11216_Tiểu luận Chiếc nón lá trong đời sống người Việt

luận văn tốt nghiệp



TIỂU LUẬN
MÔN: CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM

Đề tài:
CHIẾC NÓN LÁ TRONG ĐỜI SỐNG NGƯỜI VIỆT

Hà nội – 2010

2

MỤC LỤC

1. Vài nét về chiếc nón lá ………………………………………………………………………………3
1.1. Lịch sử chiếc nón lá ở Việt nam
…………………………………………………………….3
1.2. Cấu tạo chiếc nón lá
…………………………………………………………………………….3
1.3. Phân loại
……………………………………………………………………………………………5
2. Chiếc nón lá của 3 miền …………………………………………………………………………….5
3. Giá trị của chiếc nón lá trong đời sống người Việt
………………………………………..
10
3.1 Ứng dụng với môi trường tự nhiên
………………………………………………………..
10
3.2 Các công dụng thực tiễn khác ………………………………………………………………
11
3.3 Dùng làm trang trí
………………………………………………………………………………
11
3.4 Thể hiện tước vị, giai tầng xã hội
………………………………………………………….
11
3.5 Vẻ đẹp của người phụ nữ Việt nam
……………………………………………………….
12
3.6 Biểu hiện nét đặc trưng sắc Việt……………………………………………………………
13
4. Kết luận
…………………………………………………………………………………………………
15

3
1. Vài nét về chiếc nón lá
Nón lá là một loại nón đội đầu truyền thống của các dân tộc Đông Á và Đông Nam
Á như Nhật Bản, Lào, Trung Quốc, Thái Lan… trong đó có Việt nam
Cùng với áo dài, áo cánh, váy lĩnh, yếm đào, thắt lưng bao… chiếc nón được coi là
một thứ phục trang phục, vì thế chiếc nón được xem là một trong những biểu tượng
truyền thống của người Việt Nam, gắn bó với người Việt, không phân biệt giới tính,
tuổi tác, địa vị…
1.1. Lịch sử chiếc nón lá ở Việt nam
Có lẽ từ ngàn xưa, do đặc trưng của khí hậu nhiệt đới gió mùa, với thời tiết nắng lắm
mưa nhiều, người Việt xưa đã biết lấy lá kết vào nhau để làm vật dụng đội lên đầu để
che nắng che mưa, qua năm tháng dần dần nó được cải tiến thành những chiếc nón
có hình dạng khác nhau và hình ảnh chiếc nón đã hiện diện trong đời sống thường
ngày của người Việt Nam, trong cuộc chiến đấu giữ nước, qua nhiều câu chuyện kể
và tiểu thuyết.
Hoạ sĩ Đặng Mậu Tựu – Phó chủ tịch Hội Văn hóa nghệ thuật Thừa Thiên Huế cho
biết: “Lịch sử nón Việt Nam qua nhiều giai đoạn, có những biến thiên, từ nón hình
tròn (nón miền Bắc xưa), nón tròn dẹt (nón quai thao) đến nón hình chóp (nón Huế).
Về mặt tạo hình, hình chóp tạo khối vững vàng trong không gian, nâng hiệu quả
thẩm mỹ lên cao, nón có chiều sâu nên vừa che được nắng nhiều hơn, lại vừa tạo sự
gọn gàng, duyên dáng”.
Về thời điểm ra đời, nhiều tài liệu cho rằng Chiếc nón lá xuất hiện ở Việt nam vào
thế kỉ thứ 13, đời nhà Trần. Hình ảnh tiền thân của chiếc nón đã được chạm khắc
trên trống đồng Ngọc Lũ, trên thạp đồng Đào Thịnh vào khoảng 2500 – 3000 năm về
trước.
Như vậy, có thể thấy chiếc nón đã xuất hiện ở Việt nam từ xa xưa dưới nhiều hình
thức khác nhau.
1.2. Cấu tạo chiếc nón lá

4
Theo sự phát triển của lịch sử qua các thời đại, nón lá ở Việt Nam có nhiều biến đổi
về kiểu dáng và chất liệu. Ban đầu khi chưa có dụng cụ để khâu thắt, nón được tết
đan, sau đó từ khi có sự ra đời của chiếc kim, vào thời kỳ con người chế luyện được
sắt (khoảng thế kỷ thứ 3 trước công nguyên), chiếc nón khâu như ngày nay ra đời.
Trước kia, chiếc nón được phân thành 3 loại với tên gọi nón mười (hay nón ba tầm),
nón nhỡ và nón đầu. Nhìn chung nón cổ vành rộng, tròn, phẳng như cái mâm. Ở
vành ngoài cùng có đường viền quanh làm cho nón có hình dáng giống như cái
chiêng. Giữa lòng có đính một vòng nhỏ đan bằng giang vừa đủ ôm khít đầu người
đội. Nón ba tầm có vành rộng nhất. Phụ nữ thời xưa thường đội nón này đi chơi hội
hay lên chùa. Nón đấu là loại nhỏ nhất và đường viền thành vòng quanh cũng thấp
nhất.
Trước kia người ta còn phân loại nón theo đẳng cấp của người chủ sở hữu nón. Các
loại nón dành cho ông già, có loại cho nhà giàu và hàng nhà quan, nón cho trẻ em,
nón cho lính tráng, nón nhà sư…
Vật dụng làm nón gồm: lá, chỉ và khung nón. Lá thì có vùng lấy từ hai loại cây giống
như cây lá kè, có sứa nhỏ, mọc ở những vùng đồi núi. Một loại có tên là lá tơi (tên
chữ là du quy diệp), mềm và mỏng hơn. Ngoài ra, nón có thể được đan bằng các loại
lá khác nhau như lá cọ, rơm, tre, lá cối, lá hồ chuyên làm nón v.v. Sợi chỉ khâu lá
ngày xưa người dân dùng sợi nón – một loại sợi rất dai lấy từ bẹ cây móc, ngày nay
người ta thường là sợi cước (người Huế thì lại dùng sợi chỉ đoác). Mỗi chiếc nón có
hoặc không có dây đeo làm bằng vải mềm hoặc nhung, lụa để giữ trên cổ.
Tàu lá nón khi đem về vẫn còn xanh răn reo, được đem là bằng cách dùng một miếng
sắt được đốt nóng, đặt lá lên dùng nắm giẻ vuốt cho phẳng. Lửa phải vừa độ, nếu
nóng quá thì bị ròn, vàng cháy, nguội quá lá chỉ phẳng lúc đầu, sau lại răn như cũ.
Người ta đốt diêm sinh hơ cho lá trắng ra, đồng thời tránh cho lá khỏi mốc.
Với loại lá non còn búp, chưa xòe ra hẳn, người ta phơi khô, nhưng không để cho
khô quá, rồi đem ủi cẩn thận. Người ta “ủi” bằng cách lấy giẻ nhúng nước, đem hơ
trên lửa cho nóng trước khi chà nhẹ lên lá, để “ủi” cho lá thẳng và những đường gân
lá cũng bằng với mặt lá, đoạn đem treo lên từng chùm để giữ lá cho thẳng.

5
Nón thường có hình chóp nhọn hay hơi tù, tuy vẫn có một số loại nón rộng bản và
làm phẳng đỉnh. Lá nón được xếp trên một cái khung gồm các nan tre nhỏ uốn thành
hình vòng cung. Thường thì có 16 vòng xếp thành 16 tầng mỗi tầng có bán kính khác
nhau. 16 vòng tạo cho chiếc nón dáng thanh tú, không quá cũn cỡn, không xùm xụp.
Khung nón thường là do những người thợ có tay nghề chuyên môn làm sẵn.
Ở Huế chiếc nón lá được thi vị hoá thêm bằng những bài thơ bên trong lớp lá. Muốn
đọc ta đưa chiếc nón lá lên cao, nhìn xuyên qua ánh nắng mặt trời. Thơ sẽ hiện ra
bên trong nón…
1.3. Phân loại
Nón lá có nhiều loại như nón ngựa hay nón Gò Găng (sản xuất ở Bình Định, làm
bằng lá dứa, thường dùng khi đội đầu cưỡi ngựa), nón quai thao (người miền Bắc
Việt Nam thường dùng khi lễ hội), nón bài thơ (ở Huế, là thứ nón lá trắng và mỏng
có lộng hình hoặc một vài câu thơ), nón dấu (nón có chóp nhọn của lính thú thời
phong kiến); nón rơm (nón làm bằng cọng rơm ép cứng); nón cời (loại nón xé te tua
ở viền); nón gõ (nón làm bằng tre, ghép cho lính thời phong kiến); nón lá sen (còn
gọi là nón liên diệp); nón thúng (nón là tròn bầu giống cái thúng, thành ngữ “nón
thúng quai thao”); nón khua (nón của người hầu các quan lại thời phong kiến); nón
chảo (nón mo tròn trên đầu như cái chảo úp, nay ở Thái Lan còn dùng), v.v….
2. Chiếc nón lá của 3 miền
Ở Việt Nam, cả ba miền Bắc, Trung, Nam đều có những vùng làm nón nổi tiếng và
mỗi loại nón ở từng địa phương đều mang sắc thái riêng. Nón Lai Châu của đồng
bào Thái; nón Cao Bằng của đồng bào Tày sơn đỏ; nón Thanh Hoá có 16-20 vành;
nón Ba Ðồn (Quảng Bình) mỏng nhẹ và giáng thanh thoát; nón Gò Găng (Bình
Ðịnh); nón Huế nhẹ nhàng, thanh mỏng nhờ lót bằng lá mỏng; nón làng Chuông
(Thanh Oai, Hà Tây) là loại nón bền đẹp vào loại nhất ở vùng đồng bằng Bắc Bộ.
Một số đặc trưng của chiếc nón lá ở một số tỉnh/thành phố:

6
Huế
Nón lá có ở 3 miền nhưng với Huế thì chiếc nón đã trở thành biểu trưng cho vẻ đẹp,
sự dịu dàng, thanh mảnh, duyên dáng của người phụ nữ Huế.
Nghề nón ở Huế xuất hiện từ bao giờ, ai là tổ của nghề này… những câu hỏi ấy ngay
cả các bậc cao tuổi nhất trong nghề ở Huế hiện nay cũng đều không biết. Nhưng có
một điều có thể khẳng định là nghề nón ở Huế có từ rất lâu và đã đi vào ca dao, tục
ngữ của xứ này. Nhiều người dân Huế đã thuộc nằm lòng những câu thơ phổ biến:
“Ai ra xứ Huế mộng mơ
Mua về chiếc nón bài thơ làm quà”
Hay:
“Mát mặt anh hùng khi nắng hạ
Che đầu thôn nữ lúc mưa sa”
Nghề nón ở Huế có ở khắp nơi với những làng nghề nổi tiếng như: làng Đồng Di –
Tây Hồ – La Ỷ – Nam Phổ (huyện Phú Vang) – Phủ Cam – Đốc Sơ (thành phố Huế).
Mỗi làng chuyên về một loại nón: làm nón 3 lớp thì có La Ỷ, Nam Phổ, Đốc Sơ; làm
nón bài thơ nổi tiếng có Đồng Di – Tây Hồ – Phủ Cam. Trong cấu tạo hình dáng và
độ thanh mảnh thì nón Huế có những điểm khác biệt so với nón ở các vùng miền
khác. Cho nên, dẫu đều là nón lá nhưng với những đặc điểm riêng của mình:
“Áo trắng hỡi thuở tìm em chẳng thấy
Nắng mênh mang mấy nhịp Trường Tiền
Nón rất Huế nhưng đời không phải thế
Mặt trời lên từ phía nón em nghiêng”
Nói về Làng Đồng Di (Thôn Di Đông – xã Phú Hồ – huyện Phú Vang), đây là làng
làm nón bài thơ nổi tiếng từ xưa đến nay của Huế. Nón bài thơ Đồng Di nổi tiếng
đẹp nhờ màu lá xanh, mũi kim chằm dày mà đều tăm tắp, chiếc nón nhẹ thênh, sáng
trong, thấy rõ những vần thơ, những hoạ tiết ẩn chìm trong nón. Vào mùa thì người
lớn ra đồng làm lúa, trẻ em ở nhà làm nón, hết vụ mùa thì cả gia đình cùng lao vào

7
nghề. Vào năm học, trẻ em một buổi đi học, một buổi về nhà chằm nón, tuy thu nhập
thấp nhưng cũng góp phần giúp bố mẹ lo khoản sách vở cho năm học mới. Một tuần,
mười ngày, nón Đồng Di được người làng đem bán tại chợ Dạ Lê. Những ngày chợ
quê vẫn còn là dịp trẻ em háo hức với những món quà mẹ mua, người phụ nữ sắm
vật dụng cần thiết cho gia đình.
Nón Huế ngày nay không chỉ có nón bài thơ, nón 3 lớp, nón quai găng như ngày xưa
mà theo thị hiếu của người tiêu dùng, nón Huế bây giờ còn có thêm nón thêu, nón lá
kè. Và cũng do cuộc sống phát triển, phương tiện giao thông bằng xe gắn máy không
thích hợp cho việc đội nón nên bây giờ nhiều phụ nữ trẻ Huế đã không còn cơ hội
“nghiêng nón làm duyên”.
Quảng Nam
Đối với người dân Quảng Nam, nếu nón không làm bằng lá thì hai chữ nón và mũ lại
được dùng như nhau, chẳng hạn: nón rơm – mũ rơm, hay nón nỉ – mũ nỉ.
Người dân quê Quảng Nam ngày trước thường dùng hai loại lá tơi và lá nón trên
đây, tùy theo chất lá: lá non mềm và mỏng thì dùng làm nón; còn lá già, dày và có
gân cứng thì dùng làm tơi, gọi là áo tơi, tức là cái áo đi mưa ngày trước.
Sau khi nan tre mềm và nhỏ được vót tròn và ghép uốn thành vành để bắt vành và
đặt ở trong khung (ở vùng quê Quảng Nam thường gọi là khuôn), người làm nón xếp
hai, ba lớp lá đã được ủi sẵn lên khung. Lá mỏng lợp ra ngoài, lá dày lợp bên trong.
Muốn nón đội chắc và bền, thì lợp toàn lá dày. Những chiếc nón lá người đi cày ở
quê ngày trước thường đội là loại nón lợp lá dày này. Vành nón cũng phải chuốt
mỏng hơn, để nón đội được nhẹ nhàng, trang nhã. Giai đoạn chót là chằm nón: dùng
chỉ cước khâu lại các lớp lá vô vành. Đến vành cuối cùng là vành lớn nhất thì người
chằm nón dùng một vành tre to, kèm theo vành tre nhỏ, để kẹp lá vào giữa cho chắc,
cho lá khỏi tụt ra và xơ rách. Việc may hay viền vành nón cuối cùng này, người làm
nón gọi là nút vành. Phải may cẩn thận một mũi dài, hai mũi ngắn, thật đều, mà
người trong nghề gọi là kiểu may một mẹ hai con; một cách gọi khá lạ tai, nhất là
với các bạn trẻ ngày nay.

8
Nón chuông – Hà Tây
Nằm ở huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây, làng Chuông là một làng nghề được nhiều du
khách trong và ngoài nước biết đến, với sản phẩm chính là nón. Ngôi làng nghề này
luôn tấp nập khách ra vào không chỉ để đặt hàng, mà còn để tham quan, tận mắt
chứng kiến công việc làm nón.
Nguyên liệu chính để làm nón đó là lá cọ, những chiếc nón được chọn là búp trắng
của cây cọ mua từ Phú Thọ, hay lá nội mua từ Hà Tĩnh, vòng nón bằng mây tre cũng
phải mua từ những nơi khác…
Chiếc nón quai thao với vẻ đẹp độc đáo, quai nón màu hồng, được gắn thêm 2 chùm
dây tua chỉ sợi tơ, nhuộm màu vàng đỏ, dành riêng cho thiếu nữ làng quê đi Hội
xuân, Hội làng, hát chèo và hát quan họ…
Nhiều người làng Chuông rất giỏi làm nón quai thao, chiếc nón độc đáo đặc trưng
văn hóa vùng đồng bằng Bắc Bộ. Người làm nón quai thao phải tỷ mỉ, khéo tay và
có nhiều kinh nghiệm vì phải thực hiện nhiều khâu như: chọn, xếp, khâu lá vào vòng
nón, khâu mũ nón trong vòng nón, thêu chỉ màu trang trí vành nón. Để có một chiếc
nón quai thao đẹp có khi người thợ phải làm đến cả ngày.
Nón quai thao không chỉ được nhiều đoàn nghệ thuật đặt mua, mà còn là một vật lưu
niệm được du khách nước ngoài rất ưa thích. Nhiều du khách đến từ Đức, Pháp,
Anh… thường mua nón Chuông về để làm món quà lưu niệm.
Xa xưa nón làng Chuông là cống vật tiến hoàng hậu, công chúa bởi vẻ đẹp rất riêng
được làm nên bởi những bàn tay tài hoa khéo léo của các nghệ nhân lành nghề. Ngày
nay, nón làng Chuông có mặt khắp nơi, cả trên thị trường trong nước lẫn ngoài nước.
Công đoạn làm nón buộc những người thợ đã phải bỏ ra khá nhiều công sức và thời
gian. Đầu tiên là chọn lá. Lá lụi được đem về vò trong cát rồi phơi nắng cho đến khi
màu xanh của lá chuyển sang màu trắng bạc. Sau đó lá được lót dưới nắm giẻ, dùng
lưỡi cày miết nhanh sao cho lá phẳng mà không ròn, không rách. Vòng nón làm bằng
cật nứa vót nhỏ và đều khi nối bắt buộc phải tròn và không chắp, không gợn.

9
Nón làng Chuông có 16 lớp vòng giúp nón có độ bền chắc nhưng vẫn mềm mại.
Tiếp theo người thợ xếp từng lá vào vòng nón, một lớp mo tre và một lớp lá nữa rồi
khâu. Khâu là một công đoạn rất khó bởi phải đảm bảo lá không bị rách nhưng từng
mũi khâu phải thẳng đều từ vòng trong ra vòng ngoài. Khi chiếc nón được khâu
xong, người thợ hơ bằng hơi diêm làm cho màu nón trở nên trắng muốt và giúp nón
không mốc.
Làm nón cũng là một cách làm kinh tế. Người dân làng Chuông từ người già đến em
nhỏ đều biết làm nón. Nghề này đã giúp cho người dân tăng thu nhập, cải thiện cuộc
sống và góp phần xây dựng quê hương ngày càng tươi đẹp và gìn giữ một nghề
truyền thống có giá trị.
Chiếc nón xuất hiện từ khi nào không ai biết. Từ thời xưa đã có câu: “Nón chuông,
khua lụa, quai thao làng Đơ”. Chiếc nón quai thao đã được các bà, các cô (tầng lớp
trung lưu trở lên) ưa chuộng, chiếm vị trí quan trọng trong trang phục lễ hội của phụ
nữ mà thời Nguyễn được sử dụng phổ biến nhất. ở Hà Nội xưa, các “cô ả” mười lăm,
mười sáu – cái tuổi bắt đầu làm duyên, thường đi sắm chiếc nón Nghệ. Về cái nón
Nghệ, nhà văn hóa Hoàng Đạo Thúy mô tả: “nón rộng đến 80 cm, sâu 10 cm, lần lót
đan bằng sợi tre rất nhỏ, đằng sau cài những mảnh gương vào. Nón Nghệ nặng lắm
vì thế, cái “khua” phải cứng, sơn quang dầu. Lên Hàng Bạc sắm một bộ “chiên, thẻ”.
Chiên là miếng bạc vuông, trong đó có vòng tròn, chạm hai rồng chầu mặt nguyệt.
Hai chiếc thẻ cũng bằng bạc, to như quân bài tam cúc, chạm hoa lá, ở giữa có cái
vòng để buộc quai thao. Cắm hai cái thẻ vào bên trong nón, đặt cái chiên vào đáy
khua, rồi chờ phiên chợ hàng tơ, các bà làng Triều Khúc ra bán quai thao. Một bộ
quai thao gồm tám sợi bằng tơ, mỗi sợi gồm nhiều sợi tơ, ngoài bọc tơ dệt liên tục,
như bấc đèn con. Quai thao dài độ 1,5m. Hai đầu mỗi sợi thao là một quả găng, từ đó
rủ xuống những chỉ tơ, dài độ 20 cm. Phải đưa thao mộc đi nhuộm thâm, nhuộm kỹ”.
Chỉ như thế cũng đủ biết chiếc nón được làm công phu đến mức nào.
Về cái quai thao của nón, có hẳn một làng giữ nghề làm thao, đó là làng Triều Khúc
(Thanh Trì – Hà Nội) nổi tiếng dệt quai thao nón dẹt nên còn có tên là Làng Đơ
Thao. Làng này còn có đền thờ, tượng, và sự tích tổ sư nghề Thao là Vũ úy, thời Lê –
Trịnh (thế kỷ 17-18) được cử sang sứ Trung Hoa và học được nghề dệt Thao, khi về

10
vua phong làm “Cục trưởng cục Thao” và tổ chức dạy nghề này cho dân làng Triều
Khúc – Đơ Thao. Bây giờ người làng vẫn còn truyền tụng câu ca như một niềm tự
hào:
Làng tôi công nghệ đâu bằng
Là làng Triều Khúc ở gần Thanh Xuân
Quai thao dệt khéo vô ngần
Là nghề của Vũ sứ thần dạy cho…
3. Giá trị của chiếc nón lá trong đời sống người Việt
Chiếc nón lá Việt Nam là một phần cuộc sống của người Việt Nam. Nó là người bạn
thủy chung của những con người lao động một nắng hai sương. Chiếc nón Việt Nam
không chỉ được làm ra để che mưa, che nắng, nó còn được dùng thay quạt trong
những trưa hè nóng bức, làm cơi đựng trầu khi gặp bạn, làm quà tặng, vật kỷ niệm
cho nhau. Nhưng công dụng của nó không dừng lại ở đấy, nó đã trở thành một phần
cuộc sống của người Việt Nam. Trên đường xa nắng gắt hay những phút nghỉ ngơi
khi làm đồng, ngồi bên rặng tre người ta có thể dùng nón quạt cho ráo mồ hôi. Bên
giếng nước trong, giữa cơn khát cháy cổ, nón có thể trở thành chiếc cốc vại khổng lồ
bất đắc dĩ, hay có thể thay chiếc chậu vục nước mà áp mặt vào đó cho giải bớt nhiệt.
3.1 Ứng dụng với môi trường tự nhiên
Trước hết, nón là một đồ dùng rất “thực dụng”. Có thể thấy rằng, Việt nam có khí
hậu nhiệt đới, nắng mưa quanh năm, chính vì vậy chiếc nón được làm phương tiện
đội đầu, dùng để che mưa nắng. Nón chóp nhọn đầu, nón thúng rộng vành, nón ba
tầm như nón thúng nhưng mảnh dẻ hơn… tất cả đều để che chắn cho những con
người sống trên một dải đất nắng lắm mưa nhiều. Dù nón có nhiều loại, song nét đặc
thù chung của nó là rộng vành (để chống nóng) và có mái dốc (để thoát nước nhanh,
che mưa).

11
3.2 Các công dụng thực tiễn khác
Ngoài chức năng ứng phó với môi trường tự nhiên, trong khi dùng người Việt còn
“sáng tạo” ra bao nhiêu là công dụng khác. Chiếc nón được sử dụng để quạt mát mồ
hôi mỗi khi nóng, dùng làm những chiếc “cốc” bất đắc dĩ để thõa mãn cơn khát.
Mỗi khi có gió, thì chiếc nón có thể được che diêm mà hút thuốc lào, mỏi thì lót
xuống ngồi,… mà túng nữa thì làm cái rổ đựng đồ mua chợ cho mẹ…
Bên một cánh đồng, em bé chăn trâu nằm dưới gốc cây, cả bác thợ cày cũng vậy,
dùng nón che mặt, để vừa tránh nắng, vừa ngăn ruồi muỗi khỏi quấy rầy giấc ngủ
trưa hiền hòa…
3.3 Dùng làm trang trí
Hình ảnh chiếc nón cũng được sử dụng nhiều trong cuộc sống. Nón lá xuất hiện như
là vật trang trí duyên dáng trong các khách sạn, nhà hàng, trong các dịp lễ hội.
Không chỉ ở các cửa hàng phục vụ chủ yếu cho người Việt, những cửa hàng thường
có khách hàng nước ngoài, chiếc nón cũng được trang trí ở những vị trí trang trọng
nhất, nó không chỉ có vai trò trang trí, tô điểm thêm vẻ đẹp của cửa hàng mà còn
thay lời giới thiệu về một đất nước Việt nam với nhiều danh lam thắng cảnh, nhiều
nét truyền thống với những con người thân thiện, mến khách.
3.4 Thể hiện tước vị, giai tầng xã hội
Bước chân vào một cửa hàng ở phố Hàng Nón – Hà Nội xưa, người ta có thể nhìn
qua chiếc nón mà thấy đủ thứ “tước vị”, “giai tầng” trong xã hội. Có nón “mũ chảo”,
nón “nông dân xứ Đoài”. Các anh chạy xe ba gác thì có một cái “nón cu li” ba xu.
Các cậu lính lệ, phục dịch cửa quan thì có “nón lính” làm bằng thanh tre ken lại,
giống như cái đĩa úp lên đầu, trên có chỏm đồng, sau có lưỡi vải che gáy. Trong “nón
lính” thì gồm nhiều loại, có nón lính ma tà, rồi khố đỏ, khố xanh. Các bà ngồi chợ
bao giờ vào hàng cũng tìm nón Nghệ, nón “nhị thôn”, nón “ba tầng” treo đung đưa
trên mái nhà… Đấy là các loại nón dành cho “dân đen” còn các “quan phụ mẫu” dùng
kiểu khác: tổng lý ưa nón lông quạ, bông bèo đồng, các quan nhỏ chuộng nón chóp

12
và bông bèo bạc, các cụ lớn thì dùng nón lông trắng, bông bèo vàng. Các tao nhân nữ
sĩ thì lùng cho kỳ được nón dứa Huế, Gò Găng, những chiếc lá nhẹ và thanh.
3.5 Vẻ đẹp của người phụ nữ Việt nam
Chiếc nón lá ngày trước, ngoài để che nắng che mưa, còn là vật trang sức rất có
duyên, mang nét trữ tình thầm kín của người con gái Việt Nam, người phụ nữ Việt
nam đẹp một cách tế nhị, kín đáo. Dưới vành nón, đôi mắt, nụ cười, lúm đồng tiền,
những sợi tóc mai, cái gáy trắng ngần của cô gái dường như được tôn thêm nét
duyên dáng, kín đáo mà không kém phần quyến rũ…
Và có lẽ không ở nơi đâu có nhiều nữ sinh duyên dáng với mái tóc đen dài óng ả phủ
kín bờ vai, với tà áo dài trắng tha thướt và chiếc nón bài thơ e ấp như ở Huế. Mỗi
buổi tan trường, các cô nữ sinh Đồng Khánh ngày xưa, với cả rừng nón nhấp nhô,
làm đẹp các ngả đường và tạo nét đẹp lãng mạn trên vai cầu Trường Tiền bắc qua
dòng sông Hương xanh biếc. Những cô gái Huế thường thẹn thùng kéo nón che
nghiêng ấy đã khiến bao tâm hồn phải bâng khuâng:
“Sao em biết anh nhìn mà nghiêng nón?
Chiều mùa thu mây che có nắng đâu”.
Và ngay cả nhân vật trữ tình trong ca dao cũng đã từng phải say lòng:
“Chén tình là chén say sưa,
Nón tình em đội nắng mưa lên đầu”.
Vì bởi đó là những buổi đất trời bâng khuâng mà lòng phải tự hỏi lòng:
“Tình yêu còn nép sau vầng trán.
Lòng nắng vàng hanh hay sắp mưa?”
Chiếc nón lá đôi khi còn là vật để trao đổi tâm tư tình cảm của riêng mình. Người ta
gắn lên đỉnh của lòng nón một mảnh gương tròn nho nhỏ để các cô gái làm duyên
kín đáo. Công phu nhất là vừa vẽ chìm dưới lớp lá nón những hoa văn vui mắt, hay
những hình ảnh bụi tre, đồng lúa, những câu thơ trữ tình, phải soi lên nắng mới thấy
được gọi là nón bài thơ.

13
Trong nghệ thuật, tiết mục múa nón với chiếc áo dài duyên dáng thể hiện tính dịu
dàng, mềm mại và kín đáo của phụ nữ Việt Nam. Với khúc hát quan họ Bắc Ninh,
chàng trai và cô gái hát đối giao duyên, cô gái bao giờ cũng cầm trên tay chiếc nón
ba tầm, nó giúp cô giấu khuôn mặt ửng hồng của mình khi chàng trai hát những lời
bóng gió xa xôi về mối tình của chàng, thảng hoặc khi cô muốn kín đáo ngắm khuôn
mặt bạn tình của mình mà không muốn để cho chàng biết.
Chiếc nón lá còn thể hiện được nét tính cách trong công việc của người phụ nữ Việt
nam với bàn tay khéo léo của người thợ. Người thợ khâu nón được ví như người thợ
thêu. Vòng tre được đặt lên khuôn sẵn, lá xếp lên khuôn xong là đến công việc của
người khâu. Những mũi kim khâu được ước lượng mà đều như đo. Những sợi móc
dùng để khâu thường có độ dài, ngắn khác nhau. Muốn khâu cho liên tục thì gần hết
sợi nọ phải nối tiếp sợi kia. Và cái tài của người thợ làm nón là các múi nối sợi móc
được dấu kín, khiến khi nhìn vào chiếc nón chỉ thấy tăm tắp những mũi khâu mịn
màng. Sợi móc len theo từng mũi kim qua 16 lớp vòng thì chiếc nón duyên dáng đã
thành hình.
3.6 Biểu hiện nét đặc trưng sắc Việt
Chiếc nón lá Việt Nam, đâu chỉ là vật tiện dụng mà còn là nét đẹp thầm kín của văn
hóa Việt Nam, sẽ còn tồn tại mãi dù cuộc sống có đổi thay, hiện đại đến đâu chăng
nữa.
Từ trong thơ ca, âm nhạc, hội hoạ cho đến điện ảnh, chiếc nón đã trở thành một thứ
ngôn ngữ riêng giúp biểu đạt hình tượng và cả tâm tư của người phụ nữ.
So với chiếc nón lá các vùng miền khác thì nón Huế đi vào thơ ca, nhạc hoạ nhiều
nhất. Hình ảnh cô gái Huế với chiếc nón bài thơ, khi che trên đầu, khi cầm trên tay,
khi nghiêng nghiêng e thẹn đã tạo nên một vẻ đẹp rất Huế. Đã từ rất lâu rồi, khi nghe
nhắc đến nón bài thơ, người ta liền nghĩ ngay đến Huế. Trong chiếc nón bài thơ có
biểu hiện những nét đẹp của cả một vùng văn hoá. Chiếc nón bài thơ thanh mảnh,
cầm trên tay nhẹ tênh, từ đường kim, cho đến vành nón tất cả đều thanh tao, nhỏ mà
sắc nét. Và những vần thơ đề trên nón là một cách sáng tạo của người thợ làm nón ở
Huế. Những câu thơ không phải đề bằng mực mà được cắt từ giấy, khéo léo ẩn dấu

14
giữa hai lớp lá xanh, phải đưa nón lên dưới ánh mặt trời mới đọc được. Tâm tình của
người Huế luôn kín đáo như vậy đấy. Có tình thôi chưa đủ mà phải có sự kiên trì, thử
thách mới giải đáp được tâm hồn người con gái Huế. Và đó chính là điều bí mật của
nón bài thơ xứ Huế. Dù chỉ là một chiếc nón bài thơ bé nhỏ nhưng người Huế cũng
gửi vào đó một triết lý, một quan niệm sống sâu sắc.
Trong ký ức của những người lớn tuổi, người phụ nữ Huế khi ra đường, trang phục
nhất thiết phải là chiếc áo dài và chiếc nón lá để đội đầu. Dù trời sáng sớm hay im
mát, chiếc nón như là vật bất ly thân. Cuộc sống khép kín cùng những ảnh hưởng
của lối sống cung đình kín đáo, chiếc nón đã giúp người phụ nữ Huế dấu khuôn mặt
mình cùng những biểu hiện tình cảm một cách lịch sự với người lạ. Và trong sự khéo
léo của chủ nhân, chiếc nón đã trở thành vật làm duyên hết sức kín đáo mà cũng đầy
ý nhị.
Khung cảnh Huế mộng mơ, những con đường im mát, những cô gái Huế trong tà áo
dài tha thướt đội nón bài thơ đã trở thành một trong những hình ảnh đẹp tượng trưng
của Huế. Hình ảnh ấy đã tác động đến đời sống nghệ thuật của mảnh đất này. Với vài
nét phác hoạ hình chiếc dải nón hay dáng hình chóp màu trắng xa mờ, vành nón
nghiêng nghiêng là người xem đều hiểu ấy là hình tượng người con gái, ấy là nón
Huế…
Càng đi sâu vào tìm hiểu càng thấy trong đời sống nghệ thuật, nón Huế đã có một
sức sống mạnh mẽ, tạo những trường liên tưởng phong phú. Sự thăng hoa ấy của nón
Huế được xuất phát từ một yếu tố cơ bản đó là sự gắn bó với cuộc sống. Chiếc nón
có mặt khắp nơi trong đời sống, từ cung cấm cho đến chốn thôn quê, từ trường học,
đường phố đến ruộng đồng; thời hiện đại bây giờ nón lá còn được xuất ngoại, có mặt
ở bầu trời Âu, Mỹ, có trên các sàn diễn lớn của những cuộc thi sắc đẹp tầm quốc tế
có người Việt Nam tham dự. Dù xuất hiện ở khoảng không gian nào, chiếc nón Huế
vẫn mang đậm hồn quê, vẫn mang đậm hương đồng, gió nội của những làng nghề
truyền thống, nơi đã sản sinh ra nó.
Những vần thơ về nét đẹp nón Huế, người phụ nữ Huế vẫn mãi là những vần thơ gây
xúc động trong lòng bao người. Nón Huế bây giờ, bên cạnh yếu tố cổ truyền mà các

15
làng nghề đang gìn giữ, cũng đã bắt đầu có những phát triển để thích nghi với đời
sống mới. Cuộc sống là sự vận động, nón Huế cũng đang bắt đầu bước ra khỏi không
gian của Huế, của Việt Nam để đến với bạn bè quốc tế.
Người ta đội nón làm đồng, đi chợ, chơi hội. Tiễn cô gái về nhà chồng, bà mẹ đặt
vào tay con chiếc nón thay cho bao nhiêu lời nhắn gửi yêu thương… Chiếc nón gợi
nguồn cảm hứng cho thơ, cho nhạc. Đã có hẳn một bài về hát về nón: “Nón bài thơ,
em đội nón bài thơ, đi đón ngày hội mở”… Giữa những kênh rạch, sông nước chằng
chịt ở miệt vườn Nam Bộ, ai đó đã phải ngẩn ngơ vì: “Nón lá đội nghiêng tóc dài em
gái xõa”.
Chiếc nón còn gợi nhớ dáng mẹ tảo tần:
“Quê hương là cầu tre nhỏ
Mẹ về nón lá nghiêng che…”
Trong những năm chiến tranh, tiễn người yêu ra chiến trường, các cô gái thường đội
nón với cái quai mầu tím thủy chung. Chỉ như vậy thôi đã hơn mọi lời thề non, hẹn
biển, làm yên lòng người ra trận…
Dưới vành nón, đôi mắt, nụ cười, má lúm đồng tiền, những sợi tóc mai, cái gáy trắng
ngần của cô gái dường như được tôn thêm nét duyên dáng, kín đáo mà không kém
phần quyến rũ…
Con người Việt Nam có tình cảm sâu sắc và gắn bó với chiếc nón lá giản dị dù gặp
nó ở bất cứ đâu trên trái đất này.
Chiếc nón đã gắn bó mật thiết với người Việt Nam nên chẳng thế mà khách nước
ngoài khi kết thúc chuyến hành trình ở Việt Nam ai cũng muốn mang theo vài cái
nón trong hành trang về nước.
4. Kết luận
Chiếc nón lá Việt Nam là một phần cuộc sống của người Việt Nam. Nó là người bạn
thủy chung của những con người lao động một nắng hai sương. Chính vì thế, chiếc
nón đã trở thành biểu tượng của Việt Nam, là đồ vật truyền thống và phổ biến trên

16
khắp mọi miền đất nước. Nếu ở một nơi xa xôi nào đó không phải trên đất Việt Nam,
mỗi khi nhìn thấy chiếc nón trắng, như nhìn thấy tín hiệu Việt Nam.
Nón lá xưa được sản xuất ở nhiều nơi như Hà Tây, Bắc Ninh, Quảng Bình, Nam
Định Hải Dương… Nay cuộc sống thời hiện đại văn hoá phương Tây tràn vào nước
ta có rất nhiều nhà máy sản xuất ra biết bao mẫu mũ, ô, dù xinh đẹp và lộng lẫy,
nhưng trên khắp các nẻo đường nông thôn đến thành thi, hình ảnh chiếc nón lá vẫn
xuất hiện, chứng tỏ sự trường tồn của nó cùng thời gian, cả về giá tri sử dụng lẫn nét
đẹp văn hoá thuần phong mĩ tục của dân tộc Việt Nam.

Đánh giá post

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *