9853_Giá trị nhân văn trong tư tưởng Hồ Chí Minh

luanvantotnghiep.com

TIỂU LUẬN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
ĐỀ TÀI:

GIÁ TRỊ NHÂN VĂN TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

LỜI MỞ ĐẦU

Nhân văn là giá trị phổ quát, là tổ hợp các yếu tố chân – thiện – mỹ, là hiện thân của thiên hướng vươn lên và hoàn thiện không ngừng của chính con người. Vì vậy nhân văn bao giờ cũng là lý tưởng và mục tiêu mà loài người hằng vươn tới, nó tồn tại, phát triển và ngày càng thể hiện sức sống mãnh liệt của mình trong suốt tiến trình phát triển xã hội. Khát vọng nhân văn ở con người, dù là phương Đông hay phương Tây, cũng đều cháy bỏng và lớn lao. Ở đâu có điều kiện thuận lợi thì ở đó tư tưởng nhân văn nảy nở và phát triển. Việt Nam với lịch sử dựng nước và giữ nước hào hùng, gây dựng truyền thống yêu nước và đạo lý làm người của mình, là mảnh đất ươm sẵn những hạt giống nhân văn, để từ đó bừng lên những mầm xanh tư tưởng nhân văn.
Hồ Chí Minh, một thiên tài như được đúc kết từ tinh hoa truyền thống nhân văn của dân tộc Việt Nam; dù khi Người bôn ba khắp năm châu bốn biển để tìm đường cứu nước cứu dân, được sống trong nhiều nền văn minh của các dân tộc khác nhau, được tiếp xúc với những tư tưởng vĩ đại của C. Mác, Ph. Ăng-ghen và V.I. Lênin, tới tận phút cuối cùng của cuộc đời, tư tưởng nhân văn của người càng ngời sáng hơn, trở thành lý luận, thành hiện thực vững chắc.
Đối với thanh niên chúng ta hiện nay, việc học tập và nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh là rất cần thiết. Tiếp thu những giá trị văn hoá mà Người để lại, từ đó dần hoàn thiện mình hơn, phát huy được bản chất tốt đẹp, ý chí vươn lên vốn có trong mỗi con người. Nhất là trong công cuộc đổi mới và mở cửa đất nước trong điêu kiện hiện nay, việc phát huy được những giá trị nhân văn trong mỗi con người càng trở nên cần thiết hơn bao giờ hết. Có như vậy chúng ta mới có thể là những chủ nhân tương lai của đất nước như lời Bác dạy với khát khao đưa đất nước đi lên hoà nhập với cộng đồng quốc tế nhưng vẫn giữ vững được những giá trị nhân văn truyền thống cao đẹp của dân tộc từ nghìn xưa để lại.
ĐÔI NÉT VỀ TƯ TƯỞNG NHÂN VĂN CỦA HỒ CHÍ MINH
Tư tưởng nhân văn của Hồ Chí Minh lúc đầu thể hiện ở những yêu cầu nhân bản bao quát nhất. Đó là tư tưởng đòi lại cho con người những gì mà nó vốn có, trước hết là quyền được sống theo nghĩa “người ta sinh ra ai cũng có quyền sống, quyền mưu cầu hạnh phúc”. Đất nước Việt Nam – cái nôi của con rồng cháu tiên, phải để cho người Việt Nam được gọi là Tổ quốc, chứ không cần đến một “mẫu quốc” bên phương Tây xa xôi tới “khai hoá”! Đã là con người thì ai cũng có quyền làm người, quyền tự do, quyền sống bình đẳng. Phải trả lại độc lập cho nhân dân Việt Nam để họ làm chủ đất nước mình, tự mình xây dựng cuộc sống. Đưa con người trở về với chính con người, đó là tư tưởng nhân bản cơ bản đầu tiên được hình thành trong con người Hồ Chí Minh. Trên cơ sở đó, Người kêu gọi xoá bỏ nô lệ, áp bức, bần cùng, đối xử với con người như là Con Người chân chính.
Tư tưởng nhân văn của Hồ Chí Minh được nâng lên tầm cao hơn khi ở Người hội tụ những tư tưởng tiến bộ toàn nhân loại, trong đó có các hệ tư tưởng nhân văn Phục hưng, Khai sáng. Đặc biệt, tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh chỉ thật sự trở thành lý luận khoa học, trở thành học thuyết vững chắc khi Người thấm nhuần tư tưởng cộng sản chủ nghĩa của các lãnh tụ thiên tài là C. Mác, Ph. Ăng-ghen và V. I. Lênin.
Thấm nhuần tư tưởng nhân văn cộng sản chủ nghĩa, Hồ Chí Minh tự nguyện đứng vào hàng ngũ những người cộng sản quốc tế, chiến đấu hi sinh cho lý tưởng nhân văn cộng sản chủ nghĩa. Và thực tế, Người đã trở thành một trong những chiến sĩ đi tiên phong trong cuộc đấu tranh lật đổ chế độ xã hội cũ, xây dựng chế độ xã hội mới trên phạm vi toàn thế giới. Người quan tâm đến số phận từng con người , vận mệnh từng dân tộc, từng quốc gia khắp năm châu. Cuộc cách mạng mà người theo đuổi là cuộc đấu tranh giai cấp, lật đổ giai cấp bóc lột, giải phóng giai cấp bị bóc lột, đưa loài người tiến đến một xã hội tốt đẹp. Tư tưởng Hồ Chí Minh vì thế có tầm giai cấp quốc tế, tầm nhân loại.
Hồ Chí Minh tiếp thu một cách sâu sắc lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, lấy nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản để thực hiện lý tưởng nhân văn cụ thể của con người: xoá bỏ xã hội cũ thối nát và phản nhân đạo để xây dựng một xã hội mới mà ở đó, người với người là đồng chí, bạn bè, anh em, sống hoà bình, hợp tác, hữu nghị trong thế giới đại đồng. Chính vì vậy khi Quốc tế II phân hóa thành nhiều khuynh hướng khác nhau, Người đã chọn Quốc tế III, vì nó đề ra mục tiêu đúng với tư tưởng của Người là chống phong kiến, đế quốc, giải phóng dân tộc, mà thực chất là giải quyết vấn đề dân tộc và thuộc địa – vấn đề bức xúc nhất, bản chất nhất của cách mạng thế giới lúc bấy giờ.
Giải quyết vấn đề dân tộc và thuộc địa, theo Hồ Chí Minh không phải là nhiệm vụ cuối cùng, mà là khâu đột phá để tiến tới giải quyết vấn đề cách mạng thế giới. Giải phóng từng dân tộc là điều kiện cho việc giải phóng tất cả các dân tộc thuộc địa; giải phóng giai cấp vô sản là để đi đến xã hội cộng sản chủ nghĩa. Mục tiêu đó quán xuyến toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Người. Đó cũng là nền tảng cho tinh thần đoàn kết giữa các dân tộc toàn nhân loại trên cơ sở chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa Quốc tế chân chính. Giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người, theo Người, cũng chỉ mới là tiền đề để thực hiện mục tiêu thiêng liêng nhất của con người là phát triển toàn bộ bản chất người với mọi phẩm chất tốt đẹp, với mọi tiềm năng và năng lực sáng tạo cũng như khả năng hưởng thụ cao các giá trị văn hoá do chính mình sáng tạo ra.
Chính với quyết tâm thực hiện lý tưởng nhân văn đó, Hồ Chí Minh có một thái độ hết sức khoan dung, độ lượng, một tinh thần đoàn kết, hoà hợp. Phê phán phản đối tư tưởng biệt phái, chia rẽ các tín ngưỡng tôn giáo trong nước và trên thế giới, Người tiếp thu tất cả tinh hoa trí tuệ, ước mơ, khát vọng chân chính của nhân loại nhằm đạt tới mục đích cuối cùng là đem lại hạnh phúc cho nhân dân. Người đã hội tụ những tinh hoa của tất cả các tư tưởng nhân văn của nhân loại, từ tư tưởng Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín, Dũng, Trung, Hiếu của đạo Nho, tinh thần từ bi, cứu nhân độ thế, phấn đấu đạt tới sự sáng láng của đạo Phật, đến ước mơ vươn tới một xã hội cao đẹp, con người hoàn thiện của đạo Thiên chúa. Người đã chắt lọc ưu điểm trong các học thuyết của Khổng Tử, Thích ca Mâu ni, Tôn Dật Tiên, Giê-su… Đặc biệt người đã tìm thấy ở học thuyết Mac-Lênin nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa. Người nhận thấy rằng, ở tất cả các vị tiền bối đều có chung một ưu điểm là mưu cầu hạnh phúc cho con người. Công lao đó của Người, tự nó đã thể hiện một tinh thần, một bản chất nhân văn lớn lao, cao cả, vì cuộc sống tốt đẹp của con người, vì hạnh phúc và tiến bộ của nhân gian.
Tư tưởng nhân văn của Hồ Chí Minh còn thể hiện một cách đặc sắc ở khát vọng và tinh thần quyết tâm biến tư tưởng thành hiện thực. Cốt lõi của thế giới quan duy vật, phương pháp luận khoa học và nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa được Hồ Chí Minh chuyển hoá thành một tổ hợp tư tưởng Mác – Lênin – Hồ Chí Minh, rồi nó lại được thăng hoa, biến thành một chất tư tưởng mới rất riêng, trong đó có sự hoà quyện giữa chiều sâu lý luận và sinh khí cuộc sống. Tiếp thu bản chất khoa học và cách mạng, tinh thần cải tạo thế giới của chủ nghĩa Mác- Lênin, Người thực hiện khát vọng cháy bỏng của mình là biến tình thương người, tình yêu cuộc sống thành hành động.
Lòng nhân ái Hồ Chí Minh bao la rộng, lớn bao nhiêu đối với nhân loại thì cũng sâu nặng bấy nhiêu đối với con người, dân tộc Việt Nam. Nhận nhiệm vụ từ Quốc tế cộng sản, trở về Tổ quốc, Người dành tất cả tình thương yêu cho dân tộc Việt Nam. Khi trở thành lãnh tụ của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Người không màng danh lợi cá nhân, suốt đời chăm lo cho hạnh phúc của nhân dân, cho sự trường tồn của dân tộc và sự phát triển của đất nước. Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh bao quát toàn bộ cách mạng Việt Nam là giải phóng dân tộc, đem lại độc lập tự do cho Tổ quốc, hạnh phúc cho nhân dân. Tư tưởng đó được kết tinh thành một tuyên ngôn bất hủ không chỉ đối với nhân dân Việt Nam mà còn đối với toàn thể loài người tiến bộ: Không có gì quý hơn độc lập, tự do.
Để thực hiện lý tưởng nhân văn đó, Hồ Chí Minh đã vạch ra con đường đúng đắn cho cách mạng Việt Nam là “Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”. Giải phóng dân tộc là mục tiêu số một khi đất nước còn nô lệ. Vì vậy ham muốn tột bậc của Người là “làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do”. Độc lập, tự do trở thành bản chất cao quý trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh, trở thành ngọn cờ chiến đấu và mục tiêu suốt đời hi sinh cống hiến của Người. Bởi vì đó là điều kiện tiên quyết đem lại hạnh phúc và tiến bộ cho nhân dân Việt Nam.
Lý tưởng nhân văn đó được Hồ Chí Minh biến thành mục tiêu của cách mạng Việt Nam là xây dựng xã hội mới- xã hội xã hội chủ nghĩa. Với sức mạnh khoa học của chủ nghĩa Mac- Lênin, với niềm tin sắt đá vào tương lai và ý chí quyết tâm của người cộng sản, Người đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam lam nên những chiến công hiển hách. Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh thấm sâu trong đường lối của Đảng, trở thành ngọn cờ hướng dẫn nhân dân ta làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 chấn động địa cầu và đại thắnng mùa xuân 1975 thần thánh.
Đất nước giành được độc lập, dân tộc giành được tự do, nhiệm vụ trọng tâm của dân tộc Việt Nam là xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đó là lô-gích tất yếu của lý thuyết phát triển theo hướng nhân văn, vì chủ nghĩa xã hội là xã hội phù hợp nhất với bản chất con người, là xã hội tốt đẹp nhất mà loài người hằng vươn tới. Xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Người lãnh đạo toàn dân xây dựng không phải là thứ chủ nghĩa xã hội cực đoan, hẹp hòi, vị kỷ của một giai cấp, một đảng phái nào. Mục tiêu và phương thức tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí Minh cũng không chỉ là chuyên chính, phá bỏ, cũng không phải là một cái gì đó mơ hồ, không tưởng như nhiều người, nhiều đảng đương thời trên thế giới quan niệm. Đó là chủ nghĩa xã hội hiện thực, cụ thể gắn liền với dặc điểm lịch sử, truyền thống văn hoá và bản sắc dân tộc. Chủ nghĩa xã hội mà người lãnh đạo ở Việt Nam là một xã hội mới công bằng, nhân đạo và tốt đẹp, nhằm mục tiêu cụ thể là: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, con người hạnh phúc.
Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội do Hồ Chí Minh lãnh đạo thực sự là một cuộc cách mạng giải phóng và phát triển mọi tiềm năng của dân tộc, của xã hội, cụ thể là giải phóng và phát triển con người. Người luôn quan niệm rằng: “Nếu nước độc lập mà người dân không hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì”. Chính tấm lòng nhân hậu Hồ Chí Minh đã đúc kết nên tư tưởng nhân văn của Người: con người không chỉ được giải phóng về mặt xă hội, mà chủ yếu và cuối cùng là giải phóng và phát triển toàn bộ bản chất và bản tính tốt đẹp của mình. Bản chất sâu xa, lớn lao trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh là, tất cả đều vì sự phát triển con người Việt Nam: xoá bỏ tha hoá, trả lại cho con người phẩm chất Người, giải phóng toàn bộ tiềm năng, thể chất, trí tuệ, tài năng sáng tạo của con người, tạo mọi điều kiện cho con người phát triển toàn diện – hài hoà về đức – trí – thể – mỹ. Với tinh thần đó, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến thanh, thiếu niên. Vì thanh niên là: “người chủ tương lai của nước nhà”, “nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên”. Người yêu cầu Chính phủ phải chú ý đặc biệt tới việc giáo dục thanh, thiếu niên về thể dục, đức dục và trí dục.
Một điểm đáng được lưu ý là, tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh có tính vượt thời đại, đó là sự tuyệt đối tin tưởng vào thắng lợi ngày mai, lo cho tương lai của đất nước. Trong chiến tranh ác liệt, vận mệnh đất nước lâm nguy, nhưng với nhãn quan duy vật biện chứng, Hồ Chí Minh đã thấy trước thắng lợi tất yếu của cách mạng Việt Nam. Người luôn nghĩ tới và đặt kế hoạch cho sự phát triển tương lai của đất nước. Người có kế hoạch đào tạo nhân tài cho đất nước, kể cả đào tạo ở nước ngoài. Trong hoàn cảnh đời sống vật chất còn rất nhiều khó khăn, Người vẫn quan tâm xây dựng đời sống văn hoá, phát triển khoa học kỹ thuật. Đặc biệt, Người rất quan tâm tới xây dựng và phát triển đời sống tinh thần của nhân dân. Theo Người, giá trị thiêng liêng nhất, cao quý nhất và trường tồn nhất của con người chính là giá trị tinh thần. Càng lùi xa chiến tranh, lùi xa đời sống vật chất khó khăn, thiếu thốn của quá khứ, chúng ta càng thấy tư tưởng đó của Người là đúng đắn và sẽ mãi giữ nguyên giá trị.
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG NHÂN VĂN CỦA HỒ CHÍ MINH TRONG TÌNH HÌNH HIỆN NAY
Tư tưởng cộng sản chủ nghĩa đã giúp Hồ Chí Minh nâng những yêu cầu có tính nhân bản lên tầm cao hơn, đó là tính nhân văn thực thụ. Tính nhân văn ở đây không còn bị giới hạn trong khuôn khổ giải quyết vấn đề vị trí của con người, giải thoát con người khỏi kiếp ngựa trâu do chế độ nô lệ trói buộc, mà là giải quyết vấn đề xây dựng vị thế con người trong xã hội mới. Tư tưởng của Người lúc này không chỉ là xoá bỏ tình trạng tha hoá, đưa con người về đúng vị trí của mình, mà còn là phát huy mọi tiềm năng của con người để xây dựng mội cuộc sống mới. Muốn vậy, trước hết phải thực hiện tư tưởng nhân văn tư sản là tự do, bình đẳng và bác ái. Sau đó, từng bước thực hiện lý tưởng nhân văn cộng sản chủ nghĩa để tiến tới xây dựng một xã hội cộng đồng và hoà hợp. Ở đó con người không chỉ có đủ các điều kiện để phát huy mọi tài năng trong xây dựng xã hội mới, mà còn có đủ điều kiện để phát triển toàn diện, hài hoà chính bản thân mình với tư cách là mục đích tối cao của con người. Đây là tầm nhân văn cao nhất của con người, của xã hội loài người trên phương diên lý thuyết. Tư tưởng này thể hiện ở tầm cao hơn, sâu hơn còn bởi vì nó mở ra tính nhân văn vô tận của chủ nghĩa cộng sản: Con người là mục đích của lịch sử, của mọi hoạt động của chính con người”.
Để trước hết thực hiện quyền tự do dân chủ cho nhân dân thì nhà nước cần có những giải pháp hành chính hợp lý và chú trọng đến quyền lợi của nhân dân. Trong điều kiện hiện nay, để có được những điều trên, trước hết cần cải cách tổ chức và đổi mới hoạt động của bộ máy nhà nước theo hướng phát huy ngày càng đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân. Quyền làm chủ của nhân dân phải được thực hiện bằng những quy chế cụ thể, không thể thực hiện chỉ bằng hô hào khẩu hiệu.
Việc ban hành sửa đổi chính sách pháp luật phải dựa trên cơ sở trưng cầu ý kiến rộng rãi trong nhân dân. Thực hành theo đúng quy chế dân chủ ở cơ sở, bảo đảm trên thực tế dân được biết, được nói, được bàn, được kiểm tra giám sát, được lựa chọn và bãi miễn đại biểu do mình bầu ra. Cùng với xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật, xây dựng bộ máy, cải cách thể chế hành chính, Đảng và nhà nước phải có quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, quản lý, sử dụng đội ngũ cán bộ công chức một cách toàn diện, coi trọng cả đức lẫn tài, trong đó dức là gốc. Trong xác định tiêu chuẩn, cụ thể hoá tiêu chuẩn với từng chức danh cán bộ, công chức, phải coi trọng hàng đầu đến tiêu quan điểm quần chúng, thái độ phục vụ nhân dân. Trong đào tạo bồi dưỡng cán bộ công chức, cần dặc biệt coi trọng bồi dưỡng lý tưởng cách mạng, lập trường giai cấp, động cơ học tập, rèn luyện, phấn đấu; kết hợp chặt chẽ giữa đào tạo tại trường với bồi dưỡng tại chức và rèn luyện thử thách trong hoạt động thực tiễn ở địa phương, cơ sở.
Trong bố trí, sử dụng cán bộ công chức, phải thật sự công tâm và chặt chẽ. Những người tài cao đức tốt, có uy tín cao trong nhân dân cần phải được bố trí, đề bạt với cương vị tương xứng. Những người dù tài giỏi đến đâu, nhưng có biểu hiện suy thoái về đạo đức, bị nhân dân oán ghét thì kiên quyết xử lý. Đồng thời chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho cán bộ, công chức nhà nước để họ chuyên tâm với công việc, hết lòng hết sức với dân.
Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân cần phải có quyết tâm cao, nhận thức thống nhất, giải pháp đồng bộ trong cuộc đấu tranh phòng ngừa và chống tham nhũng. Kịp thời bổ sung hoàn thiện các cơ chế, quy định về quản lý kinh tế – tài chính, quản lý tài sản công, ngân sách nhà nước và các quỹ do nhân dân đóng góp. Một mặt xác định rõ chế độ trách nhiệm của tổ chức, cá nhân, đề cao sự gương mẫu, chủ động và kiên quyết đấu tranh phòng chống tham nhũng của người đứng đầu các địa phương, cơ quan, đơn vị. Mặt khác có cơ chế khuyến khích và bảo vệ những người tích cực đấu tranh, xây dựng thiết chế để nhân dân tham gia giám sát, phát hiện, đấu tranh phòng chống tham nhũng. Biểu dương và nhân rộng những gương cần, kiệm, liêm, chính, có chính sách tôn vinh những người có tài năng, tâm huyết, có đóng góp xứng đáng trong sự ngiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trong tình hình mới hiện nay, với xu hướng mở rộng hợp tác để cùng phát triển trên toàn cầu diễn ra hết sức mạnh mẽ. Cộng với sự tiến bộ ngày một vượt bậc của các thành tựu khoa học và công nghệ. Nhà nước ta cần chú trọng đến công tác giáo dục toàn diện cho thế hệ trẻ. Muốn vậy trước hết là phải có cải tiến trong công tác giáo dục. Trong thời gian qua, đã có nhiều ý kiến đánh giá về nhiều thiếu sót trong công tác giáo dục hiện nay, trong đó nổi bật lên là vấn đề đào tạo đại học và những tiêu cực trong thi cử. Trong khi đó giáo dục đóng vai trò quan trọng bậc nhất trong việc hình thành nhân cách của một con người. Như Hồ Chí Minh đã từng nói: “Lành dữ phải đâu là tính sẵn, phần nhiều do giáo dục mà nên”. Có thể nói, Người rất quan tâm đến công tác giáo dục và bồi dưỡng nhận thức cho nhân dân.
Với tư tưởng thấm nhuần tính nhân văn của Người, việc giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh cho thế hệ trẻ hôm nay là điều hết sức cần thiết. Cần phải nhận thức đây là một trong những nhiệm vụ có tầm chiến lược của sự nghiệp cách mạng mà Đảng đang lãnh đạo nhân dân kiên định theo con đường mà Bác Hồ đã lựa chọn.
Việc giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh phải có tư duy sáng tạo, nhằm tìm ra cách tổ chức thực hiện hiệu quả, phù hợp, tạo bầu không khí học tập thật khoa học, mang tính sư phạm cao. Việc lồng ghép giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh phải được thường xuyên chú trọng trong những bài học có nội dung kiến thức phản ánh giá trị của Người.
Bên cạnh hình thức lồng ghép trong dạy học cũng rất cần và phải coi đây là một hướng đổi mới phương pháp giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh, đó là ngoại khoá lịch sử, ngoại khoá văn học. Bởi vì hình thức ngoại khoá có tác dụng mở rộng không gian và thời gian cũng như thời lượng học tập, phát huy tính tích cực học tập, tìm hiểu, nghiên cứu của học sinh, giúp học sinh tự tin trong việc nêu hiểu biết và suy nghĩ của mình về cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Bác Hồ kính yêu.
Để nâng cao hiệu quả giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh, cũng cần thiết phải từng bước đáp ứng một số điều kiện chuyên môn và cơ sở vật chất phục vụ dạy và học. Trong đó phải đặt lên hàng đầu việc hướng dẫn nội dung, phương pháp chuyên môn từ phía Bộ Giáo dục và Đào tạo, Sở Giáo dục và Đào tạo, để giáo viên có căn cứ thực hiện. Tiếp đến là việc tổ chức bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho giáo viên các môn thuộc lĩnh vực khoa học xã hội, trang bị cho họ những hiểu biết cần thiết cho tiến hành giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh theo đặc trưng môn học.
Làm được như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh sẽ thật sự thẩm thấu trong nhận thức và trong tâm hồn của học sinh phổ thông, đặt nền móng cho việc nâng cao lập trường chính trị của thế hệ trẻ Việt Nam trước yêu cầu giáo dục giá trị nhân cách đáp ứng sự nghiệp xây dựng đất nước.

KẾT LUẬN

Thật hiếm thấy ở một vị lãnh đạo quốc gia nào mà phần quan tâm đến con người, đến nhân dân lại được đặt trên tầm lớn lao, sâu sắc nhưng hết sức cụ thể, thiết thực như ở Hồ Chí Minh. Có thể nói, tính nhân văn cao cả trong tư tưởng Hồ Chí Minh là dặt hạnh phúc nhân dân lên trên hết. Ở Hồ CHí Minh, nhân dân không phải là khái niệm chung mơ hồ mà là cộng đồng Việt Nam, là đồng bào, là từng con người, từng cán bộ, từng cuộc đời, từng hoàn cảnh cụ thể. Cho đến lúc đi xa, Người chỉ nghĩ đến sự đoàn kết toàn dân, sự phát triển và tiến bộ của Đảng, của toàn dân tộc; Người vẫn dành muôn vàn tình thương yêu cho mọi người.
Có thể khái quát, tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh là triết lý nhân văn Hồ Chí Minh. Trong thực tế, Hồ CHí Minh không trình bày tư tưởng nhân văn của mình bằng một học thuyết với một hệ thống các khái niệm, phạm trù như một triết lý kinh viện. Triết lý nhân văn Hồ Chí Minh được hình thành từ trong khối óc, con tim của Người về lòng yêu nước, tình thương người và đạo lý làm người; về con đường để nhân dân Việt Nam nói riêng, loài người tiến bộ nói chung, thực hiện những ước mơ, khát vọng cao đẹp của mình, tiến tới một cuộc sống độc lập, tự do, hoà bình, giàu mạnh, xã hội văn minh, con người hạnh phúc. Nhiều chính khách và nhiều nhà khoa học quốc tế đã gọi con người Hồ Chí Minh là con người của khí phách dân tộc, lương tâm thời đại, tinh hoa loài người.
Có thể nói, việc đưa tư tưởng Hồ Chí Minh vào nghiên cứu và giảng dạy nói chung, việc chúng ta cùng nhau nhắc lại triết lý nhân sinh của Hồ Chí Minh, triết lý gắn kết chủ nghĩa nhân đạo với tư tưởng nhân văn sâu sắc, gắn kết độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, lấy thực tiễn làm điểm xuất phát, lấy giải phóng và phát triển con người làm mục tiêu, nói riêng có ý nghĩa thiết thực và bổ ích. Nó không chỉ giúp chúng ta ôn lại những lời căn dặn quý báu mà người để lại, mà còn khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh đã, đang và mãi mãi là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta trên con đường xây dựng xã hội mới, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Đánh giá post

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *