Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây
dựng con người mới
I. Cơ sở hình thành:
a. Cơ sở lý luận
Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người mới chiếm 1 vị trí trung tâm, là
chiều sâu nhất trong tư duy lý luận của Người, chứa đựng những giá trị khoa
học vô cùng to lớn. Điều cốt lõi nhất trong tư tưởng, trong cuộc đời hoạt
động cách mạng của chủ tịch HCM là lòng yêu nước thương dân, yêu thương
con người sâu sắc, đấu tranh không mệt mỏi vì con người, sẵn sàng làm tất cả
những gì có thể để đảm bảo tự do, hạnh phúc của con người. Đó là nhân sinh
quan, 1 triết lý nhân văn sâu sắc.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người mới với nội dung sâu sắc
mới mẻ, có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự nghiệp cách mạng giáo dục và
đào tạo con người Việt Nam. Trên cơ sở quán triệt quan điểm giáo dục đạo lý
để làm người, coi con người là vốn quý nhất, chăm lo hạnh phúc của con
người. Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Người còn căn dặn Đảng và Nhà nước ta phải ghi nhớ điều
“đầu tiên là công việc đối với con người”. Đảng ta xác định giáo dục và đào
tạo là quốc sách hàng đầu.
b. Cơ sở thực tiễn
Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng Hồ Chí Minh đã xây dựng những thế
hệ con người mới vừa có đức vừa có tài, làm nên những chiến thắng thần kì
trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và con người, cả nước đã bước vào thời kì
quá độ lên chủ nghĩa xã hội và giành được những thắng lợi rực rỡ.
Bối cảnh quốc tế hiện nay trải qua nhiều biến đổi nhanh chóng và sâu
sắc, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, mở ra một thời đại kinh
tế tri thức và xã hội thông tin toàn cầu. Vấn đề con người và xây dựng chiến
lược con người, phát triển con người, phát triển nguồn nhân lực, phát huy
nhân tố con người trong quá trình phát triển kinh tế xã hội đã trở thành vấn đề
bức thiết đối với mỗi quốc gia, dân tộc.
Sự phát triển của con người đã trở thành tiêu chí ngày càng quan trọng
trong việc xếp hạng các nước trên thế giới.
Dưới ánh sáng tư tưởng HCM, Đảng ta đã nhấn mạnh việc chăm lo hạnh
phúc của con người là mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta, phấn đấu
làm cho nhân dân có cuộc sống no đủ, có đời sống vật chất tinh thần ngày
càng nâng cao, quan hệ xã hội lành mạnh, lối sống văn minh.
Xét đến cùng đó là tư tưởng phấn đấu cho độc lập tự do, hạnh phúc của
con người, của dân tộc, của nhân loại.
II. Nội dung quan điểm
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một bước phát triển mới của chủ nghĩa Mác
– Lênin, được vận dụng một cách sáng tạo vào thực tiễn giải phóng dân tộc
và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Điều cốt lõi của tư tưởng Hồ
Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền với giải quyết xã hội và giải phóng
con người. Trong đó, vấn đề con người là vấn đề lớn, được đặt lên hàng
đầu và là vấn đề trung tâm, xuyên suốt trong toàn bộ nội dung tư tưởng
của Người.
Tin ở dân, dựa vào dân, tổ chức và phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân,
bồi dưỡng, đào tạo và phát huy mọi năng lực của dân (ở từng cá nhân riêng lẻ
và của cả cộng đồng), đó là tư tưởng được Hồ Chí Minh vận dụng và phát
triển trong toàn bộ sự nghiệp đấu tranh cách mạng giành độc lập dân tộc cũng
như xây dựng đất nước. Tư tưởng đó cũng chính là nội dung cơ bản của toàn
bộ tư tưởng về con người của Hồ Chí Minh.
1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về con người
a. Con người được nhìn nhận như một chỉnh thể
Tư tưởng về con người của Hồ Chí Minh dựa trên thế giới quan duy vật
triệt để của chủ nghĩa Mác – Lênin. Chính vì xuất phát từ thế giới quan duy
vật triệt để ấy, nên khi nhìn nhận và đánh giá vai trò của bản thân mình (với
tư cách là lãnh tụ), Người không bao giờ cho mình là người giải phóng nhân
dân. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, người cán bộ (kể cả lãnh tụ) chỉ là
“đầy tớ trung thành” có sứ mệnh phục vụ nhân dân, lãnh tụ chỉ là người góp
phần vào sự nghiệp cách mạng của quần chúng. Tư tưởng này đã vượt xa và
khác về chất so với tư tưởng “chăn dân” của những người cầm đầu nhà nước
phong kiến có tư tưởng yêu nước xưa kia. Và đây cũng chính là điều đã làm
nên chủ nghĩa nhân văn cao cả ở Hồ Chí Minh, một chủ nghĩa nhân văn cộng
sản trong cốt cách của một nhà hiền triết phương Đông.
Con người được xem xét như chỉnh thể thống nhất về tâm lực, thể lực và
các hoạt động của nó. Con người luôn có xu hướng vươn lên cái Chân –
Thiện – Mỹ, mặc dù “có thế này, thế khác”.
Hồ Chí Minh đề cập đến con người trong tính đa dạng: đa dạng trong
quan hệ xã hội (quan hệ dân tộc, giai cấp, tầng lớp, đồng chí, đồng bào…); đa
dạng trong tính cách, khát vọng, phẩm chất, khả năng, cũng như năm ngón
tay dài ngắn khác nhau nhưng đều hợp lại nơi bàn tay; mấy mươi triệu người
Việt Nam, có người thế này, thế khác, nhưng đều cùng là nòi giống Lạc
Hồng; đa dạng trong hoàn cảnh xuất thân, điều kiện sống, làm việc…
Hồ Chí Minh xem xét con người trong sự thống nhất của hai mặt đối
lập: thiện và ác, hay và dở, tốt và xấu, hiền và dữ… Bao gồm tính người – mặt
xã hội và tính bản năng – mặt sinh học của con người. Theo Hồ Chí Minh con
người có tốt, có xấu, nhưng “dù là xấu, tốt, văn minh hay dã man đều có
tình”.
Đối với Hồ Chí Minh, con người tồn tại vừa là tư cách cá nhân, vừa là
thành viên của gia đình và của cộng đồng, có cuộc sống tập thể và cuộc sống
cá nhân hài hòa, phong phú. Người đã nêu một định nghĩa về con người:
“Chữ người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là
đồng bào cả nước. Rộng nữa là cả loài người”. Quan điểm đó thể hiện ở chỗ
Người chưa bao giờ nhìn nhận con người một cách chung chung, trừu tượng.
Khi bàn về chính sách xã hội, cũng như ở mọi nơi, mọi lúc, trong mọi hoàn
cảnh, Người luôn quan tâm đến nhu cầu, lợi ích của con người với tư cách
nhu cầu chính đáng. Đem lại lợi ích cho con người chính là tạo ra động lực
vô cùng lớn lao cho sự nghiệp chung, vì nếu như những nhu cầu, lợi ích của
mỗi cá nhân không được quan tâm thỏa đáng thì tính tích cực của họ sẽ
không thể phát huy được. Trong khi phê phán một cách nghiêm khắc chủ
nghĩa cá nhân, Người viết: “Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân không phải là
“giày xéo lên lợi ích cá nhân”. Mỗi người đều có tính cách riêng, sở trường
riêng, đời sống riêng của bản thân và của gia đình mình”. Trong quan điểm
về thực hiện một nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, theo Người, phải là một nền
dân chủ chân chính, không hình thức, không cực đoan, trong đó mỗi con
người cụ thể phải được đảm bảo những quyền lợi và nghĩa vụ của mình theo
hiến pháp và pháp luật. Con người, với tư cách là những cá nhân, không tồn
tại biệt lập mà tồn tại trong mối quan hệ biện chứng với cộng đồng dân tộc và
với các loài người trên toàn thế giới.
b. Con người cụ thể lịch sử
Con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh không tồn tại như một phạm trù
bản thể luận có tính trừu tượng hóa và khái quát hóa, mà được đề cập đến
một cách cụ thể, đó là nhân dân Việt Nam, những con người lao động nghèo
khổ bị áp bức cùng cực dưới ách thống trị của phong kiến, đế quốc; là dân
tộc Việt Nam đang bị đô hộ bởi chủ nghĩa thực dân; và mở rộng hơn nữa là
những “người nô lệ mất nước” và “người cùng khổ”. Logic phát triển tư
tưởng của Người là xuất phát từ chủ nghĩa yêu nước để đến với chủ nghĩa
Mác – Lênin, đến với chủ nghĩa quốc tế chân chính. Theo logic phát triển tư
tưởng ấy, khái niệm “con người” của Hồ Chí Minh tiếp cận với khái niệm
“giai cấp vô sản cách mạng”. Người đề cập đến giai cấp vô sản cách mạng và
sự thống nhất về lợi ích căn bản của giai cấp đó với các tầng lớp nhân dân lao
động khác (đặc biệt là nông dân). Người nhận thức một cách sâu sắc rằng, chỉ
có cuộc cách mạng duy nhất và tất yếu đạt tới được mục tiêu giải phóng dân
tộc, giải phóng giai cấp và toàn thể nhân loại khỏi mọi sự nô dịch, áp bức.
Toàn bộ các tư tưởng, lý luận (chiếm một khối lượng lớn trong các tác phẩm
của Người) bàn về cách mạng (chiến lược giải pháp; bàn về người cách mạng
và đạo đức cách mạng, về hoạch định và thực hiện các chính sách xã hội; về
rèn luyện và giáo dục con người v.v…) về thực chất chỉ là sự cụ thể hóa bằng
thực tiễn tư tưởng về con người của Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh dùng khái niệm con người theo nghĩa rộng trong một số
trường hợp (“phẩm giá con người”, “giải phóng con người”, “người ta”, “con
người”, “ai”…) nhưng đặt trong một bối cảnh cụ thể và một tư duy chung,
còn phần lớn, Người xem xét con người trong các mối quan hệ xã hội, giai
cấp, giới tính, lứa tuổi, nghề nghiệp, trong khối thống nhất của cộng đồng dân
tộc và quan hệ quốc tế. Đó là con người hiện thực, cụ thể, khách quan.
c. Bản chất con người mang tính xã hội
Để sinh tồn, con người phải lao động sản xuất. Trong quá trình lao
động, sản xuất, con người dần nhận thức được các hiện tượng, quy luật của tự
nhiên, của xã hội; hiểu về mình và hiểu biết lẫn nhau… xác lập các mối quan
hệ giữa người với người.
Con người là sản phẩm của xã hội, con người là sự tổng hợp các quan
hệ xã hội từ hẹp đến rộng, chủ yếu bao gồm các quan hệ: anh, em, họ hàng,
bầu bạn, đồng bào, loài người.
Tóm lại: Quan niệm về con người, coi con người là một thực thể thống
nhất của “cái cá nhân” và “cái xã hội”, con người tồn tại trong mối quan hệ
biện chứng giữa cá nhân với cộng đồng, dân tộc, giai cấp, nhân loại; yêu
thương con người, tin tưởng tuyệt đối ở con người, coi con người vừa là mục
tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp giải phóng xã hội và giải phóng chính
bản thân con người, đó chính là những luận điểm cơ bản trong tư tưởng về
con người của Hồ Chí Minh. Xuất phát từ những luận điểm đúng đắn đó,
trong khi lãnh đạo nhân dân cả nước tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng
dân tộc và xây dựng đất nước, Hồ Chí Minh luôn tin ở dân, hết lòng thương
yêu, quý trọng nhân dân, biết tổ chức và phát huy sức mạnh của nhân dân.
Tư tưởng về con người của Người thông qua thực tiễn cách mạng đã trở
thành một sức mạnh vật chất to lớn và là nhân tố quyết định thắng lợi của
chính sự nghiệp cách mạng ấy.
2. Quan điểm HCM về vai trò của con người và chiến lược “trồng
người”
a. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của con người
Con người là vốn quý nhất, nhân tố quyết định thành công sự nghiệp
cách mạng.
Tấm lòng Hồ Chí Minh luôn hướng về con người. Người yêu thương
con người, tin tưởng con người, tin và thương yêu nhân dân, trước hết là
người lao động, nhân dân mình và nhân dân các nước. Với Hồ Chí Minh,
“lòng thương yêu nhân dân, thương yêu nhân loại” là “không bao giờ thay
đổi”.
Người có một niềm tin lớn ở sức mạnh sáng tạo của con người. Lòng tin
mãnh liệt và vô tận của Hồ Chí Minh vào nhân dân, vào những con người
bình thường đã được hình thành rất sớm. Từ những năm tháng Người bôn ba
tìm đường cứu nước, thâm nhập, lăn lộn, tìm hiểu thực tế cuộc sống và tâm tư
của những người dân lao động trong và ngoài nước. Người đã khẳng định:
“Đằng sau sự phục tùng tiêu cực, người Đông Dương ẩn giấu một cái gì đang
sôi sục, đang gào thét, và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm khi thời cơ đến”. Tin
vào quần chúng, theo quan điểm của Hồ Chí Minh, đó là một trong những
phẩm chất cơ bản của người cộng sản. Quan điểm của Hồ Chí Minh: “Trong
bầu trời không có gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không có gì mạnh
bằng lực lượng đoàn kết toàn dân”. Vì vậy “việc dễ mấy không có nhân dân
cũng chịu, việc khó mấy có dân liệu cũng xong”. Ngay cả những bậc sĩ phu
tiền bối của Hồ Chí Minh, tuy là những người yêu nước một cách nhiệt
thành, nhưng họ chưa có một quan điểm đúng đắn và đầy đủ về nhân dân,
chưa có đủ niềm tin vào sức mạnh của quần chúng nhân dân. Quan điểm tin
vào dân, vào nhân tố con người của Người thống nhất với quan điểm của
Mác, Ăngghen, Lênin: “Quần chúng nhân dân là người sáng tạo chân chính
ra lịch sử”.
Tin dân, đồng thời lại hết lòng thương dân, tình thương yêu nhân dân
của Hồ Chí Minh có nguồn gốc sâu xa từ trong truyền thống dân tộc, truyền
thống nhân ái ngàn đời của người Việt Nam. Cũng như bao nhà Nho yêu
nước khác có cùng quan điểm “ái quốc là ái dân”, nhưng điểm khác cơ bản
trong tư tưởng “ái dân” của Người là tình thương ấy không bao giờ dừng lại ở
ý thức, tư tưởng mà đã trở thành ý chí, quyết tâm thực hiện đến cùng sự
nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng nhân loại cần lao,
xóa bỏ đau khổ, áp bức bất công giành lại tự do, nhân phẩm và giá trị làm
người cho con người. Ở Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước gắn bó không tách
rời với chủ nghĩa quốc tế chân chính. Tình thương yêu cũng như toàn bộ tư
tưởng về nhân dân của Người không bị giới hạn trong chủ nghĩa dân tộc hẹp
hòi, mà nó tồn tại trong mối quan hệ khắng khít giữa các vấn đề dân tộc và
giai cấp, giữa quốc gia với quốc tế.
Yêu thương nhân dân Việt Nam, Người đồng thời yêu thương nhân dân
các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. Trong sự nghiệp lãnh đạo cách mạng,
Hồ Chí Minh luôn coi trọng sức mạnh đoàn kết toàn dân và sự đồng tình ủng
hộ to lớn của bè bạn khắp năm châu, của cả nhân loại tiến bộ. Người cũng
xác định sự nghiệp cách mạng của nước ta là một bộ phận không thể tách rời
trong toàn bộ sự nghiệp đấu tranh giải phóng nhân loại trên phạm vi toàn thế
giới.
Nhân dân là người sáng tạo ra mọi giá trị vật chất và tinh thần, họ biết
“giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ mà những
người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra”. Hồ Chí Minh có
niềm tin vững chắc rằng với tinh thần quật cường và lực lượng vô tận của dân
tộc ta, với lòng yêu nước và chí kiên quyết của nhân dân và quân đội ta,
chẳng những chúng ta có thể thắng lợi, mà chúng ta nhất định thắng lợi.
Dân ta có tài năng, trí tuệ và sáng tạo. Đặc biệt là họ có lòng sốt sắng,
hăng hái nhiệt tình cách mạng trong việc thực hiện con đường cách mạng.
Nhân dân là yếu tố quyết định thành công của cách mạng. “Lòng yêu
nước và sự đoàn kết của nhân dân là một lực lượng vô cùng to lớn, không ai
thắng nổi”.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, con người được khái niệm vừa là
mục tiêu của sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, vừa là động
lực của chính sự nghiệp đó.
Tư tưởng đó được thể hiện rất triệt để và cụ thể trong lý luận chỉ đạo
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Trong lý luận về xây dựng chế độ mới, HCM đã khẳng định xây dựng
chế độ dân chủ nhân dân gắn liền với việc thực hiện bước tiến lên chủ nghĩa
xã hội. Trong kháng chiến giải phóng dân tộc cần xây dựng chế độ dân chủ
nhân dân để đẩy mạnh công cuộc kháng chiến, đồng thời tạo ra những tiền đề
cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội; trong xây dựng chủ nghĩa xã hội cần
phải thực hiện chế độ dân chủ nhân dân, vì như Người nói: “Đây là cuộc
chiến đấu khổng lồ chống lại những cái gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những
cái mới mẻ, tốt tươi”. Cuộc chiến đấu ấy sẽ không đi đến thắng lợi, nếu
không “dựa vào lực lượng của toàn dân”.
Về chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh không bao giờ quan niệm hình thái
xã hội đó như một mô hình hoàn chỉnh, một công thức bất biến. Bao giờ
Người cũng coi trọng những điều kiện kinh tế, xã hội, chính trị, văn hóa
khách quan. Người chỉ đề ra những mục tiêu của công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội với những bước đi thiết thực và những nội dung cơ bản nhất.
Theo Người: “Nói một cách tóm tắt, mộc mạc, chủ nghĩa xã hội trước hết là
làm cho nhân dân lao động thoát khỏi bần cùng, làm cho mọi người có công
ăn việc làm, được ấm no và được sống đời hạnh phúc”; “Chủ nghĩa xã hội là
nhằm nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân”.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội tức là làm cho nhân dân ta có một đời sống
thật sung sướng, tốt đẹp. Người dạy xây dựng chủ nghĩa xã hội phải thiết
thực, phù hợp với điều kiện khách quan, phải nắm được quy luật và phải biết
vận dụng quy luật một cách sáng tạo trên cơ sở nắm vững tính đặc thù, tránh
giáo điều, rập khuôn máy móc. Sự sáng tạo đó gần gũi, tương đồng, nhất
quán với luận điểm của Ăngghen: “Đối với chúng ta, chủ nghĩa cộng sản
không phải là trạng thái cần phải sáng tạo ra, không phải là một lý tưởng mà
hiện thực phải khuôn theo. Chúng ta gọi chủ nghĩa cộng sản là một phong
trào hiện thực, nó xóa bỏ trạng thái hiện nay”. Vì vậy, không chỉ trong lý luận
về đấu tranh giành độc lập dân tộc mà cả trong lý luận xây dựng chủ nghĩa xã
hội khi định ra những mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, trước hết, “cần có con
người xã hội chủ nghĩa”. Hồ Chí Minh đã thể hiện nhất quán quan điểm về
con người: con người là mục tiêu, đồng thời vừa là động lực của sự nghiệp
giải phóng xã hội và giải phóng chính bản thân con người.
Con người là động lực của cách mạng
Con người là động lực của cách mạng, được nhìn nhận trên phạm vi cả
nước, toàn thể đồng bào, song trước hết là ở giai cấp công nhân và nông dân.
Điều này có ý nghĩa to lớn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Cho nên, Nhà nước mới lấy công – nông – trí làm nền tảng.
Không phải là mọi người đều có thể trở thành động lực, mà phải là
những con người được giác ngộ và tổ chức. Họ phải có trí tuệ và bản lĩnh,
văn hóa, đạo đức, được nuôi dưỡng trên nền truyền thống lịch sử và văn hoá
của dân tộc Việt Nam… Chính trị, văn hóa, tinh thần là động lực cơ bản
trong động lực con người.
Con người là động lực chỉ khi thực hiện hoạt động có tổ chức, có lãnh
đạo. Vì vậy, cần phải có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Giữa con người – mục tiêu và con người – động lực có mối quan hệ biện
chứng với nhau. Càng chăm lo cho con người – mục tiêu tốt bao nhiêu thì sẽ
tạo thành con người – động lực tốt bấy nhiêu. Ngược lại, tăng cường được sức
mạnh của con người – động lực thì sẽ nhanh chóng đạt được con người – mục
tiêu cách mạng.
Phải kiên quyết khắc phục kịp thời các phản động lực trong con người
và tổ chức. Đó là chủ nghĩa cá nhân. Thứ vi trùng rất độc này đẻ ra hàng trăm
thứ bệnh: thói quen truyền thống lạc hậu, tàn tích xã hội cũ để lại, bảo thủ, rụt
rè không dám nói, không dám làm, không dám đề ra ý kiến, tóm lại không
dám đổi mới và sáng tạo.
Tuy nhiên, không phải mọi con người đều trở thành động lực, mà phải
là những con người được giác ngộ. Họ phải có bản lĩnh chính trị, đạo đức,
văn hóa… và được lãnh đạo, dẫn đường. Vì vậy, phải tăng cường giáo dục
nhân dân, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và Cách mạng.
b. Quan điểm Hồ Chí Minh về chiến lược “trồng người”
Hồ Chí Minh nhấn mạnh, đề cao, nêu bật vai trò của giáo dục, đào tạo,
xây dựng con người mới XHCN và coi đó là một chiến lược lâu dài. Với câu
nói nổi tiếng:
“Vì lợi ích mười năm trồng cây
Vì lợi ích trăm năm trồng người”.
Hồ Chí Minh luôn đặt lòng tin vào khả năng của giáo dục. Người chỉ
rõ: Tiền đồ của dân tộc ta sẽ ra sao, một phần quan trọng là do sự nghiệp giáo
dục trực tiếp quyết định.
“Ngủ thì ai cũng như lương thiện
Tỉnh dậy phân ra kẻ dữ hiền
Hiền, dữ đâu phải là tính sẵn
Phần nhiều do giáo dục mà nên”.
“Trồng người” là yêu cầu khách quan, vừa cấp bách, vừa lâu
dài của cách mạng.
Trên cơ sở khẳng định con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của
cách mạng. Hồ Chí Minh rất quan tâm đến sự nghiệp giáo dục, đào tạo và rèn
luyện con người. Người nói đến “lợi ích trăm năm” và mục tiêu xây dựng chủ
nghĩa xã hội là những quan điểm mang tầm vóc chiến lược, cơ bản, lâu dài,
nhưng cũng rất cấp bách. Nó liên quan đến nhiệm vụ “trước hết cần có những
con người xã hội chủ nghĩa” và “trồng người”. Tất cả những điều này phản
ánh tư tưởng lớn về tầm quan trọng có tính quyết định của nhân tố con người;
tất cả vì con người, do con người.
Con người được đặt vào vị trí trung tâm của sự phát triển kinh tế – xã
hội của đất nước với nghĩa rộng, vừa nằm trong chiến lược giáo dục đào tạo
theo nghĩa hẹp.
Con người phải được đặt vào vị trí trung tâm của sự phát triển, nhằm
phát huy cao nhất mọi tiềm năng của con người.
Chiến lược “trồng người” vừa mang tính thường xuyên, cấp bách, vừa
mang tính cơ bản lâu dài, phải làm công phu, tỉ mỉ như người làm vườn vậy.
“Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con
người xã hội chủ nghĩa”.
Con người xã hội chủ nghĩa đương nhiên phải do chủ nghĩa xã hội tạo
ra. Nhưng trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trước hết phải cần những
con người xã hội chủ nghĩa.
Điều này có nghĩa ngay từ đầu phải đặt ra nhiệm vụ xây dựng con
người mới, con người xã hội chủ nghĩa, làm gương, lôi cuốn xã hội. Công
việc này là một quá trình lâu dài, không ngừng hoàn thiện, nâng cao và thuộc
về trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, gia đình và bản thân của mỗi người.
Mỗi bước xây dựng con người như vậy là một nấc thang xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Đây là mối quan hệ biện chứng giữa “xây dựng chủ nghĩa xã
hội” và “con người xã hội chủ nghĩa”.
Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người mới xã hội chủ nghĩa có hai
mặt gắn bó chặt chẽ với nhau. Một là, kế thừa những giá trị tốt đẹp của con
người truyền thống. Hai là, hình thành những phẩm chất mới như: có tư
tưởng xã hội chủ nghĩa; có đạo đức xã hội chủ nghĩa; có trí tuệ và bản lĩnh để
làm chủ; có tác phong xã hội chủ nghĩa; có lòng nhân ái, vị tha, độ lượng.
Chủ nghĩa xã hội sẽ tạo ra những con người xã hội chủ nghĩa, những
con người xã hội chủ nghĩa lại là chủ thể của toàn bộ sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội.
Không phải chờ cho kinh tế, văn hoá phát triển cao rồi mới xây dựng
con người – xã hội chủ nghĩa, cũng không phải xây dựng xong con người –
xã hội chủ nghĩa rồi mới xây dựng xã hội – xã hội chủ nghĩa. Việc xây dựng
con người phải đặt ra từ đầu và quan tâm suốt quá trình.
“Trước hết, cần có những con người xã hội chủ nghĩa”, có nghĩa là
không phải tất cả mọi người có thể trở thành người xã hội chủ nghĩa thật đầy
đủ, thật hoàn chỉnh ngay một lúc, mà trước hết cần có những con người tiên
tiến, có được những nét tiêu biểu để có thể làm gương và lôi cuốn người khác
và toàn xã hội, xây dựng con người mới; đồng thời, họ cũng không ngừng
hoàn thiện, nâng cao.
Xây dựng con người mới là đào tạo, xây dựng con người phát triển
toàn diện: Đức, Trí, Thể, Mỹ.
Tiêu chuẩn của con người xã hội chủ nghĩa, theo Hồ Chí Minh:
Có tư tưởng xã hội chủ nghĩa: có ý thức làm chủ, có tinh thần tập thể,
có tư tưởng mình vì mọi người, mọi người vì mình, có tinh thần dám nghĩ,
dám làm, dám chịu trách nhiệm, quyết chí vươn lên, có tinh thần tiến nhanh,
tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội.
Có đạo đức và lối sống xã hội chủ nghĩa: trung với nước, hiếu với
dân, yêu thương con người, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, có tinh thần
quốc tế trong sáng, lối sống lành mạnh.
Có tác phong xã hội chủ nghĩa: làm việc có kế hoạch, biện pháp, có
quyết tâm, tổ chức, kỷ luật, có năng suất, chất lượng, hiệu quả cao, lao động
hăng say, không sợ khó, sợ khổ, làm việc vì lợi ích của xã hội, tập thể và của
bản thân.
Có năng lực làm chủ: làm chủ bản thân, gia đình và công việc mình
đảm nhiệm, đủ sức khoẻ và tư cách tham gia làm chủ nhà nước và xã hội,
thực hiện tốt quyền công dân; không ngừng nâng cao trình độ chính trị, văn
hoá, khoa học công nghệ, chuyên môn nghiệp vụ để làm chủ.
Ngoài những tiêu chuẩn chung trên, Hồ Chí Minh còn nêu những tiêu
chuẩn cụ thể cho từng giới, từng ngành
Chiến lược “trồng người” là một trọng tâm, một bộ phận hợp
thành của chiến lược phát triển kinh tế – xã hội.
Để thực hiện chiến lược “trồng người”, cần có nhiều biện pháp, nhưng
giáo dục – đào tạo là biện pháp quan trọng nhất. Bởi vì, giáo dục tốt sẽ tạo ra
tính thiện đem lại tương lai tươi sáng cho thanh niên. Ngược lại, giáo dục tồi
sẽ ảnh hưởng xấu đến thanh niên.
Nội dung và phương pháp giáo dục phải toàn diện, cả đức, trí, thể, mỹ,
phải đặt đạo đức, lý tưởng và tình cảm cách mạng, lối sống xã hội chủ nghĩa
lên hàng đầu. Hai mặt đức, tài thống nhất với nhau, trong đó đức là gốc, là
nền tảng cho tài năng phát triển. Phải kết hợp giữa nhận thức và hành động,
lời nói với việc làm… có như vậy mới có thể “Học để làm người”, “việc học
không bao giờ cùng, còn sống còn phải học”.
Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo, phát triển quan điểm của Quản
Trọng: “Thập niên chi kế mạc nhi thụ mộc, bách niên chi kế mạc nhi thụ
nhân” mà khẳng định: “Vì lợi ích mười năm phải trồng cây/ Vì lợi ích trăm
năm phải trồng người”.
+ “Trồng người”, xây dựng con người mới phải được thường xuyên
đẩy mạnh trong suốt tiến trình đi lên chủ nghĩa xã hội và phải đạt được kết
quả cụ thể qua từng chặng đường của thời kỳ quá độ. Bởi vì, nếu sao nhãng
việc trồng người, nhất định sẽ dẫn đến những bất cập, hơn nữa còn là những
suy thoái về con người có thể gây những hậu quả khôn lường. R.Tagore nói:
“một ngày mà quên giáo hoá, ta lùi gần về thú tính hơn”.
+ “Trồng người”, xây dựng con người mới phải được đặt ra trong suốt
cuộc đời mỗi người. Đây là quyền lợi, cũng là trách nhiệm và nghĩa vụ của
mỗi người với sự nghiệp xây dựng đất nước. Đồng thời nó cũng thể hiện sự
trưởng thành, vươn lên của mỗi cá nhân.
+ Những người có trách nhiệm trồng người cũng phải được vun trồng
bởi quần chúng nhân dân, bởi tập thể những người đi trồng và được trồng,
bởi cuộc sống thực tiễn và sự tự vun trồng trong suốt cuộc đời của chính họ.
III. Vận dụng
Ở nước ta trong cách mạng XHCN hiện nay, chiến lược con người được
đặt ra như 1 đòi hỏi tất yếu và cấp bách của sự phát triển đất nước và là
nguồn lực quyết định để đẩy mạnh công cuộc đổi mới. Tư tưởng về chiến
lược con người của Đảng ta đặt trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Leenin
trong đó tư tưởng C.Mác luôn luôn là nền tảng. Ở VN, tư tưởng HCM là nền
tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Do vậy, sự nghiệp cách
mạng và tiến trình lịch sử xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta in đậm dấu ấn
tư tưởng HCM trong đó có tư tưởng về con người.
Thực tiễn của quá trình cách mạng VN cũng chứng tỏ rằng trong những
thời điểm lịch sử hiểm nghèo, trong những tình thế hết sức khó khăn, con
người VN đều rất sáng tạo và năng động luôn tìm ra những lối thoát, những
đường hướng đi lên làm kinh ngạc bạn bè quốc tế. Thực tiễn lịch sử đã chứng
minh: thời kì nào, cách mạng nào nếu biết phát huy mạnh mẽ yếu tố con
người, tạo điều kiện cho hoạt động sáng tạo của con người thì con người VN
luôn biết “chuyển bại thành thắng”, chuyển từ tình thế khó khăn thành lợi thế
phát triển mới trong đó con người là động lực trung tâm.
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, tiềm năng sáng tạo của con người
VN đã và đang được phát huy mạnh mẽ. Tuy nhiên có thể nhận thấy tiềm
năng trí tuệ của con người VN mà chúng ta chưa khai thác hết vẫn còn rất
lớn. Thực tiễn đổi mới cho thấy, chỉ với một cơ chế khoán 10 mà giai cấp
nông dân VN đã phát huy tính năng động sáng tạo ghê gớm đủ sức làm thay
đổi căn bản bộ mặt nền nông nghiệp nước nhà. Với đội ngũ cán bộ khoa học
kĩ thuật có trình độ, đội ngũ trí thức khá đông đảo và giàu tiềm năng như hiện
nay rất cần 1 cơ chế “khoán 10” làm bật dậy và bừng sáng trí tuệ VN trong
thời đại kinh tế tri thức. Như vậy, vấn đề mấu chốt là cơ chế, chính sách. Chỉ
cần xây dựng hệ thống cơ chế chính sách thích hợp là sẽ khơi thông được
nguồn lực con người cả trong và ngoài nước, cả tài lực và trí lực dường như
vô tận. Điều đó sẽ tạo nên nội lực vô cùng mạnh mẽ đưa đất nước tiến nhanh
và sớm trên con đường CNH, HĐH theo định hướng CNXH.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cập rất nhiều vấn đề phải xây dựng con
người mới trong lòng nhân dân. Và trong giai đoạn hội nhập quốc tế hiện
nay, trở về với tư tưởng xây dựng con người mới làm nền tảng, làm bản lĩnh
ta lại thấy sự đúng đắn sâu sắc và tầm thời đại của Người. Chính vì vậy,
Đảng ta phải lãnh đạo Nhà nước, các ban ngành trong việc nâng cao giáo dục
dân tộc giữ gìn truyền thống của đất nước để làm tăng khả năng hội nhập
giáo dục con người cũng với sự phát triển giáo dục của thế giới mà không
mất đi giá trị của nền giáo dục truyền thống.
Kết hợp giải phóng con người về mặt chính trị với giải phóng con
người về mặt kinh tế, văn hóa. Không ngừng phát triển sản suất để nâng
cao đời sống vật chất tinh thần của nhân dân.
Từ lúc ra đi tìm đường cứu nước để giải phóng đồng bào, giúp nhân dân
có cuộc sống ấm no, tự do hạnh phúc. Muốn có cuộc sống mới đó trước tiên
phải giành lại độc lập cho dân tộc, kế đó phải xây dựng vững mạnh chính trị,
kinh tế văn hóa, xã hội.
Đối với HCM, không có gì khác hơn là đáp ứng ngày càng cao lợi ích
vật chất tinh thần của nhân dân. Một xã hội mới là xã hội nhân dân được ấm
no hạnh phúc.
Đối với Người, nhân dân luôn là lực lượng vĩ đại và quyền lợi của nhân
dân luôn là tối thượng. Đó không chỉ là quyền độc lập dân tộc mà còn là
những lợi ích vật chất liên quan cuộc sống thường ngày của mỗi người như
ăn, mặc, học hành.
Những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả con người và
chiến lược “ trồng người” những năm tới theo tư tưởng HCM.
Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với
vấn đề phát triển đào tạo con người mới XHCN.
Đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, “chăm lo bồi dưỡng thế hệ
cách mạng cho đời sau”.
Phát huy hiệu quả vai trò của đoàn thanh niên và các đoàn thể xã hội
trong việc hình thành nhân cách con người mới XHCN.
Kết hợp cơ sở đào tạo, nhà trường với doanh nghiệp, các ngành, các địa
phương trong nền giáo dục đào tạo con người mới.
Xây dựng môi trường xã hội trong sạch, lành mạnh, cơ sở cơ bản nhất
cho lớp trẻ học tập đấu tranh và tôi luyện thành con người mới XHCN.
IV. Kết luận
“Trồng người” là công việc “trăm năm”, không thể nóng vội “một sớm
một chiều”, không thể làm một lúc là xong, cũng không phải tùy tiện, đến
đâu hay đến đó. Nhận thức và giải quyết vấn đề này có ý nghĩa thường trực,
bền bỉ trong suốt cuộc đời mỗi con người, trong suốt thời kỳ quá độ lên Chủ
Nghĩa Xã Hội.Vì vậy không được coi nhẹ, sao nhãng sự nghiệp giáo dục. Cả
cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một hình mẫu con người nhân văn của
thời đại mới. Trong con người Hồ Chủ tịch là sự thống nhất giữa lòng yêu
thương con người với lòng tin, sự tôn trọng và ý chí cùng hành động triệt để
giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người.
Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lấy chủ
nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim
chỉ nam cho hành động. Tư tưởng về con người của Đảng Cộng sản Việt
Nam nhất quán với tư tưởng về con người của Hồ Chí Minh. Sự nhất quán ấy
được thể hiện qua đường lối lãnh đạo cách mạng và qua các chủ trương chính
sách của Đảng trong suốt quá trình Đảng lãnh đạo công cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Trong sự nghiệp đổi
mới đất nước hiện nay, tư tưởng đó tiếp tục được Đảng ta quán triệt vận dụng
và phát triển. Con người Việt Nam đang là trung tâm trong “chiến lược phát
triển toàn diện”; đang là động lực của công cuộc xây dựng xã hội mới với
mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, vững bước đi
lên chủ nghĩa xã hội”.