TIỂU LUẬN:
Biện chứng giữa vấn đề dân tộc và giai
cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Bài làm:
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những
vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách
mạng xã hội chủ nghĩa; là kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mac-
Lenin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam; đồng thời là sự kết tinh tinh hoa dân tộc và trí
tuệ thời đại nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Trong
đó tư tưởng biện chứng của Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc với vấn đề
giai cấp là một trong những nhân tố đảm bảo thành công của cách mạng Việt Nam, một
trong những đóng góp xuất sắc của Người vào kho tàng lý luận cách mạng của chủ nghĩa
Mác – Lênin.
Quá trình hình thành tư tưởng về vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc của Hồ Chí
Minh đã gắn liền với cuộc đời hoạt động cách mạng của Người ngay từ những năm cuối
thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Như mọi người đều thấy rõ, trước khi học thuyết Mác – Lênin
được truyền bá vào Việt Nam thì các phong trào yêu nước của người Việt Nam chống thực
dân Pháp liên tục nổ ra, nhưng kết cục đều thất bại. Nguyên nhân quan trọng nhất khiến
cho các phong trào đó thất bại chính là do bế tắc về đường lối, mặc dù các bậc lãnh tụ của
những phong trào yêu nước ấy đã dành nhiều tâm huyết cho sự nghiệp của mình, nhưng do
họ không nhận thức được xu thế của thời đại, nên không thấy được giai cấp trung tâm của
thời đại lúc này là giai cấp công nhân – giai cấp đại biểu cho một phương thức sản xuất
mới, một lực lượng tiến bộ xã hội. Do đó, mục tiêu đi tới của những phong trào ấy không
phản ánh đúng xu thế vận động của lịch sử và thời đại, nên không thể đem lại kết quả và
triển vọng tốt đẹp cho sự phát triển của xã hội Việt Nam.
Trước yêu cầu bức xúc của vấn đề giải phóng dân tộc, từ chủ nghĩa yêu nước,
người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã quyết định ra đi tìm đường cứu nước.
”Công lao to lớn đầu tiên của Bác đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam là đã tìm ra con
đường cứu nước, khai phá con đường giải phóng dân tộc và các dân tộc bị áp bức trên thế
giới”.
Trong quá trình ra đi tìm đường cứu nước, qua khảo sát thực tế ở các nước trên
các châu lục Âu, Phi, Mỹ và ngay cả trên đất Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã rút ra nhận xét:
chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa thực dân là nguồn gốc mọi sự đau khổ của công nhân, nông
dân lao động ở cả “chính quốc” cũng như ở thuộc địa. Nghiên cứu các cuộc cách mạng dân
chủ tư sản Mỹ (1776); Pháp (1789), Nguyễn Ái Quốc nhận thấy các cuộc cách mạng này
tuy nêu khẩu hiệu ”tự do”, ”bình đẳng”, nhưng không đưa lại tự do, bình đẳng thực sự cho
quần chúng lao động. Người viết: Tiếng là cộng hoà, dân chủ kì thực trong thì nó bóc lột
công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa. Tuy khâm phục các cuộc cách mạng ấy, nhưng
Nguyên Ái Quốc cho rằng đó là cách mạng chưa đến nơi. Vì thế, Nguyễn Ái Quốc đã tích
cực tham gia hoạt động đấu tranh trong phong trào giải phóng của các dân tộc bị áp bức,
phong trào giải phóng giai cấp công nhân ở các nước tư bản. Chính vì vậy mà Nguyễn Ái
Quốc đã tìm đến với cách mạng Tháng Mười Nga, đến với V.I. Lênin; như một tất yếu lịch
sử. Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi là một sự kiện chính trị đặc biệt quan trọng
trong quá trình hoạt động tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc. Đặc biệt, sau khi đọc
”Sơ thảo lần thứ nhất Luận cương về dân tộc và thuộc địa” của V.I. Lênin, Nguyễn Ái
Quốc đã thấy rõ hơn con đường đúng đắn mà cách mạng Việt Nam sẽ trải qua. Người
khẳng định: ”Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc
bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”; rằng: ”Muốn cứu nước và
giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Kết luận
trên đây của Nguyễn Ái Quốc là sự khẳng định một hướng đi mới, nguyên tắc chiến lược
mới, mục tiêu và giải pháp hoàn toàn mới, khác về căn bản so với các lãnh tụ của các
phong trào yêu nước trước đó ở Việt Nam; đưa cách mạng giải phóng dân tộc vào quỹ đạo
của cách mạng vô sản, tức là sự nghiệp cách mạng ấy phải do Đảng của giai cấp công nhân
lãnh đạo, lấy hệ tư tưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin làm nền tảng. Vì vậy, con đường phát
triển tất yếu của cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng XHCN.
Người chỉ rõ: ”Cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ
nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn”.
Trong quá trình hoạt động thực tiễn cách mạng, Nguyễn Ái Quốc đã đấu tranh và
chỉ đạo giải quyết mối quan hệ giữa giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, bền bỉ
chống các quan điểm không đúng về vấn đề dân tộc và thuộc địa, đã phát triển lý luận về
cách mạng giải phóng dân tộc. Ngay từ khi hoạt động trong phong trào công nhân ở Pháp,
Người đã nhận thấy một hố sâu ngăn cách giữa giai cấp công nhân và nhân dân lao động
”chính quốc” với giai cấp công nhân và nhân dân lao động thuộc địa. Đó là chủ nghĩa sô-
vanh nước lớn của các dân tộc đi thống trị và chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi đối với các dân tộc
bị thống trị.
Trong Đại hội Tua, thành lập Đảng Cộng sản Pháp (1920), Nguyễn Ái Quốc đã
kêu gọi những người xã hội ủng hộ phong trào giải phóng ở các thuộc địa và lên án phái
nghị viện đi theo đường lối cơ hội của Đệ nhị quốc tế, theo đuổi bọn thực dân phản động,
từ chối yêu cầu giải phóng của các dân tộc thuộc địa. Trong nhiều tham luận tại các Đại
hội quốc tế và các bài viết, Nguyễn Ái Quốc đã bảo vệ chủ nghĩa Mác – Lênin, phê bình
một cách kiên quyết và chân thành những sai lầm, khuyết điểm của các Đảng Cộng sản
chính quốc. Các Đảng Cộng sản này, tuy thừa nhận 21 điều kiện của Quốc tế cộng sản,
trong đó Điều 8 quy định các Đảng Cộng sản ở chính quốc phải ủng hộ và hoạt động một
cách thiết thực giúp đỡ phong trào giải phóng dân tộc; nhưng trên thực tế hoạt động rất ít,
do không nhận thức đúng tầm quan trọng của vấn đề thuộc địa.
Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, ngay từ khi mới thành lập, trong ”Chính
cương vắn tắt” do Nguyên Ái Quốc khởi thảo đã khẳng định: ”Chủ trương làm tư sản dân
quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Như vậy là, lần đầu tiên
trong lịch sử cách mạng Việt Nam, với Hồ Chí Minh, sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân
tộc gắn liền với cách mạng XHCN. Cuộc cách mạng này kết hợp trong bản thân nó tiến
trình của hai sự nghiệp giải phóng: giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ thực dân và giải
phóng giai cấp khỏi ách áp bức bóc lột. Vấn đề dân tộc được giải quyết trên lập trường của
giai cấp công nhân – điều đó phù hợp với xu thế thời đại và lợi ích của các giai cấp và lực
lượng tiến bộ trong dân tộc. Sức mạnh đi tới thắng lợi của cách mạng Việt Nam không
phải là cái gì khác mà là mục tiêu dân tộc luôn thống nhất với mục tiêu dân chủ trên cơ sở
định hướng XHCN. Đặc điểm nổi bật của cách mạng Việt Nam là cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân triệt để, tạo tiền đề cho bước chuyển sang thời kỳ quá độ lên CNXH; tức là,
cách mạng XHCN là bước kế tiếp ngay khi cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân thắng lợi
và giữa hai cuộc cách mạng này không có một bức tường nào ngăn cách. Đây là quan điểm
hết sức căn bản của tư tưởng Hồ Chí Minh: chỉ có hoàn thành cách mạng giải phóng dân
tộc mới có điều kiện để tiến lên CNXH và chỉ có cách mạng XHCN mới giữ vững được
thành quả cách mạng giải phóng dân tộc, mới mang lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc
cho mọi tầng lớp nhân dân, mới có độc lập dân tộc thực sự.
Như chúng ta đều biết, Hồ Chí Minh đã đi từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ
nghĩa Mác – Lênin. Từ đó, Người đã phát huy cao độ chủ nghĩa yêu nước truyền thống
Việt Nam, trong sự thống nhất với chủ nghĩa quốc tế vô sản. Bởi vậy, trong tư tưởng Hồ
Chí Minh, đúng như Ph. Ăng-Ghen đã nói: Những tư tưởng dân tộc chân chính… đồng thời
cũng là những tư tưởng quốc tế chân chính. Sự phát triển tự tưởng Hồ Chí Minh đã chỉ đạo
sự phát triển của thực tiễn cách mạng Việt Nam, trong sự thúc đẩy lẫn nhau giữa dân tộc
và giai cấp, ý thức giác ngộ về cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc là tiền đề quyết định
nhất, cũng là động lực chủ yếu để Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Mác – Lênin và tiếp
thu quan điểm mác-xít về giai cấp. Đó chính là nhân tố đảm bảo tính khoa học và cách
mạng cho sự phát triển tinh thần dân tộc đúng đắn ở người chiến sĩ cộng sản Nguyễn Ái
Quốc – Hồ Chí Minh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự kết hợp, gắn bó hữu cơ giữa hai quá trình đấu tranh
cách mạng: giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản không phải chỉ là chứng minh cho sự
đúng đắn của chủ nghĩa Mác – Lênin, mà còn là sự phát triển sáng tạo và có giá trị định
hướng rất cơ bản. Qua thực tiễn đấu tranh và lãnh đạo cách mạng Việt Nam, luôn bám sát
đặc điểm thực tiễn Việt Nam và tham khảo kinh nghiệm các nước khác, Hồ Chí Minh đã
có những giải pháp đúng đắn, sáng tạo, đáp ứng đòi hỏi của lịch sử, góp phần làm phong
phú thêm kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin; đó cũng chính là nguồn gốc sức
mạnh của cách mạng nước ta trong suốt bảy thập kỷ qua. Bởi lẽ:
Một là, cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại ngày nay muốn thành công
triệt để nhất định phải đi theo quỹ đạo và là một bộ phận khăng khít của cách mạng vô sản.
Cuộc cách mạng đó phải đưa vào lực lượng của nhân dân, nòng cốt là liên minh công
nông, do chính Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo. Hồ Chí Minh nhận thức rất rõ, nếu
chỉ đưa vào lực lượng của riêng giai cấp công nhân, thậm chí cả giai cấp nông dân là hoàn
toàn không đủ, mà theo Người, chỉ có phát động cả dân tộc tham gia mới biến sức mạnh
dân tộc thành lực lượng vô địch.
Hai là, cuộc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn giai cấp trong nội bộ dân tộc (mâu
thuẫn địa chủ – nông dân, mâu thuẫn tư sản – vô sản) không tách rời cuộc đấu tranh giải
quyết mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc với các thế lực đế quốc xâm lược. Ở giai đoạn đầu
của cách mạng, cần đặt vấn đề dân tộc, độc lập dân tộc lên trên hết. ”Nếu không giải quyết
được vấn đề dân tộc, không đòi được độc lập tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những
toàn thể dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn
năm cũng không đòi lại được”. ”Chính lập trường và lợi ích giai cấp công nhân đòi hỏi
trước hết phải giải phóng dân tộc”. Ở đây rõ ràng cái giai cấp được biểu hiện ở cái dân tộc,