11455_Tình trạng dinh dưỡng và khẩu phần ăn của học sinh dân tộc thiểu số tại ba trường Phổ thông dân tộc nội trú tỉnh Cao Bằng

luận văn tốt nghiệp

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC

LÊ NA

TÌNH TRẠNG DINH DƯỠNG VÀ KHẨU PHẦN
ĂN CỦA HỌC SINH DÂN TỘC THIẾU SỐ
TẠI BA TRƯỜNG PHỔ THÔNG DÂN TỘC
NỘI TRÚ TỈNH CAO BẰNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ Y HỌC

THÁI NGUYÊN – NĂM 2020

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y – DƯỢC

LÊ NA

TÌNH TRẠNG DINH DƯỠNG VÀ KHẨU PHẦN ĂN
CỦA HỌC SINH DÂN TỘC THIẾU SỐ TẠI BA TRƯỜNG
PHỔ THÔNG DÂN TỘC NỘI TRÚ TỈNH CAO BẰNG

CHUYÊN NGÀNH: Y HỌC DỰ PHÒNG
MÃ SỐ: 87.20.163

LUẬN VĂN THẠC SĨ Y HỌC

HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRƯƠNG THỊ THÙY DƯƠNG

THÁI NGUYÊN – NĂM 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là đề tài nghiên cứu do chính tôi thực hiện. Các
số liệu, kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa từng được
công bố trong bất kỳ đề tài nghiên cứu nào khác.

Thái Nguyên, tháng 6 năm 2020
Tác giả

Lê Na

LỜI CẢM ƠN

Qua thời gian học tập và nghiên cứu tại trường Đại học Y Dược – Đại
học Thái Nguyên, tôi luôn nhận được sự hướng dẫn, động viên và tạo điều
kiện kịp thời về nhiều mặt của các thầy, cô giáo, các anh chị đồng nghiệp
và của người thân.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu, Phòng đào tạo – Bộ phận đào tạo
sau đại học và Khoa Y tế công cộng – trường Đại học Y Dược – Đại học Thái
Nguyên đã tạo mọi điều kiện trong học tập và nghiên cứu khoa học từ việc trang
bị kiến thức đến thu thập và xử lý số liệu trong suốt thời gian vừa qua.
Tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tới TS Trương Thị
Thùy Dương – Người đã tận tình chỉ bảo, truyền đạt kiến thức, kinh nghiệm,
dành nhiều thời gian hướng dẫn cho tôi trong suốt quá trình nghiên cứu. Tôi
xin gửi lời cảm ơn đến tất cả các thầy cô đã tận tình truyền đạt những kiến
thức và hướng dẫn, định hướng cho tôi để tôi hoàn thành bản luận văn này.
Tôi xin trân trọng cảm ơn lãnh đạo Sở Y tế, Ban Giám đốc và tập thể cán
bộ viên chức Trung tâm Y tế huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng đã tạo mọi điều
kiện cho tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu luận văn tốt nghiệp.
Tôi xin trân trọng cảm ơn tới lãnh đạo Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Cao
Bằng, lãnh đạo và các thầy cô giáo trường phổ thông dân tộc nội trú huyện
Hòa An, Hà Quảng và Thông Nông đã đào điều kiện cho tôi thu thập số liệu
đề tài để tôi hoàn thành được bản luận văn này.
Cuối cùng, tôi xin trân trọng cảm ơn gia đình, đồng nghiệp và những
người thân đã luôn sát cánh, động viên và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học
tập, nghiên cứu cũng như trong công tác và cuộc sống.

Thái Nguyên, tháng 6 năm 2020
Tác giả

Lê Na

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BMI
: Body Mass Index (Chỉ số khối cơ thể)
CN
: Cân nặng
CC
: Chiều cao
LTTP
: Lương thực thực phẩm.
NCHS
: National Central Health Statistic

(Trung tâm thống kê sức khỏe Hoa Kỳ).
PTDTNT : Phổ thông dân tộc nội trú
SD
: Standard Deviation (Độ lệch chuẩn).
SDD
: Suy dinh dưỡng.
TNLTD
: Thiếu năng lượng trường diễn
THCS
: Trung học cơ sở.
TC, BP
: Thừa cân, béo phì
WHO
: World Health Oganization (Tổ chức Y tế Thế giới).

MỤC LỤC

ĐẶT VẤN ĐỀ
……………………………………………………………………………………………………………..
1
Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
…………………………………………………………………………..
3
1.1. Tình trạng dinh dưỡng và phương pháp đánh giá tình trạng dinh dưỡng ………….
3
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản
……………………………………………………………………………………..
3
1.1.2. Phương pháp đánh giá tình trạng dinh dưỡng
………………………………………………………
4
1.1.3. Tình trạng dinh dưỡng ở lứa tuổi vị thành niên ……………………………………………………
5
1.2. Một số nghiên cứu về tình trạng dinh dưỡng của học sinh trung học cơ sở trên thế
giới và Việt Nam
…………………………………………………………………………………………………………..
8
1.2.1. Tình trạng dinh dưỡng của học sinh trung học cơ sở trên thế giới ………………………..
8
1.2.2. Một số nghiên cứu tình trạng dinh dưỡng của học sinh trung học cơ sở tại Việt
Nam ……………………………………………………………………………………………………………………………
12
1.3. Một số nghiên cứu về khẩu phần ăn của học sinh trung học cơ sở trên thế giới và
Việt Nam
…………………………………………………………………………………………………………………….
15
1.3.1. Một số nghiên cứu về khẩu phần ăn của học sinh trung học cơ sở trên thế giới ….
15
1.3.2. Một số nghiên cứu về khẩu phần ăn của học sinh trung học cơ sở tại Việt Nam ..
17
1.4. Một vài nét về địa điểm nghiên cứu ……………………………………………………………………..
19
Chương 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ……………………………..
21
2.1. Đối tượng nghiên cứu
…………………………………………………………………………………………..
21
2.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
…………………………………………………………………………
21
2.3. Phương pháp và thiết kế nghiên cứu …………………………………………………………………….
21
2.4. Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu
………………………………………………………………….
21
2.5. Biến số và chỉ số nghiên cứu ………………………………………………………………………………..
22
2.5.1. Thông tin chung của đối tượng nghiên cứu
………………………………………………………..
22
2.5.2. Tình trạng dinh dưỡng của đối tượng nghiên cứu ………………………………………………
22
2.5.3. Đánh giá khẩu phần ăn của học sinh dân tộc thiểu số trường trung học cơ
sở nội trú tại 3 huyện của tỉnh Cao Bằng
………………………………………………………………….
22

2.6. Phương pháp thu thập số liệu………………………………………………………………………………..
23
2.6.1. Thu thập số liệu về tình trạng dinh dưỡng của học sinh dân tộc thiểu số tại 3
trường PTDTNT tỉnh Cao Bằng …………………………………………………………………………………
23
2.6.2. Phương pháp đánh giá khẩu phần ăn của học sinh dân tộc thiểu số
……………..
24
2.7. Sai số và các biện pháp khống chế sai số
…………………………………………… 26
2.7.1. Sai số ……………………………………………………………………………………… 26
2.7.2. Các biện pháp khống chế sai số ………………………………………………….. 26
2.8. Phương pháp xử lý số liệu
…………………………………………………………………………………….
26
2.9. Vấn đề đạo đức trong nghiên cứu …………………………………………………………………………
26
Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU …………………………………………………………………..
28
3.1. Thông tin chung của đối tượng nghiên cứu
…………………………………………………………..
28
3.2. Tình trạng dinh dưỡng của học sinh dân tộc thiểu số tại 3 trường phổ thông dân tộc
nội trú tỉnh Cao Bằng ………………………………………………………………………………………………….
31
Chương 4: BÀN LUẬN …………………………………………………………………………………………..
52
4.1. Tình trạng dinh dưỡng của học sinh dân tộc thiểu số tại 3 trường phổ thông dân tộc
nội trú tỉnh Cao Bằng ………………………………………………………………………………………………….
52
4.2. Khẩu phần ăn của học sinh dân tộc thiểu số tại 3 trường phổ thông dân tộc nội trú
tỉnh Cao Bằng
……………………………………………………………………………………………………………..
58
KẾT LUẬN ………………………………………………………………………………………………………………
65
KHUYẾN NGHỊ
………………………………………………………………………………………………………
67
TÀI LIỆU THAM KHẢO

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1. Nhu cầu dinh dưỡng khuyến nghị cho trẻ từ 11 đến 14 tuổi………..25
Bảng 3.1. Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu theo giới và độ tuổi ………………….
28
Bảng 3.2. Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu theo dân tộc …………………………….
29
Bảng 3.3. Cân nặng trung bình của học sinh dân tộc thiểu số theo giới và độ
tuổi ở mỗi trường phổ thông dân tộc nội trú tỉnh Cao Bằng
…………….
31
Bảng 3.4. Cân nặng trung bình của học sinh dân tộc thiểu số tại 3 trường phổ
thông dân tộc nội trú tỉnh Cao Bằng ……………………………………………..
32
Bảng 3.5. Chiều cao trung bình của học sinh dân tộc thiểu số theo giới và độ
tuổi ở mỗi trường phổ thông dân tộc nội trú tỉnh Cao Bằng ……………
33
Bảng 3.6. Chiều cao trung bình của học sinh dân tộc thiểu số tại 3 trường phổ
thông dân tộc nội trú tỉnh Cao Bằng ……………………………………………..
34
Bảng 3.7. Chỉ số BMI trung bình của học sinh dân tộc thiểu số theo giới và độ
tuổi ở mỗi trường phổ thông dân tộc nội trú tỉnh Cao Bằng …………..
35
Bảng 3.8. Chỉ số BMI trung bình của học sinh dân tộc thiểu số tại 3 trường
phổ thông dân tộc nội trú tỉnh Cao Bằng ……………………………………….
36
Bảng 3.9. Tình trạng suy dinh dưỡng thể thấp còi (chiều cao theo tuổi) của
học sinh dân tộc thiểu số trường phổ thông dân tộc nội trú tại 3
huyện của tỉnh Cao Bằng
……………………………………………………………..
37
Bảng 3.10. Tình trạng dinh dưỡng theo BMI của học sinh dân tộc thiểu số
trường phổ thông dân tộc nội trú huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng …….
39
Bảng 3.11. Tình trạng dinh dưỡng theo BMI của học sinh dân tộc thiểu số
trường phổ thông dân tộc nội trú huyện Thông Nông, tỉnh Cao
Bằng …………………………………………………………………………………………..
40
Bảng 3.12. Tình trạng dinh dưỡng theo BMI của học sinh dân tộc thiểu số trường
phổ thông dân tộc nội trú huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng ……….41

Bảng 3.13. Thói quen ăn uống của học sinh dân tộc thiểu số tại 3 trường phổ
thông dân tộc nội trú tỉnh Cao Bằng ……………………………………………..
43
Bảng 3.14. Tần suất tiêu thụ thực phẩm trong tháng của học sinh dân tộc thiểu số
trường phổ thông dân tộc nội trú huyện Hoà An, tỉnh Cao Bằng ……….
44
Bảng 3.15. Tần suất tiêu thụ thực phẩm trong tháng của học sinh dân tộc thiểu số
trường phổ thông dân tộc nội trú huyện Thông Nông, tỉnh Cao Bằng
..
. 46
Bảng 3.16. Tần suất tiêu thụ thực phẩm trong tháng của học sinh dân tộc thiểu số
trường phổ thông dân tộc nội trú huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng …….
47
Bảng 3.17. Tần suất tiêu thụ thực phẩm trong tháng của học sinh dân tộc thiểu
số tại 3 trường phổ thông dân tộc nội trú tỉnh Cao Bằng
…………………
48
Bảng 3.18. Việc sử dụng đủ 4 nhóm thực phẩm trong khẩu phần của học sinh
dân tộc thiểu số tại 3 trường phổ thông dân tộc nội trú tỉnh Cao Bằng ..
49
Bảng 3.19. Đánh giá tính cân đối giữa các chất dinh dưỡng sinh năng lượng
và không sinh năng lượng trong khẩu phần ăn của học sinh dân
tộc thiểu số trường phổ thông dân tộc nội trú tại 3 huyện của tỉnh
Cao Bằng…………………………………………………………………………………….
49
Bảng 3.20. Thành phần dinh dưỡng và mức đáp ứng nhu cầu đề nghị về chất
sinh năng lượng dinh và một số chất không sinh năng lượng trong
khẩu phần ăn của học sinh dân tộc thiểu số tại 3 trường phổ thông
dân tộc nội tỉnh Cao Bằng ……………………………………………………………
50

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 1.1. Xu hướng thừa cân, béo phì của trẻ em lứa tuổi học đường trên thế
giới ………………………………………………………………………………………. 10
Biểu đồ 1.2. Bản đồ hành chính tỉnh Cao Bằng
……………………………………………. 20
Biểu đồ 3.1. Tình trạng suy dinh dưỡng thể thấp còi theo giới của học sinh dân tộc
thiểu số tại 3 trường phổ thông dân tộc nội trú tỉnh Cao Bằng …………. 38
Biểu đồ 3.2. Tình trạng dinh dưỡng theo BMI của học sinh dân tộc thiểu số tại 3
trường phổ thông dân tộc nội trú tỉnh Cao Bằng
……………………………… 42

1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Tình trạng dinh dưỡng của trẻ luôn là mối quan tâm đặc biệt, không chỉ
đối với các bậc phụ huynh mà còn với cả các cấp ngành, của toàn xã hội. Cùng
với sự thay đổi trong các hoạt động từ gia đình (ăn uống, vui chơi, giải trí…)
đến cộng đồng. Tình trạng dinh dưỡng của học sinh, trong đó có lứa tuổi trung
học cơ sở cũng trở thành vấn đề nổi cộm về sức khỏe cộng đồng cần giải quyết
trong giai đoạn hiện nay.
Hiện nay, Việt Nam đang đối mặt với gánh nặng kép về dinh dưỡng,
bên cạnh tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em và thiếu năng lượng trường diễn ở
người trưởng thành còn cao thì tỷ lệ thừa cân, béo phì đang gia tăng dẫn đến
thay đổi mô hình bệnh tật, tử vong. Tuy nhiên tùy từng địa phương khác nhau
mà cơ cấu bệnh tật cũng khác nhau.
Nhiều nghiên cứu cho thấy thừa cân, béo phì trẻ em là mối đe dọa lâu
dài đến sức khỏe, gia tăng nguy cơ đối với các bệnh mạn tính như tăng huyết
áp, bệnh mạch vành, đái tháo đường, viêm xương khớp, sỏi mật, gan nhiễm
mỡ và một số bệnh ung thư [27], [50]. Ngoài ra xơ vữa động mạch bắt đầu từ
khi còn nhỏ và có liên quan mật thiết đến béo phì [51].
Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Lân và Trịnh Bảo Ngọc ( 2013) tại Hà
Nội cho thấy: tỷ lệ suy dinh dưỡng thể thấp còi ở tất cả các độ tuổi của học sinh
quận ngoại thành đều cao hơn so với học sinh quận trung tâm từ 2,8 đến 8,5%
đối với nam và 2,9 đến 4,8% đối với nữ. Tỷ lệ thừa cân, béo phì ở học sinh
nam quận trung tâm cao hơn hẳn so với học sinh nam quận ngoại thành, tuy
nhiên tỷ lệ này lại thấp ở học sinh nữ của cả 2 quận trung tâm và ngoại thành
[11]. Kết quả nghiên cứu gần đây của Nguyễn Song Tú và Nguyễn Hồng
Trường (2018) ở trẻ độ tuổi 11-14 tuổi tại 5 trường phổ thông dân tộc bán trú
huyện Văn Chấn, Yên Bái cho thấy: Suy dinh dưỡng thể thấp còi ở trẻ chiếm
tới 43,6% trong đó mức độ nặng là 13,8% và mức độ vừa là 29,8% [20].
Như vậy, học sinh trung học cơ sở là đối tượng cần quan tâm vì đây là
lực lượng lao động chính sau này, lứa tuổi này là lứa tuổi tiếp tục hoàn thiện
về thể chất. Chế độ dinh dưỡng tác động trực tiếp đến sự phát triển tầm vóc
của mỗi con người, đặc biệt là tuổi tiền dậy thì và dậy thì, vì lứa tuổi này có
sự phát triển rất nhanh cả về cân nặng và chiều cao. Do đó, cần xây dựng một
khẩu phần ăn hợp lý trong giai đoạn này [19].

2
Đánh giá khẩu phần ăn là cơ sở khoa học giúp phát hiện ra việc thiếu
hoặc thừa năng lượng cũng như các thành phần dinh dưỡng, từ đó xây dựng
được một khẩu phần ăn hợp lý để có thể cải thiện tình trạng dinh dưỡng và
góp phần thúc đẩy sự phát triển toàn diện của học sinh trung học cơ sở. Kết
quả nghiên cứu của Đào Thị Ngọc Trâm, Đỗ Thị Thương Hoài và CS (2018),
cho thấy: năng lượng, lượng glucid và lượng lipid tiêu thụ trong ngày của học
sinh thấp hơn so với nhu cầu khuyến nghị (NCKN). Lượng protein tiêu thụ
của nhóm 11 tuổi và nhóm nam 12-14 tuổi vượt quá NCKN. Lượng canxi tiêu
thụ của các học sinh rất thấp, hầu hết là dưới 50,0% so với NCKN. Tỉ lệ
G:L:P lần lượt là 66,8 : 19,2 : 14 [21]. Kết quả nghiên cứu của Đinh Quỳnh
Ngọc (2019) ở học sinh trường THCS tại thành phố Hồ Chí Minh cho thấy:
Tần suất tiêu thụ sữa và các chế phẩm từ sữa của học sinh chiếm 52%. Tuy
nhiên, tỉ lệ học sinh sử dụng các chế phẩm từ sữa theo khuyến cáo của Viện
dinh dưỡng chỉ chiếm 0,3% [12].

Hiện nay đã có một số đề tài nghiên cứu tình trạng dinh dưỡng ở đối
tượng trẻ nhỏ, học sinh phổ thông trung học, sinh viên tuy nhiên chưa có
nhiều nghiên cứu tình trạng dinh dưỡng và khẩu phần ở đối tượng học sinh
trung học cơ sở đặc biệt là học sinh dân tộc thiểu số.
Cao Bằng là một tỉnh miền núi phía Bắc trong đó tập trung chủ yếu là
các dân tộc: Tày, Nùng, Mông, Dao… Các nghiên cứu về tình trạng dinh
dưỡng của học sinh trung học cơ sở tại nơi đây còn chưa được nhiều. Vậy
thực trạng dinh dưỡng và khẩu phần ăn của học sinh dân tộc thiểu số trường
trung học cơ sở nội trú của một số huyện của tỉnh Cao Bằng ra sao? Chúng tôi
tiến hành nghiên cứu đề tài: Tình trạng dinh dưỡng và khẩu phần ăn của học
sinh dân tộc thiếu số tại ba trường phổ thông dân tộc nội trú tỉnh Cao Bằng
với mục tiêu:
MỤC TIÊU
1. Mô tả tình trạng dinh dưỡng và một số thói quen ăn uống của học
sinh dân tộc thiểu số tại 3 trường phổ thông dân tộc nội trú tỉnh Cao Bằng
năm 2019.
2. Đánh giá khẩu phần ăn của học sinh dân tộc thiểu số tại 3 trường phổ
thông dân tộc nội trú tỉnh Cao Bằng.

3
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Tình trạng dinh dưỡng và phương pháp đánh giá tình trạng dinh dưỡng
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản
* Tình trạng dinh dưỡng
Tình trạng dinh dưỡng (TTDD) có thể được định nghĩa là tập hợp các
đặc điểm cấu trúc, các chỉ tiêu hoá sinh và đặc điểm các chức phận của cơ thể
phản ánh mức đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng [55].
Tình trạng dinh dưỡng của các cá thể là kết quả của ăn uống và sử dụng
các chất dinh dưỡng của cơ thể. Tình trạng dinh dưỡng tốt phản ảnh sự cân
bằng giữa thức ăn ăn vào và tình trạng sức khoẻ, khi cơ thể thiếu hoặc thừa
dinh dưỡng là thể hiện có vấn đề về sức khoẻ hoặc vấn đề về dinh dưỡng.
TTDD là kết quả tác động của một hay nhiều yếu tố như: tình trạng an ninh
thực phẩm hộ gia đình, thu nhập thấp, điều kiện vệ sinh môi trường, công tác
chăm sóc trẻ em, gánh nặng công việc lao động của bà mẹ…[55], [56].
TTDD tốt phản ảnh sự cân bằng giữa thức ăn vào và tình trạng sức
khoẻ, khi mất sự cân bằng này thì có thể dẫn đến tình trạng thiếu hoặc thừa
dinh dưỡng [55], [56].
* Suy dinh dưỡng
Suy dinh dưỡng trẻ em là sự mất cân bằng giữa nhu cầu dinh dưỡng và
lượng nhập vào ở trẻ, dẫn đến việc thâm hụt tích lũy năng lượng, protein hoặc
vi chất dinh dưỡng, có thể gây ảnh hưởng tiêu cực đến sự tăng trưởng, phát
triển và những vấn đề có liên quan khác ở trẻ [55], [56].
* Thừa cân, béo phì
Thừa cân là tình trạng cân nặng vượt quá cân nặng “nên có” so với chiều
cao. Còn béo phì là tình trạng tích lũy mỡ thái quá và không bình thường một
cách cục bộ hay toàn thể tới mức ảnh hưởng xấu tới sức khoẻ [55], [56].

4
1.1.2. Phương pháp đánh giá tình trạng dinh dưỡng
Một số phương pháp định lượng chính thường được sử dụng trong đánh
giá tình trạng dinh dưỡng như: Nhân trắc học, điều tra khẩu phần và tập quán
ăn uống, các thăm khám thực thể/dấu hiệu lâm sàng, các xét nghiệm cận lâm
sàng, các kiểm nghiệm chức phận, điều tra tỷ lệ bệnh tật và tử vong…trong đó
phương pháp nhân trắc và điều tra khẩu phần ăn được sử dụng nhiều nhất, số
đo nhân trắc là các chỉ số đánh giá trực tiếp tình trạng dinh dưỡng [55], [56].
Nhân trắc học dinh dưỡng với mục đích đo các biến đổi về kích thước
và cấu trúc cơ thể theo tuổi và tình trạng dinh dưỡng. Phương pháp nhân trắc
học có những ưu điểm là đơn giản, an toàn và có thể điều tra trên một mẫu
lớn. Trang thiết bị không đắt, dễ vận chuyển. Có thể khai thác đánh giá được
các dấu hiệu về tình trạng dinh dưỡng trong quá khứ và xác định được mức độ
suy dinh dưỡng. Tuy nhiên phương pháp nhân trắc học cũng có một vài
nhược điểm như: không đánh giá được sự thay đổi về tình trạng dinh dưỡng
trong giai đoạn ngắn hoặc không nhạy để xác định các thiếu hụt dinh dưỡng
đặc hiệu [55], [56].
WHO đã khuyến cáo có 3 chỉ tiêu nhân trắc nên dùng là cân nặng theo
tuổi, cân nặng theo chiều cao và chiều cao theo tuổi và đề nghị lấy điểm
ngưỡng ở dưới 2 độ lệch chuẩn (-2SD) [67]:
* Cân nặng theo tuổi:
Là chỉ số được dùng sớm nhất và phổ biến nhất. Chỉ số này được dùng
để đánh giá tình trạng dinh dưỡng của cá thể hay cộng đồng. Cân nặng theo
tuổi thấp là hậu quả của thiếu dinh dưỡng hiện tại. Chỉ số cân nặng theo tuổi
nhạy có thể quan sát trong 1 thời gian ngắn.
* Chiều cao theo tuổi:
Phản ánh tiền sử dinh dưỡng. Chiều cao theo tuổi thấp phản ánh tình
trạng thiếu dinh dưỡng kéo dài hoặc thuộc về quá khứ làm cho đứa trẻ bị còi.

5
* Cân nặng theo chiều cao:
Là chỉ số đánh giá tình trạng dinh dưỡng hiện tại. Chỉ số này phản ánh
tình trạng SDD cấp hay còn gọi “Wasting”. Cân nặng theo chiều cao thấp
phản ánh sự không tăng cân hay giảm cân nếu so sánh với trẻ có cùng chiều
cao, chính là phản ánh mức độ thiếu ăn và nhiễm khuẩn là hai nguyên nhân
chính dẫn đến tình trạng này.
Trên thực tế tiêu chuẩn tăng trưởng trẻ em của WHO dựa trên chiều dài
nằm/chiều cao đứng, cân nặng và tuổi [67].
* Theo Tổ chức Y tế Thế giới đánh giá thừa cân, béo phì và suy dinh
dưỡng: theo bảng phân loại Z-score của WHO 2007 cho trẻ từ 10 đến 19
tuổi [70]:
– Đánh giá chỉ số Z-score chiều cao theo tuổi:
+ SDD thể thấp còi mức độ vừa: Z-score < - 2 SD đến - 3SD. + SDD thể thấp còi mức độ nặng: Z-score < - 3SD. + Tình trạng dinh dưỡng bình thường: - 2 SD ≤ Z- score ≤ + 2 SD. - Đánh giá chỉ số Z-score BMI theo tuổi: + SDD thể gày còm mức độ vừa: Z-score < - 2SD đến - 3SD. + SDD thể gày còm mức độ nặng: Z-score < - 3 SD. + Tình trạng dinh dưỡng bình thường: - 2 SD ≤ Z-score ≤ + 1 SD. + Thừa cân: + 1SD < Z-score < + 2 SD + Béo phì: Z-score ≥ + 2 SD. 1.1.3. Tình trạng dinh dưỡng ở lứa tuổi vị thành niên Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) lứa tuổi 10 -19 tuổi là độ tuổi vị thành niên: là một giai đoạn chuyển tiếp của sự phát triển từ tuổi thơ sang người lớn: “tuổi không còn là trẻ con nữa, nhưng cũng chưa phải là người lớn”. Đây là giai đoạn đặc biệt duy nhất của con người, nó được đánh dấu bằng những thay đổi đồng loạt và xen lẫn nhau từ giản đơn sang phức tạp bao 6 gồm: sự chín muồi về thể chất, sự biến đổi điều chỉnh tâm lý và các quan hệ xã hội nhằm đáp ứng nhiệm vụ phát triển [42]. Tuổi vị thành niên là giai đoạn phát triển bắt đầu ở tuổi dậy thì và kết thúc ở tuổi trưởng thành sớm. Thông thường nhất, tuổi thiếu niên được chia thành ba giai đoạn phát triển: tuổi vị thành niên sớm (10-14 tuổi), tuổi vị thành niên muộn (15-19 tuổi) và tuổi trưởng thành trẻ (20-24 tuổi) [34]. Thanh thiếu niên chiếm khoảng 20% dân số toàn cầu và khoảng 84% trong số này sống ở các nước đang phát triển [35]. Ở Việt Nam, theo số liệu điều tra dân số năm có khoảng gần 15% dân số nước ta ở độ tuổi vị thành niên (10-19 tuổi) [10]. Do sự tăng trưởng nhanh chóng, trong giai đoạn này, nhu cầu ăn uống của thanh thiếu niên cao hơn đối với hầu hết các chất dinh dưỡng so với bất kỳ giai đoạn nào khác của cuộc sống [37]. Giải quyết nhu cầu dinh dưỡng của thanh thiếu niên có thể là một bước quan trọng để phá vỡ vòng luẩn quẩn của suy dinh dưỡng giữa các thế hệ, các bệnh mạn tính và nghèo đói [47]. Hậu quả của việc suy dinh dưỡng và béo phì đồng thời ở thanh thiếu niên có khả năng gây ra các vấn đề sức khỏe phức tạp ở tuổi thiếu niên và sau này ở tuổi trưởng thành, đặc biệt đối với phụ nữ vì nguy cơ sản khoa tăng cao có thể dẫn đến sự phát triển kém của thai kỳ [65]. Nhẹ cân ở tuổi thiếu niên có liên quan đến sự trưởng thành chậm trễ, sức mạnh cơ bắp kém dẫn đến hạn chế về năng lực làm việc thể chất và giảm mật độ xương sau này. Béo phì ở tuổi thiếu niên có liên quan đến việc tăng nguy cơ mắc các bệnh mạn tính sớm khi trưởng thành (đái tháo đường tuýp 2, tăng huyết áp) và tử vong. Lứa tuổi vị thành niên có giai đoạn dậy thì - giai đoạn có thể phát triển nhanh cả về chiều cao, trọng lượng, cơ bắp và có những biến đổi về tâm sinh lý nên đã có những vấn đề phát sinh như hành vi tình dục và những ảnh hưởng khi không có đủ kiến thức: mang thai ngoài ý muốn, sinh con sớm, các bệnh lây nhiễm nhiễm qua đường tình dục đặc biệt là HIV/AIDS có ảnh 7 hưởng rất lớn đến tương lai sau này của các em [64]. Do đó, nhu cầu năng lượng và các chất dinh dưỡng cao, đặc biệt là vitamin và chất khoáng (A, D, C, sắt, calci...) giúp cho các em phát triển bình thường. Việc bổ sung chất đạm đóng góp đáng kể vào tổng lượng dinh dưỡng ở trẻ em và thanh thiếu niên [62]. Chất đạm là nền tảng xây dựng cơ thể và đặc biệt quan trọng với lứa tuổi này. Chất béo cần thiết với số lượng vừa phải, tránh ăn quá nhiều chất béo. Tinh bột cũng là phần quan trọng trong quá trình ăn uống của trẻ vị thành niên vì nó là chất cung cấp nhiều năng lượng và có trong những thực phẩm giá rẻ. Cần quan tâm đặc biệt đến nhu cầu dinh dưỡng của lứa tuổi này nhất là đối với nữ giới vị thành niên [60]. Tình trạng dinh dưỡng trong thời thơ ấu có ảnh hưởng đáng kể đến sự phát triển của tuổi dậy thì và có thể giải thích tới 25% sự thay đổi trong thời gian dậy thì [63]. Tình trạng dinh dưỡng của các em là yếu tố quan trọng góp phần làm xuất hiện sớm hay muộn một trong các dấu hiệu phát triển sinh lý của trẻ. Trẻ em gái cần được nuôi dưỡng tốt trong hiện tại cũng như để chuẩn bị làm mẹ trong tương lai. Tầm vóc của người mẹ là yếu tố dự đoán quan trọng về chiều cao của trẻ. Nhiều nghiên cứu trên thế giới cho thấy các thiếu nữ có tình trạng dinh dưỡng tốt thường có hành kinh sớm so với các thiếu nữ có tình trạng dinh dưỡng kém. Tốc độ tăng trưởng nói chung ở thiếu nữ có hành kinh sớm cao hơn so với thiếu nữ có hành kinh muộn [29]. Theo một số nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước cho thấy tỉ lệ bất thường kinh nguyệt ở các bé gái lứa tuổi dậy thì dao động từ 50-80%, tỉ lệ này có thể tăng lên ở lứa tuổi 12-16. Theo kết quả khảo sát trên 1.217 nữ sinh trường THCS tỷ lệ có kinh là 65,2%, có kinh lần đầu ở độ tuổi trung bình là 11,9, trung vị là 12 [23].Trong đó thống kinh là một bất thường kinh nguyệt thường gặp nhất ở lứa tuổi này, chiếm 50-90% trường hợp. Tại Việt Nam năm 2003 và 2004 có hai nghiên cứu cho thấy tỉ lệ thống kinh lần lượt là 66,2% và 67,25%. Hơn nữa dậy thì sớm còn làm tăng tỉ lệ thống kinh [24]. 8 Như vậy, sức khỏe và sự phát triển của lứa tuổi vị thành niên là một vấn đề cần được chú trọng. 1.2. Một số nghiên cứu về tình trạng dinh dưỡng của học sinh trung học cơ sở trên thế giới và Việt Nam 1.2.1. Tình trạng dinh dưỡng của học sinh trung học cơ sở trên thế giới Ở các nước chậm phát triển và đang phát triển tỷ lệ thiếu dinh dưỡng trẻ em học đường còn khá cao, đặc biệt là trẻ em ở các vùng nông thôn nghèo. Các nghiên cứu về học sinh Ghana và Tanzania 7-18 tuổi báo cáo 40-60% các bé gái bị thấp còi và 30% 40% bị thiếu cân [48]. Tại Indonesia khoảng 25% bé gái và 21% bé trai bị còi cọc [49]. Lứa tuổi học đường ít gặp tình trạng suy dinh dưỡng nặng trừ khi có nạn đói vì ở lứa tuổi này trẻ phát triển chậm hơn so với thời kì trẻ <5 tuổi, và chúng có thể đòi ăn khi chúng đói. Các nguyên nhân gây thiếu dinh dưỡng ở trẻ em học đường có thể do: - Trẻ đã bị suy dinh dưỡng từ giai đoạn thai nhi và khi còn nhỏ. - Chế độ ăn hiện tại của trẻ thiếu kém. - Trẻ bị đói: do không ăn sáng hoặc ăn ít và trẻ bị đói vào giữa buổi mà thường gọi là đói ngắn kỳ. - Trẻ hay mắc một số bệnh nhiễm trùng hoặc chuyển hóa. - Có bố hoặc mẹ bị chết hoặc bị bệnh. - Gia đình nghèo: bố, mẹ thất nghiệp - Trẻ phải đi bộ quá xa để đến lớp hoặc chở về nhà quá muộn vì phải đi đường dài làm cho trẻ mệt không muốn ăn. - Trẻ ăn nhiều quà vặt như kẹo hoặc nước ngọt, thường là những trẻ ở thành thị mà bố mẹ thường xuyên đi làm xa hoặc vắng nhà. - Trẻ thiếu sự chăm lo của bố mẹ, gia đình [54]. 9 Tình trạng thiếu dinh dưỡng gây nên mệt mỏi và giảm khả năng học tập, lao động và một số bệnh lý đặc trưng.Ví dụ: thiếu máu, thiếu sắt, bướu cổ, thiếu iod, quáng gà do thiếu Vitamin A. * Thừa cân, béo phì được đặc trưng bởi sự dư thừa mỡ trong cơ thể hoặc mỡ. Béo phì thường được xác định bởi chỉ số khối cơ thể (BMI), một công thức toán học của chỉ số cân nặng theo chiều cao. BMI được đo bằng cách chia trọng lượng cơ thể tính bằng kilogam cho chiều cao tính bằng mét bình phương (kg/m2). BMI có mối tương quan cao với thừa cân và béo phì, điều quan trọng cần lưu ý là con số BMI được tính toán đôi khi có thể không chính xác bởi vì nó không định lượng được tổng lượng mỡ cơ thể, không phân biệt giữa chất béo và cơ bắp, cũng không dự đoán phân phối mỡ trong cơ thể [38]. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) phân loại người trưởng thành có BMI từ 25 đến 30 là thừa cân, trong khi béo phì được phân loại theo giai đoạn hoặc cấp độ - cấp độ 1: BMI 30,0-34,9, cấp độ 2: BMI 35,0-39,9 và cấp độ 3: BMI 40. Béo phì độ 3 trước đây được gọi là béo phì, nhưng thuật ngữ này đã được thay đổi một cách thích hợp vì nhiều lý do: tỷ lệ mắc bệnh có thể không xảy ra ở mức BMI cao hơn 40 nhưng chắc chắn có thể được tìm thấy ở mức BMI thấp hơn 40. Trung tâm nghiên cứu về béo phì quốc tế đã phát triển một biểu đồ tăng trưởng tiêu chuẩn quốc tế cho phép so sánh tỷ lệ lưu hành trên toàn cầu [31]. Tuy nhiên, nhiều quốc gia đã tiếp tục sử dụng biểu đồ tăng trưởng cụ thể theo quốc gia. Tại Việt nam cũng chỉ ra rằng việc sử dụng điểm cắt BMI theo IOTF có thể ước lượng thấp mức độ thừa cân và béo phì ở trẻ em Châu Á [9], [15]. Thừa cân và béo phì đang tăng lên mức báo động trên khắp thế giới ở người lớn và cả trẻ em. Đó thực là một mối đe dọa tiềm ẩn trong tương lai. Tỷ lệ béo phì ở trẻ em trên toàn thế giới đã tăng lên rất nhiều trong 3 thập kỷ qua [39]. 10 Điều đáng lo ngại là sự gia tăng TC, BP ở lứa tuổi trẻ em trên phạm vi toàn cầu với tỷ lệ trung bình hàng năm là 10,0 %. Năm 2010, kết quả phân tích trên 450 cuộc điều tra cắt ngang về TC, BP của trẻ em ở 144 nước trên thế giới cho thấy có khoảng 43 triệu trẻ em dưới 5 tuổi bị TC, BP (35 triệu trẻ em từ các nước đang phát triển, 8 triệu từ các nước đã phát triển), 92 triệu trẻ em có nguy cơ bị thừa cân. Tỷ lệ TC, BP của trẻ em trên thế giới đã tăng từ 4,2% (CI 95%: 3,2% - 5,2%) năm 1990 lên 6,7% (CI 95%: 5,6% - 7,7%) vào năm 2010. Với xu hướng này thì dự kiến đến năm 2020 sẽ có 9,1% (CI 95%: 7,3% - 10,9%), tương đương với khoảng 60 triệu trẻ em bị TC, BP. Tỷ lệ TC, BP của trẻ em Châu Phi là 8,5% năm 2010, ước tính năm 2020 sẽ là 12,7%. Tỷ lệ béo phì ở các nước phát triển cao gấp 2 lần các nước đang phát triển [36]. Biểu đồ 1.1. Xu hướng thừa cân, béo phì của trẻ em lứa tuổi học đường trên thế giới Tỷ lệ béo phì đã đạt đến mức báo động, ảnh hưởng đến hầu như cả các nước phát triển và đang phát triển thuộc mọi nhóm kinh tế xã hội, không phân biệt tuổi tác, giới tính hay sắc tộc. Liên quan đến béo phì ở trẻ em, người ta ước tính rằng trên 22 triệu trẻ em dưới 5 tuổi trên toàn thế giới bị thừa cân nghiêm trọng, và cứ 10 trẻ em thì có một trẻ bị thừa cân. Mức trung bình toàn cầu này phản ánh một loạt các mức độ phổ biến, với tỷ lệ thừa cân ở Châu Phi 11 và Châu Á trung bình dưới 10,0% và ở Châu Mỹ và Châu Âu trên 20,0% [45]. Nghiên cứu cắt ngang tại Bucharest Romania (2015) được tiến hành về “Béo phì và hành vi ăn uống ở trẻ em và thanh thiếu niên ở trường”. Cho kết quả: tỷ lệ thừa cân (bao gồm béo phì) và béo phì đơn thuần dựa trên các tiêu chuẩn khác nhau, lần lượt là 31,6% và 11,4% (WHO), 24,6% và 6,2% (IOTF), 25,2% và 10,0% (USA-CDC), 22,3% và 12,5% (tiêu chuẩn địa phương). Tỷ lệ thừa cân (bao gồm béo phì) cao hơn đáng kể ở trẻ em trai so với trẻ gái: 36,2% so với 27,6% và tỷ lệ thừa cân ở nhóm tuổi 6-10,9 cao hơn so với nhóm tuổi 11-17,9 (40,7% so với 26,6%) [69]. Các quốc gia thu nhập thấp và trung bình trước đây phải đối mặt với tỷ lệ thiếu dinh dưỡng cao giờ phải đối mặt với tình trạng thừa cân hoặc béo phì như một gánh nặng thêm. Nhiều quốc gia thu nhập thấp và trung bình (LMIC) hiện chịu gánh nặng gấp đôi về rối loạn dinh dưỡng do vấn đề thừa cân và béo phì cùng với tỷ lệ thấp còi hiện tại và thiếu hụt vi chất dinh dưỡng khác [59]. Suy dinh dưỡng bà mẹ và trẻ em ở các nước thu nhập thấp và thu nhập trung bình bao gồm cả suy dinh dưỡng và vấn đề ngày càng tăng đối với thừa cân và béo phì. Tỷ lệ thừa cân của mẹ đã tăng đều đặn kể từ năm 1980 và cao hơn tỷ lệ thiếu cân ở tất cả các vùng. Tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi trong tăng trưởng tuyến tính của trẻ em dưới 5 tuổi đã giảm trong hai thập kỷ qua, nhưng ở Nam Á và châu Phi cận Sahara cao hơn các nơi khác và ảnh hưởng trên toàn cầu ít nhất 165 triệu trẻ em trong năm 2011; lãng phí ảnh hưởng đến ít nhất 52 triệu trẻ em [28]. Điều này được gọi là gánh nặng dinh dưỡng kép. Tuổi vị thành niên là thời kỳ tăng trưởng nhanh chóng, với nhu cầu dinh dưỡng cao hơn khiến thanh thiếu niên có nguy cơ suy dinh dưỡng cao hơn [30]. Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), 21 triệu bé gái trong độ tuổi từ 15 đến 19 tuổi và 2,5 triệu dưới 16 tuổi sinh con mỗi năm trên toàn cầu. Đối với thanh thiếu niên, mang thai là liên quan đến nguy cơ biến chứng 12 cao hơn như viêm nội mạc tử cung và nhiễm trùng hệ thống so với phụ nữ ở độ tuổi 20-24. Những biến chứng này là nguyên nhân chính gây tử vong ở trẻ gái trong nhóm tuổi này.Thanh thiếu niên là những người trẻ từ 10-19 tuổi. Trong thời gian này, một cá nhân biến đổi từ thời thơ ấu đến tuổi trưởng thành và nó được đặc trưng bởi sự tăng trưởng về thể chất và tâm lý. Do những thay đổi về sinh lý và tâm lý diễn ra, thanh thiếu niên quan tâm đến khám phá thế giới xung quanh, trong đó một số trở nên hoạt động tình dục. Điều này khiến họ có nguy cơ nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục và mang thai, vì một số người trẻ có thể thiếu thường xuyên kiến thức về tình dục an toàn [53]. 1.2.2. Một số nghiên cứu tình trạng dinh dưỡng của học sinh trung học cơ sở tại Việt Nam Nghiên cứu của nhiều tác giả cho thấy sự tăng trưởng giữa các vùng khác nhau đỉnh tăng trưởng cũng khác nhau. Đỉnh tăng trưởng trẻ gái đến sớm hơn 11-12 tuổi, đỉnh tăng trưởng của trẻ trai đến muộn hơn 13-14 tuổi. Đỉnh tăng trưởng liên quan đến tuổi dậy thì, thường diễn ra sau khi bắt đầu có dấu hiệu dậy thì và đến trước tuổi dậy thì hoàn toàn. Không nhiều nghiên cứu ở Việt Nam, về tình trạng dinh dưỡng trẻ 11-14 tuổi vùng nông thôn Việt Nam trong khoảng chục năm gần đây, ngoài kết quả Tổng điều tra Dinh dưỡng (cân nặng, chiều cao). Một số nghiên cứu cho thấy tỷ lệ SDD đều ở ngưỡng rất cao ở trẻ lớp tuổi trung học cơ sở, điều đó thấy rằng tình trạng suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ trung học cơ sở vùng nông thôn là vấn đề rất cần quan tâm của cộng đồng không chỉ ở Việt Nam mà rất nhiều nước trong khu vực [20]. Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Song Tú và Nguyễn Hồng Trường (2018) ở trẻ vị thành niên 11-14 tuổi tại 5 trường phổ thông dân tộc bán trú huyện Văn Chấn, Yên Bái cho thấy: Suy dinh dưỡng thể thấp còi chiếm tới 43,6% trong đó mức độ nặng là 13,8% và mức độ vừa là 29,8%); Tỷ lệ SDD 13 thấp còi dao động theo lứa tuổi, từ 43,6 % đến 46,4% (nam) và 39,2% - 46,6% (nữ). Tỷ lệ SDD thấp còi cao nhất là trẻ dân tộc H’mông (71,2%) và tiếp theo là Dao (40,5%) [20]. Trường phổ thông dân tộc bán trú, nơi nhận được sự hỗ trợ của Chính phủ trong chăm sóc và nuôi dưỡng trẻ, do vậy việc nâng cao chất lượng bữa ăn và dinh dưỡng hợp lý có vai trò rất quan trọng trong chăm sóc sức khỏe, cải thiện dinh dưỡng cho trẻ tiền dậy thì và dậy thì. Tầm vóc của con người được quyết định trong giai đoạn tăng trưởng, tức là trong khoảng 25 năm đầu đời trong đó tiền dậy thì là một trong giai đoạn rất quan trọng. Tốc độ tăng trưởng trong giai đoạn dậy thì có thể đóng góp 15,0 - 25,0% chiều cao lúc trưởng thành của một cá thể [27]. Hiện nay, tỉ lệ thừa cân và béo phì trong nhóm trẻ vị thành niên Việt Nam đang có xu hướng tăng nhanh, đặc biệt ở khu vực nội thành các thành phố lớn [31]. Tại thành phố Hồ Chí Minh (TP. HCM), tỉ lệ thừa cân và béo phì trên học sinh từ 11 đến 14 tuổi đã tăng gấp đôi trong vòng 5 năm từ 13,7% năm 2004 lên 27,5% năm 2009 [18], [52]. Thừa cân, béo phì - nhất là thừa cân/béo phì ở trẻ em và trẻ vị thành niên đang ngày càng là vấn đề đáng quan tâm ở các nước đang phát triển [14]. Theo nghiên cứu của Tăng Kim Hồng trong vòng 5 năm, tỷ lệ thừa cân tăng từ 12,5% trong năm 2004 lên 18,3% trong năm 2009 và tỷ lệ béo phì tăng từ và 1,7% lên 6,2% (p <0,001). Tỷ suất mới mắc tăng đều đặn từ 8,1% và 2,0% vào năm thứ 2 lên 10,0% và 3,1% vào năm cuối. Sự gia tăng tình trạng thừa cân và béo phì ở trẻ nam cao hơn nhiều so với trẻ nữ (p<0,001) [16]. Tình trạng dinh dưỡng ở lứa tuổi này ngoài tình trạng thiếu cân thì tình hình thừa cân và béo phì đang tăng lên với một tốc độ báo động không những ở các nước phát triển mà cả ở các nước đang phát triển. Đây thực sự là mối đe dọa về sức khỏe tiềm ẩn trong tương lai. Ở các nước đang phát triển béo phì tồn tại song song với thiếu dinh dưỡng gặp nhiều ở thành phố hơn ở nông thôn. Theo kết quả nghiên cứu của Trần Thị Xuân Ngọc (2012), có biểu hiện 14 gánh nặng kép về tình trạng dinh dưỡng ở học sinh từ 6 - 14 tuổi tại trường tiểu học và trung học cơ sở của 14 quận/huyện của Hà Nội: - Tỷ lệ thiếu dinh dưỡng: 9,1%; nam (10,2%), cao hơn nữ (7,4%); cao nhất ở nhóm 11 tuổi (15,4%), thấp nhất ở nhóm 7 tuổi (1,2%). - Tỷ lệ thừa cân béo phì: 10,7%, nam (16,1%) cao hơn nữ (5,7%); cao nhất ở nhóm 10 tuổi (18,2%), thấp nhất ở nhóm 14 tuổi (6,4%). - Tỷ lệ béo phì: 3,0%, nam (4,9%) cao hơn nữ (1,2%); cao nhất ở nhóm 10 tuổi (5,9%), thấp nhất ở nhóm 14 tuổi (1,4%) [13]. Một nghiên cứu cắt ngang được tiến hành vào cuối năm 2010 nhằm đánh giá tình trạng dinh dưỡng ở trẻ em 11-14 tuổi ở 6 trường tại 2 quận trung tâm và ngoại thành Hà Nội. Kết quả nghiên cứu cho thấy cân nặng và chiều cao của cả học sinh nam và nữ quận trung tâm cao hơn một cách có ý nghĩa thống kê so với học sinh quận ngoại thành từ 3,7 đến 7,6 kg đối với học sinh nam và 2,2 đến 5,4 kg đối với học sinh nữ, và chiều cao cao hơn từ 2,4 đến 3,5 cm đối với học sinh nam và 1,3 đến 2,0 cm đối với học sinh nữ. Tỷ lệ thấp còi ở tất cả các độ tuổi của học sinh quận ngoại thành đều cao hơn so với học sinh quận trung tâm từ 2,8 đến 8,5% đối với nam và 2,9 đến 4,8% đối với nữ. Tỷ lệ thừa cân - béo phì ở học sinh nam quận trung tâm cao hơn hẳn so với học sinh nam quận ngoại thành, tuy nhiên tỷ lệ này lại thấp ở học sinh nữ của cả 2 quận trung tâm và ngoại thành. Tốc độ tăng trưởng chiều cao ở nam học sinh quận trung tâm bắt đầu sớm hơn so với học sinh nam quận ngoại thành (11-12 tuổi so với 12-13 tuổi), trong khi đó học sinh nữ của cả 2 quận tăng trưởng chiều cao nhanh ở độ tuổi 11-12 [11]. Ở Việt Nam, thừa cân, béo phì đang tăng nhanh và trở thành vấn đề sức khoẻ cộng đồng của thế kỷ XXI. Tình trạng TC, BP ở trẻ em cũng ngày càng tăng, đặc biệt ở các thành phố lớn. Năm 2010, Tình trạng dinh dưỡng của học sinh trường tiểu học Kim Đồng qua khảo sát là suy dinh dưỡng chiếm 9,3%, bình thường là 56,7%, thừa cân là 20,3%, béo phì là 13,7% [1]. Kết quả 15 nghiên cứu của Đinh Quỳnh Ngọc (2019) tiến hành trên 404 học sinh trường THCS tại thành phố Hồ Chí Minh cho thấy: thừa cân và béo phì chiếm tỉ lệ 30,4%, tỉ lệ suy dinh dưỡng chiếm 3,3% [12]. Trẻ em bị thừa cân, béo phì sẽ có nguy cơ mắc các bệnh mạn tính không lây sau này ở tuổi trưởng thành như: tăng huyết áp, bệnh mạch vành, đái tháo đường, viêm xương khớp, sỏi mật, gan nhiễm mỡ và một số bệnh ung thư làm giảm chất lượng cuộc sống và giảm tuổi thọ nếu không được điều trị kịp thời [27]. 1.3. Một số nghiên cứu về khẩu phần ăn của học sinh trung học cơ sở trên thế giới và Việt Nam 1.3.1. Một số nghiên cứu về khẩu phần ăn của học sinh trung học cơ sở trên thế giới Trên thế giới có sự khác nhau về chế độ dinh dưỡng giữa các Châu lục, các vùng miền, giữa các nước và ngay cả trong cùng một quốc gia cũng có sự khác nhau về khẩu phần. Khẩu phần dinh dưỡng của mỗi quốc gia phụ thuộc vào điều kiện kinh tế-xã hội, yếu tố văn hóa, thói quen, quan niệm, đó là những thứ đã được xây dựng từ rất lâu. Ví dụ như tại Châu Âu và Châu Mỹ, người dân có thói quen sử dụng thịt là món khai vị và không thể thiếu trong bữa ăn hàng ngày, còn tại Châu Á thì lại sử dụng ngũ cốc là thành phần chính trong khẩu phần. Trong những thập kỷ gần đây, xu hướng toàn cầu hóa, mở rộng quan hệ hợp tác giữa các quốc gia đã dần xóa bỏ khoảng cách về văn hóa, chính trị, tạo điều kiện cho các nước nghèo tiếp cận với sự phát triển chung trên thế giới, điều này cũng dẫn đến sự thay đổi về chế độ dinh dưỡng tại các quốc gia này. Trên toàn cầu, từ năm 1971 đến năm 2001, mức năng lượng trong khẩu phần ăn đã tăng từ 2411 kcal lên 2789 kcal. Tuy nhiên, tại một số nước nghèo, đặc biệt ở Châu Phi thì mức năng lượng trong khẩu phần không những không được cải thiện mà còn giảm sút. Sự cân đối giữa các thực phẩm trong khẩu phần cũng thay đổi, từ năm 1963 đến năm 2003 tại các nước công

Đánh giá post

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *