý hành
chính đối với người chưa thành niên vi phạm pháp luật (Điều 122); Áp giải người vi phạm
(Điều 124); Giao cho gia đình, tổ chức quản l người bị đề nghị áp dụng BPXLHC trong
thời gian làm thủ tục áp dụng biện pháp (Điều 131);Truy tìm đối tượng đã có quyết định
đưa vào trường giáo ưỡng (Điều 132).
3.1.2 c qu định h c iên quan đ n việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính
đối với người chưa thành niên vi phạm pháp luật
Về quản l nhà nước, Chính phủ giao thẩm quyền cho Bộ Công an thành lập và
thống nhất quản l các trường giáo ưỡng; phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao
động – Thương inh và Xã hội, Uỷ ban Bảo vệ và chăm sóc trẻ em Việt Nam và các cơ
18

quan hữu quan tổ chức, quản l các trường giáo ưỡng phù hợp với lứa tuổi từ đủ 12 tuổi
đến ưới 15 tuổi và từ đủ 15 tuổi đến ưới 18 tuổi.
3.2. Thực trạng vi phạm pháp luật của ờ c a bị áp dụng các
biện pháp xử lý hành chính

Thực tế những năm qua, BPXLHC không làm được vai trò góp phần làm giảm
lượng NCTN thường xuyên VPPL, thậm chí NCTN VPPL nghiêm trọng hơn có xu hướng
tăng. Thống kê từ Bộ Công an cho thấy: từ năm 2002 đến 2009, toàn quốc xảy ra 58.941
vụ án do 83.712 NCTN thực hiện. Các cơ quan chức năng đã xử lý hình sự 18,1% tổng số
vụ và áp dụng BPXLHC: 71,9% tổng số vụ. Trước đây phạm tội hình sự chiếm số đông là
NCTN từ 16 đến ưới 18 tuổi, đến nay đa số lại là NCTN trên, ưới 14 tuổi phạm tội hình
sự rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng. Hầu hết số này thuộc diện không xử lý hình
sự mà chuyển sang áp dụng BPXLHC. Thực trạng VPPL của NCTN bị áp dụng BPXLHC
có đặc trưng sau:
3.2.1. Tăng về số ư ng vi phạm pháp luật và tái VPPL hình s
Tổng số: 2.606 vụ VPPL do 3.794 NCTN thực hiện. Gồm: từ 14 đến ưới 16 tuổi
là: 3.034 (80%). Dưới 14 tuổi: 760 (20%). VPPL từ lần hai trở lên: 1.335 (35,19%). Xử
lý hình sự: 893 vụ (34,27%).
3.2.2. Tính nguy hiểm có xu hướng phát triển trong vi phạm pháp luật của người
chưa thành niên
Năm 2013 tội phạm xâm phạm trật tự xã hội xảy ra gần 60.000 vụ (tăng hơn 5%
so với năm 2012), ên cạnh xu hướng tội phạm trẻ hóa, tội phạm giết người do nguyên
nhân xã hội chiếm tỉ lệ cao, hơn 86% (1.342 vụ), nhiều hành vi gây án hết sức dã man, tàn
bạo, gây bức xúc ư luận… Nổi lên trong trong tình hình PPL có t nh nguy hiểm cao của
NCTN là yếu tố bạo c. Tệ nạn cờ bạc, mại âm có xu hướng mở rộng về phạm vi, quy
mô và diện đối tượng.
3.3. Thực trạng áp dụng các biện pháp xử lý hành chính cụ thể đối với ời
c a ạm pháp luật

3.3.1. Th c trạng p dụng biện ph p Gi o dục tại xã, phường, thị trấn
Khảo sát ở TP.HCM8 thường xuyên có khoảng gần 7000 NCTN được xem là
những trẻ có “nguy cơ” cần được quản lý, theo dõi, giáo dục tại địa phương. Đồng thời,
bình quân ở mỗi phường, xã thường có từ 18 đến 20 NCTN thuộc đối tượng đang thi hành
biện pháp GDTXPTT (Phụ lục 1,2,3).
Luật XLVPHC hiện nay không có sửa đổi nhiều ở biện pháp này, ngoài việc hợp
thức hóa thẩm quyền của Công an cấp xã trong việc chủ trì lập hồ sơ và đề xuất áp dụng

8Báo cáo của UBND thành phố Hồ Chí Minh về “Chương trình ảo vệ trẻ em giai đoạn 2011-2015”. Tlđ .
19

biện pháp. Những bất cập cơ ản trong tổ chức thực hiện biện pháp chưa có giải pháp khắc
phục, như: việc giao cho một đơn vị hoặc tổ chức xã hội quản lý, giáo dục thì “ o tâm l
xã hội còn nặng nề, ngại va chạm với đối tượng là tệ nạn xã hội, sợ bị trả thù, bị đe oạ…
nên việc giao đối tượng quản lý hiệu quả là vấn đề không dễ thực hiện”.9 Hoặc việc tổ
chức xã hội, đoàn thể được phân công quản lý có trách nhiệm đề xuất Chủ tịch UBND cấp
xã tạo cơ hội việc làm cho NCTN cũng không khả thi trong điều kiện kinh tế khó khăn
chung và nguồn việc làm ở cấp cơ sở cũng rất thiếu hiện nay.
3.3.2. Th c trạng áp dụng biện ph p đưa vào trường gi o dưỡng

Hiện cả nước có 4 trường giáo ưỡng ở các tỉnh, thành Ninh Bình, Đà Nẵng,
Đồng Nai và Long An do Bộ Công an quản lý. Bình quân thời gian 8 năm từ 1995 – 2003,
số lượng NCTN VPPL bị áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo ưỡng tăng 9,4 lần, với
tổng số là 12.005 em. Theo “Báo cáo kết quả khảo sát thực tiễn thi hành pháp luật xử lý
hành ch nh” ngày 6/8/2011 của Bộ Tư pháp, ghi nhận tình hình về cơ sở vật chất và các
chế độ còn rất khó khăn, hầu như không đáp ứng yêu cầu quản lý, giáo dục đối tượng là
NCTN.
3.4. Dự báo những bất cập phát sinh trong thời gian tới của việc áp dụng các
biện pháp xử c í đối vớ ờ c a ạm pháp luật
3.4.1. Tình hình th c tiễn thi hành biện pháp xử lý hành chính đối với NCTN
VPPL theo Luật XLVPHC
Các trường giáo ưỡng thống kê số mới tăng năm 2014 là NCTN VPPL bị áp
dụng biện pháp đưa vào trường giáo ưỡng chỉ có 186 trường hợp (bao gồm số mới có
quyết định theo Pháp lệnh XL PHC năm 2002). Các Tòa án nhân dân cấp huyện thụ lý áp
dụng biện pháp đưa vào trường giáo ưỡng năm 2014: 61 trường hợp. Báo cáo nêu: lượng
hồ sơ đề nghị áp dụng BPXLHC thời gian qua chưa nhiều, chưa phản ánh đúng tình hình
vi phạm, tội phạm… (Báo cáo số 48/BC-TA ngày 10/10/2014 của Chánh án Tòa án nhân
dân tối cao).
3.4.2. D báo những bất cập phát sinh của các biện pháp xử hành chính đối với
NCTN VPPL
Th nhất, trường hợp phải căn cứ kết quả xác định mức độ thiệt hại về tài sản
hoặc khó khăn hơn là mức độ bị tổn hại về tinh thần của người bị hại do hành vi VPPL của
NCTN gây ra. Cơ quan nào chịu trách nhiệm giám định, nguồn chi ph giám định trường
hợp hồ sơ do cấp xã lập và đề xuất. Trường hợp chờ kết quả giám định, NCTN VPPLphải
gửi tổ chức xã hội quản l để chờ kết quả giám định, nhưng thực tế hiện có ao nhiêu cơ
sở xã hội sẵn sàng cho việc tiếp nhận những trường hợp này.

9Bộ Tư pháp, (2011), “Báo cáo nghiên cứu thực tiễn, thi hành pháp luật XL PHC”.
20

Th hai, các Tòa án cấp huyện đang quá tải án các loại, tiếp tục “gánh” thêm một
lượng “án” BPXLHC khá lớn liệu có đảm bảo giải quyết kịp thời không. Trường hợp quá
hạn do phải chờ Tòa án xét, quyết định thì NCTN được “an tr ” ở đâu…
Th ba, một số vấn đề còn bất cập về hình thức và nội ung quy phạm khi tổ chức
thực hiện Pháp lệnh số 09.
Th tư, Luật XL PHC được sửa đổi, ổ sung một số vấn đề mới, nhưng an hành
trước khi có Hiến pháp năm 2013, về nguyên tắc vẫn là Luật thi hành Hiến pháp năm
1992. Do đó, cần được sửa đổi để cụ thể hóa và phù hợp với Hiến pháp năm 2013, trước
hết là vấn đề ảo đảm một cơ chế tư pháp thực sự và đồng ộ cho việc xử l NCTN PPL.
CHƯƠNG 4
Vấ đề hoàn thiện pháp luật về biện pháp xử c í đối vớ ời
c a ạm pháp luật
4.1. Nhu cầu hoàn thiện pháp luật và áp dụng pháp luật về các biện pháp xử
c í đối vớ ờ c a ạm pháp luật
Nghiên cứu nhu cầu hoàn thiện BPXLHC đối với NCTN PPL cũng ch nh là
nghiên cứu sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật hành ch nh theo đòi hỏi phù hợp với tình
hình thực tại. Nhu cầu đó xuất phát từ những l o sau đây:
Th nhất, Luật XL PHC quy định cùng lúc hai hệ thống chế tài hành chính: xử
phạt hành ch nh và BPXLHC là chưa hợp lý và thiếu minh bạch về kỹ thuật lập quy; trong
khi đó, các BPXLHC đối với NCTN VPPL lại trùng lắp với các biện pháp tư pháp của
Luật Hình sự.
Th hai, ình quân hàng năm trên cả nước có hơn 15.000 vụ VPPL hình sự do
hàng chục ngàn NCTN thực hiện, nhưng lưu lượng NCTN bị áp dụng biện pháp không
nhiều, không phản ánh được vai trò khách quan cần thiết, nói chính xác là nó không phải
là giải pháp cho tình hình NCTN PPL ngày càng tăng.
Th ba, để xử lý hình sự và áp dụng BPXLHC số đối tượng NCTN VPPL hiện
nay là khó khả thi vì lực lượng nhân sự của Tòa án hiện đang ị động với khối lượng án
thường xuyên quá tải, nay lại “gánh” thêm vài ngàn NCTN PPL, với một trình tự giải
quyết khác biệt, chưa kinh nghiệm… rõ ràng sẽ dắt ây đến nhiều hệ lụy tiêu cực khác.
Th tư, như đã nêu, Luật XL PHC được an hành trước khi có Hiến pháp sửa đổi
năm 2013, Hiến pháp có những sửa đổi bổ sung mới về quyền con người, quyền công dân.
Nhiều vấn đề liên quan đến quyền con người, quyền công dân của NCTN chưa được cụ
thể hóa trong các luật, trong đó có Luật XLVPHC, mà luật có trách nhiệm chuyển hóa các
nguyên tắc Hiến định vào đời sống xã hội là vấn đề có tính nguyên tắc và yêu cầu thực
tiễn.
21

4.2. P ớ o ệ ậ c c ế ổ c ức, c ở ậ c ấ bảo
đảm dụ ệ q ả ậ ề c c b ệ xử c í đố ớ ờ
c a ạm ậ

4.2.1. Hoàn thiện pháp luật về biện pháp xử hành chính đối với người chưa
thành niên vi phạm pháp luật

Trước h t, xử lý NCTN VPPL chủ yếu là nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai
lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội.
Th hai, đảm bảo các nguyên tắc cải cách tư pháp: việc xử lý phải o cơ quan,
người có thẩm quyền thực hiện và phải chịu trách nhiệm độc lập về kết luận của mình, về
tính khách quan của cơ sở xét, áp dụng BPXLHC.
Th ba, tăng cường xử lý chuyển hướng đối với NCTN VPPL. Theo pháp luật
quốc tế, hệ thống xử lý chính thức bao gồm hình sự, XLVPHC và biện pháp xử lý không
chính thức hay còn gọi là xử lý chuyển hướng.
4.2.2. Hoàn thiện về tổ ch c – nhân s , c s vật chất b o đ m áp dụng hiệu qu
biện pháp xử hành chính đối với người chưa thành niên vi phạm pháp luật
Quyền trẻ em nói chung và quyền trẻ em trong lĩnh vực tư pháp theo tiêu ch Công
ước quốc tế được hiểu là chủ thể của quyền, chủ thể thụ hưởng các lợi ch ưới sự bảo
đảm của luật, “không phải là đối tượng được hưởng sự quan tâm thương hại, thương hại
hay lòng từ thiện thuần túy”. Do đó, phương hướng cho vấn đề NCTN VPPL ở Việt Nam
không chỉ là hoàn thiện luật, cơ chế, cơ sở vật chất mà kết hợp đồng bộ với tăng cường
xây dựng, đào tạo đội ngũ chuyên gia, chuyên viên, nhân viên phù hợp với cơ chế chuyên
trách tư pháp cho NCTN.
4.3. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật và áp dụng pháp luật về biện pháp xử
c í đối với ờ c a ạm pháp luật
4.3.1. Các gi i pháp hoàn thiện về pháp luật
(i) Ban hành Luật về các biện pháp tư pháp
Đề nghị hợp nhất các biện pháp tư pháp và các iện pháp tư pháp đối với NCTN
và các BPXLHC và cấu trúc lại hoàn chỉnh thành Luật về các biện pháp tư pháp. Luật
XLVPHC hiện nay đổi tên thành Luật xử phạt hành chính.
(ii) Điều chỉnh quy định về độ tuổi trong Luật về các biện pháp tư pháp
Quy định độ tuổi theo Luật về các biện ph p tư ph p áp dụng cho NCTN từ đủ 14
tuổi trở lên là phù hợp và đồng bộ với quy định của BLHS.
(iii) Quy định biện pháp lao động công ích đối với người chưa thành niên
trong Luật về các biện pháp tư pháp
22

Nghiên cứu bổ sung vào Luật về các biện pháp tư pháp hình thức Buộc ao động
công ích đối với NCTN VPPL. Quyết định buộc lao động công ích giao cho Ban chấp
hành Đoàn thanh niên Cty công ích cấp huyện tổ chức cho NCTN lao động tại các công
trình công ch như: chăm sóc cây xanh, công viên… Bộ Luật lao động và Điều ước quốc tế
về lao động trẻ em thừa nhận độ tuổi lao động tối thiểu đối với trẻ em là từ đủ 15 tuổi trở
lên. Với hình thức lao động giản đơn, hợp l luôn có nghĩa giáo ục và rèn luyện sức
khỏe nhất định. Song, về cơ chế cũng cần phải được tổ chức thận trọng, tránh lạm dụng.
Như vậy, các Biệ đối với NCTN VPPL sẽ bao gồm ba hình thức
với thời hạn và thứ tự, như sau: Biện pháp Giáo dục tại địa phư ng (tên điều chỉnh của
biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn), thời hạn từ 03 tháng đến 6 tháng. Biện pháp
đưa vào trường Gi o dưỡng, thời hạn từ 01 năm đến 02 năm. Biện pháp Buộc ao động
công ích, thời hạn từ 15 ngày đến 01 tháng.
4.3.2. Các gi i pháp hoàn thiện về áp dụng pháp luật
4.3.2.1. Thành lập hệ thống Tòa án Thanh thiếu niên
Hiện Tòa án nhân ân tối cao đã tiến hành nghiên cứu đề án thành lập Tòa án gia
đình và người chưa thành niên (TAGĐ&NCTN) và tổ chức th điểm tại Tp.HCM. Tuy
nhiên, mô hình này còn những bất cập về phạm vi thẩm quyền quá rộng; liên quan nhiều
lĩnh vực dẫn đến việc sửa đổi thủ tục tố tụng các ngành luật khác; lực lượng chuyên môn
chưa đảm bảo.
Tác giả đề xuất mô hình và lộ trình xây dựng, hoàn thiện về tổ chức – nhân sự, cơ
sở vật chất cho hệ thống tư pháp của NCTN theo hướng khả thi, như sau:
(i) Xây dựng một cơ chế bổ trợ tư pháp trong hoạt động tổ chức thực hiện các
quyết định áp dụng biện pháp xử lý của cơ quan có thẩm quyền đối với NCTN VPPL.
(ii) Về lâu dài, tổ chức hệ thống Tòa án Thanh thiếu niên không phụ thuộc hành
chính với Tòa án nhân dân cùng cấp hiện nay, nhưng thuộc quản lý của Tòa án nhân dân
tối cao. Trước mắt, xây dựng cơ chế Hộ đồng xử lý về biệ : tuyển dụng từ
ban Hội thẩm nhân dân; cán bộ tư pháp; Hội Luật gia và các tổ chức thành viên Mặt trận
tổ quốc Việt Nam cấp huyện, xã tự nguyện. Theo tiêu chí xét tuyển, huấn luyện ngắn hạn
của Tòa án và được cấp giấy chứng nhận về nghiệp vụ Thẩm phán. Cơ chế này có thể thực
hiện trong thời hạn từ 5 – 10 năm để có thời gian về lực lượng, cơ sở vật chất làm nòng cốt
chuyển hóa thành Tòa án thanh thiếu niên.
4.3.2.2. Xây dựng tổ chức chuyên trách các biện pháp tư pháp người chưa thành
niên vi phạm pháp luật

Hợp nhất các ộ phận chuyên trách từ các ngành liên quan để xây ựng Ủ ba
q ốc a ề a ế – tổ chức theo cấu trúc cơ quan cấp ộ, trực thuộc Ch nh
23

phủ. Nhiệm vụ cơ ản của ủy an này sẽ là chăm lo, quản l đối với hai ộ phận thanh
thiếu niên: ộ phận thanh thiếu niên phát triển ình thường và ộ phận thanh thiếu niên vi
phạm pháp luật hoặc có nguy cơ vi phạm pháp luật. Ủy an này sẽ là nơi tập trung những
chuyên gia giáo ục, y tế, thể thao, tâm l … chuyên trách về NCTN. Giúp việc cho ủy an
là lực lượng hỗ trợ tư pháp th ch hợp với nhiệm vụ chủ yếu là chăm sóc, ảo vệ NCTN.
Cụ thể:
(i) Tổ chức hệ thống Ủy ban quốc gia về thanh thiếu niên:
Để bảo vệ, chăm sóc và giáo ục đối với NCTN VPPL bị áp dụng BPXLHC thì
ngoài ngành Công an được giao trực tiếp quản l các trường giáo ưỡng và ngành Lao
động-thương inh và xã hội quản l các cơ sở chữa bệnh; hiện chưa có quy định cho bộ
ngành, đoàn thể hoặc cơ sở xã hội chuyên trách nào tổ chức giúp NCTN thi hành các biện
pháp này. Do đó, đề xuất thành lập Ủy ban quốc gia về thanh thiếu niên trên cơ sở hợp
nhất các đơn vị chuyên trách từ các ngành, cấp liên quan ch nh là mô hình “chuyên nghiệp
hóa kết hợp xã hội hóa”.
Ủy ban quốc gia về thanh thiếu niên là cơ quan chủ quản tổ chức theo hệ thống
dọc, song không theo đơn vị hành chính mà phân chia theo Miền, Vùng và Khu v c, nhằm
đảm bảo vị tr độc lập tương đối với hệ thống cơ quan quản l nhà nước địa phương.
(ii) Xây dựng lực lượng hỗ trợ tư pháp thanh thiêu niên:
Xây dựng l c ư ng hỗ tr tư ph p thanh thi u niên chuyên trách ưới sự quản lý,
điều hành của Ủy ban quốc gia về thanh thiếu niên; là lực lượng thân thiện và không vũ
trang.
(iii) Xây dựng bộ phận Trợ giúp pháp lý chuyên trách thanh thiêu niên đang thi
hành các biện pháp tư pháp
Các trường giáo ưỡng, cơ sở chữa bệnh cần phối hợp với Trung tâm Trợ giúp
pháp l Nhà nước, Đoàn luật sư, Hội Luật gia xây dựng tình nguyện viên chuyên trách trợ
giúp pháp l , tư vấn pháp l cho NCTN đang thi hành các iện pháp tư pháp và không
phân biệt về đối tượng theo quy định của Luật Trợ giúp pháp lý.
4.3.2.3. Đào tạo, bồi ưỡng công chức, viên chức thực hiện các biện pháp tư pháp
đối với người chưa thành niên vi phạm pháp luật

Hoàn chỉnh ch nh sách, cơ chế khuyến kh ch và ưu tiên thỏa đáng đối với đội ngũ
công chức, viên chức làm công tác tư pháp NCTN. Xây ựng đội ngũ cộng tác viên tình
nguyện hoặc theo hợp đồng thường xuyên những chuyên gia tư vấn trong các lĩnh vực y
tế, tâm lý, thể thao, khoa học công nghệ, các loại nghề thủ công mỹ thuật phù hợp với các
độ tuổi NCTN.
24

4.3.2.4. Tăng cường sự phối hợp giữa gia đình, nhà trường và các tổ chức xã hội
trong việc giáo dục, phòng ngừa người chưa thành niên vi phạm pháp luật
Gia đình – Trường học – Xã hội là ba thành tố rất quan trọngcó trách nhiệm góp
phần ngăn ngừa có hiệu quả tình hình NCTN VPPL, cải thiện điều kiện sống. Để giải
quyết yêu cầu đó, giải pháp cơ ản, phù hợp trong điều kiện hiện nay là tăng cường sự
phối hợp giữa gia đình, nhà trường và các tổ chức xã hội trong quản lý, giáo dục NCTN.
4.3.2.5. Nâng cao nhận thức về vấn đề tư pháp người chưa thành niên và tăng
cường cơ sở vật chất – phương tiện phục vụ cho việc áp dụngcác biện pháp tư pháp người
chưa thành niên vi phạm pháp luật

a) Nhận thức về tư pháp NCTN với mục đ ch chủ yếu là giáo dục, phục hồi và
phát triển lành mạnh, trên nguyên tắc bảo hộ và bảo đảm quyền con người, quyền công
dân của NCTN VPPL theo tinh thần Hiến pháp năm 2013.
b) Cùng với việc đầu tư xây ựng, đào tạo đội ngũ công chức, viên chức và có cơ
chế, chính sách khuyến kh ch, ưu tiên về vật chất đối với họ. Tương ứng cần phải đầu tư
có hệ thống cơ sở hạ tầng, phương tiện đảm bảo cho hoạt động học tập kiến thức, học
nghề, vui chơi, lao động rèn luyện…
KẾT LUẬN
Trong phạm vi bản luận án đã làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn áp dụng biện
pháp xử l hành ch nh đối với người chưa thành niên vi phạm pháp luật. Qua đó đề xuất
định hướng và giải pháp cụ thể về hoàn thiện hệ thống tư pháp người chưa thành niên.
Trên cơ sở tiếp cận những khái niệm chung nhất về các yếu tố cấu thành vi phạm
pháp luật và cơ sở trách nhiệm pháp lý, luận án hình thành được cơ sở lý luận về khái
niệm, đặc điểm vi phạm pháp luật của người chưa thành niên nói chung, của người chưa
thành niên bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính, cùng với khái niệm, đặc điểm của các
biện pháp xử l hành ch nh đối với họ. Đã đề xuất các giải pháp khả thi nhằm hoàn thiện
hệ thống tư pháp cho người chưa thành niên vi phạm pháp luật mà trọng tâm là cơ chế bổ
trợ tư pháp và giải pháp tổ chức Tòa án thanh thiếu niên. Sáng kiến về Ủy ban quốc gia về
thanh thiếu niên, lực lượng hỗ trợ tư pháp và các giải pháp pháp lý liên quan về tổ chức
thực hiện. Đề xuất giải pháp hợp nhất các biện pháp xử lý hành chính trong Luật xử lý vi
phạm hành chính và các biện pháp tư pháp trong Bộ luật Hình sự để cấu trúc lại thành
Luật về các biện tư pháp người chưa thành niên. Do đó, nếu giải pháp cấu trúc lại các biện
pháp xử l hành ch nh được nghiên cứu một cách đầy đủ, hệ thống và khoa học sẽ có ý
nghĩa rất lớn trong công tác lập pháp hành chính, hoàn thiện hệ thống tư pháp người chưa
thành niên.

Đánh giá post

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *