1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC
NGUYỄN THỊ HƢỜNG
TÌM HIỂU THỰC TRẠNG INH VI N N Ị BẠO HÀNH
LUẬN VĂN THẠC SỸ TÂM LÝ HỌC
HÀ NỘI – 2014
2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC
NGUYỄN THỊ HƢỜNG
TÌM HIỂU THỰC TRẠNG INH VI N N Ị BẠO HÀNH
LUẬN VĂN THẠC SỸ TÂM LÝ HỌC
Chuyên ngành: TÂM LÝ HỌC LÂM SÀNG TRẺ EM VÀ VỊ THÀNH NIÊN
Mã số: Thí điểm
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Đỗ Ngọc Khanh
HÀ NỘI – 2014
i
LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, các thầy cô giáo Trường
Đại học Giáo dục – Đại học Quốc gia Hà Nội đã tạo điều kiện và giúp đỡ em
trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Em xin cảm ơn tới Ts. Đỗ Ngọc Khanh đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo
và giúp đỡ em trong quá trình làm luận văn
Em xin cảm ơn tập thể lớp Tâm lý học lâm sàng khóa 3, Trường Đại
học Giáo dục đã giúp đỡ em trong quá trình học tập.
Tôi xin cảm ơn Các bạn sinh viên nữ Trường Đại học Khoa học xã hội
và Nhân văn, Trường Cao đẳng Kinh tế Kỹ thuật trung Ương, Trường Cao
đẳng nghề Kỹ thuật – Mỹ nghệ Việt Nam đã tạo điều kiện và hợp tác với tôi
trong quá trình thu thập thông tin.
Hà Nội, ngày 14 tháng 09 năm 2014
Tác giả
Nguyễn Thị Hường
ii
DANH MỤC CÁC CH VIẾT TẮT
B4.5: Mẹ đẩy, đánh, tát bố
B4.9:
Bố đẩy, đánh, tát mẹ
GAD 7: Generalized Anxiety Disorder 7
PHQ 9: Patient Health Questionnaire 9
KHXH &NV: Khoa học xã hội và nhân văn
iii
MỤC LỤC
Trang
Lời cảm ơn …………………………………………………………………………………………
i
Danh mục viết tắt ………………………………………………………………………………..
ii
Mục lục………………………………………………………………………………………………
iii
Danh mục các bảng ……………………………………………………………………………..
v
Danh mục các biểu đồ
………………………………………………………………………….
vi
MỞ ĐẦU …………………………………………………………………………………………..
1
Chƣơng 1: CƠ Ở LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ……………..
6
1.1. Lịch sử vấn đề nghiên cứu …………………………………………………………. 6
1.1.1. Nghiên cứu về bạo hành trên thế giới ……………………………………….. 6
1.1.2. Nghiên cứu về bạo hành ở Việt Nam
………………………………………… 13
1.2. Một số vấn đề lý luận của đề tài …………………………………………………. 16
1.2.1. Khái niệm bạo lực, bạo hành …………………………………………………… 16
1.2.2. Khái niệm gây hấn, xâm kích ………………………………………………….. 18
1.2.3. Khái niệm lạm dụng
……………………………………………………………….. 18
1.2.4. Sinh viên ……………………………………………………………………………… 18
1.2.5. Khái niệm nữ giới ………………………………………………………………….. 19
1.2.6. Những đặc điểm tâm sinh lý của thanh niên – sinh viên
…………….. 19
1.3. Các hình thức của bạo hành ……………………………………………………… 26
1.3.1. Bạo hành về tinh thần …………………………………………………………….. 26
1.3.2. Bạo hành về thể chất ………………………………………………………………. 26
1.3.3. Bạo hành về tình dục
………………………………………………………………. 27
1.3.4. Bạo hành về kinh tế
………………………………………………………………… 28
1.4. Hậu quả của bạo hành ……………………………………………………………….. 28
1.4.1. Đối với nạn nhân
……………………………………………………………………. 28
1.4.2. Hậu quả đối với gia đình
…………………………………………………………. 29
1.4.3. Hậu quả đối với xã hội
……………………………………………………………. 30
1.4.4. Hậu quả đối với chính người gây ra bạo lực
………………………………. 30
Chƣơng 2: TỔ CHỨC VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHI N CỨU …………. 32
2.1. Tổ chức nghiên cứu
…………………………………………………………………… 32
2.1.1. Tiến trình thực hiện đề tài ……………………………………………………….. 32
2.1.2. Vài nét về địa bàn nghiên cứu
………………………………………………….. 32
2.1.3. Đặc điểm về khách thể nghiên cứu …………………………………………. 34
iv
2.2. Phương pháp nghiên cứu …………………………………………………………… 36
2.2.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu …………………………………………….. 36
2.2.2. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi có sử dụng thang đo
…………… 37
2.2.3. Phương pháp toán thống kê ……………………………………………………. 40
2.3. Đạo đức nghiên cứu ………………………………………………………………….. 40
Chƣơng 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
……………………………………………. 42
3.1. Thực trạng sinh viên nữ chứng kiến bạo hành
………………………………. 42
3.1.1.Thực trạng sinh viên nữ chứng kiến bạo hành về tinh thần
…………… 43
3.1.2.Thực trạng sinh viên nữ chứng kiến bạo hành thể chất ………………… 46
3.2. Thực trạng sinh viên nữ là nạn nhân của bạo hành ……………………….. 47
3.2.1. Thực trạng sinh viên nữ là nạn nhân của bạo hành về tinh thần …… 47
3.2.2. Thực trạng sinh viên nữ là nạn nhân của bạo hành về thể chất …….. 50
3.2.3. Thực trạng sinh viên nữ là nạn nhân của bạo hành về tình dục…….. 54
3.2.4. Thực trạng sinh viên nữ là nạn nhân của bạo hành về kinh tế
………. 56
3.3. Sự khác biệt về mức độ bị bạo hành giữa những sinh viên nữ khác nhau ………
60
3.3.1. Sự khác biệt về mức độ bạo hành ở những sinh viên nữ sống
cùng với những người khác nhau
……………………………………………………….
60
3.3.2. Sự khác biệt về mức độ bạo hành ở những sinh viên nữ sống ở
nơi khác nhau ………………………………………………………………………………….
62
3.3.3. Tình trạng hôn nhân có ảnh hưởng đến việc sinh viên nữ bị bạo hành ………..
63
3.3.4. Sự khác biệt về mức độ bạo hành ở những sinh viên nữ dân tộc
khác nhau ……………………………………………………………………………………….
64
3.3.5. Sự khác nhau về mức độ bạo hành ở những sinh viên nữ có
trình độ khác nhau
……………………………………………………………………………
65
3.3.6. Sự khác biệt về mức độ bị bạo hành giữa những sinh viên nữ
bị trầm cảm ……………………………………………………………………………….
66
3.3.7. Sự khác biệt về mức độ bị bạo hành giữa những sinh viên nữ bị lo âu ………..
70
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
………………………………………………….. 73
1. Kết luận ………………………………………………………………………………………….
73
2. Khuyến nghị
……………………………………………………………………………………
74
TÀI LIỆU THAM KHẢO ………………………………………………………………….
76
PHỤ LỤC
………………………………………………………………………………………….
80
v
DANH MỤC CÁC ẢNG
Trang
Bảng 2.1: Đặc điểm khách thể ………………………………………………………………
35
Bảng 3.1: Cách ứng xử của cha mẹ khi có mâu thuẫn
………………………………
42
Bảng 3.2: Tỷ lệ sinh viên chứng kiến cha mẹ họ bạo hành tinh thần
………….
43
Bảng 3.3: Tỷ lệ sinh viên chứng kiến bố mẹ mình bạo hành thể
chất lẫn nhau ………………………………………………………………………………………
46
Bảng 3.4 : Tỷ lệ sinh viên nữ bị bạo hành tinh thần …………………………………
48
Bảng 3.5: Tỷ lệ sinh viên nữ bị bạo hành thể chất……………………………………
52
Bảng 3.6: Tỷ lệ sinh viên nữ bị bạo hành tình dục …………………………………..
55
Bảng 3.7. Tỷ lệ sinh viên nữ bị bạo hành về kinh tế ………………………………..
57
Bảng 3.8: Mức độ khác biệt về bạo hành ở những sinh viên có vấn
đề về sức khỏe tinh thần
……………………………………………………………………….
59
Bảng 3.9: Mức độ khác biệt về bạo hành ở những sinh viên nữ sống
cùng với những người khác nhau
…………………………………………………………..
62
Bảng 3.10: Mức độ khác biệt về bạo hành ở những sinh viên nữ
sống ở nơi khác nhau …………………………………………………………………………..
63
Bảng 3.11: Mức độ khác biệt về bạo hành ở những sinh viên nữ có
tình trạng hôn nhân khác nhau ………………………………………………………………
64
Bảng 3.12: Mức độ khác biệt về bạo hành ở những sinh viên nữ dân
tộc khác nhau ……………………………………………………………………………………..
65
Bảng 3.13: Mức độ khác biệt về bạo hành ở những sinh viên nữ có
trình độ khác nhau
……………………………………………………………………………….
66
Bảng 3.14: Mức độ khác biệt về bạo hành ở những sinh viên nữ bị trầm cảm
………….
67
Bảng 3.15: Mức độ khác biệt về bạo hành ở những sinh viên nữ bị lo âu
……………
70
vi
DANH MỤC CÁC IỂU ĐỒ
Trang
Biểu đồ 3.1: Số lượng các hình thức bị bạo hành về tinh thần …………………..
50
Biểu đồ 3.2: Số lượng hình thức bạo hành về thể chất ……………………………..
54
Biểu đồ 3.3: Số lượng các hình thức bạo hành về tình dục ……………………….
56
Biểu đồ 3.4: Mức độ sinh viên nữ bị bạo hành
………………………………………..
57
Biểu đồ 3.5: Mức độ lo âu của sinh viên bị ít nhất một hình thức bạo hành
……………………………………………………………………………………………………………………….
58
Biểu đồ 3.6: Mức độ trầm cảm của sinh viên bị ít nhất một hình thức
bạo hành …………………………………………………………………………………………….
59
Biểu đồ 3.7: Mức độ khác biệt về bạo hành ở những sinh viên có vấn
đề về sức khỏe tinh thần ………………………………………………………………………
60
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bạo hành là một vấn đề phổ biến ở tất cả các nền văn hóa, nhóm xã hội
khắp nơi trên thế giới. Nó có ảnh hưởng nghiêm trọng về thể chất, tình cảm,
tài chính và xã hội đối với nạn nhân, gia đình và cộng đồng. Nạn nhân phần
lớn là phụ nữ, những người gặp rất nhiều khó khăn khi tiếp cận với các dịch
vụ pháp lý và các biện pháp bảo vệ. Bạo hành giới là một trong những vấn đề
sức khỏe cộng đồng nghiêm trọng nhất mà phụ nữ các nước nói chung và Việt
Nam nói riêng đang phải chịu đựng. Theo Tổ chức y tế thế giới bạo hành được
nhận thấy như một vấn đề ưu tiên trong các vấn đề cộng đồng vì vấn đề này
tồn tại ở nhiều nước trên thế giới và gây ảnh hưởng lớn đến sức khỏe con
người. Nghiên cứu của WHO (1997) cho thấy cứ 5 phụ nữ thì có một người là
nạn nhân của một dạng bạo hành nào đó trong cuộc đời của họ, trong đó 67%
phụ nữ bị ngược đãi về thể chất và 47% phụ nữ bị cưỡng ép trong lần quan hệ
tình dục đầu tiên .
Tại Việt Nam qua nghiên cứu của Viện Xã hội học cho thấy có 15%
phụ nữ trong mẫu báo cáo đã từng bị bạo hành về thể chất, 80% bị bạo hành
tinh thần, 20% bị bạo hành tình dục [38].
Hậu quả của bạo hành là rất nặng nề, thậm ch là nguyên nhân thứ 10
gây tử vong cho phụ nữ lứa tuổi từ 15 đến 44. Thống kê tại Trung tâm Tư vấn
Sức khỏe đặt tại Bệnh viện Đức Giang cho thấy 30% nạn nhân của bạo hành
bị chấn thương đầu cổ, 10% chấn thương xương sườn, còn lại đa chấn thương.
Về mặt tinh thần 100% nạn nhân bị tổn thương [38]. Theo một số nghiên cứu
từ năm 1997 đến 2002 của Andrew và Brown (1998), Astin và cộng sự (1993),
Krug và cộng sự (2002) và Tang(1997), bạo hành cũng tương quan với các
vấn đề sức khỏe tâm thần như rối loạn lo âu, trầm cảm, cảm thấy vô vọng, tổn
thương sau sang chấn, có ý tưởng và thử tự sát [7] .
2
Nghiên cứu của McCloskey (1995) và Jounriles (1989) cho thấy bạo hành
gia đình cũng có ảnh hưởng lâu dài đến sự phát triển tâm lý của con cái. Trẻ
em chứng kiến bạo hành trong gia đình có nguy cơ cao về các vấn đề hành vi,
tình cảm và các than phiền về sức khỏe thể chất [18],[20]. Trẻ em trai chứng
kiến bạo hành trong gia đình cũng tăng nguy cơ sử dụng bạo lực khi chúng trở
thành người lớn [8]. Theo báo cáo của Trung tâm kiểm soát bệnh tật (CDC)
năm 2006, phát hiện ra rằng, đối với những em nữ tuổi vị thành niên, bạo hành
có thể dẫn đến vấn đề lạm dụng chất, phạm pháp, hình ảnh cơ thể tồi tệ, có
thai ngoài mong muốn, các hành vi tình dục không an toàn, khó khăn trong
học tập, bắt nạt và các hình thức liên quan đến gây hấn [7]. Với hậu quả dài
hạn, những thanh thiếu niên trong các mối quan hệ bạo hành có thể mang theo
những mẫu hình này vào các mối quan hệ trong tương lai và con cái của họ có
nguy cơ trải nghiệm bạo lực hẹn hò cao [7].
Ở Việt Nam có rất nhiều nghiên cứu về phụ nữ bị bạo hành như: “Nghiên
cứu quốc gia về Bạo lực Gia đình đối với phụ nữ ở Việt Nam” được Chính
phủ Việt Nam và Liên Hợp Quốc công bố ngày 25/11/2010 thì cứ ba phụ nữ
có gia đình hoặc đã từng có gia đình thì có một người (34%) cho biết họ đã
từng bị chồng mình bạo hành thể xác hoặc tình dục. Số phụ nữ có hoặc từng
có gia đình hiện đang phải chịu một trong hai hình thức bạo hành này chiếm
9% [34]. Hay nghiên cứu của tác giả Trịnh Thị Vân Anh về “ Thái độ của phụ
nữ trước hành vi bạo lực đối với phụ nữ trong gia đình” trên khoảng 200
khách thể thuộc phường Nhân Ch nh, Khương Mai và một số khách hàng của
Trung tâm tư vấn Hạnh phúc Gia đình [42]…
Mặc dù có rất nhiều những công trình nghiên cứu về bạo hành tuy nhiên
nghiên cứu về bạo hành về lứa tuổi sinh viên còn khá t, đây là một vấn đề
nhiều người quan tâm và lo ngại. Sinh viên không chỉ bị bạo hành bởi những
người thân yêu của mình mà còn bị bạo hành bởi những người xung quanh.
Vậy thực trạng sinh viên bị bạo hành như thế nào bởi chính cha mẹ và người
3
yêu của mình, câu trả lời còn để ngỏ. Xuất phát từ lý do trên, chúng tôi chọn
đề tài nghiên cứu “Tìm hiểu thực trạn n n n ị bạo àn ” trên cơ sở
đó nhằm đề xuất một số giải pháp, khuyến nghị.
2. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu thực trạng sinh viên nữ bị bạo hành, bao gồm tỷ lệ sinh viên
nữ bị bạo hành, các loại hình bạo hành, đối tượng bạo hành, ảnh hưởng của
bạo hành đến sức khỏe tinh thần của sinh viên nữ để từ đó đưa ra một số đề
xuất, khuyến nghị nhằm giảm thiểu thực trạng sinh viên nữ bị bạo hành.
3. Đối tƣợng vàkhách thể nghiên cứu
3.1. Đố tượng nghiên cứu
Thực trạng bạo hành ở nữ sinh viên
3.2. Khách thể nghiên cứu
Đ tà t p t n n n ứ
– 150 sinh viên nữ trường Cao đẳng nghề Kỹ thuật – Mỹ nghệ Việt Nam
và sinh viên Trường Cao đẳng Kinh tế Kỹ thuật – Trung ương.
– 100 sinh viên nữ Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn
4. Giả thuyết khoa học
Tỉ lệ sinh viên ở các trường đại học và cao đẳng ở Hà Nội bị bạo hành
khá cao, trong đó tỷ lệ bị bạo hành về tinh thần là cao nhất, sau đó đến thể chất
rồi tình dục và kinh tế. Bạo hành có tương quan với các vấn đề về sức khỏe
tinh thần như lo âu, trầm cảm.
Tỷ lệ sinh viên bị người yêu bạo hành là đáng kể.
5. Nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
5.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
– Tổng quan các nghiên cứu trong nước và ngoài nước về bạo hành, bạo
hành trong các mối quan hệ gần gũi để làm cơ sở lý luận cho việc thực hiện đề
tài, xây dựng các khái niệm công cụ nghiên cứu.
– Tìm hiểu thực trạng sinh viên nữ bị bạo hành.
4
– Đưa ra kết luận và khuyến nghị.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu mức độ sinh viên bị bạo hành tinh thần, thể
chất, tình dục và kinh tế bởi những người thân như cha mẹ, anh chị em ruột và
người yêu. Giới hạn về khách thể: đề tài nghiên cứu trên 250 sinh viên (150
sinh viên nữ trường Cao đẳng nghề Kỹ thuật- Mỹ nghệ Việt Nam và sinh viên
nữ Trường Cao đẳng Kinh tế Kỹ thuật Trung Ương; 100 sinh viên nữ Trường
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn).
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
6.1. P ươn p áp n n ứu tài liệu
Tổng quan các nghiên cứu trên thế giới cũng như trong nước về vấn đề
bạo hành, bạo hành trong thanh niên, bạo hành trong các cặp thanh nhiên
trong thời gian yêu nhau.
6.2. P ươn p áp đ u tra bằng bảng hỏi
Xử dụng bảng hỏi “thang đo chiến lược giải quyết mâu thuẫn đã được
chỉnh sửa của Lilly (2008) (CTS-2; Straus, Hamby, Boney-McCoy &
Sugarman, 1996) đã được sử dụng nhiều ở Việt Nam và nhiều nước trên thế
giới để đo mức độ bạo hành về 4 lĩnh vực: thể chất, tinh thần, tình dục và kinh
tế do Đỗ Ngọc Khanh và Bahr Weiss dịch.
Thang đo chứng kiến bạo hành giữa cha mẹ đã được Đỗ Ngọc Khanh và
Bahr Weiss phát triển để dùng cho phụ nữ Việt Nam.
Một số thang đo sức khỏe tinh thần như thang đo lo âu (GA D7) thang
đo trầm cảm PHQ 9 đã được nhóm nghiên cứu của bệnh viện Tâm thần Trung
ương Đà Nẵng dịch, hiệu đ nh, chuẩn hóa và sử dụng để sàng lọc tỷ lệ người
mắc trầm cảm ở Đà Nẵng (Lâm Tứ Trung, BahrWeiss…)….
Một số câu hỏi về điều kiện kinh tế xã hội, hoàn cảnh gia đình cũng sẽ
được xây dựng.
5
6.3. P ươn p áp toán t ống kê
Sử dụng phần mềm SPSS 19.0 để xử lý những kết quả thu được.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị, tài liệu tham khảo, phụ lục,
nội dung chính của luận văn được trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu
Chương 2: Tổ chức và phương pháp nghiên cứu
Chương 3: Kết quả nghiên cứu
6
CHƢƠNG 1
CƠ Ở LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Nghiên cứu v bạo hành trên thế giới
Phụ nữ bị bạo hành là hiện tượng phổ biến và gây nhiều hậu quả tiêu
cực vì vậy được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu từ rất lâu như
Darwin, Sigmund Freud, A. Maslow và C.Roger, Albert Bandura, Jan
Volavka, Dale Peterson và Richard Wranghamin …Nghiên cứu về bạo hành
trên thế giới tập trung vào các hướng nghiên cứu như về tỷ lệ bị bạo hành, các
dạng bạo hành, ảnh hưởng của bạo hành, nguyên nhân của bạo hành, hậu quả
của bạo hành v.v…
Hƣớng nghiên cứu về nguyên nhân bạo hành
Một số tác giả cho rằng yếu tố sinh học và cá nhân có ảnh hưởng đến
cách cư xử cá nhân và tăng khả năng của họ trở thành nạn nhân hay thủ phạm
của bạo lực, đó là đặc điểm nhân khẩu học (tuổi, giáo dục, thu nhập), di
truyền, tổn thương não, rối loạn nhân cách, lạm dụng thuốc , và một lịch sử
trải qua, chứng kiến, hoặc tham gia vào các hành vi bạo lực. [21]
Darwin là người đầu tiên đưa ra thuyết tiến hóa của loài người căn cứ
trên lý thuyết chọn lọc tự nhiên. Khi đó nạn đói hoặc chiến tranh hoặc khi thức
ăn trở nên khan hiếm, sự cạnh tranh xuất hiện và trong cuộc “đấu tranh sinh
tồn chọn lọc tự nhiên sẽ tác động làm lợi cho kẻ mạnh”. Căn cứ trên thuyết
khoa học tự nhiên, người ta có thể thấy trong suốt quá trình phát triển của loài
người hung t nh đóng vai trò quan trọng trong sự sống còn của các thành viên.
Trong thời nguyên thủy, con người hình thành t nh hung hãn để săn bắn, giết
chết các con vật, tiêu diệt bộ tộc khác, giành bạn tình hoặc lãnh thổ khác…
Tức là con người phát triển tính bạo lực trong điều kiện sống bị đe dọa. Cá
nhân, bộ tộc và bạo lực luôn di kèm với nhau để thỏa mãn bản năng sinh tồn
[3, tr.53 – 54].
7
Thuyết bản năng của Sigmund Freud (1920) và Konrad Loenz (1966)
đã xem xét gây hấn ở con người như là một bản năng bẩm sinh. Thuyết này
khẳng định hành vi gây hấn là cần thiết nhằm đảm bảo cho các cá thể tồn tại.
Các các thể gây chiến với nhau để giành cơ hội tiếp cận với những nguồn tài
nguyên có giá trị như lương thực, đất đai, địa vị xã hội… Gây hấn là cần thiết
trong nỗ lực đấu tranh để tồn tại và chọn lọc tự nhiên thuận tiện cho sự phát
triển các bản năng hiếu chiến của con người. S.Freud đưa ra khái niệm bản
năng chết và được hiểu là một khát vọng vô thức, tiềm ẩn một mong muốn
thoát ra khỏi những lo lắng, sự thất vọng ở bản thân, sự căng thẳng của cuộc
sống. Bản năng chết được thể hiện ra ở sự hằn học với chính mình, gây hấn và
tự xâm k ch để đi tới sự hủy diệt bản thân, sau đó nhanh chóng hướng vào
người khác và muốn hủy diệt người khác. Đó ch nh là bản năng gây hấn, bản
năng xâm chiếm và tiêu diệt, đôi khi được phóng chiếu sang người khác. Theo
S. Freud con người còn tồn tại bản năng sống, đó là nhu cầu được tình dục,
nhu cầu được ăn, ở, được yêu thương, được an toàn…Trong khi bản năng sống
thúc dẩy con người bảo vệ và tái tạo cuộc sống thì bản năng chết lại mang tính
phá bỏ, hủy hoại, và gây hấn bắt nguồn chính từ các xung động bản năng từ
ước muốn sống hay chết mãnh liệt. Dựa trên những phát hiện quan trọng về
bản nắng sống và bản năng chết, Sigmund Freud đã suy đoán rằng hành vi bạo
lực của con người xuất phát từ sự đổi hướng năng lượng của bản năng chết
nguyên thủy của cá nhân sang người khác. [3].
Tiếp cận hành vi gây hấn từ góc độ tập nhiễm xã hội cho rằng hành vi
gây hấn hình thành là do có sự tiếp thu các mẫu ứng xử sai lệch. Thuyết tập
nhiễm xã hội nhấn mạnh gây hấn là kết quả của sự bắt chước và quan sát xã
hội. Theo Bandura (1973), bất chấp vai trò chính của các nhân tố di truyền,
thái độ hung hăng của con người bị ảnh hưởng của việc học hỏi của chính họ.
Theo Bandurra phần lớn các ứng xử của con người có được là do sự bắt
chước. Nếu bố mẹ, thầy cô giáo tỏ ra hung hãn thì trê sẽ mau chóng bắt chước
8
và thấy hành vi đó là bình thường. Ngược lại, nếu trẻ bị phạt một cách đúng
mức khi có ứng xử thô bạo thì tần số các hành vi gây hấn của chúng sẽ giảm
dần. Bandura cũng đề xuất một học thuyết nghiên cứu xã hội liên quan đến
tính hiếu chiến. Con người học về hiếu chiến không chỉ từng trải qua và chịu
hậu quả mà nó gây ra mà còn bằng việc quan sát người khác, con người lĩnh
hội được nhiều điều về tính hiếu chiến thông qua việc xem người khác hành
động Như vậy lý thuyết học tập xã hội của Bandura tập trung vào học tập qua
quan sát và bắt chước người khác. Trẻ em sẽ dễ dàng học được bạo lực do tiếp
xúc với bạo lực [3].
Các nhà tâm lý học cho rằng gây hấn bắt nguồn từ sự đáp ứng lại với
hẫng hụt và đau đớn, bắt nguồn từ động cơ chống đối. Các lý thuyết về gây
hấn chỉ ra nguồn gốc của gây hấn là những điều kiện bên ngoài kích thích
động cơ gây hại hay làm tổn thương đến người khác. Những điều kiện bên
ngoài, đặc biệt là sự thất bại sẽ tạo nên một động cơ mạnh mẽ bên trong với
nhu cầu muốn làm tổn hại người khác. Động cơ gây hấn sẽ dẫn đến những
hành động gây hấn. Các hành vi gây hấn được thúc đẩy từ bên trong bởi
những động lực gây hại hay làm tổn thương người khác và có nguồn gốc từ
những sự kiện chống đối bên ngoài. Cuốn sách “Sự thất vọng và sự gây hấn”
của John Dollard và dồng nghiệp (1939) đề xuất rằng sự gây hấn luôn luôn là
kết quả của sự thất vọng và sự thất vọng luôn luôn dẫn tới một số hình thức
gây hấn.
Lý thuyết về hành vi còn cho rằng tất cả các hành vi của con người, bao
gồm cả hành vi bạo lực được học thông qua sự tương tác với môi trường xã
hội. Các nhà lý thuyết về hành vi đã lập luận rằng bốn yếu tố sau đây giúp sản
xuất bạo lực: thứ nhất là một sự kiện căng thẳng hoặc kích thích – như một
mối đe dọa, thách thức hoặc hành hung – đó làm tăng k ch th ch, thứ hai là kỹ
năng t ch cực hoặc kỹ thuật học được thông qua quan sát người khác, thứ ba là
một niềm tin rằng sự xâm lược hoặc bạo lực sẽ được thưởng và thứ tư là một
9
hệ thống giá trị mà dung túng hành vi bạo lực trong bối cảnh xã hội nhất
định. Kiểm tra thực nghiệm đầu tiên của bốn nguyên tắc đã được hứa hẹn
(Bartol, 2002). Kết quả là, lý thuyết về hành vi đóng góp trực tiếp vào sự phát
triển của các lý thuyết xã hội học của sự lệch lạc (lý thuyết hiệp hội khác biệt,
lý thuyết tiểu văn hóa, lý thuyết trung hòa, vv.). Những lý thuyết này, một
trong những quan trọng nhất và có ảnh hưởng của tất cả [40].
Lý thuyết về thất vọng – gây hấn của Dollard và cộng sự cho rằng tâm
trạng thất vọng làm người ta sẵn sàng gây hấn, vì nó chính là trở ngại đạt được
mục đ ch và gây hấn do sự thất vọng tạo ra và nếu như một người không thể
có cái mà họ muốn thì họ sẽ gây gổ. Nếu sự thất vọng thôi thúc tiềm ẩn và
được lặp đi lặp lại nhiều lần thì đến lúc nào đó sẽ bùng lên, dẫn đến hành vi
gây hấn mạnh mẽ. Tâm trạng thất vọng tạo nên động cơ gây hấn. Mô hình thất
vọng – gây hấn giúp con người học cách kiềm chế trả thù trực tiếp khi bị ai đó
phản đối hoặc ngược đãi, thay vào đó di chuyển thái độ thù địch sang những
mục tiêu được xã hội chấp nhân. Dollard và đồng nghiệp của ông cho rằng
động cơ gây gổ khi thất vọng là một biểu hiện thuộc về sinh lý. Con người khi
thất vọng có xu hướng gây hấn và nó thúc đẩy làm tổn thương đối phương,
năng lượng gây hấn xuất hiện cần được giải thoát ra ngoài, chống lại nguồn
gây hấn đó. Thất vọng được định nghĩa như sự cản trở hay ngăn chặn một số
hành động mà định hướng đến mục tiêu. John Dollard và một vài đồng nghiệp
của ông ở Yull đã đi tới đề xuất rằng “Bạo lực luôn là kết quả của sự thất
vọng” và “sự thất vọng luôn luôn dẫn đến hình thức bạo lực”. Dollard và các
đồng nghiệp của ông cho rằng động cơ giành được mục đ ch càng mạnh mẽ
thì sự thất vọng càng tăng lên. Sự giận dữ và bạo lực càng gia tăng khi chúng
ta tưởng tượng về những gì nhận được nhưng lại bị ngăn trở vào phút chót.
Theo ông sự thất vọng lặp đi lặp lại nhiều lần thì một lúc nào đó nó sẽ bùng
lên dẫn đến những hành bi bạo lực mạnh mẽ. Tuy nhiên tác giả Leonard
Berkowitz đã cho rằng lý thuyết thất vọng – gây hấn đã cường điệu mối quan
10
hệ giữa tâm trạng thất vọng và gây hấn, theo ông tâm trạng thất vọng có thể
tạo nên sự tức giận, cảm xúc dễ dẫn đến gây hấn. Sự tức giận sẽ tăng lên khi ai
đó làm chúng ta thất bại có thể khiến chúng ta hành động theo hướng khác [3].
Lý thuyết căn bản của Girard cho rằng hành vi của con người dựa trên
sự bắt chước. Ông mô tả tình huống mà hai cá nhân mong muốn cùng một đối
tượng, vì cả hai cùng nỗ lực để có đối tượng này, hành vi của họ sẽ trở thành
xung đột, vì chỉ có một đối tượng nhưng lại có hai người muốn có nó. “Bạo
lực được tạo ra bởi quá trình này, hay đúng hơn bạo lực là quá trình tự nó khi
hai hoặc nhiều đối tác cố gắng ngăn chăn một số khác từ các đối tượng chiếm
đoạt, tất cả họ dều mong muốn thông qua vật lý hoặc các phương tiện khác’’
[39]. Lý thuyết của Girard có nhiều điểm tương đồng với lý thuyết học tập xã
hội con người học bằng cách quan sát, hoặc bắt chước những người khác. Sự
khác giữa thuyết học tập xã hội và lý thuyết của Girard là thuyết học tập xã
hội thường cho rằng có các yếu tố nhận thức vào quá trình học tập.
Nghiên cứu tâm lý cho thấy rằng khi người ta đưa ra quyết định, họ
tham gia vào một loạt các quá trình suy nghĩ phức tạp. Đầu tiên họ mã hóa và
giải th ch các thông tin hoặc k ch th ch họ đều có phần giới, sau đó họ tìm
kiếm một phản ứng th ch hợp hoặc hành động th ch hợp, và cuối cùng, họ
hành động trên quyết định của họ (Dodge, 1986). Theo các nhà lý thuyết xử lý
thông tin, cá nhân bạo lực có thể được sử dụng thông tin không ch nh xác khi
họ đưa ra quyết định của họ. Thanh thiếu niên dễ bị bạo lực, v dụ, có thể nhìn
thấy những người như đe dọa nhiều hơn hoặc t ch cực hơn trên thực tế. Điều
này có thể gây ra một số thanh niên phản ứng bằng bạo lực tại sự khiêu kh ch
nhỏ. Phù hợp với quan điểm này, nghiên cứu cho thấy một số thanh niên tham
gia vào các cuộc tấn công bạo lực vào những người khác thực sự tin rằng họ
đang bảo vệ ch nh mình, ngay cả khi họ đã hoàn toàn hiểu sai mức độ đe dọa
(Lochman, 1987).
Như vậy có rất nhiều lý thuyết nghiên cứu về nguyên nhân bạo hành,
11
mỗi thuyết đưa ra những quan điểm khác nhau để lý giải cho cơ chế gây ra bạo
lực ở con người.
Hƣớng nghiên cứu về tỷ lệ bạo hành
Bạo hành là hiện tượng phổ biến, và tỷ lệ tương đối khác nhau trong các
mẫu nghiên cứu khác nhau. Thống kê về bạo hành cho thấy khoảng 20% đến
30% phụ nữ trên thế giới bị chồng hoặc bạn đời bạo hành thể chất hoặc tình
dục, và khoảng 40% đến 75% phụ nữ bị chồng hoặc bạn đời bạo hành về tinh
thần [7]. Ở Mỹ, một điều tra tiến hành với 3429 phụ nữ đến tổ chức chăm sóc
sức khỏe Mỹ trong vòng 3 năm, kết quả cho thấy có 46% người tham gia báo
cáo đã từng bị bạo hành trong đời và 14.7% đã từng bị bạo hành trong vòng
một năm ngay trước khi trả lời phỏng vấn [15]. Ở một nghiên cứu khác, 27%
phụ nữ nông thôn Mỹ đã bị bạo hành trong đời [13]. Tỷ lệ phụ nữ bị bạo hành
khác nhau ở các nước khác nhau. Một nghiên cứu của WHO (Garcia-Mareno
et al., 2006) thực hiện ở 10 nước (Bangladesh, Brazil, Ethiopia, Japan,
Namibia, Peru, Samoa, Serbia and Montenegro, Thailand, and Tanzania) thấy
rằng tỷ lệ phụ nữ đã bị bạo hành về thể chất hoặc tình dục hoặc cả hai trong
cuộc đời của họ dao động từ 15% đến 75%, từ 4% đến 54% đã bị bạo hành về
thể chất hoặc tình dục trong vòng một năm trước khi tiến hành điều tra ở các
nước nêu trên.
Một nghiên cứu đa quốc gia của WHO cho thấy 15-71% phụ nữ bị bạo
hành về thể chất và / hoặc tình dục bởi một đối tác thân mật tại một số thời
điểm trong cuộc sống của họ [36]
Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng phụ nữ bị bạo hành phổ biến ở Châu Á, ở
Trung Quốc, Hong Kong, Singapore, Đài Loan và những nơi khác [14]. Ví dụ,
75% sinh viên tham gia trả lời phỏng vấn ở Hong Kong báo cáo rằng cha mẹ
họ sử dụng bạo hành tinh thần và thể chất khi xung đột và 14% số người
khẳng định rằng cha mẹ họ đã thực sự dùng vũ lực với nhau trong một năm
ngay trước khi điều tra [24].
12
Như vậy là có khá nhiều nghiên cứu dịch tễ học về bạo hành, các nghiên
cứu ở các khu vực khác nhau trên thế giới, với các nền văn hóa khác nhau. Kết
quả nghiên cứu cho thấy có sự khác nhau về tỷ lệ phụ nữ bị bạo hành trong
các nghiên cứu ở các nhóm đối tượng, và nhìn chung tỷ lệ là khá cao.
Hƣớng nghiên cứu về ảnh hƣởng của bạo hành
Các nghiên cứu chỉ ra rằng bạo hành để lại hệ quả tiêu cực kể cả trước
mắt và về lâu dài. Bạo hành làm cho phụ nữ bị tổn thương về sức khỏe như bị
thương, đau dạ dày, khuyết tật, đau mãn t nh [19], ảnh hưởng lâu dài đến sự
phát triển tâm lý của con cái. Trẻ em chứng kiến bạo hành trong gia đình có
nguy cơ cao về các vấn đề hành vi và tình cảm và các than phiền về sức khỏe
thể chất [7]. Trẻ em trai chứng kiến bạo hành trong gia đình cũng tăng nguy cơ
sử dụng bạo lực khi chúng trở thành người lớn [8].
Trên toàn cầu, bạo lực lấy đi cuộc sống của hơn 1,6 triệu người mỗi
năm trong khi chỉ hơn 50% do tự sát, khoảng 35% do giết người, và hơn 12%
là kết quả trực tiếp của chiến tranh hoặc một số hình thức khác của cuộc xung
đột. Thống kê cho thấy tiếng súng giết chết mười người con một ngày tại Hoa
Kỳ. Corlin, cựu chủ tịch của Hiệp hội Y khoa Mỹ cho biết: “Hoa Kỳ dẫn đầu
thế giới trong tốc độ mà con của nó chết vì vũ kh .” Kết luận của ông? “Gun
bạo lực là một mối đe dọa cho sức khỏe cộng đồng của nước ta. [Awake Jul
8/2003 pp. 5-9] “Đối với mỗi cái chết duy nhất do bạo lực, có hàng chục ca
nhập viện, hàng trăm lần khám tại khoa cấp cứu, và hàng ngàn các cuộc hẹn
của bác sĩ. [Global Burden of Disease”, World Health Organization, 2008.]
Hơn nữa, bạo lực thường có những hậu quả lâu dài cho sức khỏe thể chất và
tinh thần của nạn nhân và hoạt động xã hội và có thể làm chậm phát triển kinh
tế và xã hội.
Hƣớng nghiên cứu về các dạng của bạo hành
Theo tổ chức y tế thế giới (WHO- 1997), bạo lực tình dục được nhận
thấy như một vấn đề ưu tiên trong các vấn đề cộng đồng vì vấn đề này tồn
13
tại ở nhiều nước trên thế giới và gây ảnh hưởng lớn đến sức khỏe của người
phụ nữ. Do vậy, vấn đề này đã được khá nhiều bài viết khoa học đề cập
đến: Bài báo “bạo hành tình dục với phụ nữ: một vấn đề toàn cầu” tác giả
Randall nhấn mạnh rằng bạo lực tình dục nằm ở cốt lõi của mối quan hệ
không bình đẳng giữa nam và nữ. Nó ảnh hưởng rất lớn tới sức khỏe sinh
sản và sức khỏe tình dục của nam và nữ. Bài báo cũng chỉ ra rằng các định
kiến và sự thống trị quyền lực của nam giới đã nuôi dưỡng và làm trầm
trọng thêm thực trạng cưỡng bức tình dục [7].
Bài báo “Cưỡng bức tình dục” trong báo cáo đời sống của Tổ chức y
tế thế giới về chủ đề bạo lực chống lại phụ nữ số 1 năm 1999, khi nghiên
cứu định lượng về nguy cơ lây nhiễm HIV của phụ nữ ở 15 quốc gia trên thế
giới cho thấy nhiều phụ nữ là nạn nhân của sự cưỡng ép tình dục.
Báo cáo của Tổ chức Y tế thế giới (1998) tiến hành điều tra trên
24000 phụ nữ tại 11 quốc gia ở châu Phi, Châu Á, châu Âu, và Mỹ La Tinh
chỉ ra rằng ở một số quốc gia, 2/3 phụ nữ bị hành hạ về thể xác hay tình dục
bởi người tình hay người chồng. Khoảng 4 -12% số phụ nữ bị đánh đập khi
mang thai và phần đông thủ phạm là các ông chồng. Báo cáo còn cho thấy
1/4 số phụ nữ bị ngược đãi đã phải chịu đựng những vấn đề tâm lý và thể
xác. [3, tr.294 – 295].
1.1.2. Nghiên cứu v bạo hành ở Việt Nam
Nghiên cứu ở Việt Nam có các hướng nghiên cứu về bạo hành như Con
cái bị cha mẹ bạo hành, bạo hành giữa các cặp vợ chồng, bạo lực học đường
v.v… Nghiên cứu về bạo hành trong gia đình được quan tâm vài năm gần đây,
tuy nhiên số liệu nghiên cứu đáng tin cậy còn hạn chế [26]. Một nghiên cứu
quốc gia mới nhất với 3.434 phụ nữ đã kết hôn từ 18 đến 60 tuổi của Đỗ Thức
và Hendra cho thấy tỷ lệ bạo hành gia đình ở Việt Nam là khá cao, 58% số
người ít nhất trải nghiệm một trong 3 dạng bạo hành trong đời và 27% số
người trải nghiệm trong năm 2009. Trong đó, 32% số người đã trải qua bạo
14
hành về thể chất trong đời và 6% bị chồng bạo hành thể chất trong một năm.
Có 10% số người bị chồng bạo hành tình dục trong đời và 4% số người bị bạo
hành tình dục trong 1 năm, 54% số người bị bạo hành tinh thần trong đời và
25% số người bị bạo hành tinh thần trong 1 năm [12]. Theo báo cáo của Toà
án nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La, trong 5 năm (2000- 2005), Tòa án
huyện đã giải quyết 75 vụ án hôn nhân gia đình có liên quan đến bạo lực gia
đình. Bạo hành gia đình có thể dẫn đến hậu quả nghiêm trọng, theo Báo cáo
của công an huyện Mộc Châu, trong năm 2005 có tới 13 vụ tự tử, trong đó 10
nạn nhân chết có liên quan đến bạo lực gia đình. Hội Liên hiệp phụ nữ huyện
Mộc Châu nhận định rằng, trong 5 năm (2001 – 2005) toàn huyện có tới 687
vụ liên quan đến hôn nhân gia đình, thì 70% số vụ có chị em phụ nữ bị chồng
đánh, chửi..[7]
Sự bất bình đẳng giữa nam và nữ đã có từ lâu trong lịch sử văn hóa
của nhiều quốc gia theo chế độ phụ hệ trong đó có Việt Nam đã tạo nên
những thái độ niềm tin vững chắc của xã hội về vị trí vai trò hơn hẳn một
bậc của nam giới so với nữ giới. Xuất phát từ vị trí vai trò của người phụ nữ
trong gia đình và ngoài xã hội. Ngay sau cách mạng tháng tám thành công,
Đảng và Nhà nước ta đã đặc biệt quan tâm đến vấn đề giải phóng phụ nữ,
xóa bỏ các tàn tích phong kiến lạc hậu trói buộc người phụ nữ… Trong
những năm gần đây đã có những khóa tập huấn, hội thảo, những công trình
nghiên cứu về “bạo lực giới”, “bạo lực trong gia đình” và kết quả cho thấy
bạo lực giới hiện đang rất phổ biến tại Việt Nam.
Cuốn sách “Bạo lực giới trong gia đình Việt Nam vai trò của truyền
thông đại chúng trong sự nghiệp phát triển phụ nữ” do TS. Hoàng Bá Thịnh
chủ biên được xây dựng từ một tập hợp những bài nghiên cứu tham luận đã
được trình bày trong hội thảo về vấn đề “Bạo lực với phụ nữ trong gia đình
và vai trò của truyền thông đại chúng trong sự nghiệp phát triển phụ nữ”
diễn ra trong hai ngày 28- 29/08/2001 tại Hà Nội. Cuốn sách gồm hai phần
15
chính: phần 1 gồm 13 bài viết của nhiều tác giả khác nhau, tập trung vào vấn
đề bạo lực giới trong gia đình Việt Nam, phần hai gồm 9 bài đề cập đến vai
trò truyền thông đại chúng trong sự nghiệp phát triển phụ nữ.
Nghiên cứu“Bạo lực trên cơ sở giới: trường hợp ở Việt Nam” của nhóm
tác giả Vũ Mạnh Lợi, Vũ Tuấn Huy và Nguyễn Hiếu Minh (1999) chú ý đến
thái độ của cộng đồng và các thể chế xung quanh vấn đề bạo lực gia đình trên
cơ sở giới và các phản ứng của cộng đồng, pháp luật và các thể chế đối với nạn
bạo lực gia đình. Kết quả nghiên cứu cho thấy có từ 20% đến 75% gia đình có
bạo lực về tinh thần và từ 10% đến 30% gia đình có hiện tượng bạo lực thể
chất ở Miền Bắc, Miền Trung và Miền Nam Việt Nam.
Cuốn sách “Hành vi gây hấn phân tích từ góc độ tâm lý học xã hội” của
GS. TS. Trần Thị Minh Đức đã giới thiệu về những khía cạnh gây hấn khác
nhau trong cuộc sống, xem xét bản chất của hành vi gây hấn, phân tích các lý
thuyết tiếp cận khác nhau về gây hấn và những yếu tố ảnh hưởng đến hành vi
gây hấn, tác giả cũng đã làm rõ tính chất và đặc điểm của gây hấn học đường
và bạo lực gia đình [3].
Mặc dù đã có không ít các cảnh báo của những nhà nghiên cứu về
những ảnh hưởng trước mắt và lâu dài của bạo lực đối với phụ nữ nhưng
công tác phòng chống bạo lực đối với phụ nữ hiện nay còn thiếu tính đồng
bộ và chặt chẽ. Do đó, bạo lực đối với phụ nữ vẫn có thể được thủ phạm sử
dụng như một cộng cụ để kìm hãm phụ nữ trong sự phụ thuộc.
Nghiên cứu Quốc gia về “Trừng phạt thân thể và tinh thần trẻ em” do
Save children, UNICEF và Plant tiến hành ở 5 tỉnh thành cả nước năm 2005
cho thấy có đến 95% trẻ em đã từng ít nhất một lần bị bạo hành tinh thần hoặc
thể chất từ bố, mẹ [29].
Nghiên cứu về vấn đề bạo lực đã được tiến hành từ lâu nên đã có một
số lượng những công trình nghiên cứu rất lớn. Tuy nhiên, nghiên cứu về vấn
đề sinh viên bị bạo hành thì còn khá hiếm. Chúng tôi thực hiện nghiên cứu
16
này nhằm tìm hiểu thực trạng sinh viên nữ bị bạo hành. Qua đó có thể đưa ra
những khuyến nghị và giải pháp để có thể giải quyết triệt để thực trạng trên.
1.2. Một số vấn đề lý luận của đề tài
1.2.1. Khái niệm bạo lực, bạo hành
Trong từ điển Anh – Việt bạo hành được định nghĩa giống như bạo lực.
Theo Từ điển Tiếng Việt thì “Bạo lực” được hiểu là “sức mạnh dùng để trấn
áp, cưỡng bức hoặc lật đổ” [1].
Bạo lực là “cố ý sử dụng vũ lực hoặc quyền lực, đe dọa hoặc thực tế,
đối với bản thân, người khác, hoặc chống lại một nhóm hay cộng đồng, mà
một trong hai kết quả hoặc có nhiều khả năng dẫn dến bị thương, tử vong, gây
tổn hại tâm lý, phát triển dị dạng, hoặc thiếu thốn’’ [8].
Còn theo Từ điển Xã hội học thì “Bạo lực” được hiểu là các hành vi có
khuynh hướng hủy diệt như một phương tiện tối hậu để thực thi quyền lực
trong khuôn khổ quan hệ trên dưới một chiều dựa trên ưu thế bề ngoài, không
có sự thừa nhận của người yếu thế [10].
Bạo lực là việc đe dọa hay dùng sức mạnh thể chất, quyền lục đối với
người khác hoặc một nhóm người, một cộng đồng gây ra hoặc làm tăng khả
năng gây ra tổn thương, tử vong, tồn hại về mặt tâm lý, ảnh hưởng đến sự
phát triển, gây ra sự mất mát [23].
Các quan điểm khi nói về bạo lực có thể chia ra thành hai xu hướng. Có
những quan điểm chia bạo lực theo nghĩa hẹp của chuyên ngành chính trị học
cho rằng bạo lực là một phương thức vận động chính trị, là “ sức mạnh dùng
để trấn áp, lật đổ chính quyền”. Một số quan điểm khác thì hiểu bạo lực như
một hiện tượng xã hội, một phương thức hành xử trong các mối quan hệ xã
hội, là những hành động mang tính chất chiếm đoạt làm tổn thương đến người
khác và bị pháp luật trừng phạt [10].
Trong kỷ yếu hội thảo khoa học nghiên cứu giảng dạy và ứng dụng Tâm
lý học – giáo dục trong thời kỳ hội nhập quốc tế, PGS.TS Phan Trọng Ngọ đã
17
định nghĩa bạo lực là hành vi ứng xử phi nhân tính, chúng là hành vi bất
thường trong xã hội nhân văn [30].
Theo quan niệm của Tổ chức Y tế Thế Giới thì bạo lực được coi là việc
sử dụng cố ý lực lượng vật chất hay quyền lực nhằm đe dọa người khác hoặc
chống lại một nhóm hoặc cộng đồng mà kết quả của nó có khả năng dẫn đến
thương t ch hoặc tử vong và tổn hại về tâm lý [31].
Tuyên bố của Liên Hợp Quốc về Xóa bỏ Bạo lực đối với phụ nữ (1993)
đã định nghĩa bạo lực đối với phụ nữ là “bất kỳ hành vi bạo lực trên cơ sở giới
nào dẫn đến, hoặc có thể dẫn đến tổn hại về thể xác, tình dục hoặc tâm thần
hoặc gây đau khổ cho phụ nữ, kể cả việc đe dọa có những hành vi như vậy, áp
bức hoặc độc đoán tước bỏ tự do, dù diễn ra ở nơi công cộng hay trong cuộc
sống riêng tư” [33].
Bạo lực do bạn tình gây ra (IPV) là các hành vi bạo lực về thể xác hoặc
tình dục hoặc tâm lý và tình cảm do vợ/chồng, vợ/chồng cũ hoặc bạn gái/bạn
trai hiện tại hoặc trước đây hoặc người đang hẹn hò hiện tại hoặc trước đây
gây ra [19].
Bạn tình là đối tượng gây bạo lực đối với phụ nữ phổ biến nhất (WHO,
199721). Bạn tình có thể là người đang sống chung như vợ chồng hoặc
không. Phụ nữ thường bị chi phối về tình cảm và/hoặc phụ thuộc về kinh tế
với người gây bạo lực và điều này ảnh hưởng tới việc xảy ra bạo lực và khiến
người phụ nữ bị yếu thế hơn trong việc giải quyết tình trạng bạo lực. Phụ nữ
là người phải gánh chịu các ảnh hưởng và hậu quả nghiêm trọng của bạo lực
do bạn tình gây ra mặc dù nam giới cũng phải đối mặt với bạo lực trong các
mối quan hệ và bạo lực cũng xảy ra trong các mối quan hệ đồng giới [17].
Từ việc đó tổng hợp nghiên cứu về bạo lực và tham khảo một số định
nghĩa về bạo lực khác nhau, chúng tôi xin được trình bày cách hiểu của mình:
Bạo lực là hành vi cố ý gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại về thể chất,
tinh thần, tình dục, kinh tế đối với nạn nhân. Bạo lực diễn ra dưới nhiều hình
thức cưỡng bức khác nhau như: đánh đập, hành hạ, gây thương t ch cho nạn