9576_4.8.8. Thẩm định dự án đầu tư của NHTM

luanvantotnghiep.com

BÁO CÁO THỰC TẬP TỐT NGHIỆP

THẨM ĐỊNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

LỜI NÓI ĐẦU
Hiện nay, các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì cần phải tìm ra những ý tưởng mới và các dự án đầu tư mới. Một dự án đầu tư mới có tính khả thi hay không cần phải được xem xét và đánh giá một cách chính xác và đầy đủ về dự án đó. Để từ đó doanh nghiệp mới có thể quyết định có nên đầu tư hay không. Tuy nhiên, các dự án đầu tư thường đòi hỏi phải có một lượng vốn lớn mà không phải doanh nghiệp nào cũng có khả năng tài chính để thực hiện dự án đầu tư mà họ đưa ra. Lúc đó các doanh nghiệp cần phải tìm nguồn tài trợ cho dự án bằng cách đi vay vốn.
Mặt khác, NHTM là một trung gian tài chính lớn. Chính vì vậy các doanh nghiệp (các nhà đầu tư) sẽ tìm đến các NHTM để vay vốn tài trợ cho các dự án đầu tư của mình. Để có thể cho vay theo dự án đầu tư (vốn lớn, thời gian dài) thì các NHTM cũng cần phải xem xét, đánh giá về dự án cũng như tình hình tài chính của doanh nghiệp có dự án đầu tư để chắc chắn THTM có thể thu hồi lại được khoản cho vay. Việc thẩm định tài chính dự án đầu tư là việc làm hết sức cần thiết đối với các doanh nghiệp, đặc biệt là đối với các NHTM. Với những suy nghĩ trên, đồng thời trong quá trình thực tập em nhận thấy công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư có vai trò sức quan trọng đối với các doanh nghiệp và NHTM nên em đã chọn đề tài “Thẩm định dự án đầu tư của NHTM”
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của thầy giáo: PSG.TS Vương Trọng Nghĩa đã giúp đỡ em rất nhiều về mặt kiến thức và đặc biệt là về mặt tinh thần để em có thể hoàn thành chuyên đề này.
Em xin chân thành cảm ơn!

ĐẦU TƯ VÀ THẨM ĐỊNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ.
Đầu tư và dự án đầu tư.
Hoạt động đầu tư.
Lí thuyết phát triển đã chỉ ra rằng: khả năng phát triển của một quốc gia được hình thành bởi các nguồn lực về vốn, công nghệ, lao động và tài nguyên thiên nhiên là hệ thống có mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau rất chặt chẽ được biểu hiện bởi phương trình:
D =f(C,T,L,R)
D: khả năng phát triển của một quốc gia
C:khả năng về vốn
T: công nghệ
L:lao động
R: tài nguyên thiên nhiên
Rõ ràng để thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh hay rộng là phát triển kinh tế xã hội thì nhất thiết phải có hoạt động đầu tư.
Đầu tư theo nghĩa rộng, nói chung là sự hi sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về cho người đầu tư các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt các kết quả đó. Các kết qủa ở đây chính là vốn, chất xám, tài nguyên thiên nhiên, thời gian …và lợi ích dự kiến có thể lượng hoá được (tức là đo được hiệu quả bằng tiền như sự tăng lên của sản lượng, lợi nhuận …) mà cũng có thể không lượng hoá được (như sự phát triển trong các lĩnh vực giáo dục, quốc phòng, giải quyết các vấn đề xã hội …). Đối với các doanh nghiệp hiểu đơn giản đầu tư là việc bỏ vốn kinh doanh để mong thu được lợi nhuận trong tương lai. Trên quan điểm xã hội thì đầu tư là hoạt động bỏ vốn phát triển từ đó thu được các hiệu qủa kinh tế xã hội vì mục tiêu phát triển quốc gia. Song dù đứng trên góc độ nào đi chăng nữa, chúng ta đều nhìn thấy tầm quan trọng của hoạt động đầu tư, đặc điểm và sự phức tạp về mặt kĩ thuật, hậu quả và hiệu quả tài chính, kinh tế xã hội của hoạt động đầu tư đòi hỏi để tiến hành một công cuộc đầu tư phải có sự chuẩn bị cẩn thận và nghiêm túc. Sự chuẩn bị này được thể hiện ở việc soạn thảo các dự án. Có nghĩa là mọi công cuộc đầu tư phải được thực hiện theo dự án thì mới đạt hiệu qủa mong muốn. Vậy dự án đầu tư là gì? Dự án đầu tư là tập hợp các hoạt động kinh tế đặc thù với các mục tiêu phương pháp và phương tiện cụ thể để đạt được trạng thái mong muốn. Dự án đầu tư được xem xét ở nhiều góc độ.
Dự án đầu tư.
Về hình thức, dự án đầu tư là một tập hồ sơ tài liệu trình bày một cách chi tiết và có hệ thống các hoạt động về chi phí theo một kế hoạch để đạt được những kết quả và thực hiện được những mục tiêu nhất định trong tương lai. Và đây cũng là phương tiện mà các chủ đầu tư sử dụng để thuyết phục nhằm nhận được sự ủng hộ cũng như tài trợ về mặt tài chính, từ phía chính phủ, các tổ chức chính phủ, các tổ chức tài chính.
Trên góc độ quản lí, dự án đầu tư là một công cụ quản lí việc sử dụng vốn vật tư, lao động để tạo ra các kết quả tài chính, kinh tế – xã hội trong một thời gian dài. Còn đứng trên phương diện kế hoạch, dự án đầu tư là một công cụ thể hiện kế hoạch chi tiết của một công cuộc đầu tư sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế xã hội làm tiền đề cho quyết định đầu tư và tài trợ. Dự án đầu tư là một hoạt động riêng biệt nhỏ nhất trong công tác kế hoạch hoá nền kinh tế nói chung.
Như vậy dù đứng trên góc độ nào thì một dự án đầu tư cũng phải mang tính cụ thể và có mục tiêu rõ ràng, tức là phải thể hiện được các nội dung chính sau:
* Mục tiêu của dự án: Thường ở hai cấp mục tiêu
Mục tiêu trực tiếp: Là mục tiêu cụ thể mà dự án phải đạt được trong khuôn khổ nhất định và khoảng thời gian nhất định.
Mục tiêu phát triển: Là mục tiêu mà dự án góp phần thực hiện, mục tiêu phát triển được xác định trong kế hoạch, chương trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước, của vùng. Đạt được mục tiêu trực tiếp chính là tiền đề góp phần đạt được mục tiêu phát triển.
* Kết quả của dự án: Là những đầu ra cụ thể được tạo ra từ các hoạt động của dự án. Kết quả là điều kiện cần thiết để đạt được mục tiêu trực tiếp của dự án.
* Các hoạt động của dự án: Là những công việc do dự án tiến hành nhằm chuyển hoá những nguồn lực thành các kết quả của dự án. Mỗi hoạt động của dự án đều mang lại kết quả tương ứng.
*Nguồn lực cho dự án: Đầu vào cần thiết để tiến hành dự án.
Phân loại dự án đầu tư
Để tiện cho việc theo dõi, quản lí dự án, người ta tiến hành phân loại dự án đầu tư. Việc phân loại có thể dựa trên nhiều tiêu thức khác nhau như:
Theo quy mô: dự án lớn, vừa, nhỏ.
Theo phạm vi: trong nước quốc tế.
Theo thời gian: ngắn, trung, dài hạn, nhưng thường các dự án là trung dài hạn.
Theo nội dung và theo tính chất loại trừ.
Với dự án của doanh nghiệp thường quan tâm đến hai cách phân loaị cuối.
Theo nội dung có:
Dự án đầu tư mới: thường là những dự án rất lớn, liên quan tới những khoản đầu tư mới, nhằm tạo ra những sản phẩm mới, độc lập với quá trình sản xuất cũ.
Dự án đầu tư mở rộng: nhằm tăng năng lực sản xuất để hình thành nhà máy, phân xưởng mới, dây chuyền sản xuất mới với mục đích cung cấp thêm những sản phẩm cùng loại cho thị trường.
Dự án đầu tư nâng cấp (chiều sâu) liên quan đến việc thay đổi công nghệ, tạo ra một công nghệ mới cao hơn trong cùng một tổ chức cũ.
Theo tính chất loại trừ:
Các dự án độc lập (không có tính loại trừ) thì việc thực hiện dự án này không liên quan đến việc chấp nhận hay bác bỏ dự án kia. Các dự án được coi là phụ thuộc khi chấp nhận dự án này có nghĩa là bác bỏ dự án kia bởi những giới hạn về nguồn lực hoặc sự liên quan có tác động lẫn nhau về công nghệ, môi trường …Tuy nhiên tính độc lập hay phụ thuộc của một dự án. Ví dụ một dự án đối với doanh nghiệp (nguồn lực giới hạn) là phụ thuộc (nếu thực hiện thì sẽ loaị bỏ dự án khác). Nhưng đối với Ngân hàng thì vấn đề đó không cần đặt ra bởi khả năng cho vay lớn, không vì cho vay một dự án này mà loại trừ cho vay đối với dự án khác.
Quá trình hình thành và thực hiện một dự án đầu tư dù thuộc loại nào cũng phải trải qua các giai đoạn nhất định (còn gọi là chu kì của dự án đầu tư). Có nhiều góc độ tiếp cận chu kì dự án. Các bước công việc, các nội dung nghiên cứu ở các giai đoạn được tiến hành tuần tự nhưng không biệt lập mà đan xen gối đầu cho nhau, bổ xung cho nhau nhằm nâng cao dần độ chính xác của các kết quả nghiên cứu ở các bước tiếp theo.
Nếu xét từ góc độ đầu tư để xem xét chu kì như là các giai đoạn đầu tư thì một dự án phải trải qua ba giai đoạn:
Chuẩn bị đầu tư: Trong giai đoạn này người ta phải tiến hành các công việc cụ thể như: nghiên cứu phát hiện các cơ hội đầu tư, nghiên cứu tiền khả thi sơ bộ chọn dự án, nghiên cứu khả thi (lập dự án, luận chứng kinh tế kĩ thuật) đánh giá và quyết định (thẩm định dự án)
Thực hiện đầu tư: Gồm các công việc sau: Hoàn tất các thủ tục để triển khai thực hiện đầu tư, thiết kế và lập dự toán thi công xây lắp công trình, chạy thử và nghiệm thu sử dụng.
Vận hành kết quả đầu tư: Sử dụng các mức công suất khác nhau qua các năm cuối cùng thanh lí và đánh giá.
Trong ba giai đoạn trên đây, giai đoạn đầu tư tạo tiền đề và quyết định sự thành công hay thất bại ở hai giai đoạn sau. Mà trong đó thẩm định dự án đầu tư là khâu không thể thiếu được trong chu kì của một dự án đầu tư. Trước hết là đối với chủ đầu tư để có một quyết định vững chắc cho việc ra quyết định đầu tư.
Do đặc điểm của dự án đầu tư có sự phức tạp về mặt kĩ thuật, thời gian đầu tư tương đối dài nên khi tiến hành đầu tư thì Ngân hàng cần phải xem xét cẩn thận và nghiêm túc để tránh những sai lầm không đáng có xảy ra.
Các đặc trưng cơ bản của hoạt động đầu tư.
Là hoạt động bỏ vốn nên quyết định trước hết thường là quyết định tài chính. Đầu tư là một trong những quyết định có ý nghĩa chiến lược đối với doanh nghiệp. Hoạt động đầu tư là hoạt động bỏ vốn, đồng thời đặc điểm của các dự án đầu tư là thường yêu cầu một lượng vốn lớn, có tác động lớn tới hiệu quả sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp, do đó, các dự án thường bị lạc hậu ngay từ lúc có ý tưởng đầu tư. Sai lầm trong việc dự toán vốn ban đầu có thể dẫn đến tình trạng lãng phí vốn lớn, thậm chí gây hậu quả nghiêm trọng đối với doanh nghiệp. Vì vậy, quyết định đầu tư của doanh nghiệp là quyết định có tính chiến lược, đòi hỏi cần phải được phân tích và cân nhắc kỹ lương trước khi đưa ra quyết định đầu tư.
Là hoạt động diễn ra trong khoảng thời gian dài.
Là hoạt động luôn cần sự cân nhắc giữa lợi ích trước mắt và lợi ích trong tương lai.
Hoạt động đầu tư là hoạt động mang nặng rủi ro.
1.3. Thẩm định dự án đầu tư.
1.3.1. Khái niệm, vai trò:
Thẩm định dự án đầu tư là quá trình phân tích và làm sáng tỏ một loạt các vấn đề liên quan đến tính khả thi trong việc thực hiện dự án như: công suất, kỹ thuật, thị trường, tài chính, tổ chức… Với các thông tin về bối cảnh và các giả thiết được sử dụng trong quá trình lập dự án đồng thời đánh giá để xác định xem dự án có đạt được mục tiêu xã hội hay không? Có hiệu quả kinh tế, tài chính không?
Hoạt động này trước hết là phục vụ chính cho nhà đầu tư, nhà tài trợ rồi đến cơ quan quản lý Nhà nước.
– Đối với chủ đầu tư:
Lập kế hoạch phối hợp giữa chính sách tài chính, marketing, nhân sự, tác nghiệp một cách chính xác nhất có thể để lựa chọn phương án tốt nhất và qua đó chủ đầu tư sẽ đạt được hiệu quả của tài chính mong muốn.
– Với cơ quan Nhà nước: Giúp cho cơ quan nhà nước quyết định cho phép, chấp nhận dự án đó đi vào thực hiện có phù hợp với mục tiêu phát triển của ngành, vùng, lãnh thổ?
– Với nhà tài trợ: Có thể vay được lãi cao, thu hồi vốn gốc đúng hạn và duy trì quan hệ làm ăn lâu dài.
– Với Ngân hàng: Cho vay theo dự án có đặc điểm đem lại nguồn lợi tức lớn vì dự án thông thường là có thời hạn dài, quy mô lớn, tình tiết phức tạp.
Bên cạnh đó, thông tin về dự án đều do người chủ đầu tư (đi vay ngân hàng) lập nên, cung cấp nên không khỏi có những ý kiến chủ quan nhất định “rộng” với dự án. Điều đó buộc NH phải tự mình tiến hành thẩm định dự án một cách toàn diện về lợi ích cũng như rủi ro khi tham gia dự án của khách hàng để quyết định có nên cho vay hay không?
Khi tiến hành cho vay vốn, Ngân hàng thường phải đối mặt với vô số những rủi ro. Vì một dự án thường kéo dài trong nhiều năm, đòi hỏi một lượng vốn lớn và bị chi phối bởi nhiều yếu tố mà trong tương lai có thể sẽ biến động khó lường. Những con số tính toán cũng như những nhận định đưa ra trong dự án (khi lập dự án) chỉ là những dự kiến, bởi vậy chứa đựng ít nhiều tính chủ quan của người lập dự án. Người lập dự án ở đây có thể là chủ đầu tư, hoặc các cơ quan tư vấn được thuê lập dự án, cơ sở các ý đồ kinh doanh và mong muốn của dự án. Các nhà soạn thảo thường đứng trên gốc độ hẹp để nhìn nhặn các vấn đề của dự án. Có thể không tính toán đến các vấn đề có liên quan và đôi khi bỏ qua một số các yếu tố hoặc làm cho dự án trở nên khả thi hơn một cách cố ý nhằm đạt được sự ủng hộ, tài trợ của các bên có liên quan. Rõ ràng chủ đầu tư thẩm định dự án trước hết vì quyền lợi của mình song họ đứng trên quan điểm riêng.
Do vậy để tồn tại, đặc biệt là trong điều kiện của nền kinh tế thị trường với đặc điểm là tự do cạnh tranh và tính cạnh tranh lại rất cao, thì Ngân hàng cũng như các pháp nhân khác trong nền kinh tế phải tự tìm kiếm các phương cách, giải pháp cho riêng mình để ngăn ngừa các rủi ro có thể nẩy sinh. Thẩm định dự án đầu tư trong công tác hoạt động của Ngân hàng chính là một trong những biện pháp cơ bản nhằm phòng ngừa rủi ro trong quá trình cho vay vốn đầu tư tại Ngân hàng. Như vậy trên góc độ người tài trợ, các Ngân hàng, tổ chức tài chính đánh giá dự án chủ yếu trên phương diện khả thi, hiệu quả tài chính và xem xét khả năng thu nợ của Ngân hàng. Với các cơ quan quản lí nhà nước có thẩm quyền thẩm định dự án được xem xét và đánh giá trên góc độ của toàn bộ nền kinh tế xã hội của đất nước.
Một cách tổng quát ta có thể đưa ra khái niệm về thẩm định dự án đầu tư như sau:
Thẩm định dự án đầu tư là qúa trình phân tích, đánh giá toàn diện các khía cạnh của một dự án đầu tư để ra các quyết định đầu tư cho phép đầu tư hoặc tài trợ.
Thực tế người thẩm định dự án sẽ tiến hành kiểm tra phân tích đánh giá từng phần và toàn bộ các mặt, các vấn đề có trong bản nghiên cứu tiền khả thi và nghiên cứu khả thi (thường chỉ với bản nghiên cứu khả thi – hay còn gọi là luận chứng kinh tế kĩ thuật) trong mối quan hệ mật thiết với doanh nghiệp chủ dự án và các giả thiết về môi trường trong đó dự án sẽ hoạt động. Thẩm định dự án có ý nghĩa thể hiện ở việc giúp các dự án tốt không bị bác bỏ và dự án tồi không được chấp nhận. Tuy nhiên nhận định “tồi “, “khả thi “, “hiệu quả”… ở khía cạnh nào đó còn phụ thuộc vào góc độ của người thẩm định và khi đó họ sẽ đạt được những mục tiêu nhất định khi tiến hành thẩm định.
NHTM với tư cách là “Bà đỡ” về mặt tài chính cho các dự án sản xuất đầu tư thường xuyên thực hiện công tác đầu tư. Việc thẩm định này ngoài mục tiêu đánh giá hiệu quả của dự án còn nhằm xác định rõ hành lang an toàn cho các nguồn vốn tài trợ của Ngân hàng cho các dự án. Vì vậy hiểu về sự cần thiết phải thẩm định dự án là một việc không thể thiếu được
1.3.2. Sự cần thiết phải thẩm định dự án đầu tư
* Về phía nhà đầu tư
Thông thường, khi xảy ra quyết định đầu tư một dự án, chủ đầu tử phải cân nhắc giữa nhiều sự lựa chọn khác nhau, nghĩa là nhiều dự án khác nhau trong cùng một giai đoạn. Mặt khác, tuy nắm vững những vấn đề, những chi tiết kỹ thuật… của dự án nhưng đôi khi khả năng thu thập nắm bắt những thông tin mới của doanh nghiệp bị hạn chế, nhất là đối với xu thế kinh tế, chính trị, xã hội mới. Điều đó làm giảm tính chính xác trong phán đoán của họ.
Công tác thẩm định dự án đầu tư sẽ đi sâu vào làm rõ các vấn đề này, giúp doanh nghiệp lựa chọn phương án tốt nhất mang lại hiệu quả cao nhất hoặc đưa ra những ý kiến xác đáng gợi ý cho chủ đầu tư để dự án có tính khả thi cao hơn.
* Về phía Ngân hàng
Việc cho vay trải qua ba giai đoạn:
•Xem xét trước khi cho vay
•Thực hiện cho vay
•Thu gốc thu lãi
Ba giai đoạn này là một quá trình gắn bó chặt chẽ, mỗi giai đoạn có một ý nghĩa nhất định ảnh hưởng đến chất lượng của một khoản vay.
Để có một khoản vay chất lượng là điều mong muốn và mục tiêu hoạt động của NHTM. Nhưng nó là một điều cực kỳ khó khăn và NHTM vẫn thất bại khi cho vay vì thực tế vận động xã hội và thị trường luôn tồn tại không cân xứng về thông tin đầy đủ về nhau, do đó dẫn đến những hiểu biết sai lệch. Giữa NHTM và người vay cũng xảy ra tình trạng như vậy. Ngân hàng không có những thông tin đầy đủ về khách hàng dẫn đến Ngân hàng có thể thực hiện những khoản cho vay sai lầm. Đứng trước những rủi ro đó thì NHTM phải luôn cân nhắc đắn đo, xem xét và bằng những nghiệp vụ phải xác định những khách hàng tốt, khoản xin vay có chất lượng khi quyết định cho vay hạn chế đến mức thấp nhất các rủi ro có thể xảy ra.
Do vậy trong ba giai đoạn trên, việc xem xét trước khi cho vay (bao gồm quá trình thẩm định tài chính dự án đầu tư của Ngân hàng) có ý nghĩa cực kì quan trọng, ảnh hưởng đến chất lượng, kết quả các khoản vay và các hoạt của giai đoạn sau. Giai đoạn này được Ngân hàng tiến hành rất kĩ lưỡng với nhiều phương pháp nghiệp vụ đặc thù để đảm bảo, an toàn chất lượng.
Hơn nữa, với chức năng quản lí và kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ tín dụng, hoạt động Ngân hàng có tính chất đặc thù riêng mà các ngành khác không có được. Như đã nói ở trên, so với kinh doanh của các ngành kinh tế khác thì hoạt động Ngân hàng có nhiều rủi ro hơn cả. Nhất là trong nền kinh tế thị trường, ngành Ngân hàng phải huy động và tạo mọi nguồn vốn để đáp ứng nhu cầu tín dụng cho mọi thành phần kinh tế. Việc Ngân hàng cho vay không thể không cần biết doanh nghiệp sử dụng vốn làm gì, quan niệm đơn giản là chỉ cần trả nợ, hoàn toàn là một quan niệm sai lầm và thụ động. Theo quan niệm kinh doanh hiện nay thì Ngân hàng và doanh nghiệp là bạn hàng. Mà đã là bạn hàng của nhau thì khi xác lập quan hệ phải tìm hiểu và thăm dò lẫn nhau, đặt ra cho nhau những điều kiện đảm bảo lợi ích cho cả đôi bên. Chính vì vậy, mà NHTM trước khi quyết định cho vay phải luôn đối mặt với hàng loạt câu hỏi khác nhau:
Cho ai vay?
Vay như thế nào?
Cho vay trong thời gian bao lâu?
Quản lí các khoản vay như thế nào? Thu gốc và lãi ra sao?
Bên cạnh đó một nguồn vốn quan trọng được Ngân hàng sử dụng cho vay là tiền gửi của khách hàng. Để đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển thì bên cạnh mục tiêu lợi nhuận, Ngân hàng còn phải đảm bảo an toàn và thanh khoản tức là phải hoạt động có trách nhiệm với những đồng tiền của khách hàng và phải thoả mãn bất cứ một nhu cầu rút tiền nào của khách hàng vào bất cứ thời điểm nào.
Đây là bài toán phức tạp mà Ngân hàng cần phải tìm lời giải đáp.
Quá trình tìm lời giải đúng cho bài toán này chính là công tác thẩm định các khoản cho vay.
Trong quan hệ tín dụng, vấn đè cơ bản mà Ngân hàng phải quan tâm để đưa ra một quyết định cho vay là hiệu quả và an toàn vốn của Ngân hàng.
Nói đến dự án đầu tư là nói đến một số lượng vốn lớn và thời gian dài, do vậy quyết định đầu tư sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến sự thuận lợi và phát triển của Ngân hàng. Tuy nhiên không phải dự án nào cần vốn Ngân hàng cũng đáp ứng. Ngân hàng chỉ cho vay đối với những dự án có khả thi, tính đựơc khả năng sinh lời của dự án… Muốn vậy Ngân hàng sẽ yêu cầu người xin vay lập và nộp vào Ngân hàng dự án đầu tư trên cơ sở dự án đầu tư cùng với các nguồn thông tin khác, Ngân hàng sẽ tiến hành tổng hợp và thẩm định dự án để đưa ra quyết định về tính khả thi của dự án.
Chính vì vậy việc thẩm định đúng đắn dự án đầu tư có ý nghĩa cực kì quan trọng đối với các tổ chức tín dụng nó thể hiện:
Giúp các tổ chức tín dụng nhìn nhận một cách lôgíc tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong quá khứ cũng như hiện tại, dự án xu hướng phát triển của doanh nghiệp trong tương lai, trên cơ sở đánh giá chính xác đối tượng được đầu tư để có đối sách thích hợp nhằm nâng cao hiệu quả vốn đầu tư.
Trên cơ sở đánh giá thực trạng sản xuất kinh doanh và tài chính của doanh nghiệp để xem xét xu hướng phát triển của từng ngành, từng lĩnh vực kinh tế. Đây là căn cứ đánh giá cơ cấu chất lượng tín dụng, hiệu quả kinh tế khả năng thu nợ, những rủi ro có thể xảy ra của dự án và lập kế hoạch cung cấp tín dụng theo từng đối tượng cho vay cũng như theo từng đối tượng bỏ vốn.
Thế nhưng muốn xem xét hiệu quả thực sự cho hoạt động tín dụng thì Ngân hàng không chỉ cần dừng lại ở giai đoạn kiểm tra trước mà phải tiếp tục kiểm tra trong, sau quá trình cho vay, đảm bảo vốn của Ngân hàng được sử dụng đúng mục đích, đem lai hiệu quả thực sự.
* Về phía xã hội và các cơ quan hữu quan
Chúng ta biết rằng vấn đề thiếu vốn đang rất phổ biến ở nước ta. Trong điều kiện hiện nay cơ sở hạ tầng còn rất nghèo nàn, lạc hậu như hiện nay thì việc đầu tư là rất cần thiết. Tuy nhiên, với nguồn vốn hạn hẹp, số lượng các dự án đầu tư lại rất lớn thì quyết định vốn cho dự án nào là rất quan trọng và khó khăn muốn có quyết định này người ta phải tiến hành kiểm tra, thẩm định dự án, so sánh các dự án với nhau để lựa chọn được đầu tư là dự án mang lại hiệu quả cao nhất cho xã hội. Hiệu quả được nhắc đến ở đây không chỉ đơn thuần là hiệu quả kinh tế mà nó bao hàm cả hiệu quả xã hội khác như giải quyết công ăn việc làm, tăng ngân sách tiết kiệm ngoại tệ, tăng khả năng cạnh tranh quốc tế đặc biệt là vấn đề bảo vệ môi trường.
Công tác thẩm định dự án đầu tư sẽ giúp các cơ quan quản lý Nhà nước đánh giá chính xác sự cần thiết và sự phù hợp của dự án trên tất cả các phương diện: mục tiêu, quy hoạch, quy mô và hiệu quả.
Tóm lại, vài nét nêu trên đã phần nào khắc hoạ được vai trò của công tác thẩm định dự án đầu tư. Chúng ta phải thừa nhận rằng đây là một công việc hết sức quan trọng. Nó có vai trò trên cả tầm vĩ mô (xã hội) và tầm vi mô (Ngân hàng, doanh nghiệp). Bởi lẽ nếu làm tốt công tác thẩm định không những đem lại hiệu quả cao cho hoạt động tín dụng, bảo đảm an toàn vốn cho Ngân hàng mà khi nhìn vào đó, các Ngân hàng, tổ chức tài chính, các tổ chức tín dụng nước ngoài sẽ an tâm hơn khi lựa chọn đầu tư vào Việt Nam thông qua các Ngân hàng trong nước, đặc biệt là NHTM quốc doanh. Chính các yếu tố đó đòi hỏi Ngân hàng phải tiếp tục đổi mới và không ngừng nâng cao quy trình thẩm định dự án đầu tư.
PHƯƠNG PHÁP THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG.
Phương pháp thẩm định tài chính dự án đầu tư.
Các bước thực hiện thẩm định tài chính dự án đầu tư.
Bước1: Thu thập số liệu thông tin về đơn vị vay vốn và về các khía cạnh liên quan đến dự án đầu tư:
– Đơn vị sẽ lập hồ sơ vay vốn rồi nộp cùng hồ sơ pháp lý của mình, của dự án, và các báo cáo tài chính…
– Ngân hàng sẽ tra cứu thu thập các thông tin pháp lý báo cáo của cơ quan ngành báo chí về doanh nghiệp, thông tin do trung tâm nghiên cứu doanh nghiệp cung cấp.
Bước2: Xử lý và đánh giá thông tin.
Như xem xét tính chính xác của thông tin, tính toán các chỉ tiêu, so sánh chỉ tiêu, hỏi ý kiến chuyên gia tư vấn về những lĩnh vực cán bộ NHTM chưa rõ…để có kết quả thẩm định tối ưu.
Bước3: Sau khi thẩm định, cán bộ tín dụng cho ý kiến của mình rồi trình bày giám đốc, phó giám đốc NHTM có cho vay hay không? Nếu có thì các điều khoản như thế nào?
Các phương pháp sử dụng khi thẩm định dự án đầu tư.
Để đánh giá hiệu qủa tài chính dự án đầu tư về lí thuyết cũng như thực tế, người ta thường phải sử dụng các phương pháp (hay các chỉ tiêu sau đây).
* Giá trị hiện tại ròng (NPV:Net Present Value)
Giá trị hiện tại ròng của một dự án đầu tư là số chênh lệch giữa giá trị hiện tại các nguồn thu nhập ròng trong tương lai với giá trị hiện tại của vốn đầu tư.
Công thức tính:
NPV = Co + PV
Trong đó:
NPV là giá trị hiện tại ròng
Co là vốn đầu tư ban đầu vào dự án, Co mang dấu âm (do là khoản đầu tư)
PV là giá trị hiện tại của các luồng tiền dự tính mà dự án mang lại trong thời gian hữu ích của nó. PV được tính
C1C2C3 Ct
PV = + + + . . . . . +
(1 +r) (1+r)2 (1+r)3 (1+r)t

Ct là các luồng tiền dự tính dự án mang lại ở các năm t
r là tỷ lệ chiết khấu phù hợp của dự án
Ý nghĩa của NPV chính là đo lường phần giá trị tăng thêm dự tính mà dự án đem lại cho nhà đầu tư với mức độ rủi ro cụ thể của dự án… Việc xác minh chính xác tỷ lệ chiết khấu của mỗi dự án đầu tư là khó khăn. người ta có thể lấy bằng với lãi suất đầu vào, đầu ra thị trên trường… Nhưng thông thường là chi phí bình quân của vốn. Tuỳ từng trường hợp, người ta còn xem về biến động lãi suất trên thị trường, và khả năng giới hạn về vốn của chủ đầu tư khi thực hiện dự án…
Sử dụng chỉ tiêu NPV để đánh giá dự án đầu tư theo nguyên tắc:
Nếu các dự án đầu tư thì tuỳ thuộc theo quy mô nguồn vốn, các dự án có NPV≥0 đều được chọn (Sở dĩ dự án NPV=0 vẫn có thể chọn vì khi đó có nghĩa là các luồng tiêu thụ của dự án vừa đủ để hoàn vốn đầu tư và cung cấp một tỷ lệ lãi suât yêu cầu cho khoản vốn đó). Ngược lại NPV< 0  bác bỏ dự án Nếu các dự án loại trừ nhau thì dự án nào có NPV≥ 0 và lớn nhất thì được chọn. Sử dụng phương pháp NPV để đánh giá, lựa chọn dự án đầu tư có ưu nhược điểm sau: Ưu điểm: Phương này tính toán dựa trên cơ sở dòng tiền có chiết khấu (tức là hiện tại hoá dòng tiền) là hợp lý vì tiền có giá trị theo thời gian. Lựa chọn dự án theo chỉ tiêu NPV là thích hợp vì nó cho phép chọn dự án nào có làm tối đa hoá sự giàu có của chủ đầu tư. Phương pháp này ngầm giả định rằng tỷ lệ lãi suất mà tại các luồng có tiền có thể được tái đầu tư là chi phí sử dụng vốn, nó là giả định thích hợp nhất. Nhược điểm: Phụ thuộc nhiều vào tỷ lệ chiết khấu r được lựa chọn. Cụ thể: r càng nhỏ NPV càng lớn và ngược lại. Trong khi đó, việc xác định đúng r là rất khó khăn. Chỉ phản ánh được quy mô sinh lời (số tương đối: hiệu quả của một đồng vốn bỏ ra là bao nhiêu). Với các dự án có thời gian khác nhau, dùng NPV để lựa chọn dự án là không có ý nghĩa. Muốn so sánh được, phải giả định rằng dự án có thời gian ngắn hơn sẽ được đầu tư bổ sung với số liệu lặp lại như cũ để sao cho các dự án có thời gian bằng nhau. Thời kỳ phân tích dự án là bội số chung nhỏ nhất của các thời gian dự án. Đây là việc tính toán phức tạp mất thời gian. * Chỉ tiêu tỷ lệ hoàn vốn nội bộ (IRR: Internal Rate of Return) Tỷ suất hoàn vốn nội bộ đo lường tỷ lệ hoàn vốn đầu tư của một dự án. Về mặt kỹ thuật tính toán, IRR của một dự án đầu tư là tỷ lệ chiết khấu mà tại đó NPV=0, tức là thu nhập ròng hiện tại đúng bằng giá trị hiện tại của vốn đầu tư. đối với dự án đầu tư có thời gian là T năm, ta có công thức: C1C2CT NPV = C0+ + +…. + = 0 (1 +IRR) (1+IRR)2 (1+IRR)T Ý nghĩa của chỉ tiêu IRR: IRR đối với dự án chính là tỉ lệ sinh lời càn thiết của dự án. IRR được coi bằng mức lãi suất tiền vay cao nhất mà nhà đầu tư có thể chấp nhận mà không bị thua thiệt nếu toàn bộ số tiền đầu tư cho dự án đều là vốn vay (cả gốc và lãi cộng dồn) được trả bằng nguồn tiền thu được từ dự án mỗi khi chúng phát sinh. Người ta sử dụng hai cách: Tính trực tiếp: Đầu tiên chọn 1 lãi suất chiết khấu bất kì, tính NPV. Nếu NPV>0, tiếp tục nâng mức lãi suất chiết khấu và ngược lại. Lặp lại cách làm trên cho tới khi NPV= 0 hoặc gần bằng 0, khi đó mức lãi suất này bằng IRR của dự án đầu tư.
Phương pháp nội suy tuyến tính: thường được sử dụng. Đầu tiên chọn 2 mức lãi suất chiết khấu sao cho: Với r1  có NPV1> 0
Với r2 có NPV2< 0 Áp dụng công thức: Chênh lệch giữa r1 và r2 không quá 0.05 thì nội suy IRR mới tương đối đúng. Sử dụng IRR để đánh giá, lựa chọn dự án sau : Trước hết lựa chọn một mức lãi suất chiết khấu làm IRRĐM (IRR định mức thông thường đó chính là chi phí cơ hội) So sánh nếu IRR ≥ IRRĐM thì dự án khả thi thi về tài chính, tức là: nếu là các dự án đầu tư là độc lập tuỳ theo quy mô nguồn vốn, các dự án có IRR ≥ IRRĐM được chấp nhận. Nếu các dự án đầu tư loại trừ nhau: chọn dự án có IRR ≥ 0 và lớn nhất. Ưu điểm: của phương pháp IRR chú trọng xem xét tính thời gian của tiền. Sự thừa nhận giá trị thời gian của tiền làm cho kĩ thuật xác định hiệu quả vốn đầu tư ưu điểm hơn các phương pháp khác. Phản ánh hiệu quả sinh lời của một đồng vốn (tính tỉ lệ %) nên có thể sử dụng so sánh chi phí sử dụng vốn. IRR cho biết mức lãi suất tiền vay tối đa mà dự án có thể chịu được. Giải quyết được vấn đề lựa chọn các dự án khác nhau. Nhược điểm: Không đề cập đến độ lớn, quy mô của dự án, sử dụng IRR để lựa chọn dự án loại trừ có quy mô, thời gian khác nhau nhiều khi sai lầm. Với dự án có những khoản đầu tư thay thế lớn, dòng tiền đổi dấu liên tục dẫn tới hiện tượng IRR đa trị, và như vậy việc áp dụng IRR không còn chính xác. Phương pháp IRR ngầm định rằng thu nhập ròng của dự án được tái đầu tư tại tỉ lệ lãi suất IRR nghĩa là không giả định đúng tỉ lệ tái đầu tư. Ngoài ra còn tính theo phương pháp tỉ lệ hoàn vốn nội bộ điều chỉnh (MIRR) MIRR là tỉ lệ chiết khấu mà tại đó giá trị hiện tại của chi phí đầu tư bằng giá trị hiện tại của tổng giá trị tương lai của các luồng tiền ròng thu từ dự án với giả định luồng tiền này được tái đầu tư tại tỉ lệ lãi suất bằng chi phí vốn. Đây cũng chính là điểm ưu việt của phương pháp MIRR so với phương pháp IRR. Về mặt toán học, phương pháp tính NPVvà IRR luôn cùng đưa đến quyết định chấp thuận hay bác bỏ dự án đói với những dự án độc lập. Tuy nhiên có thể có hai kết luận trái ngược cho những dự án loại trừ. Trong trường hợp có sự xung đột giữa hai phương pháp, việc lựa chọn dự án đầu tư theo phương pháp NPVcần được coi trọng hơn bởi những phân tích đã chỉ ra rằng: phương pháp NPV ưu việt hơn phương pháp IRR. * Thời gian hoàn vốn: (P.P:Payback Peried) Thời gian hoàn vốn của một dự án là độ dài thời gian để thu hồi đủ vốn đầu tư ban đầu. Có hai cách tính chỉ tiêu này: thời gian hoàn vốn không chiết khấu (không tính đến giá trị thời gian của tiền) và thời gian hoàn vốn có chiết khấu (quy tất cả các khoản thu nhập chi phí hiện tại theo tỷ suất chiết khấu lựa chọn). Công thức tương tự nhau Việc tính toán có thể được thực hiện trên cơ sở lập bảng: Công thức tính thời gian hoàn vốn cung cấp một thông tin quan trọng rằng vốn của công ty bị trói buộc vào mỗi dự án là bao nhiêu thời gian. Thông thường nhà quản trị có thể đặt ra khoảng thời gian hoàn vốn tối đa và sẽ bác bỏ dự án đầu tư có thời gian hoàn vốn lâu hơn. Sử dụng chỉ tiêu thời gian hoàn vốn để đánh giá, lựa chọn dự án đầu tư theo nguyên tắc: Dự án có thời gian hoàn vốn càng nhỏ càng tốt, chọn dự án có thời gian hoàn vốn nhỏ nhất trong các dự án loại trừ nhau. Ưu điểm: của phương pháp này: Đơn giản, dễ áp dụng và được sử dụng như một công cụ sàng lọc. Nếu có một dự án nào đó không đáp ứng được kỳ hoàn vốn trong thời gian đã định thì việc tiếp tục nghiên cứu dự án là không cần thiết. Vì luồng tiền mong đợi trong một tương lai xa được xem như rủi ro hơn một luồng tiền trong một tương gần thời gian thu hồi vốn được sử dụng như một thước đo để đánh giá mức độ rủi ro của dự án. Việc thấy rõ được thời gian thu hồi vốn cho phép đề xuất những giải pháp để rút ngắn thời hạn đó. Hạn chế: Tuy nhiên phương pháp thời gian hoàn vốn có một số hạn chế mà có thể dẫn tới những quyết định đó là: thời gian hoàn vốn không chiết khấu không tính tới những sai biệt về thời điểm xuất hiện luồng tiền, tức là yếu tố giá trị thời gian của tiền tệ không được đề cập. Phần thu nhập sau thời điểm hoàn vốn bị bỏ qua hoàn toàn, như vậy không đánh giá được hiệu quả tài chính của cả đời dự án. Yếu tố rủi ro đối với luồng tiền tương lai của dự án không được xem xét và đánh giá. Xếp hạng các dự án không phù hợp với mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận của chủ sở hữu. * Phương pháp tỷ số lợi ích / chi phí (Benefit-Cost Ratio: BCR) Phản ánh khả năng sinh lời của dự án trên mỗi đơn vị tiền tệ vốn đầu tư (quy về thời điểm hiện tại). Bi: Luồng tiền dự kiến năm i Ci: Chi phí năm i Nguyên tắc đánh giá: nếu có dự án có BCR  1. Suy ra được chấp nhận (khả thi về mặt tài chính).

Đánh giá post

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *