Tiểu luận
Giai cấp, dân tộc, nhân loại trong thời
đại hiện nay và vận dụng vào sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Nhóm 9 – Đêm 6 – Khóa 20
2
Giai cấp, dân tộc, nhân loại trong thời đại hiện nay và vận dụng vào sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
CHƯƠNG 1: GIAI CẤP VÀ ĐẤU TRANH GIAI CẤP
1. Khái quát các quan điểm ngoài Mácxít về giai cấp và đấu tranh giai cấp
1.1. Quan điểm của các nhà tư tưởng trước Mác về giai cấp và đấu tranh giai cấp
Thời cổ đại
9 Ở Trung Quốc cổ đại
– Theo Khổng Tử: chủ trương bảo vệ quyền lực cho tầng lớp quý tộc và
phân chia xã hội gồm: quân tử và tiểu nhân.
+ Quân tử là người có nhân cách cao, có quyền lực lớn.
+ Tiểu nhân là người có địa vị và nhân cách thấp, phải phục tùng quyền
lực của người quân tử.
– Theo Lão Tử: chủ trương bảo vệ lợi ích cho tầng lớp nông nô.
– Theo Mặc Tử: chủ trương đòi bình đẳng cho các tầng lớp và phân chia xã
hội gồm: Sỹ, Nông, Công, Thương.
9 Ở Ấn Độ cổ đại
– Theo Upanisat: phân biệt về chủng tộc, dòng dõi, nghề nghiệp, tôn giáo và
phân chia đẳng cấp gồm: Tăng lữ, Quý tộc, Bình dân tự do và Tiện nô.
9 Ở Hy Lạp cổ đại
– Theo Platông: do bất bình đẳng tài sản dẫn đến xung đột xã hội và phân
chia xã hội gồm: Triết gia, Chiến binh, Bình dân.
+ Triết gia: là các nhà triết học thông thái có địa vị cao nhất, thực hiện
nhiệm vụ lãnh đạo xã hội.
+ Chiến binh: là các chiến binh dũng cảm có địa vị thấp hơn, thực hiện
nhiệm vụ bảo vệ xã hội.
+ Bình dân: là những người nông dân và thợ thủ công có địa vị thấp nhất,
thực hiện nhiệm vụ lao động sản xuất, tạo ra của cải nuôi sống xã hội.
– Theo Arixtốt: phân chia xã hội gồm: Cầm quyền thống trị, Bị trị, Nô lệ.
Thời cổ đại ở phương Đông và phương Tây đều xuất hiện những tư tưởng phản
ánh sự phân chia xã hội thành giai cấp và đấu tranh giai cấp. Tuy nhiên những tư
tưởng này rất đơn giản và chất phát, chưa phải là một định nghĩa khoa học về giai
cấp mà chỉ thừa nhận giai cấp là những người có quyền lực, có địa vị và chức năng
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Nhóm 9 – Đêm 6 – Khóa 20
3
Giai cấp, dân tộc, nhân loại trong thời đại hiện nay và vận dụng vào sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
khác nhau trong xã hội. Đồng thời theo người cổ đại, sự phân chia xã hội thành
những hạng người khác nhau là do tự nhiên (Trời) hay do Thượng đế, thần thánh
và chưa thấy được giai cấp có nguồn gốc từ đời sống kinh tế – xã hội cũng như
chưa thấy được tính lịch sử của giai cấp.
Thời phục hưng và cận đại
– Theo Tômát Morơ (Anh), Tômađô Campanenela (Italia) và Rútxô (Pháp)
cùng tư tưởng cho rằng:
+ Giai cấp: là những tầng lớp có quyền lực và địa vị khác nhau trong xã hội.
+ Đấu tranh giai cấp, bất công trong xã hội xuất phát từ sự phát triển kinh
tế, trong hình thức sở hữu.
Tuy nhiên, các nhà tư tưởng thời kỳ này còn chịu ảnh hưởng tư tưởng cơ
đốc giáo hoặc đứng trên quan điểm tự nhiên thần luận về lịch sử để giải thích vấn
đề giai cấp nên chưa thấy được cơ sở kinh tế của giai cấp.
– Theo Xanh Ximông cho rằng:
+ Quyền sở hữu: là tiêu chuẩn phân biệt xã hội và là cơ sở của thượng tầng
kiến trúc của xã hội.
+ Xã hội được chia thành 3 giai cấp: các nhà khoa học, các chủ sở hữu và
những người không có sở hữu.
+ Đấu tranh giai cấp: là đặc trưng của bất kỳ xã hội nào có áp bức bóc lột,
là cuộc đấu tranh giữa tư sản và quý tộc, đấu tranh giữa những người hữu sản với
những người vô sản (không có tài sản).
– Theo Phrăngxoa Ghiđô, Ôgúyxtanh Chiêry và Phrăngxoa Minhê cho rằng:
+ Sự thay đổi quan hệ sở hữu về tài sản, chủ yếu là thay đổi quan hệ sở hữu về
ruộng đất đã dẫn đến sự thay đổi về quan hệ giai cấp và thay đổi về chế độ chính trị.
+ Xã hội có nhiều giai cấp.
+ Sự hình thành giai cấp dựa vào con đường bạo lực và nô dịch. Đấu tranh
giai cấp tạo nên nội dung chủ yếu của lịch sử.
Các nhà tư tưởng trước Mác đã nêu lên nhiều tư tưởng có giá trị về vấn đề
giai cấp và đấu tranh giai cấp. Những tư tưởng đó là tiền đề cho sự ra đời lý luận
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Nhóm 9 – Đêm 6 – Khóa 20
4
Giai cấp, dân tộc, nhân loại trong thời đại hiện nay và vận dụng vào sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
của chủ nghĩa Mác về giai cấp và đấu tranh giai cấp. Do đó, “thuyết đấu tranh
giai cấp không phải do Mác, mà do các giai cấp tư sản trước Mác sáng tạo ra”.
1.2. Quan điểm tư sản hiện nay về giai cấp và đấu tranh giai cấp
– Một số học giả tư sản phủ nhận hoàn toàn học thuyết giai cấp và đấu tranh
giai cấp vì cho rằng:
+ Các Mác đã quá nhấn mạnh đến sự đối lập giữa tư sản và vô sản khi xây
dựng học thuyết về giai cấp. Quy luật đấu tranh giai cấp không phải là quy luật
phổ biến, quy luật chung cho mọi xã hội. Do đó, lý luận giai cấp là sai lầm.
+ Điển hình như tại Mỹ, quan hệ sở hữu đã thay đổi, không còn giai cấp vô
sản nữa. Do đó đấu tranh giai cấp là vô nghĩa.
– Thừa nhận sự phân chia xã hội thành giai cấp, bác bỏ cơ sở kinh tế của giai
cấp đi tìm cơ sở sinh học hay tâm lý của giai cấp vì giải thích nguồn gốc giai cấp
từ cơ sở sinh học (những tố chất cấu tạo nên cơ thể, cấu trúc hoàn thiện hoặc
không hoàn thiện của cơ thể…) hoặc giải thích dựa vào trạng thái, khả năng trí
tuệ, nghề nghiệp… làm cơ sở để phân chia giai cấp. Phần lớn các nhà kinh tế căn
cứ vào thu nhập để phân biệt giai cấp.
– Trong phong trào Cộng sản và Công nhân quốc tế xuất hiện hai quan niệm
sai lầm về đấu tranh giai cấp
+ Quan điểm hữu khuynh (tiêu biểu là Bécxtanh – Đức) thừa nhận cơ sở kinh
tế của giai cấp và dùng phương pháp cải lương để giải quyết mâu thuẫn giai cấp,
nhấn mạnh biện pháp đấu tranh kinh tế và mục tiêu kinh tế mà không chú ý đúng
mức đến mục tiêu chính trị, lảng tránh trách nhiệm xã hội. Nhìn chung theo quan
điểm này là coi thường, buông lỏng, xem nhẹ vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp.
+ Quan điểm tả khuynh đưa các khẩu hiệu cách mạng cực đoan để lợi dụng tình
cảm của quần chúng nhân dân, che giấu bản chất chủ nghĩa cơ hội của mình. Họ đánh
giá các sự kiện lịch sử, các hiện tượng xã hội một cách chủ quan và bỏ qua các bước
quá độ đẩy phong trào đến chỗ phiêu lưu, mạo hiểm (chủ quan, duy ý chí). Theo quan
điểm này đề cao quá mức tầm quan trọng của vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp.
Vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp rất phức tạp, các nhà tư tưởng tư sản
luôn xuyên tạc hay che đậy nó.
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Nhóm 9 – Đêm 6 – Khóa 20
5
Giai cấp, dân tộc, nhân loại trong thời đại hiện nay và vận dụng vào sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
2. Quan niệm Mácxít về giai cấp và đấu tranh giai cấp
2.1. Giai cấp
Quan niệm: “Người ta gọi giai cấp, những tập đoàn to lớn, những tập đoàn
này khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định
trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ (thường thì những quan hệ này được
pháp luật quy định và thừa nhận) đối với những tư liệu sản xuất, về vai trò của
họ trong tổ chức lao động xã hội và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng
thụ về phần của cải ít hoặc nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là những tập đoàn
người, mà tập đoàn này thì có thể chiếm đoạt có địa vị khác nhau trong một chế
độ kinh tế – xã hội nhất định”. (V.I.Lênin).
Theo định nghĩa giai cấp của V.I.Lênin thì giai cấp gắn liền với một hệ thống
sản xuất nhất định và có địa vị khác nhau trong hệ thống sản xuất đó. Địa vị này do
các quan hệ sản xuất quyết định. Vì vậy, các giai cấp khác nhau thì:
+ Quan hệ khác nhau đối với sở hữu tư liệu sản xuất. Những giai cấp như chủ
nô (trong chế độ nô lệ), địa chủ (trong chế độ phong kiến), tư sản (trong chế độ tư
bản) là những tập đoàn người giữ địa vị thống trị trong hệ thống kinh tế – xã hội mà
họ là đại biểu vì họ nắm được phương tiện, điều kiện vật chất quan trọng nhất
(chiếm hữu tư liệu sản xuất xã hội) để chi phối lao động của tập đoàn người không
có hoặc có rất ít tư liệu sản xuất. Những tập đoàn người bị mất tư liệu sản xuất như
nô lệ (trong chế độ nô lệ), nông nô (trong chế độ phong kiến), vô sản (trong chế độ
tư bản) buộc phải phụ thuộc về kinh tế vào các tập đoàn thống trị.
+ Vai trò khác nhau trong tổ chức, quản lý lao động xã hội. Tập đoàn nào
chiếm hữu tư liệu sản xuất đương nhiên giữ vai trò lãnh đạo, chỉ huy hoạt động
sản xuất và lưu thông trên qui mô toàn xã hội cũng như từng đơn vị kinh tế.
+ Phương thức và quy mô thu nhập của cải xã hội khác nhau. Là người
chiếm hữu tư liệu sản xuất và tổ chức lãnh đạo sản xuất, tập đoàn thống trị đủ
điều kiện thực hiện mục đích của mình trong sản xuất là chiếm đoạt sản phẩm
thặng dư do các giai cấp lao động tạo ra. Địa vị khác nhau của giai cấp là cơ sở
của quan hệ bóc lột giai cấp, thực chất quan hệ giai cấp trong xã hội đối kháng là
quan hệ bóc lột.
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Nhóm 9 – Đêm 6 – Khóa 20
6
Giai cấp, dân tộc, nhân loại trong thời đại hiện nay và vận dụng vào sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Nguồn gốc: Lực lượng sản xuất phát triển dẫn đến có sự phân công lao động,
mang lại năng suất lao động cao hơn, từ đó dẫn đến sản phẩm thặng dư tương đối.
Trong xã hội sẽ xuất hiện chế độ tư hữu làm cơ sở cho sự hình thành giai cấp. Như
vậy, nguồn gốc cơ bản ra đời giai cấp là nguồn gốc kinh tế – đó là chế độ tư hữu.
Kết cấu: Trong kết cấu giai cấp của xã hội bao gồm các giai cấp cơ bản đối
lập nhau, các giai cấp không cơ bản và tầng lớp trung gian.
+ Các giai cấp cơ bản đối lập nhau: là các giai cấp do phương thức sản xuất
của xã hội sinh ra. Đó là giai cấp chủ nô và nô lệ (phương thức sản xuất chiếm hữu
nô lệ), giai cấp địa chủ và nông nô (phương thức sản xuất phong kiến), giai cấp tư
sản và vô sản (phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa). Quan hệ giữa các giai cấp
này là quan hệ bóc lột và bị bóc lột, thống trị và bị trị. Cuộc đấu tranh giữa các giai
cấp cơ bản quyết định xu hướng tính chất của sự vận động xã hội.
+ Các giai cấp không cơ bản: là các giai cấp tàn dư của phương thức sản
xuất cũ để lại như giai cấp chủ nô và nô lệ (trong giai đoạn đầu của phương thức
sản xuất chiếm hữu nô lệ) hay các giai cấp mầm mống của phương thức sản xuất
tương lai như giai cấp công nhân (trong giai đoạn cuối của phương thức sản xuất
phong kiến – thời kỳ công trường thủ công).
+ Các tầng lớp trung gian: là sản phẩm của chính phương thức sản xuất
đang thống trị, là kết quả của quá trình phân hóa xã hội không ngừng diễn ra như
tầng lớp bình dân (phương thức sản xuất chiếm hữu nô lệ), tiểu tư sản (phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa), tầng lớp trí thức tồn tại trong bất kỳ xã hội có
giai cấp nào. Tầng lớp trí thức có vai trò rất quan trọng trong các hoạt động kinh
tế, xã hội, chính trị, văn hóa …
Tóm lại, sự xung đột của các giai cấp cơ bản sẽ dẫn đến đấu tranh giai cấp.
2.2. Đấu tranh giai cấp
Quan niệm: Đấu tranh giai cấp là “cuộc đấu tranh của quần chúng bị tước hết
quyền, bị áp bức và lao động, chống bọn có đặc quyền, đặc lợi, bọn áp bức và
bọn ăn bám, cuộc đấu tranh của những người công nhân làm thuê hay những
người vô sản chống những người hữu sản hay giai cấp tư sản”. (V.I.Lênin).
Nguyên nhân: Sự xung đột lợi ích kinh tế giữa các giai cấp.
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Nhóm 9 – Đêm 6 – Khóa 20
7
Giai cấp, dân tộc, nhân loại trong thời đại hiện nay và vận dụng vào sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Nguồn gốc: Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất mới và quan hệ sản xuất cũ
(phương thức sản xuất). Mâu thuẫn này biểu hiện về mặt xã hội thành mâu thuẫn
giữa một bên là giai cấp cách mạng, tiến bộ đại diện cho lực lượng sản xuất mới
đòi hỏi một quan hệ sản xuất mới thích hợp, với một bên là giai cấp thống trị bóc
lột, bảo thủ, đại biểu cho quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu. Khi mâu thuẫn này
lan rộng khắp các lĩnh vực đời sống xã hội và ngày càng gay gắt hơn, lôi kéo các
giai tầng trong xã hội đứng về phía bên này hay bên kia thì cuộc đấu tranh giai
cấp trong xã hội sẽ xuất hiện đầy đủ và rõ nét.
Các hình thức cơ bản: Tùy thuộc vào hoàn cảnh lịch sử, vào các giai cấp
tham gia đấu tranh, vào giai đoạn phát triển cuộc đấu tranh mà đấu tranh giai cấp
diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau. Tuy nhiên có 3 hình thức đấu tranh cơ
bản là: đấu tranh kinh tế, đấu tranh chính trị và đấu tranh tư tưởng. Trong thời đại
ngày nay, cách mạng xã hội chủ nghĩa (XHCN) đang ở thời kỳ thoái trào, giai
cấp công nhân các nước tư bản chủ nghĩa (TBCN) đang đứng trước vấn đề cấp
bách là tìm những hình thức mới của đấu tranh giai cấp để chống lại những thủ
đoạn mới của giai cấp thống trị, của những tập đoàn tư bản lũng đoạn xuyên quốc
gia bảo vệ những lợi ích giai cấp trước mắt và lâu dài của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động.
Vai trò của đấu tranh giai cấp trong xã hội có giai cấp đối kháng:
Trong tuyên ngôn Đảng Cộng Sản của Mac – Ăngen: “Lịch sử xã hội loài
người từ khi có giai cấp đến nay là lịch sử đấu tranh giai cấp”. Đấu tranh giai
cấp là một trong những động lực quan trọng của các xã hội có giai cấp đối kháng.
+ Lĩnh vực kinh tế:
– Thời bình lực lượng sản xuất phát triển.
– Thời chiến (cách mạng xã hội xảy ra) quan hệ sản xuất phát triển dẫn
đến lực lượng sản xuất phát triển.
+ Lĩnh vực chính trị:
– Thời bình đời sống chính trị phát triển.
– Thời chiến (cách mạng xã hội xảy ra) kiến trúc thượng tầng phát triển
dẫn đến cơ sở hạ tầng phát triển.
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Nhóm 9 – Đêm 6 – Khóa 20
8
Giai cấp, dân tộc, nhân loại trong thời đại hiện nay và vận dụng vào sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
+ Lĩnh vực tư tưởng:
– Thời bình đời sống tư tưởng văn hóa phát triển.
– Thời chiến (cách mạng xã hội xảy ra) hệ tư tưởng phát triển dẫn đến tồn
tại xã hội phát triển.
Đấu tranh giai cấp dẫn đến chuyên chính vô sản – công cụ xóa bỏ chế độ tư
hữu và giai cấp, xây dựng chủ nghĩa cộng sản. Điều kiện tiên quyết là phải tạo ra
được lực lượng sản xuất phát triển rất cao cùng với sự trưởng thành vượt bậc của
con người tạo ra một năng suất lao động xã hội rất cao.
2.3. Đấu tranh của giai cấp vô sản trong điều kiện mới hiện nay
Điều kiện mới
+ Chủ nghĩa xã hội (CNXH) ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, so sánh lực
lượng thay đổi tạm thời có lợi cho các lực lượng phản cách mạng và bất lợi cho
lực lượng cách mạng. Lực lượng cách mạng chia rẽ, mất đoàn kết, suy yếu. Lực
lượng phản cách mạng có lợi tuyên truyền xuyên tạc lý luận giai cấp và đấu tranh
giai cấp.
+ CNTB có những điều chỉnh, thay đổi để thích nghi tiếp tục phát triển,
mâu thuẫn giai cấp (tư sản và vô sản) tạm thời được xoa dịu.
+ Cuộc cách mạng khoa học – công nghệ đang phát triển mạnh mẽ làm cho
lực lượng sản xuất tăng nhanh. Nền kinh tế tri thức và xã hội thông tin ra đời làm
phân hóa giai – tầng trong xã hội. Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất có tính chất
xã hội hóa cao với quan hệ sản xuất vẫn dựa trên trên chế độ sở hữu tư nhân
TBCN về tư liệu sản xuất có nhiều biểu hiện mới gay gắt, phức tạp, không dễ
nhận thức như trước đây, những kết luận vội vàng: không còn giai cấp vô sản,
đấu tranh giai cấp lỗi thời …
+ Thực tế cho thấy, xung đột giữa tư bản lao động, phân cực giàu nghèo,
phân hóa thu nhập, xung đột dân tộc, khu vực, cộng đồng … đã tạo nên sự bất ổn
trong xã hội.
Nội dung mới:
+ Đấu tranh giữa lao động và tư bản (ở các nước TBCN phát triển).
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Nhóm 9 – Đêm 6 – Khóa 20
9
Giai cấp, dân tộc, nhân loại trong thời đại hiện nay và vận dụng vào sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
+ Đấu tranh của nhân dân lao động (các nước đang phát triển và các nước
XHCN) chống chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế, vì độc lập
dân tộc và CNXH và vì lợi ích chân chính của mình.
+ Trọng tâm của cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản trên toàn thế giới là đấu
tranh vì độc lập dân tộc và CNXH chống các thế lực phản động, đế quốc chủ
nghĩa đang ráo riết thực hiện “diễn biến hòa bình (lật đổ chế độ XHCN mà không
cần chiến tranh).
Hình thức mới: Vẫn tồn tại 3 hình thức cơ bản: đấu tranh kinh tế, đấu tranh
chính trị và đấu tranh tư tưởng. Nhưng vận dụng uyển chuyển, lồng ghép vào các
hình thức đấu tranh khác, không được cường điệu hóa dẫn đến cục bộ, không
đoàn kết được các lực lượng hòa bình, dân chủ, tiến bộ. Đồng thời cũng không
được chủ quan, thỏa hiệp, mất cảnh giác làm cho lực lượng cách mạng rơi vào
thế bị động, phân liệt.
3. Vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam
Điều kiện mới
Trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam vẫn tồn tại lâu dài các giai cấp,
tầng lớp khác nhau. Đấu tranh giai cấp là một thực tế khách quan. Vấn đề không
phải là lảng tránh danh từ đấu tranh giai cấp, mà cơ bản là nhận thức đúng tính
chất, đặc điểm, nội dung và hình thức đấu tranh giai cấp để từ đó xây dựng các
phương pháp xử lý tốt các quan hệ xã hội – giai cấp.
Đấu tranh giai cấp ở Việt Nam diễn ra trong điều kiện mới: cơ cấu giai cấp,
vị trí giai cấp thay đổi dẫn đến quan hệ giữa các giai cấp cũng có sự thay đổi.
Nội dung mới
Mục tiêu của đấu tranh giai cấp ở Việt Nam là độc lập dân tộc gắn liền với
CNXH, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Vì vậy, đấu
tranh giai cấp ở Việt Nam diễn ra với nhiều hình thức nhưng nổi bật lên là đấu
tranh giải quyết mâu thuẫn giữa một bên là quần chúng nhân dân lao động, các
lực lượng xã hội đi theo con đường dẫn tới mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh, đoàn kết trong mặt trận thống nhất do Đảng
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Nhóm 9 – Đêm 6 – Khóa 20
10
Giai cấp, dân tộc, nhân loại trong thời đại hiện nay và vận dụng vào sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
cộng sản lãnh đạo với một bên là các thế lực, các tổ chức, các phần tử chống độc
lập dân tộc và CNXH. Các thế lực phản động trong nước cấu kết với các thế lực
phản động quốc tế sử dụng “Âm mưu diễn biến hoà bình” hòng thủ tiêu sự lãnh
đạo của Đảng cộng sản đối với xã hội đi đến chỗ lật đổ chế độ xã hội. Cuộc đấu
tranh giai cấp hiện nay không còn trực diện như thời kỳ đấu tranh giải phóng dân
tộc mà nó ẩn giấu đằng sau qua các cuộc đấu tranh về kinh tế, văn hoá, tư tưởng.
Cuộc đấu tranh giai cấp hiện nay không chỉ là đấu tranh bảo vệ chính quyền mà
còn định hướng đi lên CNXH.
Hình thức mới
Đấu tranh giai cấp ở nước ta còn thể hiện ở cuộc đấu tranh giữa hai con
đường XHCN và TBCN. Đó là cuộc đấu tranh giữa các nhân tố thúc đẩy đất
nước đi theo con đường XHCN chống lại các nhân tố thúc đẩy đất nước chuyển
dịch theo hướng TBCN.
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Nhóm 9 – Đêm 6 – Khóa 20
11
Giai cấp, dân tộc, nhân loại trong thời đại hiện nay và vận dụng vào sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
CHƯƠNG 2: QUAN HỆ GIAI CẤP VỚI DÂN TỘC VÀ NHÂN
LOẠI TRONG THỜI ĐẠI NGÀY NAY
1. Dân tộc và quan hệ giai cấp với dân tộc
1.1. Khái niệm dân tộc và sự hình thành dân tộc
Khái niệm dân tộc
Theo nghĩa khoa học (hiện đại), dân tộc là khái niệm dùng để chỉ hình thức
cộng đồng người ổn định, bền vững, được hình thành trong lịch sử lâu dài, trên cơ
sở cộng đồng về ngôn ngữ, về lãnh thổ, về kinh tế và về văn hóa, tâm lý, tính cách.
Dân tộc là một cộng đồng người có những đặc điểm chung thống nhất sau đây:
– Một là, cộng đồng về ngôn ngữ – một phương tiện giao tiếp chung thống
nhất của các thành viên trong cộng đồng dân tộc.
– Thứ hai, cộng đồng về lãnh thổ – đó là vùng đất, vùng trời, vùng biển, hải
đảo… thuộc chủ quyền quốc gia dân tộc
– Ba là, cộng đồng về kinh tế – một thị trường thống nhất để thực hiện các
hoạt động kinh tế, các hoạt động này được cũng cố bằng thể chế chính trị là nhà
nước tập quyền. Đây là đặc trưng quan trọng nhất phân biệt với bộ lạc, bộ tộc.
Thiếu sự cộng đồng chặt chẽ về kinh tế thì cộng đồng dân tộc không thể hình
thành được.
– Bốn là, cộng đồng về văn hóa, tâm lý, tính cách. Đây là nhân tố quan trọng
của sự liên kết cộng đồng. Văn hóa dân tộc được hình thành trong quá trình lịch
sử lâu dài, tạo ra sắc thái riêng của dân tộc. Văn hóa dân tộc mang nhiều sắc thái
của các địa phương, các sắc tộc, các tập đoàn người, nhưng đó vẫn là một nền
văn hóa thống nhất, chứ không phải bị chia cách, tách rời nhau. Tính thống nhất
trong đa dạng là đặc trưng của văn hóa dân tộc. Các dân tộc thường xuyên giao
lưu văn hóa với các dân tộc khác trong quá trình phát triển. Trong sự giao lưu
văn hoá đó, các dân tộc không ngừng đấu tranh để bảo tồn và phát triển bản sắc
văn hóa của mình. Văn hóa dân tộc là kết tinh tâm lý, tính cách dân tộc. Mỗi dân
tộc có tính cách riêng, không pha trộn với tâm lý, tính cách của dân tộc khác.
Đây chính là cốt lõi bản sắc dân tộc.
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Nhóm 9 – Đêm 6 – Khóa 20
12
Giai cấp, dân tộc, nhân loại trong thời đại hiện nay và vận dụng vào sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Như vậy, bốn đặc trưng: cộng đồng về kinh tế, cộng đồng về lãnh thổ, cộng
đồng về ngôn ngữ về văn hóa, tâm lý, tính cách là bốn đặc trưng không thể thiếu
được của mỗi dân tộc. Tuy nhiên, dân tộc không phải là phép cộng giản đơn của
bốn đặc trưng – bốn mối quan hệ cộng đồng trên mà chính là kết hợp một cách
biện chứng các mối quan hệ ấy. Nó vừa kết nối dân tộc thành một khối vừa tạo ra
động lực để liên kết và phát triển cho mỗi quốc gia dân tộc.
Sự hình thành dân tộc
Sự hình thành dân tộc rất đa dạng: có dân tộc được hình thành từ một bộ tộc
phát triển lên, nhưng đa số dân tộc được hình thành trên cơ sở nhiều bộ tộc và tộc
người hợp nhất lại. Việc hình thành dân tộc từ các hình thức cộng đồng người
trước dân tộc phát triển lên dân tộc là một quá trình có tính chất liên tục vừa là
bước nhảy vọt. Ở Việt Nam, dân tộc được hình thành sớm hơn do điều kiện
chống xâm lược và chống thiên nhiên. Dân tộc không chỉ là sản phẩm của sự
phát triển kinh tế văn hóa, mà còn là động lực cho sự phát triển. Trong tương lai
của loài người, dân tộc sẽ tồn tại lâu dài ngay cả khi các giai cấp đã mất đi. Do
vậy, đấu tranh chống lại sự nô dịch và áp bức dân tộc chính là đấu tranh vì sự
phát triển và tiến bộ chung của nhân loại.
1.2. Quan hệ giữa giai cấp và dân tộc trong lịch sử
Chủ nghĩa Mác – Lênin khẳng định rằng, vấn đề dân tộc không thể tách rời
khỏi vấn đề giai cấp, đấu tranh dân tộc không thể tách rời khỏi vấn đề giai cấp,
đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp quan hệ mật thiết với nhau. Nhưng dân
tộc và giai cấp là những phạm trù chỉ các quan hệ xã hội khác nhau, mỗi nhân tố
có vai trò lịch sử của nó trong sự phát triển xã hội, không thể quy mối quan hệ
này vào quan hệ kia. Giai cấp có trước dân tộc hàng nghìn năm. Khi nhân loại
tiến lên chủ nghĩa cộng sản, giai cấp sẽ mất đi, nhưng dân tộc còn tồn tại lâu dài.
Việc giải quyết vấn đề giai cấp có ý nghĩa quyết định đối với việc giải quyết vấn
đề dân tộc, và vấn đề dân tộc bao giờ cũng được chỉ đạo bởi một quan điểm giai
cấp nhất định. Đồng thời, chủ nghĩa Mác- Lênin khẳng định tầm quan trọng đặc
biệt của nhân tố dân tộc đối với sự phát triển xã hội, ý nghĩa cực kỳ to lớn của
việc giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc đối với sự nghiệp cách mạng của giai cấp
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Nhóm 9 – Đêm 6 – Khóa 20
13
Giai cấp, dân tộc, nhân loại trong thời đại hiện nay và vận dụng vào sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
công nhân và nhân dân lao động. Tùy thuộc vào những điều kiện lịch sử cụ thể
mà giải quyết vấn đề dân tộc hay vấn đề giai cấp trở thành nhiệm vụ chủ yếu
trong từng giai đoạn cách mạng.
Quan hệ giai cấp, với tư cách là sản phẩm của một phương thức sản xuất
nhất định, là nhân tố có vai trò quyết định đối với sự hình thành dân tộc, tính chất
dân tộc, xu hướng phát triển của dân tộc, quan hệ giữa các dân tộc.
CNTB và giai cấp tư sản đang lên có vai trò quyết định đối với quá trình
hình thành dân tộc (quá trình hình thành dân tộc mang tính chất điển hình). Đối
với các dân tộc phương Đông, vai trò này thuộc về tập đoàn xã hội tiên tiến
đương thời.
Tính chất của dân tộc được quy định bởi phương thức sản xuất thống trị
trong dân tộc, bởi kết cấu giai cấp được sản sinh từ phương thức sản xuất đó. Thí
dụ, sự thống trị của giai cấp tư sản đối với xã hội và đối với dân tộc nói lên tính
chất TBCN của dân tộc đó. Sau cách mạng XHCN, giai cấp tư sản mất vai trò
thống trị, giai cấp công nhân trở thành giai cấp lãnh đạo xã hội và dân tộc. Sự
thay đổi quan hệ giai cấp đó làm cho dân tộc tư bản chủ nghĩa chuyển hướng trở
thành dân tộc XHCN.
Vai trò của nhân tố giai cấp còn thể hiện ở mối quan hệ giữa áp bức giai cấp
và áp bức dân tộc, đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc.
Chủ nghĩa Mác đã chỉ ra nguyên nhân sâu xa, căn bản của áp bức dân tộc là
chế độ người áp bức bóc lột người, nói cách khác, áp bức giai cấp là nguyên nhân
căn bản của áp bức dân tộc. Trong thời đại ngày nay, CNTB, do bản chất kinh tế
của nó, là nguyên nhân căn bản và phổ biến của áp bức dân tộc và sự bất bình
đẳng giữa các dân tộc. Thực tế hiện nay, hầu hết các dân tộc thuộc địa, do đấu
tranh đã giành được độc lập về chính trị, thì các nhà lý luận tư sản cho rằng,
CNTB đã có khả năng khắc phục tệ áp bức, bóc lột dân tộc. Nhưng thực tế liệu
có như vậy, hay trong chủ nghĩa tư bản hiện đại, áp bức, bóc lột dân tộc không
mất đi mà ngược lại vẫn phổ biến và ngày càng trầm trọng?
Nhân tố giai cấp đóng vai trò quyết định trong mối quan hệ giai cấp – dân
tộc. Nhưng cũng không thể tuyệt đối hóa nhân tố giai cấp, coi nhẹ vai trò của dân
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Nhóm 9 – Đêm 6 – Khóa 20
14
Giai cấp, dân tộc, nhân loại trong thời đại hiện nay và vận dụng vào sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
tộc. Thực tiễn cho thấy, các phong trào cách mạng không thể phát triển được,
thậm chí có thể gặp thất bại nếu coi thường hoặc phạm sai lầm nghiêm trọng
trong việc giải quyết vấn đề dân tộc.
Kể từ khi có dân tộc thì cộng đồng xã hội dân tộc là địa bàn trực tiếp của
quá trình kinh tế – xã hội, các cuộc đấu tranh giai cấp, các biến cố chính trị, các
cuộc cách mạng xã hội. Dân tộc là cái nôi của các nền văn hóa mà nếu không có
những nền văn hóa do nhiều dân tộc tạo ra thì không thể có nền văn minh nhân
loại và không có CNXH.
Dân tộc là địa bàn trực tiếp của cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp công
nhân. Lênin nói: “Tổ quốc, nghĩa là hoàn cảnh chính trị văn hóa và xã hội, là
một nhân tố cực kỳ mạnh mẽ đối với cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản.
Sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân là sự nghiệp quốc tế xét về các
mặt: Lợi ích căn bản, mục tiêu cuối cùng, chống kẻ thù chung là chủ nghĩa tư
bản quốc tế…” Vì vậy, đoàn kết quốc tế là nguyên tắc căn bản hàng đầu bảo đảm
thắng lợi cuối cùng của sự nghiệp cách mạng. Song, sự nghiệp cách mạng của
giai cấp công nhân của mỗi nước còn là sự nghiệp có tính dân tộc sâu sắc. Địa
bàn chiến đấu trực tiếp của giai cấp công nhân là dân tộc, là Tổ quốc. “Giai cấp
vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành
giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc”. Là đại biểu chân chính của lợi
ích và truyền thống dân tộc, giai cấp công nhân có khả năng đoàn kết mọi lực
lượng yêu nước và cách mạng xây dựng mặt trận dân tộc trong cuộc đấu tranh
giành độc lập dân tộc và CNXH.
Áp bức giai cấp gây nên áp bức dân tộc và ngược lại áp bức dân tộc lại trở
thành nguyên nhân làm sâu sắc thêm áp bức giai cấp. Đặc biệt trong thời đại đế
quốc chủ nghĩa, đấu tranh giải phóng dân tộc ở thuộc địa và đấu tranh giai cấp ở
chính quốc có quan hệ tác động lẫn nhau hết sức mật thiết. Đấu tranh dân tộc
chứa đựng những nội dung giai cấp sâu sắc, nó không chỉ là kết quả mà còn là
nguyên nhân làm cho đấu tranh giai cấp phát triển cả về bề rộng, bề sâu và có
bước nhảy vọt về chất. Đánh giá đúng vai trò cách mạng của dân tộc thuộc địa,
Lênin đã phát triển khẩu hiệu của tuyên ngôn của Đảng Cộng sản: “Vô sản tất cả
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Nhóm 9 – Đêm 6 – Khóa 20
15
Giai cấp, dân tộc, nhân loại trong thời đại hiện nay và vận dụng vào sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
các nước đoàn kết lại!” thành khẩu hiệu mới: “Vô sản tất cả các nước và dân tộc
bị áp bức đoàn kết lại!”. Đó là lời kêu gọi tập hợp lực lượng xung quanh giai cấp
công nhân, tất cả các lực lượng có khả năng cách mạng, chống đế quốc của thời
đại đấu tranh vì các mục tiêu độc lập dân tộc, dân chủ và CNXH.
Vấn đề dân tộc chỉ có thể được giải quyết từng bước và triệt để cùng với sự
thắng lợi của CNXH. CNXH có sức mạnh xóa bỏ áp bức giai cấp, đồng thời xóa
bỏ áp bức dân tộc, bảo đảm quyền của các dân tộc tự do phát triển tất cả các giá
trị của mình. Tuy nhiên, vấn đề dân tộc, quan hệ dân tộc – giai cấp, quan hệ giữa
các dân tộc là vấn đề cực kỳ phức tạp. Quan niệm cho rằng, khi chính quyền đã
về tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động thì vấn đề dân tộc sẽ trở lên rất
đơn giản, tự nó được giải quyết là một quan niệm hết sức sai lầm. Phải hiểu rằng,
những mâu thuẫn của vấn đề dân tộc trong quá trình xây dựng CNXH và dưới
CNXH không chỉ là di sản của xã hội cũ mà còn bao gồm các mâu thuẫn mới nảy
sinh đòi hỏi được giải quyết. Vấn đề dân tộc trở nên đặc biệt phức tạp khi các
đảng cầm quyền phạm những sai lầm lớn trong việc xử lý các quan hệ dân tộc,
coi thường các lợi ích dân tộc cụ thể, coi thường bản sắc dân tộc, tình cảm dân
tộc, truyền thống dân tộc… Sự khủng hoảng về vấn đề dân tộc đã khiến cho
khủng hoảng kinh tế – xã hội nói chung ở một số nước XHCN thêm trầm trọng.
Đảng cộng sản Việt nam do chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập đã thực hiện
nhất quán đường lối chiến lược giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH,
đoàn kết các cộng đồng dân tộc đứng lên đấu tranh giành quyền làm chủ vận
mệnh của mình.
1.3. Vấn đề dân tộc và quan hệ giai cấp với dân tộc trong thời đại hiện nay
Thời đại ngày nay có nhiều biến đổi ảnh hưởng sâu sắc đến vấn đề dân tộc
và quan hệ dân tộc – giai cấp. Đó là:
– Cuộc cách mạng khoa học – công nghệ hiện đại phát triển mạnh mẽ tạo
bước nhảy vọt lớn về chất của lực lượng sản xuất, thúc đẩy nhanh chóng quá
trình xã hội hóa, quốc tế hóa các kết cấu giai cấp, các quan hệ giai cấp – dân tộc
– nhân loại.
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Nhóm 9 – Đêm 6 – Khóa 20
16
Giai cấp, dân tộc, nhân loại trong thời đại hiện nay và vận dụng vào sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
– Sự thất bại của CNXH đã được xây dựng ở Liên Xô và Đông Âu làm thay
đổi căn bản cán cân lực lượng giữa CNXH và CNTB. Dù bị suy yếu nhưng
CNXH không bị tiêu diệt mà đang đổi mới để tồn tại và phát triển. CNTB tạm
thời ở thế có lợi hơn CNXH.
– Các quốc gia dân tộc hiện đại đều trở thành yếu tố thị trường thế giới thống
nhất và duy nhất. Cơ cấu kinh tế toàn cầu hiện nay là cơ cấu TBCN, do vậy lực
lượng chi phối cơ cấu kinh tế thế giới hiện nay là các cường quốc, các trung tâm
tư bản lớn, các công ty xuyên quốc gia.
Những biến đổi trên đây không làm mất tính thời đại ngày nay là thời đại
quá độ từ CNTB lên CNXH, mà chỉ làm cho những mâu thuẫn của thời đại trở
nên gay gắt và phức tạp hơn. Chúng đã và đang ảnh hưởng mạnh mẽ đến vấn đề
dân tộc và quan hệ giữa dân tộc với giai cấp.
– Nội dung vấn đề giai cấp hiện nay quan hệ chặt chẽ với vấn đề dân tộc độc
lập, thực chất là đấu tranh giải phóng dân tộc khỏi sự áp bức bóc lột của chủ
nghĩa đế quốc, của các tập đoàn tư bản lớn. Ngược lại, vấn đề dân tộc, xây dựng
mối quan hệ bình đẳng giữa các dân tộc, phong trào giải phóng dân tộc tác động
mạnh mẽ đến cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân thế giới, vì sự nghiệp giải
phóng người lao động, xây dựng XHCN.
– Trong thời đại ngày nay, vai trò nhân tố dân tộc trong sự nghiệp phát triển
xã hội nói chung và trong quan hệ với vấn đề giai cấp, vận động theo hai hướng:
9 Một là, xu hướng giảm tương đối vai trò nhân tố dân tộc và sự khác biệt
giữa các dân tộc, tăng sự phụ thuộc lẫn nhau, sự giao lưu giữa các dân tộc. Mặt tích
cực của xu hướng này là mở rộng sự hợp tác quốc tế về kinh tế, văn hóa giữa các
dân tộc, thúc đẩy sự hỗ trợ nhau phát triển; còn mặt tiêu cực của nó là tư tưởng coi
thường bản sắc văn hóa dân tộc, xem thường yêu cầu độc lập, chủ quyền dân tộc và
trong điều kiện hiện nay dễ dàng áp đặt “giá trị phương Tây” lên các dân tộc khác.
9 Hai là, xu hướng khẳng định và tăng cường nhân tố dân tộc, bản sắc
của các dân tộc. Mặt tích cực của xu hướng này là coi trọng độc lập dân tộc, thúc
đẩy phong trào giải phóng dân tộc phát triển, thúc đẩy chủ nghĩa yêu nước; còn
mặt tiêu cực của nó là dễ rơi vào chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, cực đoan, chủ nghĩa
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Nhóm 9 – Đêm 6 – Khóa 20
17
Giai cấp, dân tộc, nhân loại trong thời đại hiện nay và vận dụng vào sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
bài ngoại… Do vậy, cần khẳng định mặt tích cực và đấu tranh chống lại các yếu
tố tiêu cực trong cả hai xu hướng trên.
Tóm lại, trong giai đoạn hiện nay, quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề
giai cấp có nhiều biểu hiện phức tạp. Để giải quyết đúng đắn mối quan hệ này,
các đảng của giai cấp công nhân cần nắm vững quan điểm của chủ nghĩa Mác –
Lênin, hiểu rõ xu hướng vận động của nhân tố dân tộc trong sự phát triển xã hội
để vận dụng vào điều kiện cụ thể cho thích hợp, bảo vệ lợi ích chân chính của
dân tộc và giai cấp công nhân, của nhân dân lao động.
2. Nhân loại và quan hệ giai cấp với nhân loại
2.1. Nhân loại, lợi ích của nhân loại và vấn đề nhân loại
Nhân loại là khái niệm dùng để chỉ toàn thể cộng đồng người sống trên trái
đất hàng triệu năm nay, không phân biệt chủng tộc, dân tộc, giai cấp, tôn giáo…
Nhân loại là một thể thống nhất, cơ sở của sự thống nhất đó là những nhân tố tồn
tại khách quan quy định lợi ích chung của mỗi cá thể và của cả cộng đồng.
Lợi ích nhân loại: bao gồm tất cả điều kiện và quá trình khách quan, mọi
nhân tố đảm bảo cho nhân loại tồn tại tại và phát triển.
Vấn đề nhân loại là vấn đề liên quan đến sự tồn tại của cả loài người, đòi
hỏi sự hợp tác của toàn nhân loại mới giải quyết được:
9 Bảo vệ môi trường,
9 Chống chiến tranh hạt nhân,
9 Phòng chống thiên tai, dịch bệnh
9 Phát triển dân số,
9 Giải phóng dân tộc, bình đẳng cho con người, …
2.2. Quan hệ giai cấp và nhân loại
Lợi ích giai cấp chi phối lợi ích nhân loại
Giai cấp khác nhau có địa vị xã hội khác nhau nên nhìn nhận và giải
quyết các vấn đề nhân loại không giống nhau; về cơ bản:
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Nhóm 9 – Đêm 6 – Khóa 20
18
Giai cấp, dân tộc, nhân loại trong thời đại hiện nay và vận dụng vào sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
– Giai cấp tiên tiến, cách mạng có lợi ích phù hợp với lợi ích nhân loại,
giải quyết các vấn đề nhân loại theo xu hướng tích cực.
– Giai cấp bảo thủ, phản động có lợi ích đối lập với lợi ích nhân loại,
giải quyết các vấn đề nhân loại theo xu hướng tiêu cực.
Giai cấp công nhân (sản phẩm của phương thức sản xuất TBCN, đại diện
cho lực lượng sản xuất tiên tiến, xã hội hóa cao) mang bản chất cách mạng và có
tính quốc tế có lợi ích giai cấp phù hợp với lợi ích nhân loại giải quyết đúng đắn
các vấn đề nhân loại hiện nay (không sa vào chủ nghĩa duy tâm cực đoan, chủ
nghĩa bè phái, chủ nghĩa cực quyền nước lớn).
Cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân vì lợi ích của mình, gắn liền với
cuộc đấu tranh vì dân chủ, bình đẳng, tự do, gắn liền với phong trào giải phóng
dân tộc, đó cũng là vì lợi ích nhân loại.
Khi nào nhân loại còn tồn tại thì mới còn tồn tại của giai cấp
3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ giai cấp dân tộc nhân loại trong cách
mạng Việt Nam
Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện thực tiễn của cách
mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã có nhiều quan điểm sâu sắc về mối quan hệ
giai cấp, dân tộc, nhân loại, đáp ứng yêu cầu mới của thực tiễn cách mạng Việt
Nam trong thời đại ngày nay. Những quan điểm đó có thể kể đến như sau:
3.1. Về vấn đề dân tộc thuộc địa
Vấn đề dân tộc thuộc địa thực chất là vấn đề đấu tranh giải phóng dân tộc
thuộc địa nhằm thủ tiêu sự thống trị của nước ngoài, giành độc lập dân tộc, xoá
bỏ ách áp bức, bóc lột thực dân, thực hiện quyền dân tộc tự quyết, thành lập nhà
nước dân tộc độc lập.
a. Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của các dân tộc
Giải quyết vấn đề dân tộc ở Việt Nam – một nước thuộc địa nửa phong kiến,
trước hết phải tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, đánh đuổi quân xâm
lược, đánh đổ bọn tay sai, giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân, hoà
bình và thống nhất đất nước. Độc lập, tự do, hoà bình và thống nhất đất nước là
khát vọng cháy bỏng của người dân mất nước. Bởi vì mất nước là mất tất cả.
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Nhóm 9 – Đêm 6 – Khóa 20
19
Giai cấp, dân tộc, nhân loại trong thời đại hiện nay và vận dụng vào sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Sống trong cảnh nước mất, nhà tan, mọi quyền lực nằm trong tay quân xâm lược
và bọn tay sai thì quyền sống của con người cũng bị đe dọa chứ nói gì đến quyền
bình đẳng, tự do, dân chủ của mọi người. Nếu có, đó chỉ là thứ tự do cướp bóc,
bắt bớ, giết hại và tù đày của quân xâm lược và bọn tay sai. Chính vì vậy mà
“Không có gì quý hơn độc lập tự do”, một trong những tư tưởng lớn của Hồ Chí
Minh trong cách mạng Việt Nam đã trở thành chân lý của dân tộc Việt Nam và
của cả nhân loại có lương tri.
Độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân – tư tưởng đó của Hồ Chí Minh đã
trở thành mục tiêu hàng đầu của cách mạng Việt Nam. Tư tưởng đó được quán
triệt trong toàn bộ tiến trình cách mạng Việt Nam và nó được thể hiện nổi bật
trong các thời điểm có tính bước ngoặt lịch sử.
Hồ Chí Minh nói: “chúng ta đã hy sinh, đã giành được độc lập, dân chỉ
thấy giá trị của độc lập khi ăn đủ no, mặc đủ ấm”. Tư tưởng này thể hiện tính
nhân văn cao cả và triệt để cách mạng của Hồ Chí Minh. Độc lập tự do là quyền
tự nhiên của dân tộc, thiêng liêng và vô cùng quý giá. Hồ Chí Minh đã tiếp xúc
với Tuyên ngôn độc lập của Mỹ 1776 và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền
của Pháp 1791, Người đã khái quát chân lý: “Tất cả các dân tộc trên thế giới
sinh ra đều có quyền bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung
sướng và quyền tự do”.
Mục tiêu của cách mạng Việt Nam là: đánh đổ Đế quốc Pháp và phong
kiến, làm cho nước Nam hoàn toàn độc lập. Sau Cách mạng Tháng Tám thành
công, Hồ Chí Minh đã đọc bản tuyên ngôn độc lập và khẳng định: “Nước Việt
Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc
lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính
mạng và của cải để giữ quyền tự do độc lập ấy”.
b. Chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn ở các nước đang đấu tranh giành
độc lập
Do kinh tế lạc hậu, sự phân hoá giai cấp chưa triệt để, vì thế “cuộc đấu
tranh giai cấp không diễn ra giống như ở phương Tây”, điều này có ý nghĩa đối
với các dân tộc phương Đông: có sự tương đồng lớn, dù là ai, cũng đều là nô lệ
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Nhóm 9 – Đêm 6 – Khóa 20
20
Giai cấp, dân tộc, nhân loại trong thời đại hiện nay và vận dụng vào sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
mất nước. Chủ nghĩa dân tộc bản xứ là chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa dân tộc
chân chính, động lực to lớn để phát triển đất nước.
c. Kết hợp nhuần nhuyễn dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội, chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế
Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin (CNMLN) khi Hồ Chí Minh bàn
đến vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc thì độc lập dân tộc phải gắn
với CNXH, mối quan hệ dân tộc và giai cấp được đặt ra.
Vấn đề dân tộc bao giờ cũng được nhận thức và giải quyết theo lập trường
của một giai cấp nhất định. Theo quan điểm của CNMLN, chỉ trên lập trường của
giai cấp vô sản, cách mạng vô sản mới giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc.
Hồ Chí Minh, từ chủ nghĩa yêu nước đến với CNMLN, đã nhận thức được mối
quan hệ chặt chẽ giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc và
CNXH, lựa chọn cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản.
Hồ Chí Minh nêu, các nước thuộc địa phương Đông không phải làm ngay cách mạng
vô sản, mà trước hết giành độc lập dân tộc. Có độc lập dân tộc rồi mới bàn đến cách
mạng XHCN. Từ thực tiễn của đấu tranh cách mạng, Nguyễn Ái Quốc đã phê phán
quan điểm của các đảng cộng sản Tây Âu không đánh giá đúng vai trò, vị trí, tương
lai của cách mạng thuộc địa và Nguyễn Ái Quốc đi đến luận điểm: “Các dân tộc
thuộc địa phải dựa vào sức mình là chính, đồng thời biết tranh thủ sự đoàn kết, ủng
hộ của giai cấp vô sản và nhân dân lao động thế giới để phải đấu tranh giành độc lập
cho dân tộc, từ cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên làm cách mạng XHCN.”
3.2. Về cách mạng giải phóng dân tộc
a. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường
cách mạng vô sản
Thất bại của các phong trào yêu nước chống thực dân Pháp ở Việt Nam cuối
thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX chứng tỏ rằng, những con đường giải phóng dân tộc dưới
ngọn cờ tư tưởng phong kiến hoặc tư tưởng tư sản là không đáp ứng được yêu cầu
khách quan là giành độc lập, tự do của dân tộc do lịch sử đặt ra. Hồ Chí Minh rất
khâm phục tinh thần cứu nước của ông cha, nhưng Người không tán thành các con
đường cứu nước ấy, mà quyết tâm ra đi tìm một con đường cứu nước mới.
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Nhóm 9 – Đêm 6 – Khóa 20
21
Giai cấp, dân tộc, nhân loại trong thời đại hiện nay và vận dụng vào sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Vượt qua sự hạn chế về tư tưởng của các sĩ phu và của các nhà cách mạng
có xu hướng tư sản đương thời, Hồ Chí Minh đã đến với học thuyết cách mạng
của CNMLN và lựa chọn con đường cách mạng vô sản. Từ đó, Người quyết tâm
đưa dân tộc Việt Nam đi theo con đường đó.
Con đường cách mạng vô sản, theo quan điểm của Hồ Chí Minh, bao hàm
những nội dung chủ yếu sau:
– Tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc và dần dần từng bước “đi tới xã
hội cộng sản”.
– Lực lượng lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân mà đội tiền phong của
nó là Đảng Cộng sản.
– Lực lượng cách mạng là khối đoàn kết toàn dân, nòng cốt là liên minh giữa
giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và lao động trí óc.
– Sự nghiệp cách mạng của Việt Nam là một bộ phận khăng khít của cách
mạng thế giới, cho nên phải đoàn kết quốc tế.
b. Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải do Đảng Cộng
sản lãnh đạo
Các nhà yêu nước Việt Nam đã ý thức được tầm quan trọng và vai trò của
tổ chức cách mạng nhưng các tổ chức cách mạng kiểu cũ không thể đưa cách
mạng giải phóng dân tộc đi đến thành công, vì nó thiếu một đường lối chính trị
đúng đắn và một phương pháp cách mạng khoa học, không có cơ sở rộng rãi
trong quần chúng.
Hồ Chí Minh khẳng định: “Kách mệnh trước phải làm cho dân giác ngộ,
phải giảng giải lý luận và chủ nghĩa cho dân hiểu, phải hiểu phong triều thế giới,
phải bày sách lược cho dân… Vậy nên sức kách mệnh phải tập trung, muốn tập
trung phải có đảng kách mệnh”.
Đầu năm 1930, Người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, một chính đảng
của giai cấp công nhân Việt Nam, có tổ chức chặt chẽ, kỷ luật nghiêm minh và
liên hệ mật thiết với quần chúng.
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Nhóm 9 – Đêm 6 – Khóa 20
22
Giai cấp, dân tộc, nhân loại trong thời đại hiện nay và vận dụng vào sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
c. Lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc bao gồm toàn dân tộc
Theo Hồ Chí Minh, cách mạng giải phóng dân tộc “là việc chung cả dân
chúng chứ không phải việc một hai người”. Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai trò
của nhân dân trong khởi nghĩa vũ trang. Người coi sức mạnh vĩ đại và năng lực
sáng tạo vô tận của quần chúng là then chốt bảo đảm thắng lợi.
Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ, Hồ
Chí Minh lấy nhân dân làm nguồn sức mạnh. Quan điểm “lấy dân làm gốc”
xuyên suốt quá trình chỉ đạo chiến tranh của Người.
d. Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và
có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc
Trong phong trào cộng sản quốc tế đã từng tồn tại quan điểm xem thắng lợi
của cách mạng thuộc địa phụ thuộc vào thắng lợi của cách mạng vô sản ở chính
quốc. Đề cương về phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa
được thông qua tại Đại hội VI Quốc tế cộng sản (ngày 1-9-1928) cho rằng: “Chỉ
có thể thực hiện hoàn toàn công cuộc giải phóng các thuộc địa khi giai cấp vô sản
giành được thắng lợi ở các nước tư bản tiên tiến”. Quan điểm này, vô hình chung
đã làm giảm tính chủ động, sáng tạo của các phong trào cách mạng ở thuộc địa.
Theo Hồ Chí Minh, giữa cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và cách
mạng vô sản ở chính quốc có mối quan hệ mật thiết với nhau, tác động qua lại
lẫn nhau trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc. Đó là
mối quan hệ bình đẳng chứ không phải là quan hệ lệ thuộc, hoặc quan hệ chính –
phụ. Năm 1925, Hồ Chí Minh viết: “CNTB là một con đỉa có một cái vòi bám
vào giai cấp vô sản ở chính quốc và một cái vòi khác bám vào giai cấp vô sản ở
các thuộc địa. Nếu người ta muốn giết con vật ấy, người ta phải đồng thời cắt cả
hai vòi. Nếu người ta chỉ cắt một vòi thôi, thì cái vòi kia vẫn tiếp tục hút máu của
giai cấp vô sản; con vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị cắt đứt lại sẽ mọc ra”.
Nhân dân các dân tộc thuộc địa có khả năng cách mạng to lớn. Theo Hồ
Chí Minh, khối liên minh các dân tộc thuộc địa là một trong những cái cánh của
cách mạng vô sản. Phát biểu tại Đại hội V Quốc tế cộng sản (tháng 6-1924),
Người khẳng định vai trò, vị trí chiến lược của cách mạng thuộc địa: “Vận mệnh
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Nhóm 9 – Đêm 6 – Khóa 20
23
Giai cấp, dân tộc, nhân loại trong thời đại hiện nay và vận dụng vào sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
của giai cấp vô sản thế giới và đặc biệt là vận mệnh của giai cấp vô sản ở các
nước đi xâm lược thuộc địa gắn chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở các
thuộc địa… nọc độc và sức sống của con rắn độc TBCN đang tập trung ở các
thuộc địa hơn là ở chính quốc, nếu xem thường cách mạng ở thuộc địa tức là
“muốn đánh chết rắn đằng đuôi”.
Do nhận thức được vai trò, vị trí chiến lược của cách mạng thuộc địa, đánh giá
đúng sức mạnh dân tộc, năm 1921, Nguyễn Ái Quốc cho rằng cách mạng giải phóng
dân tộc ở thuộc địa có thể giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc.
Trong tác phẩm Đường kách mệnh, Hồ Chí Minh có sự phân biệt về nhiệm
vụ của cách mạng vô sản và cách mạng giải phóng dân tộc và cho rằng: hai thứ
cách mạng đó tuy có khác nhau, nhưng có quan hệ chặt chẽ với nhau. Người nêu
ví dụ: “An Nam dân tộc cách mệnh thành công thì tư bản Pháp yếu, tư bản Pháp
yếu thì công nông Pháp làm giai cấp cách mệnh cũng dễ. Và nếu công nông
Pháp làm cách mệnh thành công, thì dân tộc An Nam sẽ được tự do”.
Đây là một luận điểm sáng tạo, có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn; một
cống hiến rất quan trọng của Hồ Chí Minh vào kho tàng lý luận của CNMLN, đã
được thắng lợi của phong trào cách mạng giải phóng dân tộc trên toàn thế giới
trong gần một thế kỷ qua chứng minh là hoàn toàn đúng đắn.
e. Cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng con đường
cách mạng bạo lực
9 Bạo lực cách mạng trong cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam
Các thế lực đế quốc sử dụng bạo lực để xâm lược và thống trị thuộc địa, đàn
áp dã man các phong trào yêu nước. Chế độ thực dân, tự bản thân nó đã là một
hành động bạo lực của kẻ mạnh đối với kẻ yếu. Chưa đè bẹp ý chí xâm lược của
chúng thì chưa thể có thắng lợi hoàn toàn. Vì thế con đường để giành và giữ độc
lập dân tộc chỉ có thể là con đường cách mạng bạo lực. Đánh giá đúng bản chất
cực kỳ phản động của bọn đế quốc và tay sai, Hồ Chí Minh cho rằng: “Trong
cuộc đấu tranh gian khổ chống kẻ thù của giai cấp và của dân tộc, cần dùng bạo
lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng, giành lấy chính quyền và bảo
vệ chính quyền”.
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Nhóm 9 – Đêm 6 – Khóa 20
24
Giai cấp, dân tộc, nhân loại trong thời đại hiện nay và vận dụng vào sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
9 Phương châm chiến lược đánh lâu dài trong cách mạng giải phóng
dân tộc
Trước những kẻ thù lớn mạnh, Hồ Chí Minh chủ trương sử dụng phương
châm chiến lược đánh lâu dài. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Người
nói: “Địch muốn tốc chiến, tốc thắng. Ta lấy trường kỳ kháng chiến trị nó, thì
địch nhất định thua, ta nhất định thắng”, “Trường kỳ kháng chiến… nhất định
thắng lợi”.
Độc lập tự chủ, tự lực tự cường kết hợp với tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế là
một quan điểm nhất quán trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong hai cuộc kháng
chiến chống Pháp và chống Mỹ, Người đã động viên sức mạnh của toàn dân tộc,
đồng thời ra sức vận động, tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế to lớn và có hiệu quả, cả
về vật chất và tinh thần, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để
kháng chiến thắng lợi.
3.3. Về đại đoàn kết dân tộc
a. Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược, bảo đảm thành công của cách
mạng
Hồ Chí Minh cho rằng, cuộc đấu tranh cứu nước của nhân dân ta cuối thế
kỷ XIX, đầu thế kỷ XX bị thất bại có một nguyên nhân sâu xa là cả nước đã
không đoàn kết được thành một khối thống nhất. Người thấy rằng, muốn đưa
cách mạng đến thành công phải có lực lượng cách mạng đủ mạnh để chiến thắng
kẻ thù và xây dựng thành công xã hội mới; muốn có lực lượng cách mạng mạnh
phải thực hiện đại đoàn kết, quy tụ mọi lực lượng cách mạng thành một khối
vững chắc. Do đó, đoàn kết trở thành vấn đề chiến lược lâu dài của cách mạng, là
nhân tố bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng.
Trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, có thể và cần thiết phải điều
chỉnh chính sách và phương pháp tập hợp lực lượng cho phù hợp với những đối
tượng khác nhau, nhưng đại đoàn kết dân tộc luôn luôn được Người nhận thức là
vấn đề sống còn của cách mạng.
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Nhóm 9 – Đêm 6 – Khóa 20
25
Giai cấp, dân tộc, nhân loại trong thời đại hiện nay và vận dụng vào sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
b. Đại đoàn kết toàn dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách
mạng
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc, chúng ta không chỉ
thấy rõ việc Người nhấn mạnh vai trò to lớn của dân mà còn coi đại đoàn kết dân
tộc là mục tiêu của cách mạng.
Xem dân là gốc, là lực lượng tự giải phóng nên Hồ Chí Minh coi vấn đề
đoàn kết dân tộc, đoàn kết toàn dân để tạo ra sức mạnh là vấn đề cơ bản của cách
mạng. Hồ Chí Minh còn cho rằng đại đoàn kết dân tộc không chỉ là mục tiêu,
nhiệm vụ hàng đầu của Đảng mà còn là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cả dân
tộc. Bởi vì, đại đoàn kết dân tộc chính là sự nghiệp của quần chúng, do quần
chúng, vì quần chúng. Đảng có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp, đoàn kết quần chúng
tạo thành sức mạnh vô địch trong cuộc đấu tranh vì độc lập cho dân tộc, tự do
cho nhân dân, hạnh phúc cho con người.
c. Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, khái niệm Dân, có nội hàm rất rộng. Người
dùng các khái niệm này để chỉ “mọi con dân nước Việt”, “con Rồng cháu Tiên”,
không phân biệt dân tộc thiểu số với dân tộc đa số, người tín ngưỡng với người
không tín ngưỡng, không phân biệt già, trẻ, gái trai, giàu, nghèo. Nói đến đại
đoàn kết dân tộc cũng có nghĩa phải tập hợp được mọi người dân vào một khối
trong cuộc đấu tranh chung. Với tinh thần đoàn kết rộng rãi, Người đã dùng khái
niệm đại đoàn kết dân tộc để định hướng cho việc xây dựng khối đoàn kết toàn
dân trong suốt tiến trình cách mạng, bao gồm mọi giai cấp, dân tộc, tôn giáo.
Muốn thực hiện được đại đoàn kết toàn dân thì phải kế thừa truyền thống
yêu nước – nhân nghĩa – đoàn kết của dân tộc, phải có tấm lòng khoan dung, độ
lượng với con người. Tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh có lập trường giai
cấp rõ ràng, đó là đại đoàn kết toàn dân với nòng cốt là khối liên minh công –
nông – trí thức do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo. Muốn xây dựng khối
đại đoàn kết dân tộc rộng lớn như vậy, thì phải xác định rõ đâu là nền tảng của
khối đại đoàn kết dân tộc và những lực lượng nào tạo nên cái nền tảng đó.