BÁO CÁO THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
ỨNG DỤNG PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH TỶ SỐ VÀ PHƯƠNG PHÁP SO SÁNH VÀO PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH CỦA CÔNG TY MAY ĐỨC GIANG
LỜI MỞ ĐẦU
Như ta đã biết, nhận thức- quyết định và hành động là bộ ba biện chứng của quản lý khoa học, có hiệu quả toàn bộ cá hoạt động kinh tế trong đó nhận thức giữ vị trí đặc biệt quan trọng trong việc xác định mục tiêu và sau đó là các nhiệm vụ cần đạt tới trong tương lai. Như vậy nếu nhận thức đúng, người ta sẽ có các quyết định đúng và tổ chức thực hiện kịp thời các quyết định đó đương nhiên sẽ thu được những kết quả như mong muốn. Ngược lại, nếu nhận thức sai sẽ dẫn tới các quyết định sai và nếu thực hiện các quyết định sai đó thì hậu qủa sẽ không thể lường trước được.
Vì vậy phân tích tình hình tài chính là đánh giá đúng đắn nhất những gì đã làm được, dự kiến những gì sẽ xảy ra, trên cơ sở đó kiến nghị các biện pháp để tận dụng triết để những điểm mạnh và khắc phục các điểm yếu.
Tình hình tài chính doanh nghiệp là sự quan tâm không chỉ của chủ doanh nghiệp mà còn là mối quan tâm của rất nhiều đối tượng như các nhà đầu tư, người cho vay, Nhà nước và người lao động. Qua đó họ sẽ thấy được thực trạng thực tế của doanh nghiệp sau mỗi chu kỳ kinh doanh, và tiến hành phân tích hoạt động kinh doanh. Thông qua phân tích họ có thể rút ra được những quyết định đúng đắn liên quan đến doanh nghiệp và tạo điều kiện nâng cao khả năng tài chính của doanh nghiệp. Do đó việc phân tích tài chính trong một doanh nghiệp là hết sức cần thiết. Qua thời gian thực tập tại Công ty may Đức Giang em quyết định chọn đề tài: “Ứng dụng phương pháp phân tích tỷ số và phương pháp so sánh vào phân tích tài chính của Công ty may Đức Giang”
Thực hiện đề tài này với mục đích dựa vào tình hình thực tế hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty để ứng dụng phương pháp phân tích, từ đó đánh giá hiệu quả đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty.
Chuyên đề gồm 3 chương :
Chương I: Các phương pháp phân tích tài chính trong doanh nghiệp
Phần II: Thực trạng về phương pháp phân tích tài chính của Công ty may Đức Giang.
Phần III: Một số giải pháp ứng dụng phương pháp tỷ số và so sánh vào phân tích tài chính của Công ty may Đức Giang.
CHƯƠNG I
CÁC PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH TRONG CÁC DOANH NGHIỆP
I-TẦM QUAN TRỌNG CỦA PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH
1-Tổng quan về tài chính doanh nghiệp
Hoạt động tài chính doanh nghiệp là một trong những nội dung cơ bản của hoạt động sản xuất kinh doanh .Hoạt động này nhằm thực hiện mục tiêu của doanh nghiệp: tối đa hoá giá trị tài sản sở hữu của doanh nghiệp cụ thể thành những mục tiêu khác như: tối đa hoá lợi nhuận, tăng trưởng ổn định,…
Tài chính doanh nghiệp được hiểu là những quan hệ giá trị giữa doanh nghiệp và các chủ thể trong nền kinh tế. Các quan hệ tài chính doanh nghiệp chủ yếu bao gồm:
-Quan hệ giữa doanh nghiệp với Nhà nước: Đây là mối quan hệ phát sinh khi doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước, khi Nhà nước góp vốn vào doanh nghiệp.
-Quan hệ doanh nghiệp với thị trường tài chính: Quan hệ này được thể hiện thông qua việc doanh nghiệp tìm kiếm các nguồn tài trợ. Trên thị trường tài chính, doanh nghiệp có thể vay ngắn hạn để đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn, có thể phát hành cổ phiếu và trái phiếu để đáp ứng nhu cầu vốn dài hạn. Ngược lại, doanh nghiệp phải trả lãi vay và vốn vay, trả lãi cổ phần cho các nhà tài trợ. Doanh nghiệp cũng có thể gửi tiền vào ngân hàng, đâu ftư chứng khoán bằng số tiền tạm thời chưa sử dụng.
-Quan hệ giữa doanh nghiệp với các thị trường khác: Trong nền kinh tế, doanh nghiệp có quan hệ chặt chẽ với nhiều doanh nghiệp khác trên thị trường hàng hoá, dịch vụ, thị trường sức lao động . Đây là những thị trường mà tại đó doanh nghiệp tiến hành mua sắm máy móc thiết bị, nhà xưởng, tìm kiếm lao động,… Điều quan trọng là thông qua thị trường, doanh nghiệp có thể xác định nhu cầu hàng hoá và dịch vụ cần thiết cung ứng. Trên cơ sở đó, doanh nghiệp hoạch định ngân sách đầu tư, kế hoạch sản xuất, tiếp thị htoả mãn nhu ccầu của thị trường.
-Quan hệ trong nội bộ doanh nghiệp: Đây là quan hệ giữa các bộ phận sản xuất kinh doanh, giữa cổ đông và người quản lý, giữa cổ đông và chủ nợ, giữa quyền sở hữu vốn và quyền sử dụng vốn. Các mối quan hệ này được thẻ hiện thông qua hàng loạt các chính sách của doanh nghiệp như: chính sách phân phối thu nhập, chính sách đầu tư chính sách về cơ cấu vốn và chi phí vốn,…
Một doanh nghiệp muốn tiến hành hoạt động sản xuất-kinh doanh, cần phải có một lượng tài sản phản ánh bên tài sản của Bảng cân đối kế toán. Nếu như toàn bộ tài sản do doanh nghiệp nắm giữa được đánh giá tại một thời điểm nhất định thì sự vận động của chúng – kết quả của quá trình trao đổi – chỉ có thể xác định tại một thời điểm nhất định và được phản ánh trên báo cáo kết quả kinh doanh. Quá trình hoạt động của doanh nghiệp có sự khác biệt đáng kể về quy trình công nghệ và tính chất hoạt động. Sự khác biệt này phần lớn do đặc điểm kinh tế, kỹ thuật của từng doanh nghiệp quyết định. Cho dù vậy, người ta vẫn có thể khái quát những nét chung nhất của các doanh nghiệp bằng hàng hoá dịch vụ đầu ra và hàng hoá dịch vụ đầu vào.
Một hàng hoá dịch vụ dầu vào hay một yếu tố sản xuất là hàng hoá hay dịch vụ mà các nhà doanh nghiệp mua sắm để sử dụng trong quá trình sản xuất-kinh doanh. Các hàng hoá dịch vụ đầu vào kết hợp với nhau tạo ra hàng hoá dịch vụ đầu ra – đó là hàng loạt các hàng hoá dịch vụ có ích được tiêu dùng hoặc được sử dụng trong quá trình sản xuất-kinh doanh khá. Như vậy trong một thời kỳ nhất định, các doanh nghiệp đã chuyển hoà hàng hoá dịch vụ đầu vào thành hàng hoá dịch vụ đầu ra để trao đổi. Mối quan hệ giữa tài sản hiện có và hàng hoá dịch vụ đầu vào, hàng hoá dịch vụ đầu ra (tức quan hệ giữa bảng cân đối kế toán và báo cáo kết quả kinh doanh) có thể mô tả như sau:
Hàng hoá dịch vụ sản xuất-chuyển hoá Hàng hoá dịch vụ
(mua vào) (bán ra)
Trong số các tài sản mà doanh nghiệp nắm giữ có một loại tài sản đặc biệt – đó là tiền. Chính dự trữ tiền cho phép các doanh nghiệp mua các hàng hoá dịch vụ cần thiết để tạo ra những hàng hoá dịch vụ để phục vụ cho mục đích trao đổi. Mọi quá trình trao đổi đều được thực hện qua trung gian là tiền và khái niệm dòng vật chất và dóng tiền phất sinh từ đó, tức sự dịch hcuyển hàng hoá, dịch vụ và sự dịch chuyển tiền giữa các đơn vị và tổ chức kinh tế.
Như vậy ứng với dòng vật chất đi vào (hàng hoá, dịch vụ đầu vào) là dòng tiền đi ra; ngược lại, tương ứng với dòng vật chất đi ra (hàng hoá, dịch vụ đầu ra) là dòng tiền đi vào. Quy trình này được mô tả theo sơ đồ sau:
Dòng vật chất đi vào Dòng tiền đi ra (xuất quỹ)
Dòng vật chất đi ra Dòng tiền đi vào (xuất quỹ)
Sản xuất, chuyển hoá là một quá trình công nghệ. Một mặt, nó được đặc trưng bởi thời gian chuyển hoá hàng hoá và dịch vụ, mặt khác nó đặc trung bởi yếu tố cần thiết cho sự vận hành – đó là tư liệu lao động và sức lao động. Quá trình công nghệ này có tác dụng quyết định đến cơ cấu vốn và hoạt động trao đổi của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp thực hiện trao đổi hoặc với thị trường cung cấp hàng hoá dịch vụ đầu vào hoặc với thị trường phân phối, tiêu thụ hàng hoá dịch vụ đầu ra và tuỳ thuộc vào tính chất hoạt động sản xuất-kinh doanh của doanh nghiệp. Các quan hệ tài chính của doanh nghiệp được phát sinh từ chính quá trình trao đổi đó. Quá trình này quyết định đến sự vận hành của sản xuất làm thay đổi cơ cấu vốn của doanh nghiệp. Phân tích các quan hệ tài chính của doanh nghiệp cần dựa trên hai khái niệm căn bản là dòng và dự trữ. Dòng chỉ xuất hiện trên cơ sở tích luỹ ban đầu mỗi hàng hoá, dịch vụ hoặc tiền trong mỗi doanh nghiệp và nó sẽ làm thay đổi khối lượng tài sản tích luỹ của doanh nghiệp. Một khối lượng tài sản, hàng hoá, hoặc tiền được đo tại một thời điểm là một khoản dự trữ. Quan hệ giữa dòng và dự trữ là cơ sở nền tảngcủa tài chính doanh nghiệp. Tuỳ thuộc vào bản chất khác nhau của các dòng dự trữ mà người ta phân biệt dòng tiền đối trọng và dòng tiền độc lập.
Hoạt động tài chính doanh nghiệp trả lời các câu hỏi chính sau đây:
– Đầu tư vào đâu như thế nào cho phù hợp với hình thức kinh doanh đã chọn, nhằm đạt tới mục tiêu của doanh nghiệp? Từ đó đưa ra tổng tiền cần đầu tư.
– Nguồn vốn tài trợ được huy động ở đâu, vào thời điểm nào để đạt được cơ cấu vốn tối ưu và chi phí vốn thấp nhất?
– Quản lý dòng tiền vào, dòng tiền ra sao cho đảm bảo mức ngân quỹ tối ưu thông qua việc trả lời câu hỏi: lợi nhuận doanh nghiệp được sử dụng như thế nào?, Phân tích đánh giá kiểm tra các hoạt động tài chính như thế nào, để thường xuyên đảm bảo trạng thái cân bằng tài chính?, và quản lý các hoạt động tài chính ngắn hạn như thế nào để đưa ra quyết định thu, chi phù hợp?
Nghiên cứu tài chính doanh nghiệp thực chất trả lời ba câu hỏi trên.
2-Khái niệm, ý nghĩa của phân tích tài chính doanh nghiệp
Phân tích tài chính doanh nghiệp là một khâu cơ bản trong tài chính doanh nghiệp, có quan hệ chặt chẽ với các hoạt động khác của doanh nghiệp. Phân tích tài chính là sử dụng tập hợp các khái niệm, phương pháp và các công cụ cho phép xử lý các thông tin kế toán và các thông tin khác về quản lý nhằm đánh giá tình hình tài chính của một doanh nghiệp, đánh giá rủi ro, mức độ và chất lượng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
Trong hoạt động kinh doanh theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, các doanh nghiệp thuộc các loại hình sở hữu khác nhau, đều bình đẳng trước nhau trước pháp luật trong việc lựa chọn ngành nghề và các lĩnh vực kinh doanh. Do vậy sẽ có nhiều đối tượng quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp như: chủ doanh nghiệp, nhà tài trợ, nhà cung cấp khách hàng,… kể cả các cơ quan nhà nước và người làm công, mỗi đối tượng quan tâm đế tình hình tài chính trên một góc độ khác nhau. Đối với chủ doanh nghiệp và các nhà quản trị doanh nghiệp, mối quan tâm hàng đầu của họ là khả năng phát triển, tối đa hoá lợi nhuận, tối đa hoá giá trị sở hữu tài sản doanh nghiệp, do đó họ quan tâm trước hết tới lĩnh vực đầu tư và tài trợ.đối với người cho vay mối quan tâm chủ yếu của họ là khả năng trả nợ hiện tại và tương laicủa doanh nghiệp. Đối với các nhà đầu tư khác mối quan tâm của yếu của họ là các yếu tố rủi ro, lãi suất, khả năng thanh toán…
Phân tích hoạt động tài chính doanh nghiệp mà trọng tâm là phân tích các báo cáo tài chính và các chỉ tiêu đặc trưng tài chính thông qua một hệ thống các phương pháp, công cụ, kỹ thuật phân tích giúp người sử dụng từ các góc độ khác nhau, vừa đánh giá toàn diện, tổng hơpự khái quát, vừa xem xét mọôt cách chi tiết hoạt động tài chính doanh nghiệp, để nhận biết, phán đoán, dự báo, đưa ra quyết định tài chính, quyết định tài trợ và đầu tư phù hợp.
II-MỤC TIÊU PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH
Phân tích tài chính là sử dụng tập hợp các khái niệm, phương pháp và các công cụ cho phép xử lý các thông tin kế toán và các thông tin khác về quản lý nhằm đánh giá tình hình tài chính của một doanh nghiệp, đánh giá rủi ro, mức độ và chất lượng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
Quy trình phân tích tài chính hiện nay ngày càng được áp dụng rộng rãi ở các đơn vị tự chủ nhất định về tài chính, các tổ chức xã hội, tập thể, các cơ quan quản lý, tổ chức công cộng. Đặc biệt, sự phát triển của các doanh nghiệp,của ngân hàng và của thị trường vốn đã tạo nhiều cơ hội để chứng tỏ phân tích tài chính thực sự có ích và cần thiết.
Những người phân tích tài chính ở những cương vị khác nhau thì nhằm những mục tiêu khác nhau
1-Đối với nhà quản trị
Nhà quản trị phân tích tài chính nhằm đánh giá hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, xác định điểm mạnh, điểm yếu của doanh nghiệp. Đó là cơ sở để định hướng ra quyết định của ban tổng giám đốc, giám đốc tài chính như quyết định đầu tư, tài trợ, phân chia cổ tức,…, dự thảo tài chính: kế hoạch đầu tư, ngân quỹ, kiểm soát các hoạt động quản lý. Mặt khác, tạo thành các chu kỳ đánh giá đều đặn hoạt động kinh doanh tronh quá khứ, tiến hành cân đối tài chính, khả năng sinh lời, khả năng thanh toán trả nợ, rủi ro tài chính của doanh nghiệp.
2-Đối với nhà đầu tư
Các cổ đông là các cá nhân hoặc doanh nghiệp, quan tâm trực tiếp đến tính toán các giá trị của doanh nghiệp vì họ bỏ vốn cho doanh nghiệp thực hiện hoạt động kinh doanh sản xuất và họ có thể chịu rủi ro từ khoản vốn đó. Do vậy, các cổ đông cần biết tình hình thu nhập của mình có tương xứng với mức rủi ro của khoản đầu tư mà họ chịu. Nhà đầu tư phân tích tài chính để nhận biết khả năng sinh lãi của doanh nghiệp , đây là một trong những căn cứ giúp nhà đầu tư ra quyết có bỏ vốn vào doanh nghiệp hay không?
Thu nhập của các cổ đông tiền chia lợi tức cổ phần và giá trị tăng thêm của vốn đầu tư. Hai yếu tố này ảnh hưởng đén lợi nhuận kỳ vọng của doanh nghiệp. Các nhà đầu tư thường tiến hành đánh giá khả năng sinh lợi của doanh nghiệp với câu hỏi trọng tâm: lợi nhuận bình quân cổ phiếu của công ty sẽ là bao nhiêu? Dự kiến lợi nhuận sẽ được nghiên cứu đầy đủ trong chính sách phân chia lợi tức cổ phần và trong nghiên cứu rủi ro hướng các lựa chọn vào những cổ phiếu phù hợp nhất.
3-Đối với người cho vay
Người cho vay phân tích tài chính để nhận biết khả năng vay và trả nợ của khách hàng phân tích. Để đưa ra quyết định cho vay, thì một trong những vấn đề mà người cho vay cần phải xem xét là doanh nghiệp thật sự có nhu cầu vay hay không? Khả năng trả nợ của doanh nghiệp như thế nào?Bởi nhiều khi một quyết định cho vay có ảnh hưởng nặng nề đến tình hình tài chính của người cho vay, có thể dẫn đến tình trạng phá sản của người cho vay, hay đơn vị cho vay. Phân tích tài chính đối với những khoản nợ dài hạn hay khoản nợ ngắn hạn cũng có sự khác nhau.
Nếu là những khoản nợ ngắn hạn, người cho vay đặc biệt quan tâm đến khả năng thanh toán nhanh của doanh nghiệp. Nghĩa là khả năng ứng phó của doanh nghiệp khi khoản nợ tới hạn trả nợ.
Nếu là những khoản cho vay dài hạn, ngưòi cho vay phải tin chắc khả năng hoàn trả và khả năng sinh lời của doanh nghiệp vì việc hoàn trả vốn và lãi phụ thuộc vào khả năng sinh lời này
Kỹ thuật phân tích thay đổi theo bản chất và theo thời hạn của khoản vay, nhưng cho đó là khoản vay dài hạn hay nhắn hạn thì người cho vay đều quan tâm đến cơ cấu tài chính biểu hiện mức độ mạo hiểm của doanh nghiệp đi vay.
Ngoài ra, phân tích tài chính cũng rất cần thiết đối với người hưởng lương trong doanh nghiệp, đối với cán bộ thuế, thanh tra, cảnh sát kinh tế, luật sư,…Dù họ công tác ở các lĩnh vực khác nhau nhưng đều muốn hiểu biết về doanh nghiệp để thực hiện tốt hơn công việc của họ.
III-THÔNG TIN SỬ DỤNG TRONG PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH
Trong phân tích tài chính, nhà phân tích phải thu thập, sử dụng mọi nguồn thông tin: từ những thông tin nội bộ doanh nghiệp dến những thông tin bên ngoài doanh nghiệp, từ thông tin số lượng đến thông tin giá trị. Những thông tin đó đều giúp nhà phân tích có thể dưa ra được những nhận xét kết luận tinh tế và thích đáng.
Những thông tin bên ngoài, cần lưu ý thu thập thông tin chung như các thông tin liên quan đến cơ hội kinh doanh nghĩa là tình hình chung về kinh tế tại một thời điểm cho trước. Trạng thái kinh tế: sự suy thoái hay tăng trưởng có tác động mạnh mẽ đến kết quả kinh doanh. Khi cơ hội thuận lợi, các hoạt động của doanh nghiệp được mở rộng, lợi nhuận của công ty, giá trị của công ty cũng tăng lên, và ngược lại. Khi phân tích tài chính doanh nghiệp, điều quan trọng phải nhận thấy sự xuất hiện mang tính chu kỳ:qua thời kỳ tăng trưởng thì sẽ đến thời kỳ suy thoái và ngược lại. Đồng thời thu thập thông tin về chính sách thuế, lãi suất, các thông tin về ngành kinh doanh như thông tin liên quan đến vị trí của ngành trong nền kinh tế, cơ cấu ngành, và các sản phẩm của ngành, tình trạng công nghệ, thị phần…và các thông tin về pháp lý, kinh tế đối với doanh nghiệp: các thông tin mà các doanh nghiệp phải báo cáo cho các cơ quan quản lý như: tình hình quản lý, kiểm toán, kế hoạch sử dụng kết quả kinh doanh của doanh nghiệp…
Tuy nhiên để đánh giá một cách cơ bản tình hình tài chính của doanh nghiệp, có thể sử dụng thông tin kế toán trong nội bộ doanh nghiệp như là một nguồn thông tin quan trọng bậc nhất. Với những đặc trưng hệ thống, đồng nhất và phong phú, kế toán hoạt động như một nhà cung cấp quan trọng nhưng thông tin đánh giá cho phân tích tài chính.Vả lại các doanh nghiệp có nghĩa vụ cung cấp các thông tin kế toán cho đối tác bên trong và bên ngoài doanh nghiệp.thông tin kế toán được phản ánh khá đầy đủ trong các báo cáo kế toán. Phân tích tài chính được thực hiện trên cơ sở các báo cáo tài chính được hình thành thông qua việc xử lý các báo cáo kế toán chủ yếu: đó là bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh, ngân quỹ (báo cáo lưu chuyển tiền tệ).
1-Bảng cân đối kế toán
Bảng cân đối kế toán là báo cáo tài chính mô tả tìng trạng tài chính của một doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định nào đó. Đây là báo cáo tài chính có ý nghĩa quan trọng đối với mọi đối tượng có quan hệ sở hữu, quan hệ kinh doanh và quan hệ quản lý với doanh nghiệp. Thông thường bảng cân đối kế toán dược trình bày dưới dạng bảng cân đối các số dư tài khoản kế toán: một bên phản ánh tài sản, một bên phản ánh nguồn vốn của doanh nghiệp.
Bên tài sản của bảng cân đối kế toán phản ánh giá trị của toàn bộ tài sản hiện có đến thời điểm lập báo cáo thuộc quyền quản lý và sử dụng của doanh nghiệp: đó là tài sản lưu động, tài sản cố định. Bên nguồn vốn phản ánh số vốn để hình thành các loại tài sản của doanh nghiệp đến thời điểm lập báo cáo: đó là vốn chủ và các khoản nợ.
Các khoản mục trên bảng cân đối kế toán dược sắp xếp theo khả năng chuyển hoá thành tiền giảm dần từ trên xuống.
Bên tài sản
Tài sản lưu động: tiền chứng khoán ngắn hạn dễ bán, khoản phải thu, dự trữ .Tài sản cố định hữu hình và tài sản cố định vô hình.
Bên nguồn vốn
Nợ ngắn hạn bao gồm nợ pahỉ trả nhà cung cấp, các khoản phải nộp,phải trả khác nợ ngắn hạn ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác. Nợ dài hạn bao gồm nợ dài hạn vay ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác, vay bằng cách phát hành trái phiếu. Vốn chủ sở hữu bao gồm vốn góp ban đầu, lợi nhuận không chia, phát hành cổ phiếu mới.
Về mặt kinh tế, bên tài sản phản ánh quy mô và kết cấu các loại tài sản; bên nguồn vốn phản ánh cơ cấu tài trợ,cơ cấu vốn cũng có khả năng độc lập về tài chính của doanh nghiệp.
Bên tài sản và bên nguồn vốn của bảng cân đối kế toán đều có các cột chỉ tiêu: số đầu kỳ, số cuối kỳ. Ngoài các khoản mục có trong tài khoản nội bảng còn có một số khoản mục ngoài bảng cân đối kế toán như: một số tài khoản thuê ngoài, vật tư, hàng hoá nhận giữ hộ, nhận gia công, hàng hoá nhận bán hộ, ngoại tệ các loại…
Dựa vào bảng cân đối kế toán, nhà phân tích có thể nhận biết được loại hình doanh nghiệp, quy mô, mức độ tự chủ tài chính của doanh nghiệp.Bảng cân đối kế toán là một tư liệu quan trọngbậc nhất giúp các nhà phân tích đánh giá được khả năng cân bằng tài chính, kảh năng thanh toán, khả năng cânđối vốn của doanh nghiệp.
2-Báo cáo kết quả kinh doanh
Một thông tin không kém phần quan trọng được sử dụng trong phân tích tài chính là thông tin phản ánh trong báo cáo kết quả kinh doanh. Khác với bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh cho biết sự dịch chuyển tiền trong quá trình sản xuất-kinh doanh của doanh nghiệp và cho phép dự tính khả năng hoạt động của doanh nghiệp trong tương lai. Báo cáo kết quả kinh doanh giúp nhà phân tích so sánh doanh thu với số tiền thực nhập quỹ để vận hành doanh nghiệp. Trên cơ sở doanh thu và chi phí, có thể xác định được kết quả sản xuất-kinh doanh: lãi hay lỗ trong năm. Như vậy báo cáo kết quả kinh doanh phản ánh kết quả hoạt động sản xuất-kinh doanh, phản ánh tình hình tài chính của một doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định. Nó cung cấp những thông tin tổng hợp về tình hình và kết quả sử dụng tiềm năng về vốn, lao động, kĩ thuật và trình độ quản lý sản xuất-kinh doanh của doanh nghiệp.
Những khoản mục chủ yếu được phản ánh trên báo cáo kết quả kinh doanh: doanh thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh thu từ hoạt động tài chính, doanh thu từ hoạt động bất thường và chi phí tương ứng từ các hoạt động đó.
Những loại thuế như: VAT, thuế tiêu thụ đặc biệt, về bản chất không phải là doanh thu cũng không phải là chi phí của doanh nghiệp nên không phản ánh trên báo cáo kết quả kinh doanh. Toàn bộ các khoản thuế đối với doanh nghiệp và các khoản phải nộp khác được phản ánh trong phần: Tình hình thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước.
3-Ngân quỹ (báo cáo lưu chuyển tiền tệ)
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là một báo cáo tài chính. Nếu bảng cân đối kế toán những nguồn lực của cải (tài sản) và nguồn gốc của những tài sản đó; và báo cáo kết quả kinh doanh cho ta biết chi phí và thu nhậpphát sinh dể tính được kết quả lãi, lỗ trong một kỳ kinh doanh, thì báo cáo lưu chuyển tiền tệ được lập để trả lời những vấn đề liên quan đéen luồng tiền vào, ra trong doanh nghiệp, tình hình tài trợ, đầu tư bằng tiền của doanh nghiệp trong từng thời kỳ.
Để đánh giá một doanh nghiệp có đảm bảo được khả năng chi trả hay không cần tìm hiểu tình hình ngân quỹ của doanh nghiệp. Ngân quỹ thường được xác định trong thời gian ngắn hạn (thường là từng tháng).
Xác định hoặc dự báo dòng tiền thực nhập (thu ngân quỹ), bao gồm: dòng tiền nhập quỹ từ hoạt động kinh doanh (từ bán hàng hoá hoặc dịch vụ); dòng tiền nhập quỹ từ hoạt động đầu tư tài chính; dòng tiền nhập quỹ từ hoạt động bất thường.
Xác định hoặc dự báo dòng tiền thực xuất quỹ (chi ngân quỹ), bao gồm: dòng tiền xuất thực hiện sản xuất kinh doanh, dòng tiền xuất quỹ thực hiện hoạt động đầu tư tài chính; dòng tiền xuất thực hiện hoạt động bất thường.
Trên cơ sở dòng tiền nhập quỹ và dòng tiền xuất quỹ, nhà phân tích thực hiện cân đối ngân quỹ với số dư ngân quỹ đầu kỳ để xác định số dư ngân quỹ cuối kỳ. Từ đó có thể thiết lập mức ngân quỹ dự phòng tối thiểu cho doanh nghiệp nhằm mục tiêu đảm bảo chi trả.
4-Thuyết minh báo cáo tài chính
Thuyết minh báo cáo tài chính được lập nhằm cung cấp các thông tin về tình hình sản xuất, kinh doanh chưa có trong hệ thống các báo cáo tài chính, đồng thời giải thích thêm một số chỉ tiêu mà các báo cáo tài chính chưa được trình bày, giải thích một cách rõ ràng và cụ thể.
Thuyết minh báo cáo tài chính bao gồm các nội dung sau:
-Đặc diểm hoạt động của doanh nghiệp: Hình thức sở hữu , hoạt động, lĩnh vực kinh doanh, tổng số nhân viên những ảnh hưởng quan trọng đến tình hình tài chính trong năm báo cáo.
-Chế độ kế toán áp dụng tại doanh nghiệp: Niên độ kế toán, đơn vị tiền tệ trong ghi chép kế toán, nguyên tắc, phương pháp chuyển đổi các đồng tiền khác, hình thức sổ kế toán, phương pháp kế toán tài sản cố định, phương pháp kế toán hàng tồn kho, phương pháp tính toán các khoản dự phòng, tình hình trích lập và hoàn nhập dự phòng.
-Chi tiết một số chỉ tiêu trong báo cáo tài chính: Yếu tố chi phí sản xuất, kinh doanh, tình hình tăng giảm tài sản cố định, tình hình tăng giảm các khoản đầu tư vào doanh nghiệp, lý do tăng, giảm, các khoản phải thu và nợ phải trả.
-Giải thích và thuyết minh một số tình hình và kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh.
-Một số chỉ tiêu đánh giá khái quát tình hình hoạt động của doanh nghiệp.
-Phương hướng sản xuất kinh doanh trong kỳ tới.
-Các kiến nghị.
5-Bảng tài trợ
Bảng tài trợ là một trong nhũng công cụ hữu hiệu của nhà quản lý tài chính. anó giúp các nhà quản lý xác định rõ các nguồn cung ứng vốn và sử dụng nguồn vốn đó.
Để lập được biểu kê nguồn vốn và sử dụng vốn (bảng tài trợ), trước hết phải liệt kê sự thay đổi các khoản mục trên bảng cân đối kế toán từ đầu kỳ đến cuối kỳ. Mỗi sự thay đổi được phân biệt ở hai cột: sử dụng vốn và nguồn vốn theo nguyên tắc:
-Nếu khoản mục bên tài sản giảm hoặc khoản mục bên nguồn vốn tăng thì điều đó thể hiện việc tạo nguồn.
-Nếu các khoản mục bên tài sản tăng hoặc khoản mục bên nguồm vốn giảm thì điều đó thể hiện việc sử dụng nguồn.
Việc thiết lập bảng tài trợ là cơ sở để chỉ ra những trọng điểm đầu tư vốn và nguồn vốn chủ yếu hình thành để đầu tư.
Tóm lại, để phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp, các nhà phân tích cần phải đọc và hiểu được báo cáo tài chính, qua đó, nhận biết được và tập trung vào các chỉ tiêu tài chính liên quan trực tiếp tới mục tiêu phân tích của họ. Tất nhiên, muốn được như vậy, các nhà phân tích cần tìm hiểu thêm nội dung chi tiết các khoản mục của báo cáo tài chính trong các môn học liên quan.
IV-TRÌNH TỰ PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
1-Thu thập thông tin
Phân tích tài chính sử dụng mọi nguồn thông tin có khả năng lý giảivà htuyết minh thực trạng sử dụng tình hình tài chính của doanh nghiệp, phục vụ cho quá trình dự đoán tài chính. Nó bao gồm những thông tin nội bộ đến những thông tin bên ngoài, những thông tin kế toán và những thông tin quản lý khác, những thông tin về số lượng và giá trị …trong đó các thông tin kế toán phản ánh tập trung trong các báo cáo tài chính doanh nghiệp, là những nguồn thông tin đặc biệt quan trọng. Do vậy, phân tích tài chính trên thực tế là phân tích các báo cáo tài chính doanh nghiệp.
2-Xử lý thông tin
Giai đoạn tiếp theo của phân tích tài chính là quá trình xử lý thông tin đã thu thập được. Trong giai đoạn này, người sử dụng thông tin ở các góc độ nghiên cứu, ứng dụng khác nhau, có phương pháp xử lý thông tin khác nhau phục vụ mục tiêu phân tích đã đặt ra: xử lý thông tin là quá trình sắp xếp các thông tin theo những mục tiêu nhất định nhằm tính toán so sánh, giải thích, đánh giá, xác định nguyên nhân các kết quả đã đạt được phục vụ cho quá trình dự đoán và quyết định.
3-Dự đoán và quyết định
Thu thập và xử lý thông tin nhằm chuẩn bị những tiền đề và điều kiện cần thiết để người sử dụng thông tin dụ đoán nhu cầu và dưa ra quyết định tài chính. Có thể nói, mục tiêu của phân tích tài chính là đưa ra quyết định tài chính. Đối với chủ doanh nghiệp phân tích tài chính nhằm dưa ra các quyết định liên quan tới mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp là tối đa hoá giá trị tài sản của doanh nghiệp, tăng trưởng, phát triển, tối đa hoá lợi nhuận. Đối với người cho vay và đầu tư vào xí nghiệp thì đưa ra các quyết định về tài trợ và đầu tư; đối với nhà quản lý thì dưa ra các quyết định về quản lý doanh nghiệp.
V-PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH
Phương pháp phân tích tài chính bao gồm một hệ thống các công cụ biện pháp nhằm tiếp cận, nghiên cứu các sự kiện, hiện tượng, các mối quan hệ bên trong và bên ngoài, các luồng dịch chuyển và biến đổi tài chính, các chỉ tiêu tài chính tổng hợp và chi tiết, nhằm đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp.Về lý thuyết, có nhiều phương pháp phân tích tài chính, nhưng trên thực tế người ta thường sử dụng phương pháp so sánh và phương pháp phân tích tỷ lệ.
1-Phương pháp so sánh
Điều kiện để áp dụng phương pháp so sánh là các chỉ tiêu tài chính phỉa thống nhất về không gian, thời gian, nội dung, tính chất và đơn vị tính toán,… và theo mục đích phân tích mà xác định số gốc so sánh. Gốc so sánh được chọn là gốc về mặt thời gian hoặc không gian, kỳ phân tích được lựa chọn là kỳ báo cáo hoặc kỳ kế hoạch, giá trị so sánh có thể lựa chọn bằng số tuyệt đối, số tương đối hoặc số bình quân; nông dân so sánh bao gồm:
-So sánh giữa số thực hiện trong kỳ này với số thực hiện kỳ trước để thấy rõ xu hướng thay đổi về tài chính doanh nghiệp. Đánh giá sự tăng trưởng hay thụt lùi trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
-So sánh giữa số thực hiện với số kế hoạc để thấy rõ mức độ phấn đấu của doanh nghiệp.
-So sánh giữa số liệu của doanh nghiệp với số liệu trung bình ngành của các doanh nghiệp khác để đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp mình tốt hay xấu, được hay chưa được.
-So sánh theo chiều dọc để xem xét tỷ trọng của từng chỉ tiêu so với tổng thể, so sánh chiều ngang của nhiều kỳ để thấy được sự biến đổi cả về số lượng tương đối và tuyệt đối của một chỉ tiêu nào đó qua các niên độ kế toán liên tiếp.
2-Phương pháp phân tích tỷ số
Tỷ số là công cụ phân tích tài chính phổ thông nhất. một tỷ số là mối quan hệ tỷ lệ giữa hai dòng hoặc hai nhóm dòng của bảng cân đối tài sản. Phương pháp phân tích tỷ số dựa trên ý nghĩa chuẩn mực các tỷ lệ của đại lượng tài chính trong các quan hệ tài chính. Sự biến đổi các tỷ là sự biến đổi các đại lượng tài chính. Về nguyên tắc, phương pháp tỷ lệ yêu cầu phải xác định các ngưỡng, các định mức, để nhận xét, đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp, trên cơ sở so sánh các tỷ lệ của doanh nghiệp với giá trị các tỷ lệ tham chiếu.
Trong phân tích tài chính doanh nghiệp, các tỷ lệ tài chính được phân thành các nhóm tỷ lệ đặc trưng, phản ánh những nội dung cơ bản theo các mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp. Đó là các nhóm tỷ lệ về khả năng thanh toán, nhóm tỷ lệ về cơ cấu vốn và nguồn vốn, nhóm tỷ lệ về năng lực hoạt động kinh doanh, nhóm tỷ lệ về khả năng sinh lời.
Mỗi nhóm tỷ lệ lại bao gồm nhiều tỷ lệ phản ánh riêng lẻ, từng bộ phận của hoạt động tài chính trong mỗi trường hợp khác nhau, tuỳ theo giác độ phân tích, người phân tích lựa chọn các nhpms chỉ tiêu khác nhau để phục vụ mục tiêu phân tích của mình.
Chọn đúng các tỷ số và tiến hành phân tích chúng, chắc chắn ta sẽ phát hiện được tình hình tài chính. Phân tích tỷ số cho phép phân tích đầy đủ khuynh hướng vì một số dấu hiệu có thể được kết luận thông qua quan sát số lớn các hiện tượng nghiên cứu riêng rẽ.
3-Phương pháp phân tích Dupont
Công ty Dupont là công ty đầu tiên ở Mỹ sử dụng các mối quan hệ tương hỗ giữa các tỷ lệ tài chính chủ yếu để phân tích các tỷ số tài chính. Vì vậy, nó được gọi là phương pháp Dupont. Với phương pháp này, các nhà phân tích sẽ nhận biết được các nguyên nhân dẫn đến các hiện tượng tốt, xấu trong hoạt động của doanh nghiệp. Bản chất của phương pháp này là tách một tỷ số tổng hợp phản ánh sức sinh lợi của doanh nghiệp như thu nhập trên tài sản (ROA), thu nhập sau thuế trên vốn chủ sở hữu (ROE) thành tích số của chuỗi các tỷ số có mối quan hệ nhân quả với nhau. Điều đó cho phép phân tích ảnh hưởng của các tỷ số đối với các tỷ số tổng hợp.
Trước hết ta xem xét mối quan hệ tương tác giữa tỷ số doanh lợi vốn chủ sở hữu (ROE) với tỷ số doanh lợi tài sản (ROA)
Lợi nhuận sau thuế Doanh thu Lợi nhuận sau thuế
ROA = x = (1)
Doanh thu Tổng tài sản Tổng tài sản
Tỷ ROA cho thấy tỷ suất sinh lợi của tài sản phụ thuộc vào hai yếu tố:
Thu nhập ròng của doanh nghiệp trên một đồng doanh thu
Một đồng tài sản tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu
Tiếp theo, ta xem xét tỷ số doanh lợi vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp (ROE):
Lợi nhuận sau thuế
ROE =
Vốn chủ sở hữu
Chỉ tiêu doanh lợi vốn chủ sở hữu phản ánh khả năng sinh lợi của vốn chủ sở hữu.
Nếu tài sản của doanh nghiệp chỉ được tài trợ bằng vốn chủ sở hữu thì doanh lợi vốn và doanh lợi vốn chủ sở hữu sẽ bằng nhau vì khi đó tổng tài sản = tổng nguồn vốn.
Lợi nhuận sau thuế Lợi nhuận sau thuế
ROA = = = ROE(2)
Tổng tài sản Vốn chủ sở hữu
Nếu doanh nghiệp sử dụng nợ để tài trợ cho các tài sản của mình thì ta có mối liên hệ giữa ROA và ROE:
Tổng tài sản
ROE = x ROA (3)
Vốn chủ sở hữu
Kết hợp (1) & (3) ta có:
Lợi nhuận sau thuế Doanh thu Tổng tài sản
ROE = x x
Doanh thu Tổng tài sản Vốn CSH
Lợi nhuận sau thuế Doanh thu Tổng tài sản
= x x
Doanh thu Tổng tài sản Tổng tài sản – Nợ
Lợi nhuận sau thuế Doanh thu 1
= x x
Doanh thu Tổng tài sản 1- Rd
Với Rd = Nợ / Tổng tài sản là hệ số nợ và phương trình này gọi là phương trình Dupont mở rộng thể hiện sự phụ thuộc của doanh lợi vốn chủ sở hữu vào doanh lợi tiêu thụ, vòng quay toàn bộ vốn và hệ số nợ.
Từ đây ta thấy sử dụng nợ có tác dụng khuyếch đại doanh lợi vốn chủ sở hữu nếu doanh nghiệp có lợi nhuận trong kỳ, hệ số nợ càng lớn thì lợi nhuận càng cao và ngược lại, nếu doanh nghiệp đang bị lỗ thì sử dụng nợ càng tăng số lỗ.
Phương pháp phân tích Dupont có ưu điểm lớn là giúp nhà phân tích phát hiện và tập trung vào các yếu điểm của doanh nghiệp. Nếu doanh lợi vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp thấp hơn các doanh nghiệp khác trong cùng ngành thì nhà phân tích có thể dựa vào hệ thống các chỉ tiêu theo phương pháp phân tích Dupont để tìm ra nguyên nhân chính xác. Ngoài việc được sử dụng để so sánh với các doanh nghiệp khác trong cùng ngành, các chỉ tiêu đó có thể được dùng để xác định xu hướng hoạt động của doanh nghiệp trong một thời kỳ, từ đó phát hiện ra những khó khăn doanh nghiệp có thể sẽ gặp phải. Nhà phân tích nếu biết kết hợp phương pháp phân tích tỷ lệ và phương pháp phân tích Dupont sẽ góp phần nâng cao hiệu quả phân tích tài chính doanh nghiệp.
Ngoài các phương pháp phân tích chủ yếu trên, người ta còn sử dụng một số phương pháp khác: phương pháp đồ thị, phương pháp biểu đồ, phương pháp toán tài chính,… kể cả phương pháp phân tích các tình huống giả định.
Trong quá trình phân tích tổng thể thì việc áp dụng linh hoạt, xen kẽ các phương pháp sẽ đem lại kết quả cao hơn khi phân tích đơn thuần, vì trong phân tích tài chính kết quả mà mỗi chỉ tiêu đem lại chỉ thực sự có ý nghĩa khi xem xét nó trong mối quan hệ với các chỉ tiêu khác. Do vậy, phương pháp phân tích hữu hiệu cần đi từ tổng quát đánh giá chung cho đến các phần chi tiết, hay nói cách khác là lúc đầu ta nhìn nhận tình hình tài chính trên một bình diện rộng, sau đó đi vào phân tích đánh giá các chỉ số tổng quát về tình hình tài chính và để hiểu rõ hơn ta sẽ phân tích các chỉ tiêu tài chính đặc trưng của doanh nghiệp, so sánh với những năm trước đó, đồng thời so sánh với tỷ lệ tham chiếu để cho thấy được xu hướng biến động cũng như khả năng hoạt động của doanh nghiệp so với mức trung bình ngành ra sao.
4-Nội dung phân tích tài chính
4.1-Phân tích các tỷ số tài chính
4.1.1-Nhóm chỉ tiêu về khả năng thanh toán
Tình hình tài chính được thể hiện khá rõ nét qua các chỉ tiêu tài chính về khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Khả năng thanh toán của doanh nghiệp phản ánh mối quan hệ tài chính các khoản có khả năng thanh toán trong kỳ với khoản phải thanh toán trong kỳ. Sự thiếu hụt về khả năng thanh khoản có thể đưa doanh nghiệp tới tình trạng không hoàn thành nghĩa vụ trả nợ ngắn hạn của doanh nghiệp đúng hạn và có thể phải ngừng hoạt động. Do đó cần chú ý đến khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Nhóm chỉ tiêu này bao gồm các chỉ tiêu chủ yếu sau đây:
Tài sản lưu động
Khả năng thanh toán hiện hành =
Nợ ngắn hạn
Tỷ số thanh toán hiện hành thể hiện mối quan hệ giữa tài sản lưu động với các khoản nợ ngắn hạn. TSLĐ bao gồm tiền, chứng khoán ngắn hạn dễ chuyển nhượng, các khoản phải thu, các lhoản dự trữ. Nợ ngắn hạn thường bao gồm các khoản vay ngắn hạn ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác, các khoản phỉa trả nhà cung cấp, các khoản phải trả các khoản phải nộp khác. Cả TSLĐ và nợ ngắn hạn đều có htời hạn dưới một năm.
Hệ số này thể hiện khả năng thanh toán trong ngắn hạncủa doanh nghiệp, nó cho biết mức độ các khoản nợ của các chủ nợ ngắn hạn được trang trải bằng các tài sản có thể chuyển thành tiền trong một giai đoạn tương đương với thời hạn của khoản nợ đó. Khi đã có hệ số này ta tiến hành so sánh với tỷ số tham chiếukhác như: mức trung bình ngành, tỷ lệ kỳ trước…để được sự đánh giá tốt hơn.
Tài sản lưu động -Dự trữ
Khả năng thanh toán nhanh =
Nợ ngắn hạn
Tỷ số thanh toán nhanh thể hiện mối quan hệ giữa các tài sản quay vòng nhanh với nợ ngắn hạn. Tài sản quay vòng nhanh là những tài sản có thể nhanh chóng chuyển thành tiền, bao gồm: tiền, chứng khoán, ngắn hạn, các khoản phải thu. Tài sản dự trữlà các tài sản khó chuyển đổi thành tiền hơn trong tài sản lưu động và dễ bị lỗ nhất khi bán.Do, vậy, tỷ số khả năng thanh toán nhanh xho biết khả năng hoàn trả các khoản nợ ngắn hạn không phụ thuộc vào việc bán các tài sản dự trữ.
Tiền
Khả năng thanh toán tức thời =
Nợ đến hạn
Tỷ số thanh toán tức thời thể hiện mối quan hệ tiền (tiền mặt và các khoản tương đương tiền như chứng khoán ngắn hạn dễ chuyển đổi…)và khoản nợ đến hạn phải trả. Nợ đến hạn phải trả bao gồm nợ ngắn hạn, trung hạn, dài hạn đến hạn trả. Tỷ số thanh toán nhanh chưa bộc lộ hết khả năng thanh toán của doanh nghiệp bởi nó mới tính đến các khoản nợ ngắn hạn. Nếu nợ dài hạn đến hạn trả doanh nghiệp phải xử lý như thế nào nếu không lập kế hoạch từ trước và nó có khiến doanh nghiệp mất khả năng thanh toán không?Tỷ số thanh toán tức thời cho chúng ta biết khá rõ về tình trạng đó tuy nhiên hệ số này hết sức nhạy cảm nên doanh nghiệp cần xác định phù hợp vì nếu hệ số thanh toán tức thời thấp hơn một thì doanh nghiệp phải bán các tài sản lưu động khác như chứng khoán ngắn hạn… để thanh toán, còn tỷ số thanh toán tức thời quá cao tức doanh nghiệp dự trữ quá nhiều tiền mặt thì doanh nghiệp bỏ lỡ cơ hội sinh lời. Các chủ nợ đánh giá mức trung bình hợp lý cho tỷ lệ này là 0.5. Khi tỷ lệ này lớn hơn 0.5 thì khả năng thanh toán tức thời của doanh nghiệp là khả quan và ngược lại.
Tỷ số dự trữ trên vốn lưu động dòng: Tỷ số này cho biết dự trữ chiến bao nhiêu phần trăm vốn lưu động ròng. Nó đượctính bằng cáchlấy dự trữ chia cho vốn lưu động ròng. Nếu dự trữ trên vốn lưu động ròng quá cao thì sẽ không tốt vì dự trữ khoản khonả khó chuyển đổi thành tiền nhất trong vốn lưu động ròng. Và khi chuyển đổi dự trữ thành tiền thì chi phí chuyển đổi cao doanh nghiệp sẽ bị thiệt hại, do vậy doanh nghiệp tính toán một mức dự trữ cho hợp lý tránh tình trạng tồn động vốn gây thiệt hại.
Sau khi tính toán các chỉ tiêu trên doanh nghiệp, doanh nghiệp tiến hành phân tích một cách chi tiết nhu cầu và khả năng thanh toán nhằm đánh giá chính xác tình hình thanh toán của doanh nghiệp bằng cách đối chiếu và so sánh với các tỷ số thanh toán năm trước và các chỉ số tham chiếu.
Không thể đưa ra một chỉ tiêu chuẩn mực về hệ số thanh toán cho tất cả các loại hình doanh nghiệp. Nhưng thông thường hệ số thanh toán trên 0.5 thì coi là lành mạnh còn dưới 0.5 là dấu hiệu không lành mạnh.
4.1.2-Các tỷ số về khả năng cân đối vốn