Khoa QTKD
1
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO
HIỆU QUẢ KINH DOANH TRONG HOẠT
ĐỘNG NHẬP KHẨU TẠI CÔNG TY VẬT
TƯ KỸ THUẬT NGÂN HÀNG
TP.HCM, Năm 2017
Khoa QTKD
2
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU.
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU TẠI
CÁC DOANH NGHIỆP.
1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NHẬP KHẨU.
1.1. Khái niệm hoạt động kinh doanh nhập khẩu.
1.2. Đặc điểm của hoạt động kinh doanh nhập khẩu.
1.3. Phân loại nhập khẩu.
1.4. Những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh nhập khẩu
1.5.Vai trò của kinh doanh nhập khẩu.
2. CÁC BƯỚC TIẾN HÀNH NHẬP KHẨU TẠI DOANH NGHIỆP.
2.1. Nghiên cứu thị trường.
2.2. Lập phương án kinh doanh.
2.3. Giao dịch, đàm phán và ký kết hợp đồng.
2.4. Tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu.
3.CÁC KHÁI NIỆM NÂNG CAO HIỆU QUẢ.
3.1Các quan đIểm hiệu quả.
3.2Sự cần thiết nâng cao hiệu quả.
3.3Nâng cao hiệu quả.
CHƯƠNG 2: TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU TẠI CÔNG TY VẬT TƯ
KỸ THUẬT NGÂN HÀNG.
1. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ KỸ THUẬT CÓ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG
NHẬP KHẨU TẠI CÔNG TY.
1.1. Quá trình hình thành và phát triển của công ty.
1.2. Đặc điểm tổ chức bộ máy điều hành của công ty.
1.3. Chức năng và nhiệm vụ của Công ty.
1.4. Đặc điểm về thị trường và khách hàng của Công ty.
1.5. Đặc điểm về sản phẩm của Công ty.
2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU TẠI CÔNG TY VẬT TƯ KỸ THUẬT
NGÂN HÀNG.
2.1. Tổ chức giao dịch ký kết hợp đồng
2.2. Tổ chức thực hiện các hợp đồng.
2.3. Thị trường nhập khẩu của Công ty.
2.4. Kết quả hoạt động nhập khẩu của Công ty.
2.5. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty.
2.6. Đánh giá chung về hoạt động nhập khẩu của Công ty.
CHƯƠNG 3: NHỮNG GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU
QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NHẬP KHẨU TẠI CÔNG TY VẬT TƯ KỸ
THUẬT NGÂN HÀNG.
1. Những quan điểm và định hướng kinh doanh của Công ty Vật tư kỹ thuật
Ngân hàng.
2. Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu
của Công ty Vật tư kỹ thuật Ngân hàng
Khoa QTKD
3
3. Kiến nghị.
KẾT LUẬN
Khoa QTKD
4
LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm vừa qua, các hoạt động kinh tế đối ngoại của Việt Nam đã
đạt được những thành công đáng kể. Với những chủ trương đúng đắn của Đảng và
Nhà nước là xây dựng một nền kinh tế mở, đa phương hoá đa dạng hoá quan hệ đối
ngoại mà chủ yếu là các quan hệ thương mại đặc biệt là trong lĩnh vực xuất nhập
khẩu. Việc phát triển quan hệ ngoại thương được xem là mũi nhọn chiến lược chủ
đạo trong chương trình phát triển dài hạn và toàn diện của đất nước. Những định
hướng cơ bản hoàn toàn phù hợp với xu hướng phát triển chung trên bình diện quốc
gia và quốc tế, nó đã nhanh chóng đưa nền kinh tế nước ta hội nhập với các nước
trong khu vực và trên thế giới. Quan hệ ngoại thương giữa nước ta với các nước trên
thế giới không ngừng tăng lên cả về chất và lượng.
Trong bối cảnh toàn cầu hoá nền kinh tế trước sự phát triển như vũ bão của
khoa học kỹ thuật công nghệ thông tin. Việc đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu là
một hướng đi hoàn toàn đúng đắn để phát triển kinh tế đất nước, tránh được tụt hậu
về kinh tế và tham gia hội nhập vào nền kinh tế quốc tế một cách toàn diện và sâu
sắc.
Cùng với sự phát triển của quá trình giao lưu thương mại, hoạt động xuất nhập
khẩu của nước ta nhìn chung đã đạt được những thành tựu đáng kể, trong đó Công
ty Vật tư kỹ thuật Ngân hàng đã và đang góp phần tạo nên thành công đó. Công ty
Vật tư kỹ thuật Ngân hàng là một đơn vị đầu mối về nhập khẩu các thiết bị chuyên
dùng của ngành Ngân hàng phục vụ cho việc hiện đại hoá hệ thống Ngân hàng ở
Việt Nam. Trong những năm qua Công ty đã thực hiện nhập khẩu một cách có hiệu
quả để phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế, qua đó tạo được uy tín của Công ty
đối với thị trường trong nước và quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay vừa mở ra những cơ hội mới cho doanh
nghiệp nhưng cũng đồng thời nó cũng chứa đựng những rủi ro lớn. Vì vậy nó đòi
hỏi các doanh nghiệp khi tham gia vào thị trường quốc tế ngày càng phải tự hoàn
thiện mình, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh để đảm bảo doanh nghiệp có thể
Khoa QTKD
5
tồn tại được. Đặc biệt là đối với các doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất nhập
khẩu thì việc nâng cao hiệu quả kinh doanh cang trở nên bức thiết và quan trọng
hơn bao giờ hết.
Qua thực trạng hoạt động của Công ty Vật tư kỹ thuật Ngân hàng trong những
năm qua được ghi nhận trong những năm qua trong quá trình thực tập kết hợp với
những kiến thức em đã học được tại Trường Đại học em xin mạnh dạn chọn đề tài
“Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh trong hoạt động nhập
khẩu tại Công ty Vật tư kỹ thuật Ngân hàng”.
Đề tài đề cập đến một số ngiệp vụ kinh doanh nhập khẩu hiện nay đang được
sử dụng trong giao dịch ngoại thương tại Việt nam. Cụ thể là các phương pháp giao
dịch, các chứng từ liên quan đến giao dịch ngoại thương. Qua đó giúp ta có thể hình
dung và nắm bắt được những điều cơ bản phải làm trước khi tiến hành một giao
dịch kinh doanh. Thông qua phân tích tình hình kinh doanh nhập khẩu tại Công ty
Vật tư Ngân hàng rút ra những nhận xét đánh giá, từ đó đưa ra những giải pháp và
khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu tại Công ty
Vật tư Ngân hàng nói riêng và các công ty xuất nhập khẩu nói chung.
Trong đề án này được chia làm ba phần sau:
Phần 1: Những vấn đề cơ bản về hoạt động nhập khẩu và nâng cao hiệu quả hoạt
động kinh doanh nhập khẩu trong các doanh nghiệp.
Phần 2: Thực trạng về tình hình hoạt động kinh doanh nhập khẩu tại Công ty Vật tư
kỹ thuật Ngân hàng.
Phần 3: Một số phương hướng và biện pháp nhăm nâng cao hiệu quả kinh doanh
trong hoạt động nhập khẩu tại Công ty Vật tư kỹ thuật Ngân hàng.
Qua đây, tôi xin chân thành cảm ơn các anh chị phòng kinh doanh XNK-
Công ty Vật tư kỹ thuật Ngân hàng đã tạo điều kiện thuận lợi và giúp đỡ tôi trong
quá trình khảo sát, nghiên cứu thực tập đạt kết quả tốt. Xin chân thành cảm ơn thầy
giáo hướng dẫn – Tiến sỹ Vũ Quang Thọ đã tận tình giúp đỡ tôi trong quá trình xây
dựng và hoàn thiện chuyên đề này.
Khoa QTKD
6
Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng do vấn đề đặt ra phức tạp trong khi quỹ
thời gian nghiên cứu hạn chế nên khó tránh khỏi thiếu sót. Rất mong sự đóng góp ý
kiến nhận xét của thầy, cô giáo.
Xin trân trọng cảm ơn !
Hà nội, tháng 5 năm 2004.
Sinh viên
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU TẠI
CÁC DOANH NGHIỆP.
1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NHẬP KHẨU.
1.1. Khái niệm và vai trò của hoạt động kinh doanh nhập khẩu.
1.1.1.Khái niệm về nhập khẩu.
Nhập khẩu là hoạt động kinh doanh buôn bán trên phạm vi quốc tế, là quá
trình trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia dựa trên nguyên tắc trao đổi ngang giá lấy
Khoa QTKD
7
tiền tệ là môi giới. Nó không phải là hành vi buôn bán riêng lẻ mà là một hệ thống
các quan hệ buôn bán trong một nền kinh tế có cả tổ chức bên trong và bên ngoài.
Nếu xét trên phạm vi hẹp thì tại Điều 2 Thông tư số 04/TM-ĐT ngày
30/7/1993 của Bộ Thương mại định nghĩa: “ Kinh doanh nhập khẩu thiết bị là toàn
bộ quá trình giao dịch, ký kết và thực hiện hợp đồng mua bán thiết bị và dịch vụ có
liên quan đến thiết bị trong quan hệ bạn hàng với nước ngoài ”.
Vậy thực chất kinh doanh nhập khẩu ở đây là nhập khẩu từ các tổ chức kinh
tế, các Công ty nước ngoài, tiến hành tiêu thụ hàng hoá, vật tư ở thị trường nội địa
hoặc tái xuất với mục tiêu lợi nhuận và nối liền sản xuất giữa các quốc gia với nhau.
Mục tiêu hoạt động kinh doanh nhập khẩu là sử dụng có hiệu quả nguồn
ngoại tệ để nhập khẩu vật tư, thiết bị kỹ thuật và dịch vụ phục vụ cho quá trình tái
sản xuất mở rộng, nâng cao năng suất lao động, tăng giá trị ngày công, và giải quyết
sự khan hiếm hàng hoá, vật tư trên thị trường nội địa.
Mặt khác, kinh doanh nhập khẩu đảm bảo sự phát triển ổn định của các
ngành kinh tế mũi nhọn của mỗi nước mà khả năng sản xuất trong nước chưa đảm
bảo vật tư, thiết bị kỹ thuật đáp ứng nhu cầu phát triển, khai thác triệt để lợi thế so
sánh của quốc gia, góp phần thực hiện chuyên môn hoá trong phân công lao động
quốc tế, kết hợp hài hoà và có hiệu quả giữa nhập khẩu và cải thiện cán cân thanh
toán.
thiện cán cân thanh toán quốc tế .
1.2. Đặc điểm của hoạt động kinh doanh nhập khẩu.
Hoạt động nhập khẩu là hoạt động phức tạp so với hoạt động kinh doanh
trong nước. Hoạt động nhập khẩu có những đặc điểm sau:
– Hoạt động nhập khẩu chịu sự điều chỉnh của nhiều nguồn luật như điều ước
quốc tế và Ngoại thương, luật quốc gia của các nước hữu quan, tập quán Thương
mại quốc tế.
– Các phương thức giao dịch mua bán trên thị trường quốc tế rất phong phú:
Giao dịch thông thường, giao dịch qua trung gian, giao dịch tại hội chợ triển lãm.
– Các phương thức thanh toán rất đa dạng: nhờ thu, hàng đổi hàng, L/C…
Khoa QTKD
8
– Tiền tệ dùng trong thanh toán thường là ngoại tệ mạnh có sức chuyển đổi
cao như : USD, bảng Anh…
– Điều kiện cơ sở giao hàng: có nhiều hình thức nhưng phổ biến là nhập khẩu
theo điều kiện CIF, FOB…
– Kinh doanh nhập khẩu là kinh doanh trên phạm vi quốc tế nên dịa bàn rộng,
thủ tục phức tạp, thời gian thực hiện lâu.
– Kinh doanh nhập khẩu phụ thuộc vào kiến thức kinh doanh, trình độ quản
lý, trình độ nghiệp vụ Ngoại thương, sự nhanh nhạy nắm bắt thông tin.
– Trong hoạt động nhập khẩu có thể xảy ra những rủi ro thuộc về hàng hoá.
Để đề phong rủi ro, có thể mua bảo hiểm tương ứng.
– Hoạt động nhập khẩu là cơ hội để các doanh nghiệp có quốc tịch khác nhau
hợp tác lâu dài. Thương mại quốc tế có ảnh hưởng trực tiếp đến quan hệ kinh tế –
chính trị của các nước xuất khẩu, góp phần phát triển kinh tế đối ngoại.
1.3. Phân loại nhập khẩu.
Dưới đây là một số loại hình nhập khẩu cơ bản và phổ biến nhất:
1.3.1. Nhập khẩu trực tiếp.
Theo cách thức này, bên mua và bên bán trực tiếp giao dịch với nhau, việc
mua và việc bán không ràng buộc nhau. Bên mua có thể chỉ mua mà không bán, bên
bán có thể chỉ bán mà không mua. Hoạt động chủ yếu là doanh nghiệp trong nước
nhập khẩu hàng hoá, vật tư ở thị trường nước ngoài đem về tiêu thụ ở thị trường
trong nước. Để tiến tới ký kết hợp đồng kinh doanh nhập khẩu, doanh nghiệp phải
nghiên cứu kỹ nhu cầu nhập khẩu vật tư, thiết bị trên thị trường nội địa, tính toán
đầy đủ các chi phí đảm bảo kinh doanh nhập khẩu có hiệu quả, đàm phán kỹ lưỡng
về các điều kiện giao dịch với bên xuất khẩu, thực hiện theo hành lang pháp lý quốc
gia cũng như thông lệ quốc tế.
Đặc điểm: Được tiến hành một cách đơn giản. Bên nhập khẩu phải nghiên
cứu thị trường, tìm kiếm đối tác, ký kết hợp đồng và thực hiện theo đúng hợp đồng,
phải tự bỏ vốn, chịu mọi rủi ro và chi phí giao dịch, nghiên cứu, giao nhận, kho bãi
cùng các chi phí có liên quan đến tiêu thụ hàng háo, thuế nhập khẩu…
Khoa QTKD
9
1.3.2. Nhập khẩu uỷ thác.
Theo quyết định số 1172/TM/XNK ngày 22/9/1994 của Bộ trưởng Bộ
Thương Mại về việc ban hành” Quy chế XNK uỷ thác giữa các pháp nhân trong
nước” đã định nghĩa như sau:
Nhập khẩu uỷ thác là hoạt động dịch vụ thương mại dưới hình thức nhận làm
dịch vụ nhập khẩu. Hoạt động này được làm trên cơ sở hợp đồng uỷ thác giữa các
doanh nghiệp phù hợp với những quy định của pháp lệnh hợp đồng kinh tế.
Như vậy, hợp đồng uỷ thác nhập khẩu được hình thành giữa các doanh
nghiệp trong nước có vốn ngoại tệ riêng, có nhu cầu nhập khẩu một loại vật tư, thiết
bị nào đó nhưng lại không được phép nhập khẩu trực tiếp hoặc gặp khó khăn trong
việc tìm kiếm bạn hàng, thực hiện thủ tục uỷ thác nhập khẩu cho doanh nghiệp có
chức năng thương mại quốc tế tiến hành nhập khẩu theo yêu cầu của mình. Bên
nhận uỷ thác phải cung cấp cho bên uỷ thác các thông tin về thị trường, giá cả,
khách hàng, những điều kiện có liên quan đến đơn hàng uỷ thác thương lượng đàm
phán và ký kết hợp đồng uỷ thác. Bên nhận uỷ thác phải tiến hành làm các thủ tục
nhập khẩu và được hưởng phần thù lao gọi là phí uỷ thác.
Đặc điểm: Doanh nghiệp thực hiện nhiệm vụ nhập khẩu uỷ thác không phải
bỏ vốn, không phải xin hạn ngạch, không phải tìm kiếm thị trường tiêu thụ hàng
nhập, giá trị hàng nhập chỉ được tính vào kim ngạch XNK không được tính vào
doanh thu. Khi nhận uỷ thác phải làm hai hợp đồng: Một hợp đồng mua bán hàng
hoá, vật tư với nước ngoài và một hợp đồng uỷ thác nhập khẩu với bên uỷ thác ở
trong nước.
1.3.3. Buôn bán đối lưu.
Buôn bán đối lưu trong Thương mại quốc tế là một phương thức giao dịch
trao đổi hàng hoá trong đó nhập khẩu kết hợp chặt chẽ với xuất khẩu, người bán
đồng thời là người mua và ngược lại. Lượng hàng hoá dịch vụ trao đổi có giá trị
tương đương. Giao dịch đối lưu dựa trên bốn nguyên tắc cân bằng: Cân bằng về mặt
hàng, cân bằng về giá cả, cân bằng về cùng một điều kiện giao hàng và cân bằng về
tổng giá trị hàng hoá trao đổi.
Khoa QTKD
10
Đặc điểm: Hợp đồng này có lợi ở chỗ là cùng một hợp đồng ta có thể tiến
hành đồng thời hoạt động xuất và nhập khẩu. Đối với hình thức này thì lượng hàng
giao đi và lượng hàng nhận về có giá trị tương đương nhau. Doanh nghiệp xuất khẩu
được tính vào cả kim ngạch xuất nhập khẩu, doanh thu trên hàng hoá nhập và hàng
xuất.
1.3.4. Nhập khẩu tái xuất.
Mỗi nước có một định nghĩa riêng về tái xuất, nhưng đều thống nhất một
quan điểm về tái xuất là xuất khẩu trở ra nước ngoài những hàng hoá trước đây đã
nhập khẩu, chưa qua chế biến ở nước tái xuất. Có nghĩa là tiến hành nhập khẩu
không phải để tiêu thụ trong nước mà để xuất sang một nước thứ ba nhằm thu lợi
nhuận. Giao dịch tái xuất bao gồm nhập khẩu và xuất khẩu với mục đích thu về một
lượng ngoại tệ lớn hơn vốn bỏ ra ban đầu. Giao dịch này luôn thu hút ba nước: nước
xuất khẩu, nước tái xuất và nước nhập khẩu.
Đặc điểm:
– Doanh nghiệp tái xuất phải tính toán toàn bộ chi phí nhập hàng và xuất
hàng sao cho thu hút được lượng ngoại tệ lớn hơn chi phí ban đầu bỏ ra.
– Doanh nghiệp tái xuất phải tiến hành hai loại hợp đồng: Một hợp đồng nhập
khẩu và một hợp đồng xuất khẩu nhưng không phải nộp thuế XNK.
– Doanh nghiệp tái xuất được tính kim ngạch trên cả hàng tái xuất và hàng
nhập, doanh số tính trên giá trị hàng hoá tái xuất do đó vẫn chịu thuế.
– Hàng hoá không nhất thiết phải chuyển về nước tái xuất mà có thể chuyển
thẳng từ nước xuất khẩu đến nước nhập khẩu theo hình thức chuyển khẩu, nhưng
tiền phải do người tái xuất trả cho người nhập khẩu và thu từ người nhập khẩu.
1.4. Những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh nhập khẩu.
Hoạt động kinh doanh nhập khẩu là một họat động kinh doanh hết sức phức
tạp và nhạy cảm với môi trường kinh doanh. Kinh doanh nhập khẩu chịu ảnh hưởng
của rất nhiều nhân tố. Có hai nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu,
đó là:
1.4.1. Những nhân tố ảnh hưởng bên trong doanh nghiệp.
Khoa QTKD
11
Các yếu tố bên trong doanh nghiệp có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh
doanh nhập khẩu của doanh nghiệp, nó tác động một cách trực tiếp và là yếu tố nội
lực quyết định hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp có đạt hiệu quả hay không.
Các nhân tố đó là:
* Tổ chức hoạt động kinh doanh: Đây là nhân tố ảnh hưởng rất lớn đến điều
kiện hoạt động kinh doanh nhập khẩu của doanh nghiệp. Nếu như việc tổ chức kinh
doanh càng phù hợp với chức năng nhiệm vụ của doanh nghiệp, phù hợp với yêu
cầu kinh tế thị trường, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của thị trường thì sẽ góp phần
nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Làm tốt công tác tổ chức kinh
doanh có nghĩa là doanh nghiệp phải là tốt các khâu: Chuẩn bị trước khi giao dịch
như nghiên cứu thị trường, khai thác nhu cầu tiêu dùng trong nước, lập phương án
kinh doanh thận trọng…
* Tổ chức bộ máy quản lý doanh nghiệp: Bộ máy quản lý doanh nghiệp có
ảnh hưởng một cách gián tiếp tới hiệu quả của hoạt động kinh doanh nhập khẩu nói
riêng và hoạt động kinh doanh toàn doanh nghiệp nói chung. Tổ chức bộ máy quản
lý hợp lý, gọn nhẹ, làm việc có hiệu quả sẽ tạo thuận lợi cho công tác nâng cao hiệu
quả kinh doanh. Việc xây dựng và hoàn thiện cơ cấu tổ chức bộ máy của doanh
nghiệp là một điều hết sức quan trọng trong kinh doanh XNK.
* Nhân tố con người: Đội ngũ cán bộ công nhân viên là một nhân tố quan
trọng có tính chất quyết định đối với sự thành công hay thất bại trong hoạt động
kinh doanh nói chung và hoạt động nhập khẩu nói riêng. Nếu doanh nghiệp có đội
ngũ cán bộ công nhân viên năng động, có năng lực, trình độ chuyên môn cao, nhiệt
tình, tích cực trong công tác kết hợp với việc bố trí nguồn nhân lực theo chiến lược
“ đúng người, đúng việc, đúng lúc” của doanh nghiệp thì nhất định sẽ có ảnh hưởng
tích cực tới hiệu quả kinh doanh.
* Vốn kinh doanh: Là nhân tố tối quan trọng, là thành phần không thể thiếu
trong kinh doanh, nó là cơ sở cho việc mở rộng hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp.
Khoa QTKD
12
* Cơ sở vật chất và uy tín kinh doanh của doanh nghiệp: Nếu công ty có cơ
sở vật chất kỹ thuật càng hiện đại bao nhiêu thì càng tạo điều kiện thuận lợi cho
công việc kinh doanh bấy nhiêu như: việc giữ gìn bảo quản hàng hoá được tốt hơn,
tiết kiệm chi phí trong khâu vận chuyển , nâng cao chất lượng phục vụ
* Thị trường – khách hàng: Thị trường là một tấm gương trung thực cho các
doanh nghiệp tự soi vào để đánh giá hiệu quả kinh doanh của mình. Hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp có đạt hiệu quả cao hay không phụ thuộc vào mức độ đáp
ứng các yêu cầu của thị trường.
1.4.2. Những nhân tố ảnh hưởng bên ngoài doanh nghiệp.
Đây là nhóm nhân tố có tầm ảnh hưởng vĩ mô điều tiết hoạt động doanh
nghiệp, nó bao gồm:
* Quan hệ chính trị và kinh tế giữa nước ta với nước khác: Hoạt động nhập
khẩu hoạt động trong một khung cảnh rộng lớn là nền kinh tế thế giới, thị trường
quốc tế, đối tượng hợp tác rất đa dạng. Việc mở rộng các mối quan hệ chính trị
ngoại giao sẽ tạo điều kiện thuận lợi và tiền đề pháp lý cho các tổ chức kinh doanh
phát triển những bạn hàng mới.
* Hệ thống luật pháp: Nó tạo hành lang pháp lý cho doanh nghiệp hoạt động.
Hệ thống luật pháp yêu cầu phải động bộ, nhất quán và phù hợp với thông lệ quốc
tế.
* Môi trường chính trị – xã hội: Nhân tố này gây ảnh hưởng không nhỏ đến
hoạt động nhập khẩu. Có đảm bảo ổn định về chính trị, giữ vững môi trường hoà
bình và hữu nghị với các nước trên khu vực và trên thế giới thì mới tạo bầu không
khí thuận lợi cho các hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động nhập khẩu nói
riêng.
* Môi trường kinh doanh: Phải đảm bảo sự ổn định vĩ mô nên kinh tế trong
đó chú ý đảm bảo tỷ giá hối đoái ổn định và phù hợp, khắc phụ sự thâm hụt của cán
cân thương mại và cán cân thanh toán quốc tế nhăm lành mạnh hoá môi trường kinh
doanh, sẽ tạo thuận lợi hơn cho hoạt động kinh doanh nhập khẩu.
1.5. Vai trò của hoạt động kinh doanh nhập khẩu.
Khoa QTKD
13
Hoạt động kinh doanh nhập khẩu là một trong hai bộ phận cấu thành nên
nghiệp vụ ngoại thương. Biểu hiện là việc mua hàng hoá và dịch vụ từ nước ngoài
về phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước hoặc nhằm tái sản xuất với mục đích thu
lợi nhuận. Nhập khẩu thể hiện mối tương quan gắn bó chặt chẽ với nhau giữa các
nền kinh tế của các quốc gia với nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên mỗi một thời kỳ
đều có đặc điểm riêng, chiến lược phát triển kinh tế riêngvì vậy mà vai trò, nhiệm
vụcủa hoạt động kinh doanh nhập khẩu cũng được điều chỉnh cho phù hợp với mục
tiêu nhà nước đề ra.
Trên thực tế, một khi nền kinh tế quốc gia đã hoà nhập vào nền kinh tế thế
giới thì vai trò của hoạt động kinh doanh nhập khẩu ngày càng trở nên quan trọng,
có thể thấy cụ thể là:
– Nhập khẩu mở rộng khả năng tiêu dùng trong nước, cho phép tiêu dùng một
lượng hàng hoá nhiều hơn khả năng sản xuất trong nước, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng
ngày càng cao cũng như thị hiếu của người tiêu dùng, làm tăng mức sống người dân,
tăng thu nhập quốc dân.
– Nhập khẩu tạo sự chuyển giao công nghệ, do đó có thể tái xuất mở rộng
hàng hoá có hiệu quả, tiết kiệm thời gian và chi phí, tạo ra sự đồng đều về phát triển
trong nước.
– Nhập khẩu tạo ra sự cạnh tranh tích cực giữa hàng nội và hàng nhập khẩu tức
là tạo ra động lực cho các nhà sản xuất trong nước không ngừng vươn lên, tạo đà
cho xã hội ngày càng phát triển.
– Nhập khẩu xoá bỏ tình trạng độc quyền, phá vỡ triệt để cơ chế tự cung tự
cấp của nền kinh tế đóng.
– Nhập khẩu giải quyết được các nhu cầu đặc biệt như hàng hoá khan hiếm,
hàng hoá cao cấp, công nghệ hiện đại mà trong nước không thể sản xuất được hay
khó khăn trong quá trình sản xuất vì nguồn lực khan hiếm.
– Nhập khẩu góp phần khai thác có hiệu quả lợi thế so sánh của một quốc gia,
tham gia sâu rộng và sự trao đổi quốc tế và sự phân công lao động quốc tế trên cơ
sở chuyên môn hoá sản xuất, gắn thị trường trong nước với thị trường thế giới, từng
Khoa QTKD
14
bước hoà nhập nền kinh tế quốc gia với nền kinh tế thế giới phù hợp với trình độ
phát triển của nền kinh tế.
Tuy nhiên, để phát huy được hết vai trò và nhiệm vụ của hoạt động nhập khẩu
còn tuỳ thuộc và quan điểm đường lối lãnh đạo của mỗi nước. Với nước ta, trong cơ
chế kế hoạch hoá tập trung, nhà nước quản lý kinh tế đối ngoại tập trung bằng mệnh
lệnh, nghị định của chính phủ… làm cho hoạt động nhập khẩu mất đi tính linh hoạt
và không đúng với bản chất của nó. Từ sau ĐH VI, nhà nước đã đổi mới cơ chế
quản lý kinh tế đối ngoại phù hợp với nền kinh tế thị trường thì hoạt động nhập
khẩu đang dần khởi sắc và đi vào quỹ đạo của nó.
Tuy chỉ qua một thời gian ngắn mà hoạt động nhập khẩu đã phát huy
được vai trò lớn của nó, thực sự đã tạo cho thị trường trong nước trở nên sôi động,
đa dạng và phong phú về hàng hoá, vật tư. Tạo ra sự cạnh tranh mạnh mẽ giữa các
doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Nền kinh tế nước ta đang chuyển mình
hoà nhập với nền kinh tế khu vự và thế giới.
2. CÁC BƯỚC TIẾN HÀNH NHẬP KHẨU TẠI CÁC DOANH NGHIỆP.
2.1. Nghiên cứu thị trường nhập khẩu
Nghiên cứu thị trường nhập khẩu là cả một quá trình tìm kiếm khách hàng và
có hệ thống cùng với việc phát triển tổng hợp các thông tin cần thiết để giải quyết
vấn đề Marketing. Bởi vậy, nghiên cứu thị trường ngày càng đóng vai trò quan trọng
để giúp các nhà kinh doanh đạt hiệu quả cao trong hoạt động nhập khẩu.
Để nắm vững các yếu tố thị trường hiểu rõ quy luật vận động của thị trường
nhăm ứng xử kịp thời, các nhà nhập khẩu nhất thiết phải tiến hành công tác nghiên
cứu thị trường, bao gồm: Nghiên cứu mặt hàng nhập khẩu, nghiên cứu dung lượng
thị trường, lựa chọn bạn hàng, nghiên cứu giá cả hàng hoá trong nhập khẩu.
2.1.1. Nghiên cứu mặt hàng nhập khẩu.
Mục đích nghiên cứu mặt hàng nhập khẩu là để tiến hành nhập khẩu đúng
chủng loại mà thị trường trong nước cần kinh doanh có hiệu quả, đạt được mục tiêu
lợi nhuận của doanh nghiệp. Việc nhận biết mặt hàng nhập khẩu trước hết căn cứ
Khoa QTKD
15
vào nghiên cứu sản xuất và tiêu dùng trong nước về số lượng, chất lượng, tính thời
vụ, thị hiếu cũng như tập quán tiêu dùng của từng vùng, từng lĩnh vực sản xuất. Từ
đó tiến hành xem xét các khía cạnh của hàng hoá cần nhập khẩu như công dụng, đặc
tính, quy cách, phẩm chất, mẫu mã, giá cả, điều kiện mua bán, kỹ năng sản xuất và
các dịch vụ kèm theo…
2.1.2. Nghiên cứu dung lượng thị trường.
Dung lượng thị trường là khối lượng hàng hoá được giao dịch trên một phạm
vi thị trường nhất định trong một thời gian nhất định, thường là một năm. Nghiên
cứu dung lượng thị trường phải xác định nhu cầu thật của khách hàng và khả năng
cung cấp của nhà sản xuất. Nghiên cứu dung lượng của thị trường nhằm hiểu rõ hơn
về quy luật vận động của thị trường.
2.1.3. Lựa chọn bạn hàng.
Trong thương mại quốc tế, bạn hàng hay khách hàng là những người hoặc
những tổ chức có quan hệ với ta nhằm thực hiện các quan hệ hợp đồng mua bán
hàng hoá hay dịch vụ, các hoạt động hợp tác kinh tế hay khoa học kỹ thuật liên quan
đến việc cung cấp hàng hoá.
Chọn thương nhân để giao dịch: Thường chọn những người xuất nhập khẩu
trực tiếp. Chúng ta cần quan tâm đến quan điểm kinh doanh của thương nhân đó,
lĩnh vực kinh doanh của họ, vốn, cơ sở vật chất, uy tín và mối quan hệ trong kinh
doanh của họ.
2.1.4. Nghiên cứu giá cả hàng hoá trong nhập khẩu.
Giá cả luôn gắn liền với thị trường và là một yếu tố cấu thành thị trường,
nghiên cứu giá cả thị trường là một bộ phận của nghiên cứu thị trường, nó bao gồm
các công việc sau: Nghiên cứu mức giá từng mặt hàng tại từng thời điểm trên thị
trường, xu hướng biến động và các nhân tố ảnh hưởng.
Giá quốc tế có tính chất đại diện đối với một loại hàng hoá nhất định trên thị
trường thế giới và là giá của những giao dịch thông thường, không kèm theo một
điều kiện đặc biệt nào và thanh toán bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi.
Khoa QTKD
16
2.2. Lập phương án kinh doanh.
Bao gồm các bước sau:
– Đánh giá tình hình thị trường và thương nhân.
– Lựa chọn mặt hàng, thời cơ, điều kiện và phương thức kinh doanh.
– Đề ra những mục tiêu cụ thể như : sẽ nhập khẩu bao nhiêu với giá cả bao
nhiêu, nhập ở thị trường nào và tình hình tiêu thụ hàng hoá đó như thế nào.
– Đề ra biện pháp thức hiện: Bao gồm cả biện pháp đối với trong nước và
biện pháp đối với thị trường ngoài.
– Sơ bộ đánh giá hiệu quả kinh tế của hoạt động kinh doanh
2.3. Giao dịch, đàm phán và ký kết hợp đồng.
2.3.1. Các phương thức chủ yếu trong giao dịch nhập khẩu.
Dưới đây là một số phương thức giao dịch cơ bản trong buôn bán quốc tế:
* Giao dịch trực tiếp: Giao dịch trực tiếp trong kinh doanh thương mại quốc
tế là giao dịch mà người mua (hoặc bán) thoả thuận, bàn bạc trực tiếp (hoặc thông
qua thư từ, điện tín…) với người bán (người mua) về hàng hoá, giá cả, giao dịch,
phương thức thanh toán. Trong phương thức thanh toán này hai bên tiếp cận thị
trường hỏi giá, báo giá, chào hàng và đi đến chấp thuận giá cả của hàng hoá đó. Và
từ đó đi đến ký kết hợp đồng nhập khẩu hàng hoá.
* Giao dịch qua trung gian: Giao dịch qua trung gian trong kinh doanh
Thương mại quốc tế là giao dịch mà người mua (hoặc người bán) quy định về điều
kiện trong giao dịch mua bán về hàng hoá, giá cả, điều kiện giao dịch, phương thức
thanh toán… phải qua một người thứ ba là người trung gian buôn bán(chủ yếu là các
cửa hàng đại lý, các tổ chức môi giới). Việc sử dụng đại lý và môi giới có nhiều ưu
điểm: Những người trung gian hiểu rõ về tình hình thị trường, luật pháp, tập quán
địa phương, giảm được chi phí vận chuyển, hình thành được đại lý buôn bán tiêu
thụ rộng, tạo điều kiện cho việc chiếm lĩnh thị trường mới. Tuy nhiên giao dịch này
cũng có những nhược điểm là mất liên hệ trực tiếp với khách hàng, thị trường buôn
bán, lợi nhuận bị chia sẻ….
Khoa QTKD
17
* Giao dịch tại hội chợ triển lãm: Hội chợ là thị trường hoạt động định kỳ tổ
chức vào một thời gian nhất định. Tại đó người bán trưng bày hàng hoá của mình và
tiếp xúc với người mua để ký kết hợp đồng mua bán.
* Giao dịch tại sở giao dịch hàng hoá: Sở giao dịch hàng hoá là thị trường
đặc biệt, tại đó thông qua người môi giới do sở giao dịch chỉ định người mua và
người bán mua bán hàng hoá có khối lượng lớn có phẩm chất đồng loại và có thể
thay thế nhau. Các loại giao dịch ở sở giao dịch là: Giao dịch ngay, giao dịch kỳ
hạn, nghiệp vụ tự bảo hiểm…
2.3.2. Đàm phán
Đàm phán thương mại là quá trình trao đổi ý kiến của các chủ thể trong một
quan hệ kinh doanh nhằm đi tới thống nhất các điều kiện, cách xử lý những vấn đề
nảy sinh trong quan hệ buôn bán. Nội dung của các cuộc đàm phán thương mại
gồm: Tên hàng, phẩm chất, số lượng, bao bì, đóng gói, giao hàng, giá cả, thanh
toán, bảo hiểm, bảo hành…
2.3.3. Ký kết hợp đồng nhập khẩu.
Một hợp đồng kinh tế ngoại thương là sự thoả thuận giữa những đương sự có
quốc tịch khác nhau trong đó một bên bán (bên xuất khẩu) là một tài sản nhất định
gọi là hàng hoá. Bên mua có trách nhiệm trả tiền và nhập hàng. Hình thức hợp đồng
bằng văn bản là một hình thức bắt buộc đối với các đơn vị XNK ở nước ta. Các điều
khoản trong hợp đồng do bên mua và bên bán thoả thuận chi tiết, mặc dù trước đó
đã có đơn đặt hàng và chào hàng, nhưng vẫn phải thiết lập văn bản hợp đồng làm cơ
sở pháp lý cụ thể cho các hoạt động trao đổi hàng hoá từ quốc gia này sang quốc gia
khác, và làm căn cứ cho việc xác định lỗi khi có tranh chấp xảy ra.
2.4. Tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu.
Sau khi hợp đồng nhập khẩu được ký kết, đơn vị kinh doanh XNK với tư
cách là một bên ký kết – phải tổ chức thực hiện hợp đồng đó. Nói chung cần tiến
hành các công việc sau:
Khoa QTKD
18
– Khi thực hiện hợp đồng nhập khẩu, doanh nghiệp phải xin giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh và giấy chứng nhận đăng ký mã số doanh nghiệp xuất nhập
khẩu và xin giấy phép nhập khẩu đối với hàng chuyên ngành.
– Kiểm tra chất lượng hàng hoá nhập khẩu: Theo NĐ 200/CP ngày
31/12/1973 và Thông tư liên Bộ GTVT- Ngoại thương số 52/TTLB ngày 25/1/1975,
hàng nhập khẩu khi đi qua cửa khẩu cần được kiểm tra kỹ càng. Doanh nghiệp nhập
khẩu, với tư cách là một bên đứng tên trong vận đơn, phải lập thư dự kháng nếu
nghi ngờ hoặc thực sự thấy hàng có tổn thất, sau đó phải yêu cầu công ty bảo hiểm
lập biên bản giám định nếu tổn thất xảy ra bởi những rủi ro đã được mua bảo hiểm.
– Thuê tàu chở hoặc uỷ thác thuê tàu: Trong quá trình thực hiện hợp đồng
nhập khẩu việc thuê tàu chở hàng được tiến hành dựa vào: Những điều khoản của
hợp đồng mua bán ngoại thương, đặc điểm hàng mua bán và điều kiện vận tải. Chủ
hàng nhập khẩu phải căn cứ vào đặc điểm và khối lượng vận chuyển của hàng hoá
để lựa chọn thuê tàu cho phù hợp đảm bảo thuận lợi và nhanh chóng.
– Mua bảo hiểm: Các chủ hàng nhập khẩu của ta, khi cần mua bảo hiểm, đều
mua tại các Công ty Việt nam để đề phòng rủi ro. Các đơn vị kinh doanh khi mua
bảo hiểm phải làm một hợp đồng với công ty bảo hiểm. Tuỳ thuộc vào đặc điểm
tính chất của hàng hoá, điều kiện vận chuyển mà mua bảo hiểm chuyến hay mua
bảo hiểm bao. Có ba điều kiện bảo hiểm chính: Bảo hiểm rủi ro (Điều kiện A), Bảo
hiểm có tổn thất riêng (Điều kiện B) và Bảo hiểm miễn tổn thất riêng (Điều kiện C).
– Làm thủ tục Hải quan: Hàng hoá khi đi ngang qua biên giới quốc gia để
nhập khẩu đều phải làm thủ tục Hải quan. Thủ tục Hải quan là một công cụ quản lý
hành vi mua bán theo pháp luật của Nhà nước để ngăn chặn buôn lậu. Việc làm thủ
tục Hải quan gồm ba bước chủ yếu: Khai báo Hải quan, xuất trình hàng hoá và thực
hiện các quyết định của Hải quan.
– Giao nhận hàng nhập khẩu: Theo NĐ 200/CP ngày 31/12/1973 “ Các cơ
quan vận tải có trách nhiệm tiếp nhận hàng nhập khẩu trên các phương tiện vận tải
từ nước ngoài vào, bảo quản hàng hoá đó trong quá trình xếp dỡ, lưu kho, lưu bãi và
giao cho các đơn vị đặt hàng theo lệnh giao hàng của tổng công ty đã nhập hàng
Khoa QTKD
19
đó”. Và theo NĐ 200/CP ngày 31/12/1993 của nhà nước thì mọi việc giao nhận
hàng đều phải uỷ thác qua cảng khi hàng về cảng.
– Làm thủ tục thanh toán: Nghiệp vụ thanh toán là sự vận dụng tổng hợp các
điều kiện thanh toán quốc tế, là nghiệp vụ quan trọng và cuối cùng trong việc thực
hiện hợp đồng nhập khẩu. Trong kinh doanh thương mại hiện nay có rất nhiều
phương thức thanh toán khác nhau như: phương thức nhờ thu, phương thức điện
chuyển tiền và phương thức tín dụng chứng từ.
+ Khiếu nại và giải quyết khiếu nại: Khi thực hiện hợp đồng nhập khẩu, nếu chủ
hàng nhập khẩu phát hiện thấy hàng nhập khẩu bị tổn thất, đổ vỡ, thiếu hụt, mất mát
thì cần lập hồ sơ khiếu nại ngay để khỏi bỏ lỡ thời gian khiếu nại.
3. CÁC KHÁI NIỆM VỀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH DOANH TRONG
HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU CỦA DOANH NGHIỆP.
3.1. Các quan điểm về hiệu quả.
Khi đề cập đến vấn đề hiệu quả có thể đứng trên nhiều góc độ khác nhau để
xem xét.
Nếu xét theo hiệu quả cuối cùng thì: Hiệu quả kinh tế là mức độ chênh lêch
giữa doanh số thu được và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. Đứng trên góc độ
này thì phạm trù hiệu quả đông nhất với lợi nhuận. Hiệu quả kinh doanh cao hay
thấp là tuỳ thuộc vào trình độ tổ chức hoạt động sản xuất – kinh doanh và tổ chức
quản lý trong toàn doanh nghiệp.
Nếu đứng trên góc độ các yếu tố riêng lẻ để xem xét thì hiệu quả thể hiện trình
độ và khả năng sử dụng các yếu tố đó trong quá trình sản xuất-kinh doanh. Nó phản
ánh kết quả kinh tế thu được từ việc sử dụng các yếu tố tham gia vào hoạt động sản
xuất-kinh doanh. Chỉ tiêu hiệu quả là một chỉ tiêu chất lượng tổng hợp phản ánh
trình độ lợi dụng các yếu tố tham gia quá trình sản xuất-kinh doanh. Đồng thời là
phạm trù kinh tế gắn liền với sản xuất hàng hoá, phản ánh trình độ của nền sản xuất
hàng hoá, sản xuất hàng hoá có phát triển hay không là do hiệu quả đạt được cao
hay thấp, chỉ tiêu hiệu quả phản ánh cả về mặt định lượng và cả về mặt định tính.
Về mặt định lượng thì hiệu quả kinh tế của hoạt động sản xuất-kinh doanh phản ánh
mối tương quan giữa kết quả thu được và chi phí bỏ ra. Về mặt định tính nó phản
Khoa QTKD
20
ánh ảnh hưởng của hoạt động sản xuất – kinh doanh đối với việc giải quyết những
yêu cầu và mục tiêu kinh tế, những yêu cầu và mục tiêu chính trị – xã hội.
Khi đứng trên phạm vi khác nhau để xem xét vấn đề hiệu quả thì có thể chia
hiệu quả làm nhiều loaị khác nhau.
Nếu đứng trên phạm vi xã hội và nền kinh tế quốc dân để xem xét thì gồm có
hiệu quả KT- XH và hiệu quả chính trị. Cả hai chỉ tiêu hiệu quả này đều có vị trí
quan trọng trong việc phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.
Nếu đứng trên phạm vi từng yếu tố, từng doanh nghiệp riêng lẻ thì có phạm
trù hiệu quả kinh tế và phạm trù hiệu quả kinh doanh.
Hiệu quả kinh tế của một hoạt động sản xuất-kinh doanh nhăm đề cập tới
những lợi ích kinh tế mà hoạt động đó thu được thông qua việc so sánh giữa các chỉ
tiêu phản ánh kết quả kinh doanh và chi phí bỏ ra. Hiệu quả kinh tế không phản ánh
quy mô, hình thức của hoat động kinh tế mà phản ánh về mặt chất lượng của nó.
Trong quá trình phát triển sản xuất xã hội thì nguồn tài nguyên ngày càng khan hiếm
và trở nên đắt hơn, người ta thấy rằng kết quả thu được từ các hoạt động đó là rất
thấp. Lý luận hiệu quả kinh tế băt nguồn từ yêu cầu thự tế của quá trình sản xuất
nhằm diễn giải, đánh giá chất lượng của toàn bộ quá trình hoạt động đó đồng thời
tác động tích cực trở lại công tác quản lý, tổ chức kinh doanh được tốt hơn. Vấn đề
hiệu quả kinh tế trở thành chỉ tiêu đánh giá hoạt động kinh doanh chung của quốc tế
khi đưa ra thảo luận năm 1878 do Sapodơnicop cùng các nhà kinh tế và khoa học
khác trình bày. Nhưng mãi tới năm 1910 thì hiệu quả kinh tế mới chính thức được
thống nhất và được công nhận băng văn bản. Từ đó tới nay, khái niệm về hiệu quả
kinh tê luôn được quan tâm nghiên cứu, hoàn thiện và trở thành bộ phân quan trọng
của kinh tế học trong nền kinh tế thị trường. Quan điểm về hiệu quả kinh tế được
chia thành ba hệ thống quan điểm sau:
* Hệ thống quan điểm thứ nhất: Cho răng hiệu quả kinh tế được xác định bởi
tỷ số giữa kết quả thu được và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. Hiệu quả kinh
tế được đánh giá theo công thức:
Khoa QTKD
21
Q
H= ——
C
Trong đó: Q : Là kết quả đạt được.
C : Là chi phí bỏ ra.
Theo cách đánh giá hiệu quả kinh tế của quan điểm này thì số lần đạt được kết
quả so với chi phí ngày càng lớn thì hiệu quả kinh tế càng cao. Đại diện cho quan
điểm này là Colicop phát biểu: “Hiệu quả sản xuất là tính hiệu quả của một nền sản
xuất nhất định. Chúng ta sẽ so sánh kết quả với chi phí cần thiết để đạt kết quả đó.
Khi lấy tổng sản phẩm chia cho vốn sản xuất chúng ta được hiệu suất vật tư, tổng
sản phẩm chia cho số vật tư ta được hiệu suất lao động ”. Trong cuốn “ Những vấn
đề cơ bản về nâng cao hiệu quả kinh tế của nền sản xuất xã hội” xuất bản năm 1982,
PTS Trần Văn Đức cho rằng: “Hiệu quả kinh tế được xem xét trong mối tương quan
giữa một bên là kết quả thu được và một bên là chi phí bỏ ra ”. Tác giả Lê Thụ cũng
đã xác định: “Hiệu quả kinh tế là chỉ tiêu tổng hợp nhất về chất lượng của hoạt động
SX-KD. Nội dung của nó là so sánh kết quả thu được và chi phí bỏ ra”.
* Hệ thống quan điểm thứ hai: Cho rằng hiệu quả kinh tế được đo bằng hiệu
số giữa giá trị sản xuất đạt được và chi phí bỏ ra đẻe đạt được kết quả đó. Theo
quan điểm này hiệu quả kinh tế được xác định bằng công thức:
H = Q – C
Trong đó: Q : Là giá trị sản xuất đạt được.
C : Là chi phí bỏ ra.
Có thể nói hiệu quả kinh tế được tính theo quan điểm này là phần tăng thêm
về giá trị từ kết quả thu được so với chi phí bỏ ra. Theo quan điểm này, tác giả Đỗ
Thịnh cho rằng: “Thông thường hiệu quả được biểu hiện như một hiệu số giữa kết
quả và lượng chi phí… Tuy nhiên, trong thực tế có nhiều trường hợp không thực
hiện được phép trừ không có ý nghĩa. Do vậy nói một cách linh hoạt hơn nên hiểu
hiệu quả kinh tế theo quan điểm này là:
Khoa QTKD
22
Qt – Qt-1
H = ————–
Ct – Ct-1
Trong đó: Qt và Qt-1 : Là kết quả của hai thời kỳ liên kết.
Ct và Ct-1 : Là chi phí tương ứng với Qt và Qt-1.
Quan điểm này thường được dùng để đánh giá hiệu quả kinh tế trong tổng thể
kinh tế – xã hội. Quan điểm tổng thể của LN. Canieop cho rằng: “Hiệu quả của sản
xuất xã hội được tính toán và kế hoạch hoá trên cơ sở những nguyên tác chung đối
với nền KTQD bằng cách so sánh kết quả của sản xuất với chi phí hoặc nguồn dự
trữ đã sử dụng.
Từ hệ thống quan điểm hiệu quả kinh tế trên cho thấy khái niệm hiệu quả kinh
tế là một phạm trù kinh tế, nó được hình thành, bổ sung và hoàn thiện cùng với quá
trình của lịch sử phát triển kinh tế. Để áp dụng khái niệm hiệu quả kinh tế cho việc
phân tích một cách đầy đủ, chính xác các hình thức kinh tế, chúng ta cần kết hợp hài
hoà việc sử dụng ba hệ thống quan điểm trên. Mỗi hệ thống quan điểm hiệu quả
kinh tế sẽ được áp dụng để phân tích hiện tượng kinh tế theo từng lĩnh vực với mức
độ, phạm vi không gian thời gian cụ thể. Chẳng hạn khi phân tích kết quả kinh tế
của một hiện tượng mà chỉ chú trọng tới hệ thông quan điểm thứ nhất thì sẽ không
được hiệu quả thực của các mức đầu tư tạ các giai đoạn khác của hoạt động kinh tế
đó. Điều đó dẫn tới sai sót trong việc hoạch định kết quả quản lý trong tương lai.
Thường những ngành đạt tỷ suất nguồn vốn lớn là ngành sản xuất có quy mô nhỏ,
có chu kỳ sống của sản phẩm ngắn, mức độ cạnh tranh và rủi ro cao nên việc so
sánh hiệu quả của các quy mô sản xuất khác nhau. Xét hiệu qủa kinh tế của hoạt
động kinh doanh theo tỷ số giữa gia tăng hiệu quả và gia tăng chi phí tương ứng
theo thời kỳ là xét hiệu quả kinh tế của vốn đầu tư ứng với nền tảng cơ sở vật chất
hay nguồn lực đã có sẵn, ứng với các mức đầu tư theo các giai đoạn khác nhau của
Khoa QTKD
23
cùng một hoạt động kinh tế ta đã thu được các mức gia tăng của kết quả là khác
nhau.
Vậy, khái niệm hiệu quả kinh tế có thể được mở rộng theo ba hệ thống quan
điểm trên là: Hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế đánh giá một cách tổng quát
chất lượng các hoạt động kinh tế thông qua các chỉ tiêu hiệu số, chỉ tiêu so sánh hay
sự gia tăng giữa kết quả và chi phí để đạt kết quả đó theo những lĩnh vực trong
những điều kiện cụ thể.
Ngoài các công thức tổng quát trên thì hiệu quả kinh tế của một hoạt động
kinh doanh được đánh giá thông qua nhiều chỉ tiêu khác nhau, trong đó chủ yếu là:
– Tỷ suất lợi nhuận trên vốn (TLN):
Q – C
TLN = ——–
C
Trong đó: Q : Là kết quả thu được.
C : Là chi phí bỏ ra.
Chỉ tiêu này là cơ sở để đánh giá cơ hội đầu tư vào các hoạt động kinh doanh
khác nhau, nó còn dùng để so sánh cơ hội và lãi suất, lạm phát, mức tăng giảm của
tỷ giá hối đoái… để có chính sách đúng cho đầu tư tương lai.
– Suất chi phí ( HC):
HC = C/Q.
Chỉ tiêu này biểu hiện tỷ trọng chi phí cần thiết để có được một đơn vị kết quả
hay còn gọi là suất tiêu hao. Nó thường được để định giá các sản phẩm trước khi
tung ra thị trường.
– Tỷ suất doanh lợi ( Rb):
B + A
Khoa QTKD
24
Rb = ——— x %
S
Trong đó: B : Lãi.
A : Khấu hao.
S : Tổng số tiền bỏ ra để kinh doanh.
– Thời gian hoàn vốn: ( T ):
S
T = ————
B + A + I
Trong đó: I : Là khoản trả tiền lợi tức và tiền vay.
– Doanh lợi hoà vốn ( S0).
d
S0 = ——-
V
1 – —-
S
Trong đó: d : Những chi phí cố định.
V : Tổng chi phí khả biến.
S : Tổng doanh thu bán hàng.
LN
– Mức sinh lời của vốn lưu động = ——–
VLĐ
Trong đó: LN : Lợi nhuận trong kỳ.
VLĐ : Vốn lưu động.
Chỉ tiêu này phản ánh cứ một đồng vốn bỏ ra SX – KD thì thu được bao nhiêu
đồng lợi nhuận.
– Số lần chu chuyển vốn lưu động ( L ).
Khoa QTKD
25
M
L = ———-
VLĐ
Trong đó: M : Tổng doanh thu.
– Mức lợi nhuận đạt được trên một lao động ( PLĐ):
LN
PLĐ = ——-
T
Trong đó: T: Tổng số lao động bình quân.
Chỉ tiêu này phản ánh lợi nhuận mà một lao động làm ra trong kỳ, chỉ tiêu này
càng lớn phản ánh hiệu quả sử dụng lao động càng cao.
Zt
– Tỷ suất ngoại tệ hàng nhập khẩu = —–
C
Trong đó: Zt : Là giá bán buôn trong nước.
C : Tổng chi phí bỏ ra.
Chỉ tiêu này phản ánh số lượng bản tệ bỏ ra để thu được một đơn vị ngoại tệ.
Như vậy, các chỉ tiêu tổng quát phản ánh hiệu quả của toàn bộ quá trình SX-
KD của toàn doanh nghiệp. Nó là kết quả của sự nỗ lực nhằm nâng cao hiệu hiệu
quả SX-KD của doanh nghiệp. Vì thế các chỉ tiêu này càng lớn thì phản ánh hiệu
quả kinh doanh của doanh nghiệp càng cao.
Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng các yếu tố thì phản ánh hiệu quả dụng
từng yếu tố tham gia vào quá trình SX-KD của doanh nghiệp. Các chỉ tiêu này càng
lớn phản ánh hiệu quả sử dụng các yếu tố càng cao, tất cả đều góp phần vào việc
nâng cao hiệu quả SX-KD của toàn doanh nghiệp, đồng thời nó cũng phản ánh một
khía cạnh nào đóhiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp thông qua hoạt động nhập
khẩu vật tư, thiết bị.