ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
LÊ THỊ HỒNG NGA
CAN THIỆP TÂM LÍ CHO MỘT TRƢỜNG HỢP
BỆNH NHÂN TRẦM CẢM CÓ HÀNH VI THỦ DÂM
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC
HàNội, 2019
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
LÊ THỊ HỒNG NGA
CAN THIỆP TÂM LÍ CHO MỘT TRƢỜNG HỢP
BỆNH NHÂN TRẦM CẢM CÓ HÀNH VI THỦ DÂM
Chuyên ngành: Tâm lý học lâm sàng
Mã số: Thí điểm
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS: NguyễnThị Minh Hằng
HàNội, 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự
hướng dẫn của PGS.TS. Nguyễn Thị Minh Hằng.
Các số liệu, tài liệu trong luận văn có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng.
Hà Nội, ngày 8 tháng 12 năm 2019
Học viên
Lê Thị Hồng Nga
LỜI CẢM ƠN
Nhân dịp hoàn thành luận văn thạc sĩ, trước hết em xin được bày tỏ lòng biết
ơn tới các thầy, cô trong Khoa Tâm lý học trường Đại học Khoa học, Xã hội &
Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội – những người luôn tận tâm giảng dạy,
truyền đạt cho em những kiến thức, kinh nghiệm quý báu trong suốt 2 năm học tập
tại khoa.
Đặc biệt, em xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất tới PGS.TS Nguyễn Thị
Minh Hằng – người đã dành nhiều thời gian tận tình giúp đỡ, động viên, hướng
dẫn em trong suốt quá trình tiến hành nghiên cứu và đóng góp những ý kiến quý
báu giúp em hoàn thành luận văn thạc sĩ này.
Đồng thời, tôi cũng xin được gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới thân chủ, gia
đình của thân chủ đã cho phép và giúp đỡ để tôi thực hiện được đề tài nghiên cứu.
Sau cùng, xin được gửi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè, đồng nghiệp và các
học viên trong lớp Cao học tâm lý học lâm sàng (theo định hướng ứng dụng) khóa 1
đã luôn đồng hành và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Hà Nội, ngày 02 tháng 12 năm 2019
Học viên
Lê Thị Hồng Nga
1
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU …………………………………………………………………………………. 4
1. Lý do chọn ca lâm sàng
……………………………………………………………………… 4
2. Nhiệm vụ nghiên cứu ………………………………………………………………………… 5
3. Khách thể nghiên cứu
………………………………………………………………………… 5
CHƢƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRẦM CẢM, HÀNH VI
THỦ DÂM VÀ LIỆU PHÁP CBT
……………………………………………………….. 6
1.1. Tổng quan về rối loạn trầm cảm……………………………………………………. 6
1.1.1. Điểm luận một số nghiên cứu về trầm cảm
……………………………………… 6
1.1.2. Các nghiên cứu về đánh giá và can thiệp trầm cảm
…………………………. 8
1.2. Một số vấn đề lý luận về trầm cảm
………………………………………………. 11
1.2.1. Lý thuyết về trầm cảm ………………………………………………………………… 11
1.2.2. Khái niệm trầm cảm …………………………………………………………………… 13
1.2.3. Tiêu chuẩn chẩn đoán trầm cảm
………………………………………………….. 15
1.2.4. Chẩn đoán phân biệt ………………………………………………………………….. 18
1.2.5. Lý luận về thủ dâm …………………………………………………………………….. 19
1.3. Các phƣơng pháp đánh giá và can thiệp rối loạn trầm cảm ở một
trƣờng hợp bệnh nhân có hành vi thủ dâm ………………………………………… 22
1.3.1. Lịch sử phát triển liệu pháp nhận thức hành vi trong điều trị trầm cảm
…. 22
1.3.2. Đặc điểm của liệu pháp nhận thức hành vi trong điều trị trầm cảm
…. 24
1.3.3. Các kĩ thuật trong trị liệu nhận thức hành vi
…………………………………. 25
CHƢƠNG 2. CAN THIỆP TÂM LÝ CHO MỘT TRƢỜNG HỢP CÓ
HÀNH VI THỦ DÂM ……………………………………………………………………….. 30
2.1. Thông tin chung về thân chủ
……………………………………………………….. 30
2.1.1. Thông tin hành chính …………………………………………………………………. 30
2.1.2. Lý do thăm khám/ lời yêu cầu ……………………………………………………… 30
2.1.3. Hoàn cảnh gặp gỡ ……………………………………………………………………… 31
2.1.4. Ấn tượng ban đầu về thân chủ …………………………………………………….. 31
2
2.2. Các vấn đề đạo đức …………………………………………………………………….. 31
2.2.1. Đạo đức trong tiếp nhận ca lâm sàng
…………………………………………… 31
2.2.2. Đạo đức trong việc sử dụng các công cụ đánh giá và thực hiện quy
trình đánh giá …………………………………………………………………………………….. 33
2.2.3. Đạo đức trong can thiệp trị liệu
…………………………………………………… 33
2.3. Đánh giá …………………………………………………………………………………….. 34
2.3.1. Mô tả vấn đề
……………………………………………………………………………… 34
2.3.2. Kết quả đánh giá ……………………………………………………………………….. 35
2.3.3. Định hình trường hợp ………………………………………………………………… 37
2.4. Lập kế hoạch can thiệp ……………………………………………………………….. 40
2.4.1. Xác định mục tiêu
………………………………………………………………………. 40
2.4.2. Kế hoạch can thiệp
………………………………………………………………… 45
2.5. Thực hiện can thiệp
…………………………………………………………………….. 46
2.6. Đánh giá hiệu quả can thiệp
………………………………………………………… 74
2.6.1. Cách thức đánh giá và các công cụ lâm sàng sử dụng để đánh giá
….. 74
2.6.2. Kết quả đánh giá ……………………………………………………………………….. 75
2.7. Kết thúc ca và theo dõi sau trị liệu ………………………………………………. 76
2.7.1. Tình trạng hiện thời của thân chủ
………………………………………………… 76
2.7.2. Kế hoạch theo dõi sau trị liệu ……………………………………………………… 77
2.8. Bàn luận chung
…………………………………………………………………………… 77
2.8.1. Bàn luận chung về ca lâm sàng đã thực hiện ………………………………… 77
2.8.2. Tự đánh giá về chất lượng can thiệp trị liệu
………………………………….. 78
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
……………………………………………………… 81
TÀI LIỆU THAM KHẢO …………………………………………………………………. 83
PHỤ LỤC …………………………………………………………………………………………… 1
3
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DSM
Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders
Cẩm nang chẩn đoán các rối loạn tâm thần
ICD
International Statistical Classification of Diseases and
Related Health Problems
Bảng phân loại quốc tế về các bệnh tâm thần
TC
Trầm cảm
NTL
Nhà tâm lý
CBT
Cognitive Behavioral Therapy
Trị liệu nhận thức hành vi
4
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn ca lâm sàng
Xã hội càng phát triển, những áp lực từ cuộc sống công việc học tập ngày
một đè nặng lên vai những người trẻ trong độ tuổi từ 15-30 tuổi những áp lực căng
thẳng đó đã đem đến cho họ cả những tích cực và cả những tiêu cực. Về mặt tích
cực nếu họ chấp nhận những áp lực căng thẳng sẽ mang đến cho họ những trải
nghiệm mới, họ mang đến thành công và khẳng giá trị của bản thân. Tuy nhiên
không phải bất cứ ai cũng có thể ứng phó với những áp lực căng thẳng trong cuộc
sống, công việc và học tập. Khi sự ứng phó của họ không đáp ứng được sẽ mang
đến cho họ những rối nhiễu tâm trí, họ sống thu mình, thiếu tự tin hay lo lắng và
mức độ nặng có thể dẫn đến tự sát và một loạt các trạng thái khác nhau, từ những
rối nhiễu tâm trí như lo âu, trầm cảm, ám ảnh hay các chứng hoang tưởng, tâm thần
phân liệt, động kinh… Trong đó, trầm cảm là một hiện tượng bệnh lý xuất
hiện ngày càng nhiều trong cuộc sống hiện nay.
Theo thống kê của tổ chức WHO, năm 2015 ở Việt Nam có 3.500.000 bị rối
loạn trầm cảm chiếm 4% dân số và có dấu hiệu gia tăng trong khoảng thời gian gần
đây. Trong đó có khoảng 5.000 người chết vì tự tử do người trầm cảm có nguy cơ tự
tử cao gấp 25 lần so với người khác. Rối loạn trầm cảm là một rối loạn tâm thần, nó
ảnh hưởng nhiều đến chất lượng sống của người bệnh, ở mức độ nặng bệnh nhân có
thể bị ảnh hưởng đến tính mạng do nguy cơ tự sát cao.
Theo Tổ chức y tế thế giới tới năm 2020 trầm cảm chỉ đứng sau các bệnh tim
mạch về gánh nặng bệnh tật và nguyên nhân gây tử vong [3]. Rối loạn trầm cảm
ảnh hưởng tất cả mọi người ở mọi lứa tuổi từ trẻ em đến người già một số nghiên
cứu chỉ ra rằng, khi kết hợp thuốc chống trầm cảm và liệu pháp hành vi nhận thức
trong điều trị trầm cảm thì cho kết quả tốt trên 71%, điều trị liệu pháp hành vi nhận
thức mức độ thành công đạt tỉ lệ 43% liệu pháp nhận thức hành vi đang được sử
dụng rộng rãi ở Mỹ [1] , dựa trên lý thuyết hành vi cơ bản và những chứng cớ hiện
tại để cấu thành hành vi có thể kích hoạt cơ chế của sự thay đổi liệu pháp hành vi
nhận thức trong lâm sàng trầm cảm [12].
5
Tóm lại tôi nhận thấy rằng cần phải chứng minh mức độ thành công của việc
áp dụng liệu pháp CBT đối với một trường hợp bệnh nhân mắc rối loạn trầm cảm cụ
thể. Vì vậy tôi đã chọn đề tài nghiên cứu: “Can thiệp tâm lý cho một trường hợp có
hành vi thủ dâm”.
2. Nhiệm vụ nghiên cứu
– Điểm luận một số nghiên cứu về điều trị trầm cảm bằng liệu pháp CBT
– Xác định các phương pháp và công cụ đánh giá cho một bệnh nhân trầm
cảm tuổi đầu thanh niên
– Trình bày một số khái niệm liên quan đến trầm cảm: khái niệm, triệu
chứng, tiêu chuẩn chẩn đoán
– Thực hiện liệu pháp CBT để điều trị cho một bệnh nhân trầm cảm có hành
vi thủ dâm
– Đánh giá hiệu quả của liệu pháp CBT đối với trường hợp cụ thể.
– Đưa ra kết luận, khuyến nghị
3. Khách thể nghiên cứu
Một bệnh nhân trầm cảm có hành vi thủ dâm
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu tài liệu
Phương pháp quan sát lâm sàng
Phương pháp hỏi chuyện lâm sàng
Phương pháp trắc nghiệm/thang đo
Phương pháp nghiên cứu trường hợp
6
CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRẦM CẢM, HÀNH VI THỦ DÂM
VÀ LIỆU PHÁP CBT
1.1. Tổng quan về rối loạn trầm cảm
1.1.1. Điểm luận một số nghiên cứu về trầm cảm
Năm 1899 nhà Tâm thần học người Đức Kraepelin mô tả thao cuồng và sầu uất
là hai hình thái đối lập nhau trong một bệnh cảnh và đặt tên là loạn thần hưng trầm cảm
(Psychose – Manico – Depressive). Năm 1950 Kleist phân ra hai thể loạn thần hưng
trầm cảm lưỡng cực và đơn cực. Quan điểm này được chấp nhận cho đến năm 1962
khi Leonard và cộng sự đề xuất sự phân loại thành ba nhóm: Trầm cảm đơn cực, hưng
cảm đơn cực và những bệnh nhân bị cả rối loạn TC và hưng cảm (lưỡng cực). Trầm
cảm đã được các nhà Tâm thần học mô tả một cách cụ thể hơn vào những năm 80 của
thế kỷ XX với đặc trưng: cảm xúc, hành vi và tư duy đều bị ức chế.
Theo J.Angst (1992), L.Judd (1994) và một số tác giả khác, rối loạn trầm
cảm chiếm tỷ lệ 4 – 6,5% dân số. Ở Pháp có khoảng 10% dân số mắc RLTC, tỷ lệ
mắc bệnh chung tại một thời điểm là 2- 3% dân số và ở nhiều nước là từ 3 – 5%.
Theo nghiên cứu của Merikangas và cộng sự cho thấy có khoảng 11% trẻ vị
thành niên trải nghiệm rối loạn trầm cảm ở tuổi 18 (Merikangas và cộng sự,2010),
Các nghiên cứu cho thấy trẻ vị thành niên bị trầm cảm là đáng lo ngại vì nó có thể
trở thành mãn tính, tái phát và bị suy yếu chức năng (Hammen và cộng sự,2008),
gây tốn kém về tài chính và tinh thần cho gia đình và xã hội (Rao and Chen,2009)
[5]. Ngoài ra trầm cảm ở tuổi vị thành niên còn liên quan đến nhiều vấn đề thích
nghi về lâu dài (Hammen và cộng sự, 2008). Trầm cảm gây ra các khó khăn trong
mối quan hệ, nhận thức, chức năng học tập (Fletcher, 2010), trầm cảm cũng làm
tăng rối loạn lo âu, rối loạn ăn uống, hút thuốc, nghiện rượu và tự vẫn (Sihvola và
cộng sự, 2007) [2].
Giai đoạn từ 19 tuổi đến 29 tuổi, là giai đoạn cuộc sống có nhiều áp lực như:
học tập căng thẳng, công việc khó khăn, không có việc làm, tình trạng thất nghiệp,
7
đời sống thiếu thốn. Đồng thời, đặc điểm tâm lý ở giai đoạn này có nhiều biến động
không ổn định. Đó là những yếu tố đóng vai trò quan trọng trong rối loạn trầm cảm
ở thanh niên độ tuổi này [4].
Trẻ em và trẻ vị thành niên trong cộng đồng bị trầm cảm có tỉ lệ 2-6%, theo
một báo cáo của trung tâm thông tin sức khỏe thanh thiếu niên quốc gia Mỹ hơn
25% thanh thiếu niên bị ảnh hưởng bởi trầm cảm mức độ nhẹ, nguy cơ tự sát ở
nhóm này cũng cao hơn so với cộng đồng chung .
Ở Việt nam, hơn một thập kỷ gần đây vấn đề sức khoẻ tâm thần nói
chung và trầm cảm nói riêng được đề cập đến nhiều hơn, đã có nhiều công
trình nghiên cứu về trầm cảm ở các khía cạnh khác nhau.
Theo Ngô Ngọc Tản và Cao Tiến Đức (2001), rối loạn trầm cảm chiếm
3,4% khi điều tra các bệnh tâm thần ở một phường thuộc khu vực thành thị. Lã Thị
Bưởi điều tra các bệnh tâm thần ở một phường của một thành phố lớn cho thấy rối
loạn trầm cảm chiếm 4,1%. Nguyễn Văn Siêm và cộng sự thấy rối loạn trầm cảm
chiếm 8,35% dân số khi điều tra ở một xã vùng nông thôn.
Theo Trần Văn Cường và cộng sự (2002), trầm cảm điển hình chiếm 2,8%
khi điều tra dịch tễ học lâm sàng một số bệnh tâm thần thường gặp ở các vùng kinh
tế – xã hội khác nhau.
Theo Tô Thanh Phương (2005),Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng rối
loạn trầm cảm nặng cho thấy tỷ lệ rối loạn trầm cảm ở độ tuổi từ 16 – 25 cao
nhất (38,84%), độ tuổi từ 36 – 45 tỷ lệ trầm cảm thấp nhất (13,64%).
Theo bác sĩ Lã Thị Bưởi và cộng sự (1999) rối nhiễu trầm cảm chiếm 4,2%
dân số khi điều tra tại phường Lê Đại Hành (Hà Nội) [6]. Trong các công trình
nghiên cứu trong nước về trầm cảm phải kể đến các công trình nghiên cứu của nhà
tâm thần học như cuốn sách “Nhận xét hội chứng lo âu – trầm cảm – suy nhược ở
bệnh tâm thần tại Bệnh viện tâm thần Biên Hòa” của tác giả Hoàng Bộ năm 1995,
“Đặc điểm lâm sàng của rối loạn trầm cảm tái diễn” của tác giả Nguyễn Thị Thanh
Mai năm 1997.
Theo nghiên cứu “Xây dựng mô hình chăm sóc sức khỏe tâm lý – tâm thần
cho học sinh phổ thông ở Đồng Nai” do bác sĩ Nguyễn Văn Thọ và cộng sự thực
8
hiện (1999-2000) cho thấy lo âu – trầm cảm chiếm tỷ lệ từ 10-21% trong số các học
sinh có vấn đề sức khỏe tâm thần.
Nhìn chung các nghiên cứu về rối loạn trầm cảm ở Việt Nam mới được đề
cập đến ở góc độ tâm thần, đề cập với những vấn đề lâm sàng trầm cảm. Chưa có
nhiều nghiên cứu về trị liệu, hỗ trợ cho những bệnh nhân có rối loạn trầm cảm nên
còn nhiều khó khăn trong việc chăm sóc, giúp đỡ và xây dựng chiến lược phòng
ngừa có hiệu quả cho bệnh nhân có rối nhiễu trầm cảm.
1.1.2. Các nghiên cứu về đánh giá và can thiệp trầm cảm
Trong một nghiên cứu về hiệu quả áp dụng liệu pháp kích hoạt hành vi dành
cho nhóm 30 bệnh nhân trầm cảm đang được điều trị tại bệnh viện tâm thần Đà
Nẵng được thực hiện bởi 7 bác sĩ chuyên khoa I chuyên ngành tâm thần hiện đang
công tác tại bệnh viện tâm thần Đà Nẵng vào năm 2011. Trong nghiên cứu của
nhóm bác sĩ về hiệu quả của Liệu pháp kích hoạt hành vi đã chỉ ra rằng:
Khi liệu pháp tâm lý được đưa vào thì hiệu quả tác dụng như điều trị bằng
hóa dược trong rối loạn trầm cảm, tuy còn có một vài câu hỏi quan tâm đến điều trị
dành cho những triệu chứng của trầm cảm nặng. Mặc dù thuốc có tác dụng mạnh
trong những trường hợp cấp tính, nhưng thuốc không thể ngăn chặn sự tái phát sau
khi điều trị kết thúc, thuốc cũng không phải hiệu quả cho mọi bệnh nhân và không
phải tất cả bệnh nhân đều muốn dùng thuốc vì thuốc có nhiều tác dụng không mong
muốn khi sử dụng.
Với liệu pháp kích hoạt hành vi, bệnh nhân trầm cảm có sự thay đổi nhiều về
hành vi của mình, còn đối với bệnh nhân dùng thuốc, chỉ chờ đợi sự tác dụng của
thuốc lên triệu chứng giảm hứng thú, và từ đó mới thay đổi hành vi của bệnh nhân.
Do đó sự thay đổi hành vi của bệnh nhân sử dụng thuốc sẽ ít hơn.
Khi được điều trị bằng tâm lý bệnh nhân có thể hiểu được bản chất của bệnh
do đó tâm lý trở nên nhẹ nhàng hơn. Áp dụng liệu pháp kích hoạt hành vi, bệnh
nhân hiểu được mối liên quan giữa cảm xúc và hành vi; đặc biệt bệnh nhân biết
cách nhận diện được cảm xúc của mình bằng thang tự đánh giá cảm xúc. Chính các
điều này làm bệnh nhân giảm đi lo lắng.
Trong một nghiên cứu đa địa điểm với tên gọi là Điều trị những người cố
gắng tự tử vị thành niên (TASA), trong nghiên cứu có 124 thanh thiếu niên bị trầm
9
cảm đã cố gắng tự tử trong vòng ba tháng trước đó với một trong ba điều kiện: SSRI
(n = 15), Liệu pháp Nhận thức – hành vi trong phòng ngừa tự tử (CBT-SP; n = 18)
hoặc liệu pháp kết hợp (n = 93). Phân công điều trị có thể là ngẫu nhiên hoặc được
lựa chọn bởi những người tham gia nghiên cứu. Hầu hết những người tham gia
(84%) đều đã chọn điều kiện điều trị của họ. CBT-SP là sự kết hợp phương pháp
phòng ngừa giảm thiểu rủi ro và tái phát trong điều trị với sự tích hợp các kỹ thuật
CBT, kỹ thuật trị liệu hành vi biện chứng và các kỹ thuật can thiệp khác cho thanh
thiếu niên bị trầm cảm. Những người tham gia có thể tham dự tối đa 22 phiên trong
suốt 6 tháng, bao gồm cả các phiên họp vị thành niên và phụ huynh. Tất cả những
người tham gia đã cho thấy một ý tưởng tự tử giảm đáng kể từ lúc bắt đầu điều trị
đến khi kết thúc điều trị. Khoảng 12% số người tham gia đã cố gắng tự tử và 19%
đã trải qua một sự kiện tự tử (cố gắng tự tử, hoàn thành tự tử, hành động chuẩn bị
đối với hành vi tự tử, ý tưởng tự tử đáng kể) trong quá trình điều trị. Sau khi kiểm
soát sự khác biệt cơ bản giữa các điều kiện điều trị, không có tác dụng khác biệt của
đơn trị liệu so với điều trị kết hợp trên kết quả tự tử [13].
Một nghiên cứu điều trị trầm cảm cho thanh thiếu niên (TADS), đây là
nghiên cứu điều trị đa nhóm lớn nhất đối với trầm cảm ở tuổi vị thành niên. TADS
đã kiểm tra hiệu quả của bốn biện pháp can thiệp (CBT, thuốc, kết hợp cả thuốc và
CBT, và thuốc giả dược) cho thanh thiếu niên bị trầm cảm. Nghiên cứu này là một
thử nghiệm ngẫu nhiên, được thực hiện trên 439 thanh thiếu niên trong độ tuổi từ 12
đến 17. Những người tham gia có thể tham dự tới 15 buổi trong 12 tuần đầu điều trị,
các buổi hàng tuần hoặc hai tuần trong 6 tuần tiếp theo và các buổi tăng cường mỗi
6 tuần sau đó. Kết quả cho thấy điều trị kết hợp có hiệu quả hơn (tỷ lệ đáp ứng
73%) so với chỉ dùng fluoxetine (62%), CBT (48%) hoặc giả dược trong việc giảm
các triệu chứng trầm cảm được bác sĩ lâm sàng đánh giá. Hơn nữa, một mình
fluoxetine đã vượt trội so với CBT và riêng CBT không hiệu quả hơn giả dược. Sau
12 tuần điều trị cấp tính, 71% thanh thiếu niên trong các nhóm không còn đáp ứng
các tiêu chuẩn chẩn đoán, nhưng 50% có các triệu chứng còn lại. Kết quả theo dõi ở
khoảng thời gian dài có kết quả dương tính hơn với CBT: ở tuần 18, tỷ lệ đáp ứng là
85% đối với trị liệu kết hợp, 69% đối với trị liệu bằng fluoxetine và 65% đối với
10
CBT. Ở tuần 36, tỷ lệ đáp ứng là 86% đối với trị liệu kết hợp, 81% đối với trị liệu
bằng fluoxetine và 81% đối với CBT [10] .
Rối loạn trầm cảm có hậu quả nghiêm trọng đối với tuổi trẻ. Trầm cảm dẫn
đến sự gián đoạn trong hoạt động học tập, xã hội và gia đình ngay cả sau khi các
triệu chứng đã thuyên giảm, sự thích ứng môi trường mới, vấn đề mới thì các triệu
chứng vẫn có xu hướng tái phát tùy thuộc vào khả năng hoạt động của trẻ vị thành
niên ở nhà và ở trường cũng như sự đáp ứng mong đợi phù hợp về mặt phát triển.
Trầm cảm là yếu tố dự báo quan trọng nhất về hành vi tự tử của thanh thiếu niên và
tự tử ở tuổi vị thành niên vẫn là một vấn đề sức khỏe cộng đồng quan trọng trên
toàn thế giới [9].
Nghiên cứu cho thấy rằng, trên toàn cầu, có tới 100.000 thanh thiếu niên (độ tuổi 15
– 24) tự tử mỗi năm. Ở Hoa Kỳ trong số những người ở độ tuổi 10- 24 tuổi, tự tử là
nguyên nhân hàng đầu thứ ba gây tử vong, chỉ đứng sau tai nạn và giết người. Năm
2002, khoảng 4000 thanh thiếu niên trong độ tuổi 15- 24 tự tử mỗi năm, với tỷ lệ
lưu hành chung là mười một trên 100.000. Trong số 45.806 học sinh trung học từ 15
tuổi 16 tuổi ở 17 quốc gia châu Âu, tỷ lệ phổ biến trung bình của các nỗ lực tự tử là
10,5% [7].
Suy nghĩ tự sát và ý tưởng tự tử là tiền thân của các nỗ lực tự tử và tần suất trung
bình của bất kỳ suy nghĩ tự làm hại nào (ít nhất năm lần) trong một nghiên cứu gần
đây là 7,4% (khoảng 2,1% hay 15,3%). Hành vi tự sát có mối tương quan cao với
việc sử dụng chất gây nghiện, gây hấn dữ dội và các triệu chứng trầm cảm [14].
Rối loạn trầm cảm chủ yếu (MDD) có sức mạnh tàn phá đối với cá nhân
và xã hội vì tỷ lệ mắc bệnh cao, tính chất tái phát, kết hợp với các rối loạn khác
và suy giảm chức năng mà nó gây ra. So với các bệnh mãn tính khác, chẳng
hạn như viêm khớp, hen suyễn và tiểu đường, MDD tạo ra sự suy giảm lớn
nhất về sức khỏe trên toàn thế giới [8]. Các mục tiêu trong điều trị MDD
không chỉ là giảm mức độ nghiêm trọng của triệu chứng mà còn để đạt được
sự thuyên giảm liên tục và giảm nguy cơ tái phát [15].
Việc sử dụng thuốc chống trầm cảm cho bệnh nhân trầm cảm nhẹ có thể
khiến họ có nguy cơ bị điều trị quá mức. vì vậy Hiệp hội Tâm thần Hoa Kỳ (APA)
11
đã khuyến nghị sử dụng các liệu pháp tâm lý dựa trên bằng chứng, như CBT, là một
lựa chọn điều trị ban đầu cho bệnh nhân mắc MDD nhẹ đến trung bình [1]. Thuốc
chống trầm cảm là phương pháp điều trị phổ biến nhất cho trầm cảm. Trong số các
liệu pháp tâm lý được sử dụng để điều trị MDD, liệu pháp nhận thức hành vi (CBT)
đã được xác định là một phương pháp điều trị hiệu quả [18].
Trong một chương trình nghiên cứu hợp tác trầm cảm (TDRCP) là thử
nghiệm lớn đầu tiên so sánh CBT với kiểm soát giả dược và kết quả không ủng hộ
CBT. Mặc dù không có sự khác biệt giữa mẫu đầy đủ, CBT không hiệu quả hơn
thuốc giả dược và kém hiệu quả hơn so với imipramine ADM hoặc liệu pháp tâm lý
giữa các cá nhân (IPT) ở những bệnh nhân bị trầm cảm nặng hơn [16].
1.2. Một số vấn đề lý luận về trầm cảm
1.2.1. Lý thuyết về trầm cảm
Thuyết nhận thức:
Có hai giả thuyết được xem là trung tâm tiếp cận của nhận thức đối với trầm
cảm. Một giả thuyết cho rằng nếu nhận thức tiêu cực dẫn đến một cái nhìn tiêu cực
về các sự kiện trong cuộc sống bản thân mình tự cảm thấy có trách nhiệm, theo mô
hình không tự lực được cho rằng trầm cảm bắt nguồn từ niềm tin con người ít có
hoặc không có kiểm soát cá nhân đối với các sự kiện có ta nghĩa trong cuộc sống.
Thuyết nhận thức của A. Beck về trầm cảm: quá trình tư duy được coi là yếu
tố khởi phát trong trầm cảm. Theo ông những người trầm cảm, tư duy của họ
thường hướng về phía những giải thích tiêu cực. Ông cho rằng ngay từ thời niên
thiếu người trầm cảm đã có khuynh hướng này, nhìn nhận thế giới một cách tiêu
cực, qua sự mất mát cha mẹ, qua một chuỗi thành công không được nhớ đến, qua
việc bị cô lập khỏi nhóm bạn đồng trang lứa hay sự suy sụp tinh thần của cha mẹ.
Ông gọi ba tuýp nhận thức này là bộ ba nhận thức về trầm cảm: nhìn nhận tiêu cực
về bản thân, nhìn nhận tiêu cực về các trải nghiệm đang tiếp diễn và nhìn nhận tiêu
cực về tương lai
– Trầm cảm là kết quả của quá trình nhận thức sai lầm, quá trình này là
nguyên nhân nguyên nhân gây nên các căng thẳng về tư duy và dẫn đến các rối loạn
trầm cảm. Người bệnh giải thích méo mó về các kinh nghiệm bản thân, nhìn nhận
12
một cách bi quan các sự vật trong quá khứ và trong tương lai. Ở những người trẻ
tuổi khi mắc rối loạn trầm cảm họ không bị giảm sút chức năng nhận thức khi so
sánh với người cùng tuổi khỏe mạnh [19].
Trầm cảm được mô tả bởi chức năng nhận thức cơ bản đặc biệt, nó là trọng
tâm nghiên cứu mối quan hệ sự mất năng lực của trầm cảm để phục hồi đặc biệt là
nhận thức tự động khi chúng được gợi ý bởi những từ ngữ hạnh phúc hay buồn rầu
tương tự.
Thuyết hành vi về trầm cảm
Các lý thuyết hành vi về trầm cảm tập trung chủ yếu vào các quá trình điều
kiện hóa quan sát được. Ví dụ như Lewinsohn và cộng sự (1979), đã chỉ ra rằng
trầm cảm là kết quả của tỉ lệ thấp các củng cố xã hội tích cực. Điều này dẫn đến khí
sắc chán nản và thu hẹp những hành vi mang xu hướng được xã hội tán thưởng. Cá
nhân tự tách mình ra khỏi các liên hệ xã hội, một hành động mà trên thực tế, có thể
làm tăng tạm thời các liên hệ xã hội bởi họ có thể có được sự cảm tình chú ý nhờ
hành vi của mình. Điều này có thể tạo ra củng cố khác, được biết đến như là lợi ích
thứ cấp, mà trong đó cá nhân được tán hưởng nhờ những hành vi có trầm cảm của
mình. Tuy nhiên, giai đoạn này lại thường đi cùng với sự thu hẹp về chú ý (tần suất
tán thưởng có giá trị từ phía môi trường giảm đi) và khí sắc [21].
Thuyết nhận thức – hành vi
Peter Lewinsohn cho rằng trầm cảm xuất hiện là do có những hoạt động tích
cực (positive reinforcements) trong cuộc sống hàng ngày tác động vào, sự tác động
này có thể xảy ra theo hai cách:
– Môi trường thiếu các hoạt động tích cực
– Do một người không thể tiếp cận được với những hoạt động tích cực (ví dụ
như ở trong môi trường cách ly do đó các kỹ năng xã hội nghèo nàn). Martin
Seligman đã phát triển học thuyết “không được giúp đỡ tập nhiễm” (learned
helplessness) từ những thí nghiệm trên động vật. Từ đó, ông cho rằng trầm cảm xuất
hiện là do sự mất kiểm soát (có thể thật sự hoặc do tưởng tượng) đối với những sự
kiện tiêu cực hàng ngày trong cuộc sống. Aaron Beck đã phát triển học thuyết nhận
thức hành vi (cognitive behavioural theory) về trầm cảm. Ông cho rằng trầm cảm
13
được hình thành là do bệnh nhân diễn giải sai lệch những sự kiện trong cuộc sống.
Điểm cốt lõi của học thuyết này bao gồm bộ ba nhận thức trong trầm cảm, đó là:
– Cái nhìn tiêu cực về bản thân: ví dụ mọi việc đều tệ hại vì tôi là người xấu.
– Diễn giải những sự kiện trải nghiệm một cách tiêu cực: ví dụ mọi thứ đều
luôn luôn tệ hại.
– Nhìn về tương lai ảm đạm: mọi việc đều sẽ tệ hại.
Nguyên lý cơ bản của học thuyết nhận thức hành vi là bệnh nhân diễn giải thế
giới theo chiều hướng tiêu cực. Những sai lệch về nhận thức điển hình bao gồm:
– Sự liên hệ độc đoán (arbitrary inference): bệnh nhân cho rằng những sự
kiện tiêu cực là do lỗi của bản thân mình.
– Trích dẫn chọn lọc (selective abstraction): bệnh nhân chỉ tập trung
vào những yếu tố tiêu cực trong những thông tin tích cực.
– Phóng đại hóa và đánh giá thấp các sự kiện: bệnh nhân quá nhấn mạnh đến
các yếu tố tiêu cực và không chú ý đến những điểm tích cực của
sự việc.
– Gọi tên không chính xác (inexact labeling): bệnh nhân thường gán
cho những sự việc trải nghiệm một ý nghĩa riêng và phản ứng lại với ý nghĩa đó
chứ không phải phản ứng với chính bản thân sự việc.
Còn có một nguyên nhân của sự trầm cảm đó là cảm giác không hài lòng về
bản thân mình, chán ghét bản thân. Điều này cũng xuất phát từ tâm vị kỷ, tự ngã,
muốn mình là Số Một, muốn mình nổi trội hơn tất cả mọi người. Và khi mong
muốn này không trở thành hiện thực thì lại có những ý nghĩ tiêu cực, tự ghép cho
mình những nhãn hiệu xấu, như là “kẻ bất tài”, “kẻ vô tích sự”, “kẻ yếu đuối”,
“người bất hạnh”… Chính những ý nghĩ tiêu cực và sự tự kỷ ám thị về những nhãn
hiệu xấu ấy đã ảnh hưởng đến tâm trạng của chúng ta, khiến chúng ta chán nản, bất
an và thụ động.
1.2.2. Khái niệm trầm cảm
Định nghĩa của WHO về bệnh trầm cảm: “Trầm cảm là một rối loạn tâm
thần phổ biến, đặc trưng bởi sự buồn bã, mất đi hứng thú hoặc khoái cảm, cảm thấy
tội lỗi hoặc tự hạ thấp giá trị bản thân, bị rối loạn giấc ngủ hoặc ăn uống và kém
tập trung”.Trầm cảm có thể kéo dài hoặc tái phát nhiều lần, làm suy giảm đáng kể
14
khả năng làm việc, học tập hoặc khả năng đương đầu với cuộc sống hàng ngày.
Trường hợp nặng nhất, trầm cảm có thể dẫn đến tự tử. Ở mức độ nhẹ, bệnh có thể
được hỗ trợ chữa trị không cần dùng thuốc. Mức độ vừa và nặng, người bệnh cần
được hỗ trợ điều trị bằng thuốc kết hợp với biện pháp tâm lý.
Trầm cảm là một hội chứng của rối loạn cảm xúc lưỡng cực đặc trưng bởi
khí sắc trầm, mất quan tâm hay thích thú, giảm năng lượng dẫn đến dễ mệt mỏi và
giảm hoạt động. Phổ biến là người bệnh dễ mệt mỏi chỉ sau một sự cố gắng nhỏ và
biểu hiện này tồn tại trong khoảng thời gian kéo dài ít nhất 2 tuần. Những biểu hiện
này được coi là các triệu chứng lâm sàng đặc trưng có ý nghĩa lâm sàng đặc biệt và
thường gặp ở bất cứ một giai đoạn nào của trầm cảm. những triệu chứng phổ biến
khác là: giảm sút sự tập trung, chú ý, giảm sút tính tự trọng và lòng tự tin, ý tưởng
bị tội và không xứng đáng, nhìn vào tương lai ảm đạm và bi quan, ý tưởng và hành
vi tự hủy hoại hoặc tự sát, rối loạn giấc ngủ, ăn ít ngon miệng. ngoài ra còn có các
triệu chứng cơ thể
Trước đây, các nhà tâm thần học mô tả trầm cảm như là một giai đoạn bệnh
điển hình, với tình trạng u sầu (melancholia), biểu hiện ức chế nặng nề các mặt hoạt
động tâm thần. Chủ yếu là các quá trình: 1/ Cảm xúc ức chế biểu hiện bằng khí sắc
giảm, buồn rầu; 2/ Các quá trình tư duy bị ức chế, dòng tư duy chậm lại; 3/ Hoạt
động bị ức chế thể hiện tình trạng chậm chạp cả lời nói và hành vi, nhiều khi nặng
đến mức sững sờ, bất động.
Theo từ điển Tâm lý học của Vũ Dũng và cộng sự định nghĩa: “Trầm cảm là
trạng thái xúc cảm mạnh đặc trưng bởi bối cảnh cảm xúc âm tính, bởi những thay
đổi của môi trường về những quan điểm của động cơ nhận thức và bởi tính thụ động
của hành vi nói chung” [14].
Theo tác giả Nguyễn Kim Qúy: Trầm cảm là một bệnh lý của não bộ chứ
không hoàn toàn không phải là một cảm giác buồn bã hay chán nản, thất vọng,
thông thường thoáng chốc mà ai cũng có thể trải qua trong cuộc sống. Trầm cảm là
một bệnh lý nghiêm trọng, ảnh hưởng đến suy nghĩ, cảm xúc, thái độ cư xử và sức
khỏe bệnh nhân, chứ không phải là một sự yếu đuối, nó có thể xảy ra với bất kỳ ai,
ở bất kỳ độ tuổi nào, ở mỗi đối tượng khác nhau có những biểu hiện khác nhau.
15
Như vậy, có rất nhiều quan điểm khái niệm khác nhau về trầm cảm từ các
nhà tâm thần học, tâm lý học, có thể thấy trầm cảm có những đặc điểm sau:
– Khí sắc trầm buồn, giảm hứng thú và không quan tâm đến mọi thứ xung quanh
– Giảm vận động, ít giao tiếp, thu mình, rối loạn giấc ngủ, sút cân hoặc tăng cân
– Đánh giá thấp bản thân, có mặc cảm tội lỗi, tự ti, có ý tưởng tự sát
Trong nghiên cứu này, tôi sử dụng khái niệm trầm cảm theo bảng phân loại
bệnh quốc tế lần thứ 10 (ICD -10): Trầm cảm là một hội chứng bệnh lý, biểu hiện
đặc trưng bởi khí sắc trầm, mất mọi quan tâm thích thú, giảm năng lượng dễ mệt
mỏi, phổ biến là tăng mệt mỏi rõ rệt nhiều khi chỉ sau một cố gắng nhỏ. Kèm theo là
các triệu chứng phổ biến khác như: giảm sút tập trung chú ý, giảm sút lòng tự trọng
và lòng tự tin; có ý tưởng bị tội và không xứng đáng; bi quan về tương lai; có ý
tưởng và hành vi tự huỷ hoặc tự sát, rối loạn giấc ngủ; giảm cảm giác ngon miệng.
Ngoài ra còn có các triệu chứng loạn thần. Các biểu hiện trên tồn tại trong một
khoảng thời gian tối thiểu hai tuần liên tục [18].
1.2.3. Tiêu chuẩn chẩn đoán trầm cảm
1.2.3.1. Chẩn đoán trầm cảm theo ICD – 10
Tiêu chuẩn chẩn đoán RLTC theo ICD-10 của Tổ chức y tế thế giới (1992)
có giá trị lâm sàng để chẩn đoán các mức độ RLTC (nhẹ, vừa và nặng) và được sử
dụng cho nhiều nghiên cứu cộng đồng.
Trong ICD-10, RLTC được xếp tại mục F.32, nằm trong phần rối loạn khí
sắc, RLTC gồm các triệu chứng đặc trưng và phổ biến sau:
3 triệu chứng đặc trưng của RLTC:
Giảm khí sắc.
Mất mọi quan tâm thích thú.
Giảm năng lượng dẫn đến tăng mệt mỏi và giảm hoạt động.
7 triệu chứng phổ biến của RLTC:
Giảm sút sự tập trung, chú ý.
Giảm sút tính tự trọng và lòng tự tin.
Những ý tưởng bị tội, không xứng đáng.
Nhìn vào tương lai thấy ảm đạm, bi quan.
16
Ý tưởng và hành vi tự huỷ hoại hoặc tự sát.
Rối loạn giấc ngủ.
Ăn ít ngon miệng.
Chẩn đoán các mức độ RLTC:
– RLTC mức độ nhẹ (F32.0):
Có 2/3 triệu chứng đặc trưng của RLTC và 2/7 triệu chứng phổ biến, kéo dài
ít nhất 2 tuần.
Khó tiếp tục công việc thường ngày và hoạt động xã hội nhưng có khả năng
không ngừng hoạt động (có hoặc không kèm theo các triệu chứng cơ thể của
RLTC).
– RLTC mức độ vừa (F32.1):
Có 2/3 triệu chứng đặc trưng của RLTC và 3/7 triệu chứng phổ biến, kéo dài
ít nhất 2 tuần.
Gây nhiều trở ngại trong sinh hoạt gia đình, nghề nghiệp (có thể có hoặc
không kèm theo các triệu chứng cơ thể của RLTC).
– RLTC mức độ nặng (F32.2):
Có 3/3 triệu chứng đặc trưng của RLTC và ít nhất 4/7 triệu chứng phổ biến,
kéo dài ít nhất 2 tuần.
Hội chứng cơ thể hầu như luôn luôn có mặt. Người bệnh ít khả năng tiếp tục
công việc gia đình, xã hội và nghề nghiệp.
– Giai đoạn RLTC nặng có triệu chứng loạn thần (F32.3):
Thoả mãn các tiêu chuẩn đã nêu trong giai đoạn RLTC nặng.
Có các hoang tưởng, ảo giác hoặc sững sờ RLTC (hoang tưởng, ảo giác có
thể phù hợp hoặc không phù hợp với khí sắc).
1.2.3.2. Tiêu chuẩn chẩn đoán trầm cảm theo DSM 5
Tiêu chuẩn chẩn đoán cho một giai đoạn trầm cảm chủ yếu theo DSM-5
A. Năm (hoặc hơn) trong số các triệu chứng sau được biểu hiện trong thời
gian 2 tuần và biểu hiện một số sự thay đổi mức độ chức năng trước đây, có ít nhất
1 trong các triệu chứng hoặc là 1/khí sắc giảm, hoặc là 2/mất thích thú/sở thích.
Ghi chú: Không bao gồm các triệu chứng là hậu quả rõ ràng của bệnh cơ thể
hoặc hoang tưởng hoặc ảo giác không phù hợp với khí sắc.
17
1. Khí sắc giảm ở phần lớn thời gian trong ngày, hầu như hàng ngày, nhận
biết hoặc bởi chính bệnh nhân (ví dụ: cảm giác buồn hoặc cảm xúc trống rỗng) hoặc
được quan sát bởi người khác (ví dụ: thấy bệnh nhân khóc). Ghi chú: ở trẻ em và vị
thành niên khí sắc có thể bị kích thích.
2. Giảm sút rõ ràng các thích thú/sở thích cho tất cả hoặc hầu như tất cả các
hoạt động, có phần lớn thời gian trong ngày, hầu như hàng ngày (được chỉ ra hoặc
bởi bệnh nhân, hoặc từ sự quan sát của người khác).
3. Mất khối lượng cơ thể rõ ràng, cả khi không ăn kiêng, hoặc tăng khối
lượng cơ thể (ví dụ: thay đổi hơn 5% khối lượng cơ thể trong một tháng), giảm hoặc
tăng cảm giác ngon miệng hầu như hàng ngày. Lưu ý: trẻ em mất khả năng đạt được
khối lượng cần thiết.
4. Mất ngủ hoặc ngủ nhiều hầu như hàng ngày.
5. Kích động hoặc vận động tâm thần chậm hầu như hàng ngày (được quan sát
bởi người khác, không chỉ cảm giác của bệnh nhân là không yên tĩnh hoặc chậm chạp).
6. Mệt mỏi hoặc mất năng lượng hầu như hàng ngày.
7. Cảm giác vô dụng hoặc tội lỗi quá mức (có thể là hoang tưởng) hầu như hàng
ngày (không chỉ là tự khiển trách hoặc kết tội liên quan đến các vấn đề mắc phải).
8. Giảm khả năng suy nghĩ, tập trung chú ý hoặc khó đưa ra quyết định hầu
như hàng ngày (bệnh nhân tự thấy, hoặc người khác nhận thấy).
9. Ý nghĩ tiếp tục về cái chết (không chỉ là sợ chết), ý định tự sát tái diễn
không có một kế hoạch trước, một hành vi tự sát hoặc một kế hoạch cụ thể để tự sát
thành công.
B. Các triệu chứng không thoả mãn cho một giai đoạn hỗn hợp.
C. Các triệu chứng được biểu hiện rõ ràng, là nguyên nhân ảnh hưởng đến
các lĩnh vực xã hội, nghề nghiệp hoặc trong các lĩnh vực quan trọng khác.
D. Các triệu chứng không phải là hậu quả sinh lý trực tiếp của một chất (ví
dụ: ma tuý, thuốc) hoặc do một bệnh cơ thể (ví dụ: bệnh nhược giáp).
E. Các triệu chứng không được giải thích tốt bởi có tang, nghĩa là sau khi
mất người thân, các triệu chứng bền vững hơn 2 tháng, được đặc trưng bởi rối loạn
chức năng rõ ràng, có ý nghĩ mình là vô dụng, ý tưởng tự sát, các triệu chứng loạn
thần hoặc vận động tâm thần chậm.
18
– Các mức độ của trầm cảm.
– Nhẹ: bệnh nhân chỉ có 5-6 triệu chứng, đủ để chẩn đoán, các triệu chứng
này ít ảnh hưởng đến chức năng lao động, xã hội của bệnh nhân.
– Vừa: bệnh nhân có 7-8 triệu chứng và bị ảnh hưởng chức năng lao động xã
hội rõ ràng.
– Nặng: bệnh nhân có tất cả các triệu chứng (9), các chức năng xã hội, nghề
nghiệp bị ảnh hưởng trầm trọng. Mức độ nặng chia làm:
* Nặng không có triệu chứng loạn thần.
* Nặng có triệu chứng loạn thần (hoang tưởng, ảo giác), bao gồm loạn thần
phù hợp với khí sắc (hoang tưởng nghi bệnh, hoang tưởng tự buộc tội) và loạn thần
không phù hợp với khí sắc (hoang tưởng bị hại, bị chi phối, bị theo dõi, ảo thanh
bình phẩm, ảo thanh ra lệnh).
– Lui bệnh hoàn toàn: tất cả các triệu chứng của bệnh đã hết.
– Lui bệnh một phần: bệnh nhân vẫn còn vài triệu chứng, nhưng không đủ để
chẩn đoán cho cơn trầm cảm chủ yếu (chỉ còn 4 triệu chứng hoặc ít hơn).
1.2.4. Chẩn đoán phân biệt
– Mất ngủ tiên phát.
Bệnh nhân có mất ngủ kéo dài trên 1 tháng, có thể là mất ngủ đầu giấc, mất
ngủ giữa giấc, mất ngủ cuối giấc, thậm chí là mất ngủ toàn bộ. Tuy nhiên, khác với
trầm cảm, bệnh nhân mất ngủ tiên phát thường chỉ than phiền có cảm giác mệt mỏi
và lo lắng nhẹ vì không ngủ được. Các bệnh nhân này ban ngày thường buồn ngủ,
nhưng buổi tối lại hơn vui vẻ. Khi xem tivi, họ có thể ngủ gật, nhưng khi vào đến
giường ngủ thì họ lại tỉnh táo và không làm sao ngủ được. Nhìn chung, tình trạng
mất ngủ của họ không quá trầm trọng và hầu như không ảnh hưởng nhiều đến khả
năng làm việc và cuộc sống của họ. Khi khám bệnh, chúng ta không phát hiện được
các triệu chứng khác của trầm cảm như khí sắc giảm, mất hứng thú và sở thích,
chán ăn, bi quan, chán nản hoặc ý nghĩ muốn chết. Khi làm điện não đồ, chúng ta
thấy sóng alpha giảm cả về biên độ và chỉ số, phản ứng với ánh sáng kém, trong khi
sóng bêta lại chiếm ưu thế khắp hai bán cầu.
– Tâm thần phân liệt
19
Bệnh nhân tâm thần phân liệt có các hoang tưởng (bị hại, bị theo dõi, bị chi
phối), ảo giác (ảo thanh ra lệnh, xui khiến, bình phẩm) chiếm ưu thế trong bệnh
cảnh lâm sàng. Tuy nhiên, khoảng 50% số bệnh nhân tâm thần phân liệt có triệu
chứng trầm cảm đi kèm. Nếu bệnh nhân tâm thần phân liệt có các triệu chứng trầm
cảm đi kèm thì chúng ta rất khó phân biệt chúng với trầm cảm có loạn thần (vì cả 2
bệnh này đều có trầm cảm, hoang tưởng hoặc ảo giác). Các bệnh nhân có triệu
chứng loạn thần (hoang tưởng, ảo giác) chiếm ưu thế, xuất hiện ngay từ đầu và kéo
dài kể cả khi không còn các triệu chứng trầm cảm, thì đó là tâm thần phân liệt.
Trường hợp ngược lại, bệnh nhân có bảng lâm sàng của trầm cảm chiếm ưu thế,
hoang tưởng và ảo giác chỉ xuất hiện khi tình trạng trầm cảm rất nặng và hết sớm
hơn trầm cảm, khi đó ta kết luận bệnh nhân bị trầm cảm có loạn thần.
– Nghiện rƣợu và ma túy
Bệnh nhân nghiện rượu, ma túy lâu ngày sẽ có hội chứng trầm cảm. Ngoài
ra, trầm cảm cũng xuất hiện ở tất cả các bệnh nhân sau cai rượu và ma túy. Chính
hội chứng trầm cảm này khiến cho bệnh nhân mất ngủ và chúng ta khó phân biệt
với bệnh trầm cảm.
Để phân biệt giữa trầm cảm và nghiện rượu, ma túy, chúng ta cần khai thác
bệnh sử, khám lâm sàng, làm các xét nghiệm tìm ma túy trong máu, nước tiểu để có
được chẩn đoán chính xác.
– Cơn trầm cảm của rối loạn cảm xúc lƣỡng cực
Bệnh nhân có đầy đủ các triệu chứng của giai đoạn trầm cảm chủ yếu. Tuy
nhiên, khi khai thác tiền sử, chúng ta sẽ phát hiện ra bệnh nhân đã có một hay nhiều
giai đoạn hưng cảm, hỗn hợp hoặc hưng cảm nhẹ trong tiền sử.
1.2.5. Lý luận về thủ dâm
1.2.5.1. Khái niệm về thủ dâm
Thủ dâm là hành động tự kích thích bằng tay vào bộ phận sinh dục để đạt
được kích thích và khoái cảm trong tình dục (sexual arousal and pleasure), thường
đạt điểm cực khoái (orgasm) khi quan hệ tình dục. Thủ dâm thường được thực hiện
dưới hình thức chạm (touching), vuốt (stroking) hoặc xoa bóp (massaging) dương
vật (penis) hoặc âm vật (clitoris) đến khi đạt được cực khoái. Một số phụ nữ sử
20
dụng tay kích thích vào âm đạo (vagina) hoặc sử dụng “đồ chơi tình dục” (sextoys)
như máy rung (vibrator).
Thủ dâm là một hành vi phổ biến dù đối với những người đã từng quan hệ
tình dục. Một nghiên cứu quốc gia (Mỹ) cho thấy 95% nam giới và 85% nữ giới cho
biết họ đã từng thủ dâm. Ngoài ra, thủ dâm có thể được coi là hoạt động trải nghiệm
tình dục đầu tiên của hầu hết nam giới và nữ giới. Đối với trẻ nhỏ, thủ dâm là một
phần thông thường trong quá trình phát triển và khám phá bản thân. Hầu hết mọi
người tiếp tục thực hiện thủ dâm khi đã trưởng thành, tuy nhiên cũng có nhiều
người làm như vậy trong suốt cuộc đời của họ.
– Thủ dâm là một hoạt động bình thường và khỏe mạnh liên quan đến tình
dục đem lại sự thoải mái, thỏa mãn, có thể được chấp nhận và an toàn. Là hành
động tự kích thích vào bộ phận sinh dục để đạt được kích thích và khoái cảm trong
tình dục.
1.2.5.2. Những nghiên cứu về thủ dâm
Khi nghiên cứu về hành vi thủ dâm ở con người, vào năm 1760, một thầy
thuốc vùng Lausane là Samuel Tissot đã công bố cuốn sách có tên là Onanism (dựa
theo truyền thuyết kể rằng Onan vì không muốn có con với chị dâu cho nên đã xuất
tinh ngoài âm đạo) và trở thành người tuyên truyền có ảnh hưởng nhất cho cái gọi là
sự nguy hiểm đến sức khỏe tâm trí của thủ dâm.
Trong hơn một thập kỷ, Masters và Johnson nghiên cứu và tìm hiểu 382 phụ
nữ và 312 nam giới độ tuổi từ 18 đến 89.
Master và Johnson xuất bản hai cuốn sách bán chạy nhất về hành vi tình dục
có tựa đề “Phản ứng tình dục của con người” năm 1966, và “Tình dục không thỏa
đáng” năm 1970. Mặc dù Masters và Johnson đã cố ý sử dụng lối văn diễn đạt khô
khan với nhiều thuật ngữ khoa học để ngăn chặn sự kích động của quần chúng,
nhưng chủ đề về sinh lý tình dục của cuốn sách chưa được chấp nhận thời đó. Lần
đầu tiên, giới khoa học chứng kiến phương pháp nghiên cứu bằng cách ghi lại dữ
liệu tâm sinh lý, bao gồm lịch sử quan hệ tình dục; hoạt động của não, nhịp tim và
các phép đo chuyển hóa từ con người đang trong quá trình giao phối hoặc thủ dâm.
21
Thủ dâm đã từng bị coi là một hành vi đồi bại (perversion) và là một dấu
hiệu tâm thần. Một số nền văn hóa và tôn giáo phản đối hành vi thủ dâm hoặc thậm
chí coi đó như dấu hiệu của sự tội lỗi hoặc xấu hổ về hành vi này.
1.2.5.3. Mối liên hệ giữa trầm cảm và hành vi thủ dâm
a. Ý nghĩa của hành vi thủ dâm
Hai chuyên gia sức khỏe Anthony Santella và Spring Chenoa Cooper đến từ
Đại học Sydney (Australia) bắt đầu nghiên cứu những tác động của hành vi thủ dâm
lên sức khỏe con người đã khẳng định: “Đối với phụ nữ, thủ dâm có thể giúp ngăn
ngừa các nhiễm trùng cổ tử cung và ống tiết niệu, thông qua quá trình giãn mở cổ tử
cung vì trạng thái kích thích tình dục. Quá trình sẽ dẫn tới việc kéo giãn chất nhầy ở
cổ tử cung, giúp tăng cường lưu thông chất dịch và sau đó đẩy dịch nhầy chứa đầy
vi khuẩn ở cổ tử cung ra ngoài”.
Cũng có thể giúp làm giảm nguy cơ mắc bệnh tiểu đường tuýp 2 (mặc dù
mối liên hệ này cũng có thể được giải thích bằng sự cải thiện sức khỏe nói chung tốt
hơn), giảm chứng mất ngủ thông qua sự giải phóng hoóc môn cũng như giải tỏa
căng thẳng, và tăng cường sức mạnh cho đáy xương chậu thông qua việc co bóp
xuất hiện trong lúc “lên đỉnh”.
Theo các nhà nghiên cứu, thủ dâm đóng vai trò như “một phương pháp
thuận tiện nhất để tối đa hóa cực khoái”.
Một nghiên cứu tiến hành bởi các nhà nghiên cứu từ Hội đồng Ung thư
Victoria Melbourne, Australia cho biết nam giới “siêng năng” rằng thủ dâm có thể
tạo điều kiện đẩy lùi nguy cơ ung thư tuyến tiền liệt.
Cộng đồng y khoa cho rằng thủ dâm đơn giản là biểu hiện tính dục
(sexuality) tự nhiên và vô hại trong tình dục đối với cả nam và nữ. Nó không gây
bất kì chấn thương thể chất hay làm hại tới cơ thể con người và có thể thực hiện
điều độ trong suốt đời của con người như một hành vi tính dục bình thường.
b. Mối liên hệ giữa trầm cảm và thủ dâm
Các triệu chứng trầm cảm và lo lắng có thể góp phần vào hành vi tình dục
nguy cơ (ví dụ như không sử dụng bao cao su). Điều này có liên quan đến việc
mang thai ngoài ý muốn và nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục, tạo thành