TIỂU LUẬN KINH TẾ CHÍNH TRỊ:
Cơ sở tồn tại của kinh tế thị trường và giải pháp phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
I. Mở đầu
Từ năm 1975, sau khi đất nước đã hoàn toàn độc lập, non sông thu về một mối, cách mạng dân tộc dân chủ đã hoàn toàn thắng lợi trên phạm vi cả nước. Đảng và nhân dân ta đã cùng nhau tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Đảng và nhà nước ta chủ trương xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa, phát triển kinh tế xã hội, xây dựng nền kinh tế bao cấp, quản lý theo kiểu tập trung, quan liêu bao cấp . Tuy nhiên, lúc đó tồn tại một quan điểm sai lầm ở nước ta là sự đối lập đơn giản của CNXH và CNTB, từ đó dẫn đến sự đối lập của CNXH với kinh tế thị trường, kiêng kỵ và không thừa nhận kinh tế thị trường. Do đó đất nước ta đã gặp không ít khó khăn trong xây dựng đất nước Trước tình hình đó, tại hội nghị lần thứ sáu ban chấp hành Trung ưong đảng khoá VI đã đưa ra quan điểm phát triển nền kinh tế hàng hoá có kế hoạch gồm nhiều thành phần đi lên CNXH. Trong cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ đổi mới, quá độ lên CNXH đã khẳng định :” phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. ”, coi ” chính sách kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lước lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội ”. Và cho đến nay, đất nước đã trải qua 20 năm đổi mới, từ những kinh nghiệm thực tế cũng như lý luận, trong dự thảo báo cáo chinh trị trình Đại hội X của đảng cũng đã khẳng định ”phát huy mọi nguồn lực, tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng CNXH. ” Cho đến bây giờ, chúng ta có thể chắc chắn khẳng định rằn: phát triển kinh tế thị trường ở VIệt Nam là cần thiết, khách quan do hai cơ sở sau.
Thứ nhất, đó là tính tất yếu tồn tại nền kinh tế thị trường trong thời kỳ quá độ và cả trong CNXH. Kinh tế thị trường là kinh tế hàng hoá phát triển ở trình độ cao trong đó mọi quan hệ kinh tế đều được biểu hiện dưới hình thái hàng hoá tiền tệ. Và ở Việt Nam có đầy đủ cơ sở khách quan của sự tồn tại, phát triển của kinh tế thị trường. Đó là sự phân công lao động xã hội ngày càng phát triển, nền kinh tế tồn tại nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, do khoa học kỹ thuật phát triển, nhiều nghành nghề mới ra đời, trong các đơn vị sản xuất cần phải hạch toán kinh doanh và trao đổi bằng tiền tệ, quan hệ kinh tế quốc tế cúng thông qua quan hệ tiền tệ.
Thứ hai, là tác dụng to lớn của việc phát triển kinh tế thị trường ở nước ta. Nước ta từ một nước nông nghiệo lạc hậu quá độ lên CNXH bỏ qua giai đoạn TBCN nên nhất thiết cần phát triển kinh tế thị trường vì chỉ có kinh tế thị trường mới kích thích chủ thể kinh tế
hoạt động (vì mục đích lợi nhuận), nâng cao năng suất lao động, kinh tế thị trường làm thoả mãn được nhu cầu của xã hội, đẩy mạnh phân công lao động, chuyên môn hoá, nâng cao năng lực quản lý.
Ngày nay tất cả các nước đều phải xây dựng và phát triển kinh tế thị trường. Tuy nhiên trong chế độ xó hội khỏc nhau, kinh tế thị trường được sử dụng với mục đích khác nhau. trong các nước tư bản đó là nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Ở nước ta đó là nền kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa. Kinh tế thị trường là thành tựu chung của văn minh nhân loại. Nó là kết quả của sự phát triển lực lượng sản xuất đến một trỡnh độ nhất định, kết quả của quỏ trỡnh phõn cụng lao động xó hội, đa dạng hoá các hỡnh thức sở hữu. đồng thời nó là động lực mạnh mẽ thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Sự phát triển kinh tế thị trường sẽ thúc đẩy quá trỡnh tớch tụ và tập trung sản xuất, do đó tạo điều kiện ra đời của sản xuất lớn, xó hội hoỏ cao, đồng thời chọn lọc được những người sản xuất kinh doanh giỏi, hỡnh thành đội ngũ cán bộ quản lí có trỡnh độ, lao động lành nghề đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước. Như vậy phát triển kinh tế thị trường là một tất yếu kinh tế đối với nước ta, một nhiệm vụ kinh tế cấp bách để chuyển nền kinh tế lạc hậu của nước ta thành nền kinh tế hiện đại hội nhập vào sự phân công lao động quốc tế.
Là một nhà kinh tế CNXH trong tương lai, việc chúng ta nghiên cứu đề tài ”Cơ sở tồn tại của kinh tế thị trường và giải pháp phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta” là một điều cần thiết. Nó giúp chúng ta có thêm hiểu biết về các chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nước từ đó có thể vận dụng trong tương lai.
Do thời gian và trình độ nhận thức còn hạn chế nên đề tài được nghiên cứu ở phạm vi nhỏ, giai đoạn của nước ta từ sau đổi mới đến nay (từ 1986 đến nay). Nếu ta xem xét nó trong điều kiện, hoàn cảnh khác của một quốc gia khác thì nó mất đi tính đúng đắn.
II Nội Dung
Cơ sở tồn tại của kinh tế thị trường ở nước ta.
Cơ sở lý luận
Trước đây thịnh hành một quan điểm sai lầm đối lập một cách giản đơ chủ nghĩa xã hội với chủ nghĩa tư bản, từ đó đối lập chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa xã hội với kinh tế thị trường, kiêng kỵ và không thừa nhận kinh tế thị trường. Sở dĩ như vậy là do hai ngưyưn nhân chính :
Thứ nhất, đó là do nhận thức khong đúng về điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hoá. các sách giáo khoa kinh tế chính trị ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây viết rằng : hai điều kiện ra đời và tồn tại sản xuất hang hoá là phân công lao động xã hội và chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Mặt khác, lại nhấn mạnh chế độ tư hữu hàng ngày hàng giờ đẻ ra chủ nghĩa tư bản, đã nóng vội xoá bỏ ngay chế độ tư hữu. Xác lập chế độ công hữu khi lực lượng sản xuất còn lạc hậu, từ đó đi tới kết luận sai lầm rằng vì không còn chế độ tư hữu nên không còn sản xuất hàng hoá nữa.
Khi nhấn mạnh phân công lao động xã hội là điều kiện tồn tại của sản xuấ hàng hoá. CMAC đồng thời chỉ ra rằng ”trong các công xã ở ấn độ và trong các công xưởng hiện đại, tuy lao động đã có sự phân công xã hội, nhưng các sản phẩm lao động không trở thành hàng hoá vì chỉ có sản phẩm của những lao động tư nhân độc lập và không phụ thuộc vào nhau mới đối diện với nhau như là những hàng hoá ”.
Thứ hai, do chủ quan duy ý chí nên đã hiểu sai và vận ụng không đúng một số luận điểm của C. MAC và PH. ANGHEN. Người ta đã thường trích dẫn những luận điểm như : chủ nghĩa cộng sản phải xoá bỏ buôn bán ;cùng với việc xã hội nắm lấy những tư liệu sản xuất thì sản xuất hàng hoá cũng bị loại trừ. Thực ra đây là những luận điểm dự đoán về giai đoạn phát triển cao của chủ nghĩa cống sản, chứ không phải nói về giai đoạn thấp của nó (tức chủ nghĩa xã hội ). Nói về giai đoạn thấp ấy, C. MAC đã nhấn mạnh :Đó là một xã hội vừa thoát thai từ xã hội TBCN, do đó là một xã hội về mọi phương diện kinh tế, đạo đức, tinh thần con người còn mang đầy đủ dấu vết của xã hội cũ mà nó đã lọt lòng ra. Như vậy làm sao xoá bỏ được cái ”dấu vết” đặc trưng của CNTB là kinh tế hàng hoá.
Do đó việc xác lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất thì không thể nóng vội tuỳ tiện một cách chủ quan duy ý chí. Vì bất cứ một sự thayđổi nào của chế độ xã hội, bất cứ một sự cải biến nào về mặt quan hệ sở hữu cũng đều là kết quả tất yếu của việc tạ nên
những lực lượng sản xuất mới không còn phù hợp với quan hệ sở hữu cũ nữabởi vậy không thể thủ tiêu chế độ tư hữu ngaylập tức.
cơ sở khách quan của sự tồn tại và phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam
Phân công lao động xó hội với tớnh cỏch là cơ sở chung của sản xuất hàng hóa chẳng những không mất đi, mà trỏi lại cũn được phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu. Phân công lao động xó hội trong trong từng khu vực, từng địa phương cũng ngày càng phát triển. Sự phát triển của phân công lao động được thể hiện ở tính phong phú, đa dạng và chất lượng ngày càng cao của sản phẩm đưa ra trao đổi trên thị trường. Khi nhấn mạnh phân công lao động xó hội là điều kiện tồn tại của sản xuất hàng hoá, C. Mác đồng thời chỉ rừ rằng trong cỏc cụng xó ở trong cỏc cụng xó ở Ấn Độ và trong các công xưởng hiện đại, tuy lao động đó cú sự phõn cụng lao động xó hội, nhưng các sản phẩm lao động không trở thành hàng hoá vỡ “Chỉ cú sản phẩm của những lao động tư nhân độc lập và không phụ thuộc vào nhau mới đối diện với nhau như là những hàng hoá”.
Trong nền kinh tế nước ta, tồn tai nhiều hỡnh thức sở hữu, đó là sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân gồm sở hữu cá thể, sở hữu tiểu chủ, sở hữu tư bản tư nhân, sở hữu hỗn hợp. Do đó tồn tại nhiều chủ thể kinh tế độc lập lợi ích riêng, nên quan hệ kinh tế giữa họ chỉ có thể thực hiện bằng quan hệ hàng hoá tiền tệ
Nền kinh tế quá độ trong thời kỡ quỏ độ là nền kinh tế nhiều thành phần với nhiều hỡnh thức sở hữu khỏc nhau, do đó mà có nhiều chủ thể kinh tế khác nhau. Các chủ thể kinh tế này độc lập, tách biệt nhau không phụ thuộc vào nhau, mặc dù họ đều nằm trong một hệ thống phân công lao động xó hội. Trong sản xuất và đời sống, các chủ thể kinh tế vừa cạnh tranh vừa hợp tác với nahu cùng tồn tại. Quan hệ kinh tế giữa họ chỉ có thể thực hiện bằng con đường trao đổi hàng hoá theo cơ chế thị trường. Hơn nữa chính phát triển kinh tế hàng hoá là cách tốt nhất để sử dụng có hiệu quả những tiềm năng kinh tế của các thành phần kinh tế. Thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, tuy cũng dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, nhưng các đơn vị kinh tế vẫn có sự khác biệt nhất định, có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh, có lợi ích riêng. Mặt khác các đơn vị kinh tế ocnfcó sự khỏc nhau về trỡnh độ kĩ thuật công nghệ, về trỡnh độ tổ chức quản lí, nên chi phí sản xuát và hiệu quả sản xuất cũng khác nhau. Các doanh nghiệp nhà nước mặc dù đều dựa trên sở hữu toàn dân mà nhà nước là đại diện (gọi tắt là sở hữu nhà nước )trong quan hệ kinh tế với nhau cũng đều phải thông qua quan hệ hàng hoá tiền tệ . Mặc dù các doanh
nghiệp nhà nước đều dựa trên sở hữu nhà nước, nhưng được giao quyền sử dụng tư liệu sản xuất khác nhau, vỡ vậy mà cỏc doanh nghiệp nhà nước mang tính chất là lao động tư nhân độc lập, không phụ thuộc vào nhau. Lao động tư nhân của mỗi doanh nghiệp nhà nước chỉ được thừa nhận là một bộ phận của lao động xó hội khi naũ mà sản phẩm của doanh nghiệp làm ra được bán hết trên thị trường xó hội. Do nhiều nhân toó tác động (trỡnh độ cơ sở vật chất kĩ thuật, trỡnh độ tay nghề của người lao động, trỡnh độ tổ chức quản lí …)mà giưa các doanh nghiệp nhà nước có sự khác nhau về hiệu quả sản xuất kinh doanh, do vậy giữa các doanh nghiệp nhà nước có sự khác biệt về lợi ích kinh tế, làm cho tính độc lập không phụ thuộc vào nhau của các doanh nghiệp nhà nước càng rừ rệt. Do đó quan hệ hàng hoá tiền tệ giữa các doanh nghiệp nhà nước là cần thiết thuận lợi công bằng và hợp lí nhất.
Quan hệ hàng hoỏ tiền tệ cũn cần thiết trong quan hệ kinh tế đối ngoại, đặc biệt trong điều kiện phân công lao động quốc tế đang phát triển ngày càng sâu sắc, vỡ mỗi nước là một quốc gia riêng biệt, là người chủ sở hữu đối với các hàng hoá đưa ra trao đổi trên thị trường thế giới. Sự trao đổi ở đây phải theo nguyên tắc ngang giá. Như vậy khi kinh tế thị trường ở nước ta là một tồn tại tất yếu khách quan thỡ khụng thể lấy ý chớ chủ quan mà xoỏ bỏ nú được.
Tác dụng của phát triển kinh tế thị trường
Nền kinh tế nước ta khi bước vào thời kỡ quỏ độ lên chủ nghĩa xó hội cũn mang nặng tớnh tự cung tự cấp, vỡ vậy sản xuất hang hoỏ phỏt triển sẽ phỏ vỡ dần kinh tế tự nhiờn và chuyển thành nền kinh tế hang hoỏ, thúc đẩy sự xó hội hoỏ sản xuất. Sự phát triển của kinh tế thị trường sẽ thúc đẩy quá trỡnh tớch tụ và tập trung sản xuất, do đó tạo điều kiện ra đời của sản xuất lớn có xó hội hoỏ cao, đồng thời chọn lọc được những người sản xuất kinh doanh giỏi. hỡnh thành đội ngũ cán bộ quản lí có trỡnh độ lao động lành nghề đáp ứng nhu cầu phát triển đất nước.
Như vậy phát triển kinh tế thị trường là một tất yếu kinh tế với nước ta, một nhiệm vụ kinh tế cấp bách để chuyển nền kinh tế lạc hậu của nước ta thành nền kinh tế hiện đại, hội nhập vào sự phân công lao động quốc tế. Thực tiễn nhưngx năm đổi mới đó chứng minh rằng, việc chuyển sang nền kinh tế thị trường nhiều thành phần là hoàn toàn đúng đắn. Nhờ phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần , chúng ta đó bước đầu khai thác được tiềm năng trong nước và thu hút được vốn, kĩ thuật và công nghệ của nước ngoài, giải
phóng được năng lực sản xuất, góp phần quyết định vào việc bảo đảm tăng trưởng kinh tế với nhịp độ tương đối cao trong thời gian qua.
Trỡnh độ phát triển kinh tế thị trường có lien quan mật thiết với các giai đoạn phát atriển của lực lượng sản xuất. Về đại thể kinh tế hang hoá phát triển qua ba giai đoan tương ứng với ba giai đoạn phát triển của lực lượng sản xuất :sản xuất hang hoá giản đơn, kinh tế thị trường tự do, kinh tế thị trường hiện đại. Tuy nhiên nước ta không lặp lại nguyên vẹn của quá trỡnh phỏt triển kinh tế này mà cần phải và có thể xây dựng nền kinh tế thị trường hiện đại định hướng xó hội chủ nghĩa theo kiểu rỳt ngắn. Điều đó có nghĩa là phải đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước để phát triển nhanh chóng lực lượng sản xuất trong một thời gian tương đối ngắn để có thể xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật để nền kinh tế nước ta bắt kịp với nền kinh tế của các nước khác.
Bản chất, đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Lựa chọn mụ hỡnh kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa khụng phải là sự gỏn ghộp chủ quan giữa kinh tế thị trường và chủ nghĩa xó hội, mà là sự nắm bắt và vận dụng xu thế vận động khách quan của kinh tế thị trường trong thời đại ngày nay. Đảng Cộng sản Việt Nam trên cơ sở nhận thức tính quy luật phát triển của thời đại và sự khái quát, đúc rút từ kinh nghiệm phát triển kinh tế thị trường thế giới, đặc biệt là từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xó hội ở Việt Nam và ở Trung Quốc, để đưa ra chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa, nhằm sử dụng kinh tế thị trường để thực hiện mục tiêu từng bước quá độ lên chủ nghĩa xó hội. Kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa là mụ hỡnh kinh tế trong thời kỳ quỏ độ đi lên chủ nghĩa xó hội. Đây là một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử của kinh tế thị trường. Cũng có thể nói kinh tế thị trường là “cái phổ biến”, cũn kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa là “cỏi đặc thù” của Việt Nam, phù hợp với điều kiện và đặc điểm cụ thể của Việt Nam.
Nói kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa cú nghĩa đây không phải là kinh tế thị trường tự do theo kiểu tư bản chủ nghĩa, cũng không phải là kinh tế bao cấp, quản lý theo kiểu tập trung quan liêu; và cũng chưa hoàn toàn là kinh tế thị trường xó hội chủ nghĩa, bởi vỡ như trên đó núi Việt Nam đang ở trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xó hội, vừa có vừa chưa có đầy đủ các yếu tố của chủ nghĩa xó hội.
Chủ trương phát triển kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa là sự tiếp thu cú chọn lọc thành tựu của văn minh nhân loại, phỏt huy vai trũ tớch cực của kinh tế thị trường
trong việc thúc đẩy phát triển sức sản xuất, xó hội húa lao động, cải tiến kỹ thuật – công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo ra nhiều của cải, gúp phần làm giàu cho xó hội và cải thiện đời sống nhân dân; đồng thời phải có những biện pháp hữu hiệu nhằm hạn chế mặt tiêu cực của kinh tế thị trường, như chạy theo lợi nhuận đơn thuần, cạnh tranh khốc liệt, bóc lột và phân hóa giàu nghèo quá đáng, ít quan tâm giải quyết các vấn đề xó hội. Đây cũng là sự lựa chọn tự giác con đường và mô hỡnh phỏt triển trờn cơ sở quán triệt lý luận Mỏc – Lờ-nin, nắm bắt đúng quy luật khách quan và vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ rừ: kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi cỏc nguyờn tắc và bản chất của chủ nghĩa xó hội, thể hiện trên cả ba mặt: sở hữu, tổ chức quản lý và phõn phối. Nói cách khác kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa chớnh là nền kinh tế hàng húa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xó hội cụng bằng, dân chủ, văn minh.
Mục đích của kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa là phỏt triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xó hội, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới, tiên tiến.
Kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa cú nhiều hỡnh thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trũ chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc.
Kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa cú sự quản lý của Nhà nước. Nhà nước xó hội chủ nghĩa quản lý nền kinh tế bằng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, pháp luật và bằng cả sức mạnh vật chất của lực lượng kinh tế Nhà nước; đồng thời sử dụng cơ chế thị trường, ỏp dụng cỏc hỡnh thức kinh tế và phương pháp quản lý của kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy mặt tích cực, hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động, của toàn thể nhân dân.
Kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa thực hiện phõn phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các
nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và thụng qua phỳc lợi xó hội. Tăng trưởng kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng xó hội ngay trong từng bước phát triển. Tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa và giáo dục, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, nâng cao dân trí, giáo dục và đào tạo con người, xây dựng và phát triển nguồn nhân lực của đất nước.
Cơ sở thực tiễn.
2. 1. Những thành tựu
Sau một chặng đường dài đổi mới, kinh tế VIỆT NAM đó đạt được một số thành tựu quan trọng.
Thứ nhất, đổi mới đó gỡ bỏ về cơ bản kinh tế kế hoạch hoá tập trung, phi thị trường ra khỏi nền kinh tế, hỡnh thành được những tiền đề và cơ sở cho tiến trỡnh kinh tế thị trường phát triển. Về căn bản giờ đây nền kinh tế là kinh tế của các chủ thể tự chủ, kinh doanh theo các nguyên tắc của thị trường. Đó xỏc lập được cơ chế thị trường, giá cả là do thị trường quyết định. Mở cửa hội nhập mạnh nền kinh tế vào tiến trỡnh phỏt triển hiện đại của nền kinh tế toàn cầu. Sự hội nhập tăng mạnh thể hiện ở tỉ lệ suất nhập khẩu khoảng 50%GDP, vốn đầu tư nước ngoài tăng nhanh và chiếm tỉ trọng khá lớn trong tổng vốn đầu tư của nền kinh tề, năm cao nhất đạt 28%tổng vốn đầu tư
Thứ hai. về quỏ trỡnh phỏt triển từ sau đổi mới là một thời kỡ tăng trưởng cao đáng ghi nhận, đặc biệt là năm năm trở lại đây luôn có tốc độ trên 7%. Nhờ tăng trưởng khá cao, thu nhập tính trên đầu người tới năm 2002 đó tăng gấp đôi so với những năm cuối thập kỉ 80của thế kỉ 20. Thặng dư nền kinh tế đó bắt đầu tăng đáng kể. Cơ cấu kinh tế có một sự chuyển dịch đáng kể, cơ cấu kinh tế đó nghiờng hẳn về công nghiệp, dịch vụ.
Thứ ba, ¨từ hai mặt của sự chuyển biến trong nền kinh tế ta thấy, đổi mới đó dặt nền kinh tế vào tiến trỡnh kinh tế thị trường –công nghiệp và tiến trỡnh phỏt triển hiện đại của nền kinh tế toàn cầu nhờ vậy, kinh tế đang được chuyển động trên đường băng của quá trỡnh cất cỏnh. Nói cách khác hệ kinh tế thị trường và sự hội nhập vào tiến trỡnh phỏt triển hiện đại của nền kinh tế toàn cầu đó đang giải quyết và hứa hẹn giải quyết thành công sự phát triển ở VIỆT NAM. Trên cơ sở này, nghị quyết đại hội Đảng 9 đó đưa ra quyết tâm tới năm 2020, đưa Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp hiện đại.
2 Những vấn đề cũn tồn tại
những năm đổi mới, nước ta đó thành cụng trong việc chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lí của nhà nước. tuy vậy nền kinh tế thi trường của nước ta mới ở giai đoạn sơ khai, chưa đạt đến trỡnh độ một nền kinh tế thị trường hiện đại, thể hiện ở những đặc điểm sau:
_Trỡnh độ phát triển của hàng hoá cũn thấp do phõn cụng lao động xó hội kộm phỏt triển :gần 80% dõn cư sống ở nông thôn, trên 70%số người đang trong độ tuổi lao động làm nghề nông, sản xuất lương thực vẫn là ngành sản xuất chính chiếm đại bộ phận diện tích canh tác, tỷ suất hàng hoá lương thực thấp, chăn nuôi chưa trở thành ngành sản xuất chính, cụng nghiệp chế biến nụng sản cũn nhỏ yếu, ở vựng nỳi vựng sõu vẫn cũn kinh tế tự nhiờn.
-Hệ thống thị trường chậm được hỡnh thành, thiếu đồng bộ và có nhiều khiếm khuyết. Do giao thông vận tải kém phát triển nên chưa lôi cuốn được tất cả các vùng trong nước vào một mạng lưới giao thông hàng hoá thống nhất.
Thị trường hàng hoá dịch vụ đó hỡnh thành nhưng cũn hạn hẹp và nhiều hiện tượng tiêu cực (hàng giả, hàng nhập lậu, hàng kém chất lượng, hàng nhỏi nhón hiệu vẫn làm rối loạn thị trường ).
Thị trường hàng hoá sức lao động mới manh nha, đó ra đời một số trung tâm giới thiệu việc làm và xuất khẩu lao động, nhưng đó nảy sinh nhiều hiện tượng tiêu cực. Nét nổi bật của thị trường này là cung về sức lao động lành nghề nhỏ hơn cầu rất nhiều, trong khi đó cung về sức lao động giản đơn lại vượt quá xa cầu, nhiều người có sức lao động không tỡm được việc làm.
Thị trường vốn cũn sơ khai. Hoạt động của các ngân hàng thương mại nhà nước tiềm ẩn nhiều rủi ro, thị trường chứng khoán đó ra đời, nhưng chưa có nhiều “hàng hoá “để mua
–bán và mới có rất ít doanh nghiệp đủ điều kiện tham gia thị trường này, chưa có sự tham gia của các thị trường lớn. Hoạt động của thị trường chứng khoán thiếu sôi động và có nhiều bất trắc xảy ra.
Thị trường ngầm về đất đai phát triển mạnh, mang nặng tính tự phát và yếu tố đầu cơ.
Thị trường khoa học và công nghệ phát triển chậm, cũn nhỏ bộ.
-Nhiều thành phần kinh tế tham gia thị trường, nhiều loại hỡnh sản xuất hàng hoỏ cựng tồn tại, đan xen nhau, trong đó sản xuất hàng hoá nhỏ phan tán cũn phổ biến.
-Quỏ trỡnh chuyển nền kinh tế mang nặng tớnh chất tự cung tự cấp lờn kinh tế hàng hoỏ diễn ra cựng với quỏ trỡnh chuyển cơ chế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước. Quỏ trỡnh trờn đũi hỏi sự phỏt triển phân công lao động xó hội, phát triển kết cấu hạ tầng …cũn quỏ trỡnh dưới lại đũi hỏi xoỏ bỏ cơ chế quản lí cũ, hỡnh thành và hoàn thiện cơ chế quản lí mới. Phải kết hợp cả hai quỏ trỡnh trờn mới cú thể phỏt triển sản xuất hang hoỏ ở nước ta.
-Sự hỡnh thành thị trường trong nước gắn với việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, hội nhập vào thị trường khu vực và thế giới, trong hoàn cảnh trỡnh độ phát triển kinh tế kĩ thuật của nước ta cũn thấp xa so với hầu hết cỏc nước khác.
Sự hội nhập của nền kinh tế chủ yếu là hội nhập của một nền công nghiệp sơ cấp, nền kinh tế của các doanh nghiệp tiểu chủ, sản xuất hàng hoá nhỏ, với những ngành hàng chưa có thương hiệu. Đầu tư nước ngoài có tiến bộ, song trong những năm qua giảm nhiều và đầu tư là của các chủ doanh nghiệp nhỏ ít vốn và vào những lĩnh vực công nghệ thấp
…chậm tham gia vào các hiệp hội kinh tế mang tính chất khu vực và toàn cầu đặc biệt là tổ chức thương mại thế giới. Toàn cầu hoá và khu vực hoá về kinh tế đang đặt ra cho các nước đang phát triển nói chung và nước ta nói riêng những thách thức hết sức gay gắt. Nhưng đó là xu thế khách quan tất yếu, nên không thể đặt vấn đề tham gia hay không tham gia mà chỉ có thể đặt vấn đề :tỡm cỏch xử sự với xu hướng đó như thế nào ?Phải chủ động hội nhập, chuẩn bị tốt để tham gia khu vực hoá và toàn cầu hoá, tỡm ra “cỏi mạnh tương đối “của đất nước ta, thực hiện đa phương hoá đa dạng hoá quan hệ kinh tế đối ngoại, tận dụng ngoại lực để phát huy nội lực, nhằm thúc đẩy công nghiệp hoá hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân.
– Hiệu lực. hiệu quả quản lí nhà nước về kinh tế, xó hụi cũn yếu kộm :
+ Hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách, cũn chưa đồng bộ và nhất quán thực hiện chưa nghiêm
+Chất lượng của các chiến lược và quy hoạch được xây dựng cũn thấp, chậm được bổ sung điều chỉnh kịp thời
+Tỡnh trạng phõn tỏn dàn trải chưa tính toán kĩ hiệu quả trong đầu tư từ vốn ngân sách và tín dụng ưu đói của nhà nước, lóng phớ và thất thoát lớn trong đầu tư từ nguồn vốn ngân sách và trong tài chính doanh nghiệp nhà nước. Nợ xây dựng cơ bản từ nguồn vốn ngân sách rất lớn.
Cải cách hành chính chậm, bộ máy quản lí nhà nước nhỡn chung chưa đáp ứng được yêu cầu quản lí nền kinh tế thị trường trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
Công tác tài chính ngân hàng giá cả, kế hoạch hoá quy hoạch xây dựng, quản lí đất đai cũn nhiều yếu kộm, thủ tục hành chính đổi mới chậm. Thương nghiệp nhà nước bỏ trống một số trận địa quan trọng, chưa phát huy tốt vai tũ chủ đạo trên thi trường. Quản lí xuất nhập khẩu có nhiều sơ hở, tiêu cực một số trường hợp gây tác động xấu đối với sản xuất. Chế độ phân phối cũn nhiều bất hợp lớ. Bội chi ngõn sỏch và nhập siờu cũn lớn. Lạm phát tuy được kiềm chế nhưng chưa vững chắc.
Về tăng trưởng kinh tế, nguy cơ tăng trưởng không bền vững của nền kinh tế. Tính bền vững và chất lượng cao của tăng trưởng kinh tế có liên quan mật thiết đến sự cất cánh của nền kinh tế. Với tốc độ tăng trưởng dưói hai con số và với những khủng hoảng suy thoái như thời kỡ 1996_2000vừa qua thỡ đến năm 2020 nền kinh tế khó có thể thực hiện được tăng gấp đôi GDP, tức đạt mức thu nhập 1500_1600USD/đầu người.
Trụ cột tăng trưởng của nền kinh tế là khu vực tư nhân khu vực nhà nước, và khu vực đầu tư nước ngoài đều có vấn đề. Khu vực tư nhân có quy mô nhỏ lạc hậu, khu vực nhà nước chiếm quy mô lớn và tỉ trọng lớn song lại nặng tính chất của hệ kế hoạch hoá tập trung, chứa đựng tính trỡ trệ bảo thủ, hiệu quả kém. Khu vực đầu tu nước ngoài cũn nhỏ cú trỡnh độ không cao. Mô thức tăng trưởng nặng tính cổ điển, hướng nội nhằm vào những lĩnh vực, những ngành tạo ra ít giá trị gia tăng, tăng trưởng chủ yếu dựa vào tài nguyên, lao động và vốn, đóng góp của năng suất tổng các yếu tố thấp.
Giải pháp phát triển kinh tế thị trường ở nước ta.
Chuyển nền kinh tế từ oạt động theo cơ chế kế hoạch hoạch hoá tập trung -hành chính -quan liêu -bao cấp sang phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Đểphát triển kinh tế, tham gia hội nhập vào khu vực và thế giới, đáp ứng cho mục tiêu trước mắt và lâu dài, chúng ta cần thực hiện đồng bộ cácgiải pháp sau
1Thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần
Nâng cao hiệu quả kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, để kinh tế nhà nước vươn lên đóng vai trũ chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể kinh tế của tất cả các thành phần kinh tế phát triển sản xuất hàng hoá và dịch vụ trong mọi ngành kinh
tế quốc dân, sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước và phát triển cỏc hỡnh thức kinh tế tập thể kiểu mới.
Kinh tế nhà nước phải phát huy được vai trũ chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, là nhân tố mở đường cho sự phát triển kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Doanh nghiệp nhà nước giữ những vị trí then chốt; đi đầu ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ; nêu gương về năng suất; chất lượng, hiệu quả kinh tế – xó hội và chấp hành phỏp luật.
Đẩy mạnh việc củng cố, sắp xếp, điều chỉnh cơ cấu của các doanh nghiệp nhà nước; đồng thời tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách để tạo động lực phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước theo hướng xóa bao cấp; doanh nghiệp thực sự cạnh tranh bỡnh đẳng trên thị trường, tự chịu trách nhiệm về sản xuất, kinh doanh; nộp đủ thuế và có lói; thực hiện tốt quy chế dõn chủ trong doanh nghiệp.
Kinh tế tập thể gồm cỏc hỡnh thức hợp tỏc đa dạng, trong đó hợp tác xó là nũng cốt. Cỏc hợp tỏc xó dựa trờn sở hữu của cỏc thành viờn và sở hữu tập thể, liờn kết rộng rói những người lao động, các hộ sản xuất, kinh doanh, các doanh nghiệp nhỏ và vừa, không giới hạn quy mô, lĩnh vực và địa bàn; liên kết công nghiệp và nông nghiệp, doanh nghiệp nhà nước và kinh tế hộ nông thôn. Nhà nước giúp hợp tác xó đào tạo cán bộ, ứng dụng khoa học và công nghệ, thông tin, mở rộng thị trường, xõy dựng cỏc quỹ hỗ trợ phỏt triển hợp tỏc xó.
Kinh tế cá thể, tiểu chủ cả ở nông thôn và thành thị có vị trí quan trọng lâu dài. Nhà nước tạo điều kiện và giúp đỡ phát triển, bao gồm cả cỏc hỡnh thức tổ chức hợp tỏc tự nguyện, làm vệ tinh cho các doanh nghiệp hoặc phát triển lớn hơn.
Kinh tế tư bản tư nhân được khuyến khích phát triển rộng rói trong những ngành nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm. Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi về chính sách, pháp lý để kinh tế tư bản tư nhân phát triển trên những định hướng ưu tiên của Nhà nước, kể cả đầu tư ra nước ngoài; chuyển thành doanh nghiệp cổ phần, bán cổ phần cho người lao động; liên doanh, liên kết với nhau, với kinh tế tập thể và kinh tế nhà nước. Xây dựng quan hệ tốt giữa chủ doanh nghiệp và người lao động.
Tạo điều kiện để kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển thuận lợi, hướng vào các sản phẩm xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xó hội gắn với thu hỳt cụng nghệ
hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm. Cải thiện môi trường kinh tế và pháp lý để thu hút mạnh vốn đầu tư nước ngoài.
Phát triển đa dạng kinh tế tư bản nhà nước dưới dạng các hỡnh thức liờn doanh, liên kết giữa kinh tế nhà nước với kinh tế tư bản tư nhân trong nước và ngoài nước, mang lại lợi ích thiết thực cho các bên đầu tư kinh tế. Chỳ trọng cỏc hỡnh thức tổ chức kinh doanh đan xen, hỗn hợp nhiều hỡnh thức sở hữu, giữa các thành phần kinh tế với nhau, giữa trong nước và ngoài nước. Phỏt triển mạnh hỡnh thức tổ chức kinh tế cổ phần nhằm huy động và sử dụng rộng rói vốn đầu tư xó hội.
3. 2 Đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá ứng dungjnhanh tién bộ khoa học công nghệ, trên cơ sở đó đẩy mạnh phân công lao động xó hội
Để phát triển kinh tế hang hoá phải đẩy mạnh phân công lao động xó hội. Nhưng sự phân công lao dộng xó hội do trỡnh độ phát triển của lực lượng sản xuát quyết định, cho nên muốn mở rộng phân công lao động xó hội, cần đấy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước đẻ xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật của nến sản xuất lớn hiện đại.
Con đường công nghiệp hoá hiện đại hoá của nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian so với các nước đi trước, vừa có những bước tuần tự vừa có những bước nhảy vọt, gắn công nghiệp hoá với hiện đại hoá tận dụng mọi khả năng để đạt trỡnh độ tiên tiến, hiện đại về khoa học công nghệ, ứng dụng nhanh và phổ biến hơn ở mức độ cao hơn những thành tựu khoa học công nghệ hiện đại và tri thức mới từng bước phát triển kinh tế tri thức.
3. 3 Hỡnh thành và phỏt triển đồng bộ các loại thị trường
Tiếp tục tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường; đổi mới và nâng cao hiệu lực quản lý kinh tế của Nhà nước. Nhỡn chung, kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa ở Việt Nam mới được bắt đầu, trỡnh độ cũn thấp, chất lượng, hiệu quả, khả năng cạnh tranh chưa cao. Nhiều thị trường cũn sơ khai, chưa đồng bộ. Vỡ vậy, phải đổi mới mạnh mẽ tư duy hơn nữa, đẩy mạnh việc hỡnh thành cỏc loại thị trường. Đặc biệt quan tâm các thị trường quan trọng nhưng hiện chưa có hoặc cũn sơ khai như: thị trường lao động, thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản, thị trường khoa học và công nghệ, đáp ứng nhu cầu đa dạng và nâng cao sức mua của thị trường trong nước, cả ở thành thị và nông thôn, chỳ ý thị trường các vùng có nhiều khó khăn. Chủ động hội nhập thị trường quốc tế. Hạn chế và kiểm soát độc quyền kinh doanh.
Phát triển thị trường hang hoá và dịch vụ. Thu hẹp những lĩnh vực độc quyền kinh doanh, xoá bỏ độc quyền doanh nghiệp, tiếp tục đổi mới cơ chế kiểm soát giá cả. Phát triển mạnh thương mại trong tát cả các vùng và tăng xuất khẩu nhập khẩu. Đẩy amnhj tự do hoá thương mại phù hợp các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế. Phấn đấu đưa tốc độ tăng trưởng của khu vực dịch vụ cao hơn tốc độ tăng trưởng GDP. Phát triển mạnh và nâng cao chất lượng hoạt động du lịch, đa dạng hoá các loại hỡnh du lịch. Phát triển nhanh các dịch vụ vận tải viẽn thông, dịch vụ tài chính ngân hàng, dịch vụ tư vấn …
Từng bước phát triển vững chắc thị trường tài chính, hoàn thiện thị trường tiền tệ, lành mạnh hoá các hoạt động giao dịch vốn ngắn hạn và mua bán các giấy tờ có giá trên thị trường. phát triển mạnh thị trường vốn, thúc đẩy mạnh hơn hoạt động của thị trường chứng khoán gắn với tiến trỡnh cổ phần hoỏ doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, phỏt triển hỡnh thức cổ phần và huy động các nguồn vốn trong xó hội cho đầu tư phát triển. Củng cố ngân hang nhà nước, lành mạnh hoá, cơ cấu lại hệ thống ngân hàng thương mại, các công ty tài chính, công ty mua bán nợ, công ty đầu tư chứng khoán. .
Phát triển thị trường bất động sản (bao gồm thị trường quyền sử dụng đất và bất động sản gắn liền với đất)bảo đảm quyền sử dụng đất chuyển thành hàng hoá một cách thuận lợi, làm cho đất đai thực sự trở thành nguồn vốn cho phát triển, từng bước làm cho thị trường bất động sản trong nước có sức cạnh tranh so với thị trường khu vực, có sức hấp dẫn các nhà đầu tư. Hoàn thiện hệ thống luật pháp về kinh doanh bát động sản.
Phát triển thị trường sức lao dộng trong mọi khu vực kinh tế, tạo sự gắn kết cung cầu lao động, phát huy tính tích cực của người lao động trong học nghề tự tạo và tỡm việc làm. Đẩy mạnh xuất khẩu lao động đa dạng hoỏ cỏc hỡnh thức giao dịch việc làm. Có chính sách nhập khẩu lao động có chất lượng cao trong lĩnh vực công nghệ và quản lí ở nhũng ngành nghề cần ưu tiên phát triển.
Phát triển thị trường công nghệ trên cơ sở đổi mới cơ chế chính sách đẻ phần lớn sản phẩm khoa học và công nghệ trở thành hàng hoá. nhà nước công nhận và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với các công trỡnh khoa học và hoạt động sáng tạo, hoàn thiện và ứng dụng công nghệ mới. Chú trọng nhập khẩu công nghệ hiện đại, từng bước phát triển mạnh công nghệ trong nước, xây dựng hệ thống quản lí nhà nước về thị trường công nghệ
Mặt khác, phải đổi mới sâu rộng cơ chế quản lý kinh tế, phát huy những yếu tố tích cực của cơ chế thị trường, triệt để xóa bỏ bao cấp trong kinh doanh, tăng cường vai trũ
quản lý và điều tiết vĩ mô của Nhà nước, đấu tranh có hiệu quả chống các hành vi tham nhũng, lóng phớ, gây phiền hà. Nhà nước tạo môi trường pháp lý thuận lợi, bỡnh đẳng cho các doanh nghiệp cạnh tranh và hợp tác để phát triển; bằng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính sách, kết hợp với sử dụng lực lượng vật chất của Nhà nước để định hướng phát triển kinh tế – xó hội, khai thác hợp lý các nguồn lực của đất nước, bảo đảm cân đối vĩ mô nền kinh tế, điều tiết thu nhập; kiểm tra, thanh tra mọi hoạt động kinh doanh theo quy định của pháp luật, chống buôn lậu, làm hàng giả, gian lận thương mại.
Tiếp tục đổi mới các công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế, trong đó đặc biệt coi trọng việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống các cơ chế chính sách, luật pháp, đổi mới công tác kế hoạch hóa, nâng cao chất lượng công tác xây dựng các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phỏt triển kinh tế – xó hội; tăng cường công tác thông tin kinh tế – xó hội trong nước và quốc tế, công tác kế toán, thống kờ; ứng dụng rộng rói cỏc thành tựu khoa học và công nghệ trong công tác dự báo, kiểm tra tỡnh hỡnh thực hiện ở cả cấp vĩ mụ và doanh nghiệp.
3. 4 Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại theo hướng đa phương hoá đa dạng hoá chủ dộng hôi nhập quốc tế theo lộ trỡnh phự hợp với điều kiện nước ta
Khi mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại phải quán triệt nguyên tắc bỡnh đẳng cùng có lợi không can thiệp vào nội bộ của nhau. Phải đẩy mạnh xuất khẩu coi xuất khẩu là trọng điểm của kinh tế đối ngoại. tranh thủ mọi khả năng thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Chủ động tham gia các tổ chức thương mại quốc tế, các diễn đàn các tổ chức các định chế quốc tế một cách có chọn lọc với bước đi thích hợp.
3. 5 Giữ vững sự ổn định chính trị, hoàn thiện hệ thống luật pháp
Sự ổn định chính trị là điều kiện đẻ các nhà sản xuất kinh doanh trong nước và nước ngoài yên tâm đầu tư. Muốn giữ vững sự ổn định chính trị ở nước ta hiện nay cần phải giữ và tăng cường vai trũ lónh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nâng cao hiệu lực quản lí của nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
3. 6 Nắm vững định hướng xó hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị truờng
Giải quyết tốt các vấn đề xó hội, hướng vào phát triển và lành mạnh hóa xó hội, thực hiện cụng bằng xó hội, coi đây là một nội dung rất quan trọng của định hướng xó hội chủ nghĩa, bảo đảm tính ưu việt của chế độ xó hội mới. Điều đó chẳng những tạo động lực mạnh mẽ nhằm phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động, mà cũn thực hiện bỡnh đẳng
trong các quan hệ xó hội, khuyến khích nhân dân làm giàu chính đáng và hợp pháp, điều tiết các quan hệ xó hội.
Tiếp tục thực hiện chương trỡnh xúa đói, giảm nghèo, chăm sóc những người có công với nước, thương binh, bệnh binh, cha mẹ, vợ con liệt sĩ, gia đỡnh chớnh sỏch – một yờu cầu rất lớn đối với một đất nước phải chịu nhiều hậu quả sau 30 năm chiến tranh. Đồng thời đẩy mạnh cuộc đấu tranh phũng chống tội phạm, giữ gỡn trật tự và kỷ cương xó hội, ngăn chặn và bài trừ các tệ nạn xó hội, nhất là tệ nạn ma túy, mại dâm, lối sống không lành mạnh, những hành vi trái pháp luật và đạo lý. Kiên quyết đấu tranh với tệ tham nhũng, hối lộ, làm giàu bất chính, kinh doanh không hợp pháp, gian lận thương mại, . . . cùng với những tiêu cực khác do mặt trái của cơ chế thị trường gây ra. Kết quả cụ thể của cuộc đấu tranh này là thước đo bản lĩnh, trỡnh độ và năng lực quản lý của Nhà nước pháp quyền xó hội chủ nghĩa của dõn, do dõn và vỡ dõn.
3. 7 Nõng cao vai trũ và hiệu lực quản lớ của nhà nước
Giữ vững và tăng cường sự lónh đạo của Đảng Cộng sản. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc và là nhân tố quyết định nhất bảo đảm định hướng xó hội chủ nghĩa của kinh tế thị trường, cũng như toàn bộ sự nghiệp phát triển của đất nước. Đây cũng là một trong những bài học lớn nhất được rút ra trong những năm đổi mới.
Càng đi vào kinh tế thị trường, thực hiện dõn chủ húa xó hội, mở rộng hợp tác quốc tế càng phải tăng cường và đổi mới sự lónh đạo của Đảng Cộng sản. Thực tế ở một số nước cho thấy, chỉ cần một chút mơ hồ, buụng lỏng sự lónh đạo của Đảng là lập tức tạo điều kiện cho các thế lực thù địch dấn tới phỏ ró sự lónh đạo của Đảng, cướp chính quyền, đưa đất nước đi con đường khác.
Kết Luận
Chúng ta có thể thấy rằng, qua những năm chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường nứoc ta đã thu được những thành tựu rất đáng tự hào, việc phát triển kinh tế Viêt Nam theo nền kinh tế thị trường là hoàn toàn đúng đắn phù hợp nhu cầu khách quan, điềukiện trong nước cũng như bối cảnh quốc tế. qua hai mưoi năm đổi mới, chúng ta đã đạt được những thành tựu ban đàu rất đáng khích lệ. Nó đã chưng minh một điều rằngcon đường mà Đảng và nhân dân ta đã chọn là hoàn toàn đúng đắn, tạo tiền đè quan trọng để chúng ta tiếp tục phát triển kinh tế, thẳng tiến lên chủ nghĩa xã hội. tuy nhiên để thực hiện thành công công cuộc đổi mới chúng ta phải chú ý nhũng điếm sau
Chúng ta cần phải nắm vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở nước ta
Cần phải nâng cao hơn nữa vai trò và hiệu lực quản lý của nha nước, hoàn thiện hệ thông pháp luật và các chính sách
Vận hành hiệu quả các thị trường cơ bản, nhanh chóng hoàn thiện đồng bộ các loại thị truờng
Phát triển mạnh các thành phần kinh tế, các loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh Cần đổi mới tư duy, trong lý luận ũng như trong quản lý kinh tế đẻ phù hợp với tình
hình thực tế của đất nước
Tài liệu tham khảo
C. Mac và PH. Anghen toàn tập, nxb chính trị quốc gia
Giáo trình kinh tế chính trị Mac-Lenin
Giáo trình ”kinh tế chính trị Mac-Lenin về thời kỳ quá độ len chủ nghĩa xã hội ở VIệt Nam.
Ngân hàng thế giới :VN chuyển sang kinh tế thị trường -NXB Chính trị quốc gia
1994
Xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Ts.
Đinh Văn Ân.
Văn kiện đại hội đảng ;VI, VII.