BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ
TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI VÀ GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI BẰNG TÒA ÁN QUA THỰC TIỄN
TẠI ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NINH
Ngành: Luật kinh tế
VŨ HUY HÙNG
HÀ NỘI, 2019
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Tranh chấp đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai bằng
tòa án qua thực tiễn tại địa bàn tỉnh Quảng Ninh
Ngành: Luật kinh tế
Mã số : 8380107
Họ và tên học viên: Vũ Huy Hùng
người hướng dẫn khoa học: PGS.TS tăng văn nghĩa
Hà Nội, 2019
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan Luận văn này là công trình do tôi thực hiện. Mọi số liệu, kết quả
nghiên cứu đã công bố được tham khảo trong Luận án đều trung thực và trích dẫn
nguồn đúng quy định. Những kết quả nghiên cứu của Luận văn chưa từng được
công bố trong bất kỳ công trình của tác giả nào khác.
Tác giả luận văn
Vũ Huy Hùng
ii
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành Luận văn tốt nghiệp, tác giả đã nhận được sự hướng dẫn, chỉ
đạo nhiệt tình và quý báu của PGS, TS Tăng Văn Nghĩa và tập thể các thầy cô giáo
Khoa Sau Đại học, Khoa Luật – Trường Đại học Ngoại thương Hà Nội.
Nhân dịp này, tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới PGS, TS Tăng
Văn Nghĩa và tập thể các thầy cô giáo Khoa Sau Đại học, Khoa Luật – Trường Đại
học Ngoại thương Hà Nội.
Tác giả cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc tới gia đình, người
thân, bạn bè và đồng nghiệp đã giúp đỡ, hỗ trợ tài liệu, tạo mọi điều kiện tốt nhất
đồng thời đóng góp những ý kiến quý báu để hoàn thành công trình nghiên cứu cuối
khóa tại Trường Đại học Ngoại thương Hà Nội.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong việc tìm kiếm tài liệu, nghiên cứu và tìm
hiểu thực tế nhưng do thời gian hạn chế nên Luận văn không thể tránh khỏi những
sai sót. Tác giả mong nhận được sự quan tâm đóng góp ý kiến của Quý thầy cô, bạn
bè, đồng nghiệp và độc giả.
Trân trọng cảm ơn!
Tác giả luận văn
Vũ Huy Hùng
iii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ………………………………………………………………………………………… i
LỜI CẢM ƠN …………………………………………………………………………………………….. ii
MỤC LỤC
…………………………………………………………………………………………………. iii
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
…………………………………………………………………………
v
TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU …………………
Error! Bookmark not defined.
LỜI MỞ ĐẦU ………………………………………………………………………………………………
1
CHƯƠNG I. TỔNG QUAN VỀ TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI VÀ GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI …………………………………………………………………………….
8
1.1. Khái quát về tranh chấp đất đai ……………………………………………………….
8
1.1.1. Khái niệm tranh chấp đất đai
…………………………………………………..
8
1.1.2. Đặc điểm của tranh chấp đất đai ……………………………………………
12
1.1.3. Phân loại tranh chấp đất đai ………………………………………………….
14
1.1.4. Nguyên nhân xảy ra tranh chấp đất đai ………………………………….
17
1.2. Khái quát về giải quyết tranh chấp đất đai
………………………………………
19
1.2.1. Khái niệm giải quyết tranh chấp đất đai
………………………………….
19
1.2.2. Các phương pháp giải quyết tranh đất đai ………………………………
21
1.3. Giải quyết tranh chấp đất đai bằng Tòa án ……………………………………..
23
1.3.1. Khái niệm …………………………………………………………………………….
23
1.3.2. Đặc điểm của giải quyết tranh chấp đất đai bằng Tòa án …………
25
1.3.3. Các nguyên tắc giải quyết tranh chấp đất đai tại Tòa án ………….
26
1.3.4. Quy định của pháp luật về thủ tục giải quyết tranh chấp đất đai
bằng Tòa án
…………………………………………………………………………………..
28
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI VÀ GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI BẰNG TÒA ÁN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG
NINH …………………………………………………………………………………………………………
36
2.1. Tình hình tranh chấp đất đai trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh ……………
36
2.1.1. Tình hình quản lý và sử dụng đất đai
……………………………………..
36
2.1.2. Thực trạng tranh chấp đất đai ……………………………………………….
38
iv
2.2. Thực trạng giải quyết tranh chấp đất đai tại Tòa án trên địa bàn tỉnh
Quảng Ninh ………………………………………………………………………………………….
39
2.2.1. Thực tiễn giải quyết tranh chấp đất đai bằng tòa án tại tỉnh
Quảng Ninh
…………………………………………………………………………………..
39
2.2.2. Một số vụ tranh chấp đất đai điển hình tại Tòa án nhân dân tỉnh
Quảng Ninh
…………………………………………………………………………………..
41
2.2.3. Đánh giá công tác giải quyết tranh chấp đất đai bằng tòa án tại
tỉnh Quảng Ninh ……………………………………………………………………………
48
CHƯƠNG III. MỘT GIẢI PHÁP GÓP PHẦN NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI BẰNG TÒA ÁN TẠI TỈNH QUẢNG
NINH …………………………………………………………………………………………………………
59
3.1. Sự cần thiết của việc nâng cao chất lượng giải quyết tranh chấp đất đai
tại tỉnh Quảng Ninh
………………………………………………………………………………
59
3.2. Một số giải pháp cụ thể nâng cao chất lượng giải quyết tranh chấp đất
đai bằng tòa án tại tỉnh Quảng Ninh ……………………………………………………..
60
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật ……………………………………………..
60
3.2.2. Về hướng dẫn thi hành pháp luật trong giải quyết các tranh chấp
đất đai …………………………………………………………………………………………..
65
3.2.3. Về cơ chế phối hợp trong giải quyết các tranh chấp đất đai ……..
71
3.2.4. Về bồi dưỡng kiến thức nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, thẩm phán
làm việc tại Tòa án
…………………………………………………………………………
71
3.2.5. Tăng cường công tác tuyên truyền, bồi dưỡng kiến thức pháp luật
về đất đai
……………………………………………………………………………………….
72
KẾT LUẬN ………………………………………………………………………………………………..
74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
………………………………………………………
76
v
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
TAND
Tòa án nhân dân
UBND
Ủy ban nhân dân
QSD
Quyền sử dụng
vi
TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN VĂN
Tên luận văn: Tranh chấp đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai bằng tòa án
qua thực tiễn tại địa bàn tỉnh Quảng Ninh
Luận văn đã đạt các kết quả chính như sau:
– Đã nêu khái niệm tranh chấp đất đai và làm rõ những điểm trong khái niệm
tranh chấp đất đai.
– Đã làm rõ các đặc điểm của tranh chấp đất đai và phân loại được các loại
tranh chấp đất đai, đồng thời đưa ra được những nguyên nhân xảy ra tranh chấp đất
đai.
– Đã giải thích được khái niệm giải quyết tranh chấp đất đai và nêu ra được
những đặc trưng cơ bản của giải quyết tranh chấp đất đai.
– Đã phân tích rõ khái niệm giải thích tranh chấp đất đai và các đặc điểm của
giải quyết tranh chấp đất đai bằng Tòa án.
– Đã nêu được các thực trạng giải quyết tranh chấp đất đai bằng Tòa án trên
địa bàn tỉnh Quảng Ninh và thực tiễn áp dụng.
– Đã đưa ra một số các vụ án xảy ra tranh chấp đất đai điển hình tại tỉnh Quảng
Ninh, đồng thời nêu ra những kết quả đã đạt được và những khó khăn, vướng mắc
và hạn chế trong việc giải quyết tranh chấp đất đai bằng tòa án tại tỉnh Quảng Ninh.
– Đã đưa ra một số giải pháp góp phần nâng cao chất lượng giải quyết tranh
chấp đất đai bằng Tòa án tại tỉnh Quảng Ninh như: giải pháp hoàn thiện pháp luật;
về hướng dẫn thi hành pháp luật trong giải quyết các tranh chấp đất đai; về cơ
chế phối hợp trong giải quyết các tranh chấp đất đai; Về bồi dưỡng kiến thức
nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, thẩm phán làm việc tại Tòa án; tăng cường công tác
tuyên truyền, bồi dưỡng kiến thức pháp luật về đất đai
1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là tài nguyên đặc biệt của quốc gia, nguồn lực quan trọng phát triển đất
nước. Không ai có thể phủ nhận vai trò quan trọng của đất đai đối với cuộc sống của
con người, nó có ý nghĩa hàng đầu trong đời sống kinh tế, chính trị, xã hội và an
ninh, quốc phòng của mỗi quốc gia.
Xã hội ngày càng phát triển, theo đó, các quan hệ đất đai cũng ngày càng được
thiết lập đa dạng phong phú cả về bề rộng lẫn bề sâu. Đặc biệt với sự phát triển
nhanh chóng của nền kinh tế thị trường, các quan hệ đất đai cũng ngày càng lan
rộng cả quy mô và mức độ phức tạp. Kéo theo đó, các tranh chấp, mâu thuẫn, bất
đồng của các chủ thể tham gia vào các quan hệ đất đai cũng phát sinh và phát triển
theo chiều hướng đa dạng, phức tạp về tính chất, mức độ và ngày càng phổ biến.
Tình trạng tranh chấp đất đai kéo dài với số lượng người dân khiếu kiện ngày càng
đông là vấn đề rất đáng được quan tâm.
Nằm ở phía Đông Bắc của Việt Nam, Quảng Ninh là một tỉnh trọng điểm kinh
tế, một đầu tàu của vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc, hội tụ đầy đủ các yếu tố đặc
thù về điều kiện vị trí, địa hình, tự nhiên, xã hội, kinh tế, con người Việt Nam.
Quảng Ninh có quỹ đất dồi dào với 601.000 ha, trong đó 50.364 ha đất nông nghiệp
đang sử dụng, 146.019 ha đất lâm nghiệp với nhiều diện tích đất có thể trồng cỏ phù
hợp cho chăn nuôi, khoảng gần 20.000 ha có thể trồng cây ăn quả. Những tiềm năng
và thế mạnh đó là cơ sở để Quảng Ninh thực hiện đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ
cấu lại nền kinh tế và phát triển bền vững; tăng cường huy động và sử dụng hiệu
quả nguồn lực từ đất, khoáng sản và thị trường vốn; phát huy tối đa hiệu quả nguồn
lực từ đất thông qua các hình thức hợp tác đầu tư… Bên cạnh đó, những năm qua
tỉnh Quảng Ninh tập trung đầu tư dứt điểm, đồng bộ và hiện đại các công trình hạ
tầng chiến lược như đường cao tốc, sân bay, hạ tầng công nghiệp và dịch vụ. Cùng
với sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế, cơ sở hạ tầng cũng kéo theo các vấn đề khúc
mắc trong công tác sử dụng và quản lý đất đai, đền bù, giải phóng mặt bằng khi Nhà
nước thu hồi đất phục vụ lợi ích công cộng. Những năm gần đây, tình hình tranh
2
chấp về đất đai trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh càng trở nên đa dạng, phức tạp và kéo
dài. Mỗi năm, TAND tỉnh Quảng Ninh thụ lý giải quyết hàng trăm vụ tranh chấp
đất đai. Nhìn chung, ngành TAND đã giải quyết thành công một số lượng lớn các
vụ án tranh chấp đất đai, chất lượng xét xử ngày càng được nâng cao, phần nào bảo
vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức xã hội và công dân. Tuy nhiên,
công tác giải quyết tranh chấp đất đai chưa thực sự đem lại hiệu quả như mong
muốn trong đó bao gồm cả các yếu tố khách quan và chủ quan. Một số nguyên nhân
khách quan có thể kể đến như: pháp luật chưa thực sự đồng bộ, nhiều quy định pháp
luật không còn phù hợp với đời sống xã hội nhưng chậm được điều chỉnh, sửa đổi,
bổ sung,…; còn về nguyên nhân chủ quan: chất lượng đội ngũ làm công tác tiến
hành tố tụng chưa thực sự nhận thức đầy đủ về tính chất đặc thù của các tranh chấp
đất đai, chậm khắc phục những tồn tại, hạn chế, trình độ chuyên môn của một số
thẩm phán còn hạn chế,… Vì vậy, việc nghiên cứu tranh chấp đất đai và thực tiễn áp
dụng các quy định của pháp luật hiện hành để giải quyết các tranh chấp đất đai tại
TAND nhằm phát hiện ra những hạn chế, thiếu sót, bất cập của hệ thống pháp luật
và từ đó đưa ra những kiến nghị, các giải pháp giúp cơ quan nhà nước có thẩm quyền
có những điều chỉnh phù hợp, góp phần tiếp tục hoàn thiện các văn bản pháp luật về
đất đai cho phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội của đất nước là việc làm hết sức cần
thiết và mang ý nghĩa to lớn.
Mặt khác, để góp phần giải quyết những vấn đề lý luận và thực tiễn để hoàn
thiện pháp luật về đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai cũng như nâng cao hiệu
quả của công tác giải quyết tranh chấp đất đai tại Tòa án ở nước ta, cần có những
công trình nghiên cứu khoa học một cách hệ thống về các vấn đề này. Đây là việc
làm có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp thiết.
Xuất phát từ những vấn đề lý luận và thực tiễn nêu trên, việc lựa chọn chủ đề:
“Tranh chấp đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai bằng tòa án qua thực tiễn tại
địa bàn tỉnh Quảng Ninh” làm đề tài Luận văn tốt nghiệp là hết sức cần thiết trong
tình hình hiện nay.
3
2. Tình hình nghiên cứu
Trong bối cảnh tranh chấp đất đai ngày càng phức tạp, khó xử lý, tồn đọng,
kéo dài, việc giải quyết tranh chấp còn nhiều bất cập, thiếu thống nhất thì tranh chấp
đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai có thể được nghiên cứu dưới nhiều góc độ
khác nhau, phạm vi khác nhau. Cho đến nay, có nhiều công trình nghiên cứu và các
bài viết liên quan đến đề tài này dưới nhiều góc độ tiếp cận khác nhau, mục đích
nghiên cứu khác nhau và dẫn đến quan điểm khác nhau, kết quả nghiên cứu khác
nhau tùy thuộc vào mục đích nghiên cứu, cách tiếp cận vấn đề. Liên quan đến đề tài
luận văn, có thể kể đến một số công trình nghiên cứu khoa học khác như: “Tranh
chấp đất đai và thẩm quyền giải quyết của Tòa án” Luận văn thạc sỹ luật học của
tác giả Châu Huế (2003), Khoa luật, đại học quốc gia Hà Nội; “Giải quyết tranh
chấp đất đai theo Luật đất đai 2003”, Luận văn thạc sỹ luật học của Phạm Thị
Hương Lan (2009), Viện Nhà nước và pháp luật; “Giải quyết tranh chấp quyền sử
dụng đất bằng tòa án tại Việt Nam’”, Luận văn thạc sỹ luật học của Lý Thị Ngọc
Hiệp (2006), Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh; “Cơ sở lý luận và thực
tiễn nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết các tranh chấp về quyền sử dụng đất tại tòa
án nhân dân”; “Tranh chấp đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai bằng tòa án ở
nước ta”, Luận án tiến sỹ luật học của Mai Thị Tú Oanh (năm 2013); đề tài nghiên
cứu khoa học cấp bộ năm 2001 của Tòa án nhân dân tối cao do Nguyễn Văn Luật
làm chủ nhiệm đề tài.
Các công trình này chủ yếu nghiên cứu các quy định của pháp luật đất đai
(2003, 2013), Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2004, Bộ luật Dân sự năm 2005, các luật
có liên quan khác về giải quyết tranh chấp đất đai nói chung và giải quyết bằng con
đường tòa án nói riêng để thấy được những điểm phù hợp và những điểm chưa phù
hợp để từ đó có những đề xuất để hoàn thiện những quy định của pháp luật về giải
quyết tranh chấp đất đai. Đồng thời, cũng đánh giá chất lượng và hiệu quả giải
quyết tranh chấp đất đai bằng Tòa án để từ đó đề ra các biện pháp, cơ chế bảo đảm
cho việc thực thi các quy định của pháp luật và nâng cao hiệu quả giải quyết các
tranh chấp đất đai. Nhìn chung những công trình nghiên cứu về tranh chấp đất đai
và giải quyết tranh chấp đất đai đã làm giàu thêm kiến thức lý luận và thực tiễn về
4
vấn đề tranh chấp đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai. Các công trình nghiên
cứu, bài viết nêu trên được tiếp cận, nghiên cứu, nhận định và đánh giá dưới nhiều
khía cạnh và ở những mức độ khác nhau về những nội dung có liên quan trực tiếp
hoặc gián tiếp đến pháp luật về tranh chấp đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai .
Tuy nhiên, vấn đề giải quyết tranh chấp đất đai bằng Tòa án chưa được nghiên
cứu một cách tổng thể và chưa cập nhật đối với pháp luật hiện hành, đồng thời chưa
gắn thực tiễn qua công tác giải quyết tranh chấp đất đai của ngành TAND của một
địa phương cụ thể. Vì vậy, đề tài: “Tranh chấp đất đai và giải quyết tranh chấp đất
đai bằng tòa án qua thực tiễn tại địa bàn tỉnh Quảng Ninh” trên cơ sở kế thừa và
phát huy những thành công của các công trình nghiên cứu trước đó để nghiên cứu
một cách toàn diện cả về lý luận và thực tiễn về tranh chấp đất đai và giải quyết
tranh chấp đất đai nhằm đưa ra những giải pháp hiệu quả về của công tác giải quyết
tranh chấp bằng Tòa án nói chung và trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh nói riêng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài “Tranh chấp đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai bằng tòa án qua
thực tiễn tại địa bàn tỉnh Quảng Ninh”có mục đích làm sáng tỏ những vấn đề lý
luận và thực tiễn về tranh chấp đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai tại một địa
phương cụ thể là tỉnh Quảng Ninh. Trên cơ sở đó, Luận văn đưa ra những giải pháp
hoàn thiện pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật nhằm nâng cao chất lượng giải
quyết tranh chấp đất đai tại địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
Trên cơ sở mục đích nghiên cứu như trên, Luận văn có nhiệm vụ nghiên cứu
như sau:
Một là, phân tích, tìm hiểu nội hàm của các khái niệm tranh chấp đất đai, giải
quyết tranh chấp đất đai; nhận diện những đặc trưng cơ bản của các khái niệm này;
Hai là, tìm hiểu, hệ thống hóa cơ sở lý luận của việc xây dựng các quy định
về giải quyết tranh chấp đất đai bằng tòa án;
Ba là, nghiên cứu, đánh giá thực trạng tranh chấp đất đai trên địa bàn tỉnh
Quảng Ninh, từ đó phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về giải quyết tranh chấp
đất đai bằng Tòa án để từ đó chỉ ra những khó khăn, vướng mắc trong quá trình giải
5
quyết tranh chấp đất đai bằng Tòa án hiện nay.
Bốn là, nêu ra những phương hướng và đề xuất những giải pháp cụ thể, thích
hợp góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai
bằng Tòa án tránh việc khiếu kiện kéo dài gây ảnh hưởng đến nhiều mặt của đời
sống xã hội.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn có đối tượng nghiên cứu là:
– Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật nội dung về giải quyết tranh chấp
đất đai bằng Tòa án; thực tiễn công tác giải quyết tranh chấp đất đai bằng Tòa án tại
Việt Nam nói chung và tại tỉnh Quảng Ninh nói riêng.
– Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật hình thức quy định về trình tự, thủ
tục giải quyết tranh chấp đất đai tại tòa án.
– Nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về khái niệm, đặc điểm, nguyên
nhân phát sinh tranh chấp đất đai và cơ chế giải quyết tranh chấp đất đai;
– Nghiên cứu những vấn đề lý luận về cơ sở xác định thẩm quyền giải quyết
tranh chấp đất đai của TAND; trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp đất đai tại tòa
án cấp sơ thẩm; đặc điểm của việc giải quyết tranh chấp đất đai thông qua Tòa án so
với các phương thức giải quyết tranh chấp đất đai khác;
– Nghiên cứu, đánh giá thực trạng thực thi pháp luật về giải quyết tranh chấp
đất đai bằng TAND tại tỉnh Quảng Ninh để nhận diện những mâu thuẫn, bất cập,
hạn chế và chỉ ra những nguyên nhân của những hạn chế này để từ đó tìm giải pháp
để khắc phục.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu ở các khía cạnh:
Về nội dung
– Hệ thống quan điểm, chính sách, đường lối của Đảng và Nhà Nước về giải
6
quyết tranh chấp đất đai từ khi thực hiện công cuộc đổi mới năm 1986 đến nay;
– Hệ thống các quy phạm pháp luật thực định về giải quyết tranh chấp đất đai
nói chung và giải quyết tranh chấp đất đai thông qua Tòa án nói riêng từ năm 1986
đến nay;
– Thực tiễn giải quyết tranh chấp đất đai của TAND tỉnh Quảng Ninh cũng như
một số giải pháp cụ thể nâng cao chất lượng giải quyết tranh chấp đất đai tại địa phương.
Về không gian, Luận văn tập trung nghiên cứu giải quyết tranh chấp đất đai tại
toà án cũng như đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng giải quyết tranh chấp đất đai
tại tỉnh Quảng Ninh.
Về thời gian, Luận văn nghiên cứu từ năm 1987 khi có Luật Đất đai ra đời
cho đến năm 2030 trên cở sở đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng giải quyết tranh
chấp đất đai tại TAND tỉnh Quảng Ninh.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Cơ sở phương pháp luận là Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy
vật lịch sử; tư duy, quan điểm, đường lối về phát triển kinh tế nhiều thành phần,
xây dựng nhà nước và pháp quyền trong cơ chế thị trường của Đảng và Nhà nước
ta. Đây là những phương pháp luận khoa học được sử dụng xuyên suốt trong toàn
bộ luận văn để đánh giá khách quan hệ thống pháp luật thực định trong giải quyết
tranh chấp đất đai bằng Tòa án và thực tiễn áp dụng pháp luật vào giải quyết tranh
chấp bằng Tòa án.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành luận văn, các phương pháp truyền thống được sử dụng bao gồm
phương pháp phân tích, tổng hợp lý thuyết và các tình huống cụ thể; phương pháp
so sánh và đối chiếu các quy định của pháp luật có liên quan để rút ra những kết
luận phù hợp với mục tiêu nghiên cứu.
7
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài Lời mở đầu, Kết luận, Danh mục những từ viết tắt, Danh mục tài liệu
tham khảo, Luận văn có kết cấu gồm 03 chương:
Chương I. Tổng quan về tranh chấp đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai
Chương II. Thực trạng tranh chấp đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai bằng tòa án
trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh
Chương III. Một số giải pháp góp phần nâng cao chất lượng giải quyết tranh
chấp đất đai bằng tòa án.
8
CHƯƠNG I. TỔNG QUAN VỀ TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI VÀ GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI
1.1. Khái quát về tranh chấp đất đai
1.1.1. Khái niệm tranh chấp đất đai
Để hiểu về tranh chấp đất đai, trước hết cần làm rõ khái niệm về tranh chấp.
Theo giải thích của Từ điển tiếng Việt thì tranh chấp nói chung được hiểu là việc
“Giành nhau một cách giằng co cái không rõ thuộc về bên nào” (Hoàng Phê, 1996,
Tr.808). Theo Từ điển giải thích từ ngữ luật học, khái niệm tranh chấp trong các
lĩnh vực dân sự, kinh doanh, hợp đồng được khái quát với các nội dung sau: tranh
chấp dân sự có thể hiểu là những mâu thuẫn, bất hoà về quyền và nghĩa vụ hợp
pháp giữa các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự; tranh chấp kinh
doanh là những mâu thuẫn, bất đồng, xung đột giữa những chủ thể kinh doanh với
nhau trong các hoạt động kinh doanh hay tranh chấp hợp đồng được hiểu là những
xung đột, bất đồng, mâu thuẫn giữa các bên về việc thực hiện hoặc không thực hiện
các quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng (Nguyễn Ngọc Hòa, 1999,Tr.35).
Trong lĩnh vực đất đai, khi các chủ thể tham gia các quan hệ pháp luật đất đai,
không phải lúc nào cũng có cùng quan điểm về tất cả các vấn đề trong quan hệ pháp
luật, vì thế sẽ xuất hiện những ý kiến khác nhau, những mâu thuẫn, những bất đồng.
Theo đó, hiện tượng này phát sinh manh nha từ những bất đồng, mâu thuẫn giữa
những người sử dụng đất với nhau hoặc giữa họ với tổ chức, cá nhân khác về quyền
và nghĩa vụ hay lợi ích trong quá trình quản lý, sử dụng đất. Dựa trên những quan
niệm cơ bản về “tranh chấp” nêu trên có thể gọi hiện tượng đó là tranh chấp đất đai
Bởi vậy, tranh chấp đất đai là sự bất đồng, mâu thuẫn hay xung đột về mặt
lợi ích, về quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể tham gia vào quan hệ đất đai trong
quá trình quản lý và sử dụng đất đai.
Như vậy, có ba điểm cần làm rõ trong khái niệm tranh chấp đất đai như sau:
Thứ nhất, tranh chấp đất đai không chỉ trong quá trình sử dụng đất đai, mà còn
bao gồm cả quá trình quản lý đất đai. Việc nhận thức như vậy là hoàn toàn phù hợp
với xu hướng Nhà nước đang ngày càng mở rộng quyền cho người sử dụng đất và
9
các cơ quan Nhà nước được giao quản lý đất đai nếu không tuân thủ pháp luật, gây
thiệt hại cho lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất cũng có thể bị người sử dụng
đất khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại chứ không còn đơn thuần là mệnh lệnh
hành chính một chiều.
Thứ hai, cần làm rõ tranh chấp đất đai ở nước ta chính là tranh chấp quyền sử
dụng đất hay bao gồm cả tranh chấp quyền sử dụng đất và các tranh chấp liên quan
đến quyền sử dụng đất? Về nội dung này, trong khoa học pháp lí hiện nay còn tồn
tại hai quan điểm như sau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng, tranh chấp đất đai chỉ là tranh chấp về quyền sử
dụng đất. Theo đó, tranh chấp đất đai không xác định được là tranh chấp tổng thể
các quyền và nghĩa vụ hay chỉ là tranh chấp từng quyền và nghĩa vụ đơn lẻ của
người sử dụng đất do pháp luật đất đai quy định, hay bao gồm cả tranh chấp những
quyền và nghĩa vụ mà người sử dụng đất có được khi tham gia vào các quan hệ
pháp luật khác. Bên cạnh đó, chủ thể tranh chấp vốn được gọi là “hai hay nhiều
bên” cũng không được xác định rõ ràng là chỉ bao gồm người sử dụng đất hay là tất
cả các chủ thể có liên quan đến quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất trong
quan hệ tranh chấp đất đai. Chính sự chung chung này đã khiến cho nội dung của
tranh chấp đất đai nhiều lúc được mở rộng tối đa ở mức độ có thể. Trường phái có
quan điểm này cho rằng: Việc mở rộng khái niệm tranh chấp đất đai trong điều kiện
của nước ta hiện nay là chưa hợp lý vì xuất phát từ chế độ sở hữu toàn dân đối với
toàn bộ đất đai mà Nhà nước là đại diện chủ sở hữu thì người sử dụng đất chỉ có
quyền sử dụng đối với đất đai. Về thực chất, tranh chấp đất đai chỉ có thể là tranh
chấp liên quan đến quyền sử dụng đất của các chủ thể. Mặt khác, các thuật ngữ
tranh chấp đất đai và tranh chấp quyền sử dụng đất đã được sử dụng như những
thuật ngữ thay thế nhau kể từ khi có Luật Đất đai năm 1987 đến nay mà không có
sự phân biệt. Hơn nữa, các tranh chấp có liên quan đến quyền sử dụng đất của
người sử dụng đất cũng đã từng được quy định cụ thể trong một số văn bản hướng
dẫn về thẩm quyền giải quyết các tranh chấp liên quan đến đất đai với tên gọi là
tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất chứ không phải tranh chấp đất đai một
cách chung chung (Nguyễn Văn Luật, Tưởng Duy Lượng, 2011). Theo đó, họ cho
10
rằng, định nghĩa tranh chấp đất đai theo Khoản 24, Điều 3 Luật Đất đai năm 2013
do có nội hàm rất rộng nên đã gây nhiều cách hiểu không chính xác. Do đó, tranh
chấp đất đai cần được hiểu là tranh chấp quyền sử dụng đối với diện tích đất cụ thể
giữa các chủ thể trong hoạt động quản lý, sử dụng đất. Còn các dạng tranh chấp
khác, đều được hiểu là tranh chấp liên quan đến đất đai và được giải quyết bởi cơ
quan Tòa án theo thủ tục tố tụng dân sự, mà không có sự ràng buộc với những quy
định về giải quyết tranh chấp trong pháp luật đất đai.
Quan điểm thứ hai, nhận định tranh chấp đất đai bao gồm cả tranh chấp quyền
sử dụng đất và các tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất, bởi: Trong pháp
luật đất đai, trước khi Luật Đất đai năm 2003 được thông qua và có hiệu lực thi
hành thì khái niệm tranh chấp đất đai hầu như chưa được ai đề cập một cách chính
thống và giải thích cụ thể. Mặc dù vậy, hiện tượng tranh chấp đất đai trong xã hội
được pháp luật ghi nhận và quy định việc giải quyết. Luật Đất đai 2003 lần đầu tiên
ghi nhận khái niệm tranh chấp đất đai. Tiếp đến, Khoản 24 Điều 3 Luật Đất đai năm
2013 trên cơ sở kế thừa quy định đó ghi nhận: “Tranh chấp đất đai là tranh chấp về
quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất
đai”. Vì vậy, đối tượng tranh chấp là quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất.
Nghĩa là, tranh chấp đất đai bao gồm cả tranh chấp quyền sử dụng đất và các tranh
chấp liên quan đến quyền sử dụng đất.
Mặt khác, xem xét ở góc độ thực tiễn xét xử, ngành tòa án ở nước ta vẫn thống
kê các tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất vào mục tranh chấp đất đai nói
chung. Bên cạnh đó, Thông tư liên tịch số 01 ngày 03/01/2002 hướng dẫn về thẩm
quyền của Toà án trong việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng
đất sử dụng thuật ngữ khác là “các tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất”
thuộc thẩm quyền của Tòa án. Theo đó các tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng
đất thuộc thẩm quyền của Tòa án bao gồm:
– Tranh chấp về việc ai là người có quyền sử dụng đất;
– Tranh chấp hợp đồng chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại quyền
sử dụng đất và thế chấp hoặc bảo lãnh, góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất;
11
– Thừa kế quyền sử dụng đất;
– Tranh chấp về tài sản gắn liền với việc sử dụng đất.
Thuật ngữ “các tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất” là một thuật
ngữ có nội hàm rất rộng, bao gồm cả tranh chấp về quyền sử dụng đất và tài sản
gắn liền với đất. Theo suy luận logic thì tranh chấp về quyền sử dụng đất sẽ bao
gồm ba loại: tranh chấp về việc ai là người có quyền sử dụng đất (thực chất là tranh
chấp quyền sử dụng đất hay cụ thể hơn là kiện đòi đất đang bị người khác chiếm
giữ, tranh chấp mốc giới); tranh chấp hợp đồng chuyển đổi, chuyển nhượng, cho
thuê, cho thuê lại quyền sử dụng đất và thế chấp hoặc bảo lãnh, góp vốn bằng giá trị
quyền sử dụng đất; tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất.
Không thể phủ nhận rằng, ở mỗi quan điểm đều được lập luận dựa trên những
căn cứ nhất định. Xong thiết nghĩ, việc hiểu và vận dụng “tranh chấp đất đai” bao
gồm cả tranh chấp quyền sử dụng đất và tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng
đất là hợp lý cả về vấn đề logic ngôn ngữ và thực tiễn áp dụng pháp luật trong giai
đoạn hiện nay hơn cả.
Thứ ba, cần phân biệt tranh chấp đất đai và khiếu nại liên quan đến đất đai
“Khiếu nại” được quy định và điều chỉnh tại Luật Khiếu nại tố cáo, còn “tranh
chấp đất đai” lại được quy định và điều chỉnh tại Luật Đất đai. Mặc dù Luật Đất đai
cũng có quy định về khiếu nại nhưng ở phạm vi hẹp là “khiếu nại quyết định hành
chính hoặc hành vi hành chính về quản lý đất đai” (Điều 204, Luật Đất đai năm
2013).
Khiếu nại thông thường xuất phát từ một mối quan hệ không bình đẳng giữa
người khiếu nại và người bị khiếu nại mà người bị khiếu nại có quyền quyết định
một vấn đề nào đó theo thẩm quyền được pháp luật quy định. Trong quan hệ giữa
cơ quan hành chính Nhà nước và công dân thì công dân là người bị quản lý còn cơ
quan hành chính Nhà nước là cơ quan quản lý. Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
ban hành các quy định, các quyết định hành chính có hiệu lực bắt buộc mọi cá
nhân, tổ chức phải thi hành. Cá nhân, tổ chức sử dụng đất đai có nghĩa vụ chấp
hành các quy định hay quyết định hành chính đó nhưng đồng thời cũng có quyền
12
khiếu nại với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền (liên quan đến các quyết định hành
chính về đất đai).
Ngược lại, tranh chấp giữa hai cá nhân hoặc cá nhân với tổ chức là sự tranh
chấp giữa hai chủ thể bình đẳng với nhau về quyền và nghĩa vụ trước pháp luật. Khi
tranh chấp xảy ra thì người bị phía bên kia vi phạm có thể yêu cầu cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền đề nghị người có hành vi vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm
đó, khôi phục lợi ích cho mình, hoặc bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm đó
gây ra.
Như vậy, có thể thấy sự khác biệt về bản chất giữa tranh chấp đất đai và khiếu
nại, trong đó những tranh chấp mang tính dân sự và cần phải được giải quyết theo
các quy định của pháp luật về dân sự, ngược lại khiếu nại là “tranh chấp” có tính
chất hành chính và cần được giải quyết theo pháp luật về hành chính.
1.1.2. Đặc điểm của tranh chấp đất đai
Tranh chấp đất đai là hiện tượng xã hội có thể xảy ra ở mọi lúc, mọi nơi. Tùy
vào đặc điểm kinh tế xã hội thì những vùng miền khác nhau tranh chấp đất đai có
những đặc điểm khác nhau. Tuy nhiên, nhìn chung tranh chấp đất đai có những biểu
hiện trên các khía cạnh cơ bản như sau:
Thứ nhất, về chủ thể của tranh chấp đất đai. Do tính đặc thù của chế độ sở hữu
đất đai ở nước ta: Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước là đại diện chủ sở
hữu, Nhà nước giao đất, cho thuê đất cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân (gọi chung
là người sử dụng đất) sử dụng ổn định, lâu dài hoặc công nhận quyền sử dụng đất
ổn định, lâu dài của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất. Vì vậy, người
sử dụng đất chỉ có thể là chủ thể quản lý hoặc sử dụng đất đai. Như vậy, chủ thể của
tranh chấp đất đai không phải là chủ sở hữu đối với đất đai tức chủ thể của quan hệ
tranh chấp đất đai không phải là của chủ sở hữu của đối tượng bị tranh chấp. Đây
chính là điểm đặc thù của tranh chấp đất đai so với các loại tranh chấp khác.
Thứ hai, về đối tượng tranh chấp. Do điểm đặc thù của chế độ sở hữu toàn dân
đối với đất đai ở nước ta nên đối tượng của tranh chấp đất đai chỉ giới hạn trong
phạm vi tranh chấp về quyền và nghĩa vụ trong quản lý, sử dụng đất đai. Điều này
13
có nghĩa là pháp luật chỉ thừa nhận và giải quyết các tranh chấp về quản lý đất đai
hoặc tranh chấp về sử dụng đất đai. Các tranh chấp về quyền sở hữu đất đai như
tranh chấp đòi lại đất trước đây đã hiến, tặng cho nhà nước; tranh chấp về đòi lại đất
mà Nhà nước đã chia, cấp cho người dân trong cải cách ruộng đất; tranh chấp đòi lại
đất trước đây đã góp vào hợp tác xã, tập đoàn sản xuất để làm ăn tập thể nay hợp tác
xã, tập đoàn kinh tế giải thể,… sẽ không được thừa nhận và không xem xét giải
quyết. Như vậy, có thể hiểu đối tượng của tranh chấp đất đai là quyền quản lý,
quyền sử dụng và một số lợi ích vật chất khác phát sinh từ quyền quản lý, sử dụng
một loại tài sản đặc biệt không thuộc quyền sở hữu của các bên tranh chấp mà thuộc
sở hữu toàn dân và nhà nước là đại diện chủ sở hữu.
Thứ ba, quan hệ đất đai liên quan đến lợi ích của nhiều đối tượng trong xã
hội: nhà nước, cộng đồng dân cư, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, cơ sở tôn giáo, tổ
chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài sử dụng đất tại
Việt Nam. Do đó, tranh chấp đất đai phát sinh không chỉ liên quan đến lợi ích của
một bên mà còn liên quan đến lợi ích của nhiều bên liên đới. Chính vì vậy, tranh
chấp đất đai nếu không được giải quyết nhanh chóng, dứt điểm, kịp thời thì sẽ gây
mất an toàn an ninh, trật tự xã hội.
Ngoài ra, tranh chấp đất đai còn phản ánh phong tục, tập quán, nếp suy nghĩ,
hành vi ứng xử của từng nhóm người, từng cộng đồng dân cư ở các vùng miền khác
nhau. Do đó, tranh chấp đất đai thường có tính chất rất phức tạp và thường gay gắt,
quyết liệt hơn các loại tranh chấp khác, nó có tác động không nhỏ đến tâm lý, tinh
thần của các bên, gây nên sự căng thẳng, mất đoàn kết, mất ổn định trong nội bộ
nhân dân, làm cho những đường lối, chính sách, quy định của pháp luật nói chung
và liên quan đến đất đai nói riêng không được thực hiện một cách triệt để. Chính vì
lẽ đó, việc giải quyết tranh chấp đất đai gặp rất nhiều khó, phức tạp, đặc biệt là các
tranh chấp đất tôn giáo, tranh chấp về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất,…
Thứ tư, một điểm đặc thù chỉ có trong quan hệ đất đai là người có quyền sử
dụng đất hợp pháp dù không có quyền sở hữu chung vẫn có quyền định đoạt quyền
sử dụng trong phạm vi quy định của pháp luật. Có thể gọi đây là “quyền sở hữu hạn
14
chế” được người đại diện chủ sở hữu trao cho người sử dụng đất. Do đó, tùy theo
mối quan hệ giữa các bên trong quan hệ tranh chấp đất đai mà việc áp dụng pháp
luật, thẩm quyền để giải quyết tranh chấp khác nhau.
Thứ năm, quan hệ đất đai có liên quan đến những quan hệ xã hội khác thuộc
phạm vi điều chỉnh của một số đạo luật như Bộ luật Dân sự, Luật Xây dựng, Luật
nhà ở, Luật bảo vệ môi trường, Luật kinh doanh bất động sản, Luật bảo vệ và phát
triển rừng,… Trên thực tế, tranh chấp đất đai xảy ra cũng có liên quan đến nhà ở,
công trình xây dựng, cây cối và vật kiến trúc khác,… nên khi giải quyết tranh chấp
đất đai, cơ quan nhà nước có thẩm quyền không chỉ áp dụng Luật Đất đai mà còn
áp dụng các đạo luật khác có liên quan để xem xét, giải quyết.
1.1.3. Phân loại tranh chấp đất đai
Tùy theo mục đích nghiên cứu, tranh chấp đất đai sẽ được nhận dạng và phân
loại thành các dạng khác nhau. Trong phạm vi luận văn tranh chấp đất đai được
phân loại theo hai tiêu chí cơ bản là căn cứ vào chủ thể và căn cứ vào đối tượng
tranh chấp.
1.1.3.1. Căn cứ vào chủ thể thì có thể khái quát tranh chấp đất đai thành các
dạng chủ yếu sau:
tranh chấp giữa cá nhân với cá nhân; tranh chấp đất đai giữa hộ gia đình, cá
nhân với tổ chức và tranh chấp đất đai giữa tổ chức với tổ chức. Trong đó, mỗi dạng
có các tranh chấp chủ yếu như sau:
Thứ nhất, tranh chấp đất đai giữa cá nhân với cá nhân:
– Tranh chấp về đòi lại đất của ông cha đã được Nhà nước chia cấp cho người
khác khi thực hiện chính sách đất đai qua các thời kỳ;
– Tranh chấp đất đai giữa đồng bào dân tộc thiểu số với đồng bào ở các địa
phương khác đến khai hoang, xây dựng kinh tế mới (dạng tranh chấp này phát sinh
ở khu vực miền núi phía Bắc và khu vực Tây Nguyên).
– Tranh chấp đất đai giữa cá nhân với cá nhân về chia tài sản chung là nhà, đất
khi ly hôn; về thừa kế nhà, đất do cha mẹ để lại, tranh chấp về ranh giới, mốc giới
sử dụng đất, tranh chấp về chuyển nhượng, tặng cho quyền sử dụng đất, tranh chấp
15
về thế chấp bằng giá trị quyền sử dụng đất,…
Thứ hai, tranh chấp đất đai giữa hộ gia đình, cá nhân với tổ chức. Loại tranh
chấp này bao gồm các dạng tranh chấp cụ thể sau đây:
– Tranh chấp đất đai giữa hộ gia đình, cá nhân với cơ quan, tổ chức của Nhà
nước, các nông, lâm trường; đơn vụ vũ trang nhân dân và các tổ chức chính trị – xã
hội, tổ chức xã hội, tổ chức chính trị, xã hội – nghề nghiệp, tổ chức nước ngoài,…
trong quá trình sử dụng đất.
– Tranh chấp đất đai giữa hộ gia đình, cá nhân với các hợp tác xã, tập đoàn sản
xuất khi các tổ chức này giải thể.
Thứ ba, tranh chấp đất đai giữa tổ chức với tổ chức: dạng tranh chấp này bao
gồm tranh chấp đất đai giữa các tổ chức, cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, đơn vị
vũ trang nhân dân, tổ chức kinh tế với nhau hoặc giữa các tổ chức này với các tổ
chức khác như tổ chức tôn giáo, tổ chức quần chúng nhân dân ở địa phương,…
Đồng thời, tranh chấp này bao gồm cả tranh chấp đất đai liên quan đến địa giới
hành chính giữa các đơn vị hành chính tỉnh, huyện, xã.
1.1.3.2. Căn cứ vào đối tượng tranh chấp có thể nêu lên những dạng tranh
chấp đất đai chủ yếu như sau:
Thứ nhất, tranh chấp về chuyển quyền sử dụng đất bao gồm: tranh chấp về
chuyển đổi, tặng cho, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, thế chấp, bảo
lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất. Tranh chấp về chuyển quyền sử dụng đất là
dạng tranh chấp phổ biến, có số lượng nhiều nhất và mức độ phức tạp nhất trong
thực tiễn giải quyết tranh chấp đất đai hiện nay. Đây là những tranh chấp phát sinh
trong việc các bên thực hiện các giao dịch về đất đai. Theo đó, những dạng tranh
chấp phát sinh do các bên thực hiện giao dịch khi chưa có đầy đủ điều kiện pháp
luật cho phép; thực hiện không đúng hoặc không thực hiện đầy đủ các điều khoản
quy định trong hợp đồng, trong thoả thuận tặng cho; không tuân thủ các quy định
của pháp luật trong khi giao dịch; hiệu lực pháp lý của di chúc.
Thứ hai, tranh chấp về đòi lại đất, bao gồm:
16
– Tranh chấp về đòi lại đất bị tịch thu, trưng thu, trưng dụng, trưng mua khi
thực hiện cải cách ruộng đất ở miền bắc; chính sách xóa bỏ triệt để tàn tích chiếm
hữu ruộng đất và các hình thức bóc lột thực dân, phong kiến ở miền nam;
– Tranh chấp đòi lại đất đai đã hiến tặng cho Nhà nước, cho hợp tác xã và các
tổ chức khác, cho hộ gia đình, cá nhân;
– Tranh chấp về đòi lại đất đã góp vào Hợp tác xã nông nghiệp theo quy định
của Điều lệ hợp tác xã nông nghiệp bậc cao;
– Tranh chấp về đòi lại đất thổ cư mà Nhà nước đã giao cho người khác để làm
đất ở và đất vườn đã giao lại cho hợp tác xã để đi khai hoang; ruộng đất đã bị thu
hồi để giao cho người khác hoặc điều chỉnh cho người khác khi giải quyết tranh
chấp ruộng đất;
– Tranh chấp về đòi lại đất đã chia cho người khác khi hưởng ứng cuộc vận
động san sẻ bớt một phần ruộng đất để chia cho người khác không có ruộng đất và
thiếu ruộng tại miền Nam sau ngày giải phóng.
Thứ ba, tranh chấp về đất cho người khác mượn để sử dụng, bao gồm:
– Tranh chấp về đòi đất mà Nhà nước đã mượn của hộ gia đình, cá nhân;
– Tranh chấp về đất mà hộ gia đình, cá nhân cho nhau mượn;
– Tranh chấp về đất mà tổ chức cho nhau mượn.
Thứ tư, tranh chấp liên quan đến quyền quản lý và sử dụng đất, bao gồm:
– Tranh chấp về quyền sử dụng đất đối với đất khai hoang sử dụng vào mục
đích nông, lâm nghiệp;
– Tranh chấp về ranh giới, mốc giới sử dụng đất giữa hai mảnh đất liền kế.
– Tranh chấp liên quan đến quyền địa dịch như tranh chấp về lối đi qua bất
động sản liền kề, tranh chấp về lắp đặt đường ống, về đường dẫn nước qua bất động
sản liền kề…
– Tranh chấp về quyền quản lý, sử dụng đất tôn giáo; đất sử dụng vào mục
đích quốc phòng – an ninh; tranh chấp đất của nông, lâm trường,…
17
– Tranh chấp liên quan đến việc khiếu nại, tố cáo về bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư khi Nhà nước thu hồi đất;
– Tranh chấp về cấp, thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, về thực hiện
các nghĩa vụ tài chính về đất đai…
1.1.4. Nguyên nhân xảy ra tranh chấp đất đai
Tranh chấp đất đai xảy ra là hậu quả của những nguyên nhân nhất định. Nó là
biểu hiện cụ thể của những mâu thuẫn, bất đồng về lợi ích kinh tế giữa các chủ thể
sử dụng đất với nhau. Trong những năm qua, tranh chấp đất đai xảy ra ở hầu hết các
địa phương trên cả nước, mỗi tranh chấp có những đặc điểm, bản chất khác nhau.
Tuy nhiên, phân tích đánh giá các tranh chấp đất đai xảy ra hiện nay có thể thấy nó
phát sinh chủ yếu từ những nguyên nhân sau:
1.1.4.1. Nguyên nhân khách quan
Thứ nhất, do quan hệ đất đai ở nước ta có nhiều xáo trộn qua các thời kỳ. Việc
thay đổi chế độ sở hữu đất đai từ đất đai thuộc nhiều hình thức sở hữu, trong đó có
sở hữu tư nhân (trước Hiến pháp năm 1980) đến đất đai thuộc sở hữu toàn dân (sau
Hiến pháp năm 1980) đã khiến nhiều tranh chấp đất đai xảy ra. Ngoài ra, các chính
sách kinh tế, các chủ trường hợp tác hóa trong sản xuất nông nghiệp, xây dựng các
hợp tác xã đã gây ra không ít tranh chấp về đất nông nghiệp ở khu vực nông thôn.
Bên cạnh đó, các văn bản quy phạm pháp luật về đất đai qua các thời kỳ lịch
sử do các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khác nhau ban hành không những
nhiều về số lượng mà còn có sự không thống nhất, thiếu đồng bộ về mặt nội dung.
Chính điều này đã làm cho thực tế các quan hệ đất đai nảy sinh qua các thời kỳ là
rất phức tạp, khi phát sinh tranh chấp thì không biết phải áp dụng văn bản quy phạm
pháp luật nào để giải quyết.
Thứ hai, trong nền kinh tế thị trường, đất đai ngày càng có giá trị. Trước đây,
trong nền kinh tế tập trung, bao cấp, đất đai không được thừa nhận có giá, nó chỉ
được coi như một thứ “phúc lợi xã hội”, được Nhà nước thay mặt xã hội thực hiện
việc phối cho các nhu cầu sử dụng; mọi hành vi mua bán, chuyển nhượng đất đai,
phát canh thu tô đều bị Nhà nước nghiêm cấm dưới mọi hình thức. Khi nền kinh tế