ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
———————————————
ĐÀO THU HẰNG
NGHIÊN CỨU TÍNH ĐỐ KỲ Ở NGƢỜI ĐẦU TUỔI
TRƢỞNG THÀNH
LUẬN VĂN THẠC S TÂ HỌC
HÀ NỘI – 2020
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
———————————
ĐÀO THU HẰNG
NGHIÊN CỨU TÍNH ĐỐ KỲ Ở NGƢỜI ĐẦU TUỔI
TRƢỞNG THÀNH
UẬN VĂN THẠC S
Chuyên ngành: Tâm lý học
ã số: 60 31 04 01
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS Trƣơng Thị Khánh Hà
Hà Nội – 2020
ỜI CA ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Trương Thị Khánh Hà. Kết quả
nghiên cứu thực tiễn là trung thực, khách quan, có nguồn gốc rõ ràng được
tiến hành trên khách thể người đầu tuổi trưởng thành (từ 20 đến 45 tuổi).
Hà Nội, ngày 1 tháng 11 năm 2020
Học viên
Đào Thu Hằng
LỜI CẢ ƠN
Lời đầu tiên, tôi xin được bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới PGS.TS
Trương Thị Khánh Hà – giảng viên khoa Tâm lý học trường Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội, người đã hướng dẫn, chỉ
bảo tận tình tôi hoàn thành nghiên cứu này.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới các thầy, cô giảng dạy tại Trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn cùng các thầy, cô trong khoa Tâm lý học đã
trang bị cho tôi những kiến thức hữu ích trong thời gian tôi học tại trường. Đó
là tiền đề cơ sở để tôi có thể thực hiện được tốt đề tài.
Tôi cũng xin bày tỏ sự cảm ơn đến bạn bè và gia đình đã giúp đỡ tích
cực trong quá trình thực hiện nghiên cứu, đặc biệt là công đoạn khảo sát giúp
tôi có được những cơ sở, số liệu điều tra thực tế.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 1 tháng 11 năm 2020
Học viên
Đào Thu Hằng
MỤC LỤC
ỜI CA ĐOAN…………………………………………………………………………….
LỜI CẢ ƠN …………………………………………………………………………………
ỤC ỤC ……………………………………………………………………………………..
DANH ỤC CÁC THUẬT NGỮ VIẾT TẮT ……………………………………..
DANH ỤC CÁC BẢNG VÀ SƠ ĐỒ
………………………………………………..
Ở ĐẦU
……………………………………………………………………………………… 1
1. Lý do chọn đề tài ………………………………………………………………………… 1
2. Mục đích nghiên cứu……………………………………………………………………. 2
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
…………………………………………………. 3
4. Nhiệm vụ nghiên cứu …………………………………………………………………… 3
5. Câu hỏi nghiên cứu ……………………………………………………………………… 3
6. Giả thuyết khoa học …………………………………………………………………….. 3
7. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
…………………………………………………………. 4
8. Phương pháp nghiên cứu ………………………………………………………………. 4
9. Cấu trúc của luận văn
…………………………………………………………………… 4
Chƣơng 1. CƠ SỞ UẬN VỀ TÍNH ĐỐ KỲ Ở NGƢỜI ĐẦU TUỔI
TRƢỞNG THÀNH
……………………………………………………………………….. 5
1.1. Tổng quan nghiên cứu tính đố kỳ ở ngƣời đầu tuổi trƣởng thành
….. 5
1.1.1. Các nghiên cứu nước ngoài ……………………………………………………… 5
1.1.2. Các nghiên cứu trong nước
………………………………………………………. 6
1.2. Cơ sở lý luận về tính đố kỳ ở ngƣời đầu tuổi trƣởng thành …………. 10
1.2.1. Khái niệm và biểu hiện của tính đố kỵ ………………………………………. 10
1.2.2. Khái niệm người đầu tuổi trưởng thành và các đặc điểm tâm lý …….. 17
1.2.3. Một số yếu tố ảnh hưởng đến tính đố kỵ ở người đầu tuổi trưởng thành . 22
1.2.4. Mối quan hệ giữa tính đố kỵ và cảm nhận hạnh phúc …………………… 24
Tiểu kết chƣơng 1 ……………………………………………………………………….. 28
Chƣơng 2. TỔ CHỨC VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ……………. 29
2.1. Tổ chức nghiên cứu ……………………………………………………………….. 29
2.1.1. Vài nét về khách thể nghiên cứu ………………………………………………. 29
2.1.2. Các giai đoạn tiến hành nghiên cứu …………………………………………. 30
2.2. Phƣơng pháp nghiên cứu ……………………………………………………….. 32
2.2.1. Phương pháp nghiên cứu phân tích tài liệu………………………………… 32
2.2.2. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi ……………………………………….. 33
2.2.3. Phương pháp thống kê toán học ………………………………………………. 38
2.2.4. Phương pháp phỏng vấn sâu
…………………………………………………… 40
Tiểu kết chƣơng 2 ……………………………………………………………………….. 42
Chƣơng 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN TÍNH ĐỐ KỲ Ở
NGƢỜI ĐẦU TUỔI TRƢỞNG THÀNH………………………………………… 43
3.1. Thực trạng tính đố kỳ ở ngƣời đầu tuổi trƣởng thành
………………… 43
3.1.1. Thực trạng tính đố kỵ theo thang đo Đố kỵ theo phạm vi cụ thể ……… 43
3.1.2. Thực trạng tính đố kỵ theo thang đo Đố kỵ vô hại và nguy hại
……….. 50
3.1.3. Thực trạng cảm nhận hạnh phúc theo thang đo Phổ sức khỏe tinh thần
rút gọn ……………………………………………………………………………………….. 56
3.2. ối quan hệ giữa tính đố kỳ và cảm nhận hạnh phúc ………………… 61
3.2.1. Mối tương quan giữa tính đố kỵ theo phạm vi cụ thể và cảm nhận hạnh
phúc …………………………………………………………………………………………… 61
3.2.2. Mối tương quan giữa tính đố kỵ vô hại, đố kỵ nguy hại và cảm nhận
hạnh phúc……………………………………………………………………………………. 62
Tiểu kết chƣơng 3 ……………………………………………………………………….. 64
KẾT UẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ …………………………………………………. 66
1. Kết luận
…………………………………………………………………………………… 66
2. Khuyến nghị …………………………………………………………………………….. 69
DANH ỤC TÀI IỆU THA KHẢO
…………………………………………. 70
PHỤ LỤC ………………………………………………………………………………….. 75
DANH MỤC CÁC THUẬT NGỮ VIẾT TẮT
VIẾT TẮT
CHỮ ĐẦY ĐỦ
BeMaS
Thang đo Đố kỵ vô hại và nguy hại
DSES
Thang đo Đố kỵ theo phạm vi cụ thể
ĐH
Đại học
ĐLC
Độ lệch chuẩn
ĐTB
Điểm trung bình
MHC-SF
Thang đo Phổ sức khỏe tinh thần rút gọn
SĐH
Sau đại học
THPT
Trung học phổ thông
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Đặc điểm của khách thể nghiên cứu……………………………………. 29
Bảng 3.1: Độ tin cậy của thang đo Đố kỵ theo Phạm vi cụ thể
……………….. 43
Bảng 3.2: Điểm trung bình của các tiểu thang đo và toàn bộ thang đo Đố kỵ
theo Phạm vi cụ thể……………………………………………………………………….. 45
Bảng 3.3: So sánh sự khác biệt về mức độ Đố kỵ theo Phạm vi cụ thể phân
loại theo giới tính………………………………………………………………………….. 46
Bảng 3.4: So sánh sự khác biệt về mức độ Đố kỵ theo Phạm vi cụ thể phân
loại theo độ tuổi
……………………………………………………………………………. 48
Bảng 3.5: So sánh sự khác biệt về mức độ Đố kỵ theo Phạm vi cụ thể phân
loại theo trình độ học vấn ……………………………………………………………….. 49
Bảng 3.6: Độ tin cậy của thang đo Đố kỵ vô hại và nguy hại
…………………. 50
Bảng 3.7: Điểm trung bình của các tiểu thang đo và toàn bộ thang đo Đố kỵ
vô hại và nguy hại…………………………………………………………………………. 51
Bảng 3.8: So sánh sự khác biệt về mức độ Đố kỵ vô hại và nguy hại phân loại
theo giới tính ……………………………………………………………………………….. 52
Bảng 3.9: So sánh sự khác biệt về mức độ Đố kỵ vô hại và nguy hại phân loại
theo độ tuổi …………………………………………………………………………………. 54
Bảng 3.10: So sánh sự khác biệt về mức độ Đố kỵ vô hại nguy hại phân loại
theo trình độ học vấn …………………………………………………………………….. 55
Bảng 3.11: Độ tin cậy của thang đo Phổ sức khỏe tinh thần rút gọn ………… 56
Bảng 3.12: Điểm trung bình của các tiểu thang đo và toàn bộ thang đo Phổ
sức khỏe tinh thần rút gọn ………………………………………………………………. 58
Bảng 3.13: So sánh sự khác biệt về mức độ hạnh phúc phân loại theo giới tính … 59
Bảng 3.14: So sánh sự khác biệt về mức độ hạnh phúc phân loại theo độ tuổi ….. 59
Bảng 3.15: So sánh sự khác biệt về mức độ hạnh phúc phân loại theo trình độ
học vấn ………………………………………………………………………………………. 60
DANH MỤC SƠ ĐỒ
Sơ đồ 3.1: Tương quan giữa thang đo Đố kỵ theo Phạm vi cụ thể và các thành
tố của nó……………………………………………………………………………………… 44
Sơ đồ 3.2: Tương quan giữa thang đo Đố kỵ vô hại và nguy hại và các thành
tố của nó……………………………………………………………………………………… 51
Sơ đồ 3.3: Tương quan giữa thang đo Phổ sức khỏe tinh thần rút gọn và các
thành tố của nó …………………………………………………………………………….. 57
Sơ đồ 3.4: Tương quan thang đo Phổ sức khỏe tinh thần rút gọn và Đố kỵ
theo Phạm vi cụ thể……………………………………………………………………….. 61
Sơ đồ 3.5: Tương quan thang đo Phổ sức khỏe tinh thần rút gọn và đố kỵ vô
hại, đố kỵ nguy hại ……………………………………………………………………….. 62
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong giai đoạn hiện nay, xu thế toàn cầu hóa phát triển mạnh mẽ đã và
đang mang lại cho xã hội Việt Nam những tác động và thay đổi trong mọi mặt
của đời sống. Song hành với sự phát triển đó, trong xã hội ngày càng xuất
hiện nhiều hơn các mâu thuẫn, cạnh tranh khiến mối quan hệ giữa người với
người trở nên phức tạp. Đặc biệt là ở người đầu tuổi trưởng thành (từ 20 đến
45 tuổi). Ở độ tuổi này, họ phải đối mặt với rất nhiều vấn đề về công việc,
tình yêu, gia đình.., phải lên kế hoạch, đặt ra mục tiêu ngắn hạn, hoặc dài hạn
của cuộc đời mình và phấn đấu nỗ lực hết mình để đạt được mục tiêu đã đặt
ra. Không những vậy, người đầu tuổi trưởng thành có nhiều mối quan hệ, khi
giao lưu tiếp xúc với mọi người có thể xuất hiện những cảm xúc, đánh giá
khác nhau về đối phương. Có thể là sự ngưỡng mộ về thành công của người
khác từ đó phấn đấu, trau dồi, học hỏi; ngược lại có thể xuất hiện những cảm
xúc tiêu cực khi nhìn vào thành công hoặc điều mà mình không có. Cảm xúc
tiêu cực điển hình có thể nảy sinh ở cá nhân là sự đố kỵ.
Đố kỵ xuất hiện khi cá nhân thấy người khác hơn mình ở một mặt nào
đó, hay có được thứ mà cá nhân mong muốn. Tính đố kỵ nảy sinh từ sự so
sánh người khác với chính mình dẫn đến các cảm xúc tiêu cực. Theo Parrott
and Smith (1993) sự đố kỵ được đặc trưng bởi cảm giác tự ti, khao khát, oán
giận và cảm xúc không tán thành. Dưới bất kỳ hình thức nào những cảm xúc
tiêu cực sẽ trì kéo bạn, tiêu hao năng lượng và tước bỏ những niềm vui mà lẽ
ra bạn có thể tận hưởng trong cuộc sống. Có thể nói, người có tính đố kỵ sẽ
không ngừng so sánh bản thân với người khác như một việc làm vô thức. Họ
luôn không hài lòng với bản thân mình và so sánh với người khác dù trong bất
kỳ tình huống hay hoàn cảnh nào. Russell (2015) từng nói: “Những người ăn
xin không đố kỵ với các triệu phú, nhưng họ đố kỵ với những người ăn xin
khác thành công hơn mình”.
2
Tính đố kỵ được thể hiện ở mọi lúc, mọi nơi, mọi lĩnh vực và mọi mặt
trong cuộc sống. Đố kỵ như một phần tất yếu của đời sống tinh thần và cuộc
sống hàng ngày. Nhưng sự đố kỵ quá mạnh mẽ sẽ làm xáo trộn các mối quan
hệ với những người xung quanh (Joseph, 1986). Những người có tính đố kỵ
khi thấy ai đó có thành tích, địa vị, bằng cấp, chuyên môn, vật chất, hạnh
phúc, thành đạt hơn mình thì cảm thấy không vui, mặc cảm, thấy mình thấp
kém thậm chí là bực bội, căm ghét. Có người thể hiện sự ghen ghét, đố kỵ ra
ngoài, nhưng có những người giấu kín trong lòng. Từ những cảm xúc tiêu
cực, chúng thúc đẩy con người hành động, có thể là những lời nói cay nghiệt,
khiến mọi người xa lánh, làm suy yếu các mối quan hệ. Tiêu cực hơn, nó còn
có thể dẫn tới hành động hãm hại, phá hoại hoặc sự dửng dưng, lạnh lùng
trước nỗi bất hạnh của người khác. Tính đố kỵ không chỉ ảnh hưởng đến
những người khác mà còn ảnh hưởng đến chính bản thân họ, nó có ảnh hưởng
rất to lớn đến sức khỏe thể chất và tâm thần, nó làm cho bản thân không cảm
thấy bình an và hạnh phúc.
Hiện nay, chưa có nhiều nghiên cứu đi trước về tính đố kỵ ở người đầu
tuổi trưởng thành, mới chỉ là các bàn luận về tính đố kỵ của con người trong
cuộc sống. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng tìm hiểu mối liên hệ giữa tính đố kỵ
và cảm nhận hạnh phúc để xem liệu tính đố kỵ có ảnh hưởng tích cực đến
cảm nhận hạnh phúc hay không. Nếu tính đố kỵ có ảnh hưởng tiêu cực thì
chúng ta cần phải tìm cách để hạn chế tính đố kỵ nhằm nâng cao cảm nhận
hạnh phúc ở người đầu tuổi trưởng thành.
Xuất phát từ các lí do trên, tác giả đã chọn đề tài: “Nghiên cứu tính đố
kỳ ở ngƣời đầu tuổi trƣởng thành”.
2. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu thực trạng tính đố kỵ ở người đầu tuổi trưởng thành và một số
yếu tố ảnh hưởng đến tính đố kỵ, tìm hiểu cảm nhận hạnh phúc, mối liên hệ
giữa tính đố kỵ và cảm nhận hạnh phúc. Từ đó đưa ra các kiến nghị nhằm làm
3
giảm tính đố kỵ nguy hại và nâng cao cảm nhận hạnh phúc ở người đầu tuổi
trưởng thành.
3. Đối tƣợng và khách thể nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Tính đố kỵ ở người đầu tuổi trưởng thành; mối liên hệ giữa tính đố kỵ
và cảm nhận hạnh phúc.
3.2. Khách thể nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu là 203 người đầu tuổi trưởng thành (từ 20 đến 45
tuổi) đang sống và làm việc trên địa bàn Hà Nội.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
–
Tìm hiểu và hệ thống hóa những vấn đề lý luận có liên quan đến
tính đố kỵ ở người đầu tuổi trưởng thành.
–
Khảo sát thực trạng mức độ đố kỵ trên nhóm khách thể là người đầu
tuổi trưởng thành.
–
Khảo sát thực trạng cảm nhận hạnh phúc, mối liên hệ giữa tính đố
kỵ và cảm nhận hạnh phúc.
–
Đưa ra những kết luận, kiến nghị góp phần làm giảm tính đố kỵ
nguy hại, nâng cao cảm nhận hạnh phúc ở người đầu tuổi trưởng thành.
5. Câu hỏi nghiên cứu
–
Thực trạng tính đố kỵ ở người đầu tuổi trưởng thành như thế nào?
–
Những yếu tố nào ảnh hưởng tới tính đố kỵ ở người đầu tuổi trưởng
thành?
–
Tính đố kỵ có mối liên hệ như thế nào với cảm nhận hạnh phúc?
6. Giả thuyết khoa học
–
Tính đố kỵ theo các lĩnh vực ở người đầu tuổi trưởng thành tham
gia nghiên cứu giảm dần theo độ tuổi từ 20 đến 45.
–
Tính đố kỵ vô hại ở người đầu tuổi trưởng thành tham gia nghiên
cứu tăng dần theo độ tuổi từ 20 đến 45.
4
–
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến tính đố kỵ ở người đầu tuổi trưởng
thành như là độ tuổi, giới tính, nghề nghiệp, trình độ học vấn.
–
Tính đố kỵ vô hại có tương quan thuận với cảm nhận hạnh phúc.
–
Tính đố kỵ nguy hại có tương quan nghịch với cảm nhận hạnh
phúc.
7. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
–
Giới hạn về nội dung nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu tính
đố kỵ nói chung của người đầu tuổi trưởng thành theo hai hướng là đố kỵ theo
lĩnh vực (phạm vi cụ thể) và đố kỵ theo xu hướng (vô hại và nguy hại).
–
Giới hạn địa bàn và khách thể nghiên cứu: Nghiên cứu trên người
đầu tuổi trưởng thành (từ 20 đến 45 tuổi) tại Hà Nội. Chia thành hai khoảng:
(1) Từ 20 đến 35 tuổi
(2) Từ 36 đến 45 tuổi
8. Phƣơng pháp nghiên cứu
–
Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
–
Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi.
–
Phương pháp phỏng vấn sâu.
–
Phương pháp xử lý kết quả nghiên cứu bằng thống kê toán học.
9. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mục lục, mở đầu, kết luận và khuyến nghị, và phần phụ lục,
nội dung chính của luận văn được kết cấu gồm 3 chương:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận về tính đố kỵ ở người đầu tuổi trưởng thành.
Chƣơng 2: Tổ chức và phương pháp nghiên cứu.
Chƣơng 3: Kết quả nghiên cứu về tính đố kỵ ở người đầu tuổi trưởng
thành.
5
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÍNH ĐỐ KỲ Ở NGƢỜI ĐẦU TUỔI
TRƢỞNG THÀNH
1.1. Tổng quan nghiên cứu tính đố kỳ ở ngƣời đầu tuổi trƣởng thành
1.1.1. Các nghiên cứu nước ngoài
Trong nhiều năm qua, giới học giả thuộc nhiều nền văn hóa khác nhau
trên thế giới nhất trí rằng sự đố kỵ là một trạng thái cảm xúc của con người,
trong đó con người có những suy nghĩ hoặc hành vi gây nên những hậu quả
tiêu cực đối với sức khỏe thể chất lẫn tinh thần của chính họ. Tính đố kỵ có
thể có những ảnh hưởng tiêu cực đến cảm nhận hạnh phúc của con người.
Trong khoảng 30 năm trở lại đây, đã có nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu.
Hofer & Busch (2011) kiểm tra giả thuyết rằng thiếu kinh nghiệm có
liên quan đến các kết quả tiêu cực như đố kỵ và sự gây hấn gián tiếp, đặc biệt
nếu cá nhân được đặc trưng bởi động cơ liên kết tiềm ẩn cao. Các giả định đã
được kiểm tra trong một mẫu của 273 người lớn từ Đức và Cameroon. Các
thành phần của động cơ liên kết – gần gũi, tức là nhu cầu liên kết và thân mật,
được đánh giá bằng bài tập câu chuyện hình ảnh. Ngoài ra, những người tham
gia đã báo cáo về kinh nghiệm liên quan, sự gây hấn gián tiếp và đố kỵ. Kinh
nghiệm liên quan thấp có liên quan đến việc tăng cường mức độ đố kỵ và sự
gây hấn gián tiếp giữa các cá nhân với động cơ liên kết rõ ràng – gần gũi.
Những hiệu ứng đó đúng với các nhóm văn hóa. Các phát hiện cho thấy vai
trò nổi bật của động lực liên kết tiềm ẩn – thân mật đối với cảm xúc và hành vi
giữa các cá nhân.
Tác giả đã sử dụng Thang đo khuynh hướng đố kỵ (The Dispositional
Envy Scale- DES) (1999) để đo lường xu hướng của cá nhân về sự trải
nghiệm đố kỵ. Các so sánh trung bình về văn hóa, định hướng và tính liên
quan được xem xét và ảnh hưởng của các biến nhân khẩu học (giới tính, tuổi
tác, tình trạng hợp tác, cha mẹ) đối với các biến phụ thuộc, tức là hành vi đố
6
kỵ và gây hấn gián tiếp được xem xét kỹ lưỡng. Thứ hai, mối quan hệ giữa
trải nghiệm liên quan, sự liên kết và sự thân mật, tương ứng, và cả sự đố kỵ
lẫn gây hấn gián tiếp đều được thử nghiệm.
Chong (2014) khảo sát trực tuyến 186 người trưởng thành về những trải
nghiệm đố kỵ của họ đã xảy ra trong tháng trước đã cho thấy sự đố kỵ xảy ra
mạnh mẽ hơn đối với các mối quan hệ thân thiết, đồng thời những người tham
gia nghiên cứu cảm thấy đố kỵ hơn với những người có vị trí quan trọng đối
với họ. Về sự khác biệt về tuổi tác, người lớn tuổi ít đố kỵ hơn so với người
trẻ tuổi.
Mujcic & Oswald (2018) báo cáo nghiên cứu theo chiều dọc quy mô
lớn đầu tiên về đố kỵ và hậu quả có thể xảy ra của nó. Nghiên cứu kiểm tra dữ
liệu về sự đố kỵ bằng cách sử dụng mẫu 18.000 đàn ông và phụ nữ được chọn
lựa ngẫu nhiên được phỏng vấn vào năm 2005 và sau đó được phỏng vấn lại
trong các năm 2009 và 2013. Sử dụng các biện pháp về sức khỏe tâm thần SF-
36 và hạnh phúc tâm lý. Các tác giả đưa ra bốn kết luận chính. Thứ nhất, mức
độ đố kỵ giảm khi con người già đi. Phát hiện theo chiều dọc này phù hợp với
mô hình cắt ngang được ghi nhận gần đây của Nicole E. Henniger và
Christine R. Harris, và với lý thuyết về quy tắc xã hội được đề xuất bởi các
học giả như Laura L. Carstensen. Thứ hai, sử dụng các phương trình hiệu ứng
cố định và phân tích tương lai, phân tích cho thấy đố kỵ ngày nay là một yếu
tố dự báo mạnh mẽ về sức khỏe tâm thần và nó tồi tệ hơn trong tương lai. Thứ
ba, không tìm thấy bằng chứng cho rằng đố kỵ hoạt động như một động lực
hữu ích. Thứ tư, sự suy giảm theo chiều dọc của ghen tị là không thay đổi,
một mô hình tuổi hình chữ U của hạnh phúc từ tuổi 20 đến 70.
1.1.2. Các nghiên cứu trong nước
Ở góc độ văn hóa xã hội, một số tác giả nêu ra các ưu điểm của người
Việt như ham học hỏi, cần cù chịu khó, nhân đạo… Về mặt hạn chế các tác giả
có chung một số ý kiến như hay chế nhạo, nảy sinh thói cào bằng, đố kỵ “trâu
7
buộc ghét trâu ăn”, không muốn ai hơn mình (Thân Thị Hạnh, 2016; Nguyễn
Thị Hoàn, 2016). Tâm lý đố kỵ tương đối phổ biến ở con người, nó nảy sinh,
bắt nguồn từ so sánh xã hội.
Theo Thể thao và Văn Hóa (2009), Nhà văn Tạ Duy Anh tiết lộ rằng
truyện ngắn “Bức tranh của em gái tôi” chính là kết quả của một quá trình
nghiền ngẫm khá lâu dài và kỹ lưỡng về những thói hư tật xấu của con người
mà hằn lên trong đó rõ nhất là tính đố kỵ. Ông cho rằng, tật xấu kìm hãm mọi
sự phát triển, đồng thời tạo ra những khiếm khuyết về mặt nhân cách của tâm
hồn, khiến con người dễ mắc phải. Trước những thành công và những gì tốt
đẹp mà người khác đạt được, người có tính đố kỵ không những không chia sẻ,
chúc mừng, tìm cách cộng hưởng điều tốt đẹp ấy lên mà đa phần cảm thấy
khó chịu và muốn kéo xuống. Chính từ những suy nghĩ trên mà ông cảm thấy
nhất định phải viết một truyện ngắn mang tính giáo dục về tính đố kỵ để trẻ
em hiểu được đố kỵ là một tật xấu và cần tránh xa. Bên cạnh đó, ông cũng
tổng kết rằng, thói tự mãn, nói dối và đố kỵ là ba thứ khiến người Việt khó
lòng phát triển. Theo ông, sở dĩ người Việt đố kỵ vì cộng đồng không có tiêu
chí về đạo đức, tài năng. Đó là một cộng đồng trọng tuổi “sống lâu lên lão
làng” hơn là trọng tài. Tất cả những cái đó được tích tụ lại dẫn đến thói đố kỵ,
không muốn ai hơn mình. Câu nói “chết cả đống còn hơn sống một mình” là
nét khái quát nhất, thể hiện rõ nhất tính đố kỵ của người Việt. Nhiều khi nói
xấu chỉ để thỏa mãn bản thân chứ chẳng hại đến người ta, nhưng nó cũng cho
thấy rõ ràng tính đố kỵ đã làm người ta không thể kiểm soát nổi mình.
Theo Kiến Thức (2014), Phạm Thành Nghị – Viện Tâm lý học cho rằng
đố kỵ thuộc cơ chế tự vệ của con người, song cơ chế ấy ở mức độ nào, có
thường xuyên xuất hiện hay không lại do môi trường xã hội chi phối. Ông cho
rằng khi môi trường xã hội không an toàn thì cơ chế này xuất hiện thường
xuyên. Còn theo Ngô Văn Giá thì cái gốc của thói đố kỵ là cấu trúc xã hội
đẳng cấp, trọng tiêu chí hơn – kém, đúng – sai hơn là biết nhìn ra điểm khác
8
biệt, ưu thế của mỗi cá nhân. Người Việt có câu “thà chết cả đống còn hơn
sống một mình” là câu cô đúc nhất về thói đố kỵ, không muốn ai hơn mình
mà chỉ muốn kéo mọi người xuống ngang bằng với mình. Đó chính là nguyên
do của việc Việt Nam bị chậm phát triển. Tất nhiên, ở một góc độ nào đó, tính
đố kỵ làm cho con người ta có động lực để phấn đấu, cố cho bằng bạn bằng
bè. Song về cơ bản nó vẫn kìm hãm sự phát triển, không thúc đẩy được sự
sáng tạo cá nhân.
Ở góc độ Phật giáo bao giờ cũng đề cao tính nhân văn, khuyên răn con
người yêu thương giúp đỡ nhau, luôn hướng con người làm điều thiện, tránh
điều ác,… Bởi vậy, đạo đức Phật giáo có những điều phù hợp với đạo đức xã
hội, trở thành giá trị văn hoá tinh thần của nhân loại.
Hơn 2500 năm trước, trong 14 điều răn của Phật, Đức Thích Ca Mâu
Ni đã từng dạy chúng sinh: “Khổ tâm lớn nhất của đời người là sự ganh ghét,
đố kỵ”. Cho đến tận ngày nay lời dạy của đức Phật vẫn không hề sai. Theo
quan điểm của Phật giáo, lòng đố kỵ có thể hiểu là sự so tính thiệt hơn và thấy
khó chịu khi người khác hơn mình. Đố kỵ còn là biểu hiện của một tâm hồn
không hạnh phúc. Những người mang lòng đố kỵ là tự mang gông xích cho
chính mình, cái khổ do tâm sinh ra. Tùy vào cá tính từng người mà tâm đố kỵ
được biểu lộ trực tiếp ra ngoài hoặc ẩn giấu bên trong. Có người lại thâm độc
hơn khi bên ngoài không hề biểu lộ bất kỳ một thái độ nào nhưng ngấm ngầm
bên trong là cả một bầu trời tức tối, tìm mọi sơ hở của người khác để hãm hại
và hả hê nếu họ có gặp những thất bại trong cuộc sống. Ngược lại, có người
biểu hiện lòng đố kỵ bằng cảm xúc rất bi quan là thường buồn bã, tủi thân,
nuối tiếc quá khứ và hay nghĩ về quá khứ, về thời gian mà ta hơn người khác
ở một lĩnh vực nào đó. Có thể nói, dù biểu hiện như thế nào nhưng với một
người ít có đạo đức, không tin vào nhân quả và nghiệp báo thì từ tâm ghen tị
ban đầu, họ sẽ nảy sinh những hành động tiêu cực khác như gièm pha, nói
xấu, gây rối, phá hoại… Nguy hại hơn, chính lòng ghen tị, đố kỵ khiến tâm
9
hồn con người trở nên chai sạn, vô cảm trước nỗi khổ, niềm đau của người
khác. Bởi lẽ, vì tâm ghen tị quá lớn mà khi thấy người khác bất hạnh, chúng
ta lại không tỏ ra thương cảm mà lại thấy vui mừng, sung sướng. Trong tiếng
Đức có một từ không thể dịch sang các thứ tiếng khác, đó là Schadenfreude,
nghĩa là cảm giác vui sướng trước những bất hạnh của người khác. Đây là từ
ghép từ hai danh từ, Schaden là thiệt hại và Freude có nghĩa là vui sướng. Có
thể nói người Đức đã nhận ra trạng thái tâm lý khá phổ biến này ở con người
và tạo ra riêng một từ cho nó. Bởi nó quá phổ biến, và ai trong chúng ta cũng
có thể đã từng một lần trải nghiệm.
Thích Chân Quang (2004) đưa ra quan điểm cho rằng người Việt Nam
bị tâm đố kỵ rất nặng nề. Hễ thấy ai giỏi hơn là cảm thấy khó chịu, đố kỵ,
ganh ghét và tìm cách chỉ trích, chống đối, mưu hại lẫn nhau, triệt hạ lẫn
nhau. Thấy người khác hơn ta về tài năng, tiền bạc, địa vị, danh tiếng, nhan
sắc liền sinh lòng ghen ghét, đố kỵ. Dễ nhận ra chúng xuất phát từ lòng ích
kỷ, sự tham lam của con người. Người chỉ biết dành thời gian đố kỵ với người
khác không những không thấy được điểm mạnh của mình mà còn mù mờ
trước điểm yếu của đối phương. Đất nước vì thế mà không phát triển được.
Đố kỵ – tưởng chừng đơn giản nhưng nó làm cho con người phiền não,
khó chịu vô cùng và hơn thế nữa, nó là nguyên nhân sâu xa dẫn đến nhiều
hành động sai trái khác của con người.
Ở Việt Nam, các nghiên cứu về tính đố kỵ hiện nay còn rất ít, đặc biệt
là các nghiên cứu ở góc độ tâm lý. Tính đố kỵ mới được đề cập đến ở góc độ
văn hóa, góc độ xã hội, hay những bài báo chứ chưa xuất hiện nhiều trong các
nghiên cứu khoa học. Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu tính đố kỵ ở người
đầu tuổi trưởng thành nhằm tìm hiểu thực trạng và các yếu tố ảnh hưởng đến
tính đố kỵ, trên cơ sở đó đề xuất một số kiến nghị nhằm giảm bớt tính đố kỵ ở
người đầu tuổi trưởng thành là vấn đề hết sức quan trọng và cần thiết.
10
1.2. Cơ sở lý luận về tính đố kỳ ở ngƣời đầu tuổi trƣởng thành
1.2.1. Khái niệm và biểu hiện của tính đố kỵ
1.2.1.1. Khái niệm đố kỵ
Trong cuộc đời mỗi con người, hầu hết ai cũng trải qua một dạng của
đố kỵ, có thể là người đố kỵ hoặc là người bị đố kỵ. Người ta có thể đố kỵ với
tài sản của người khác (ví dụ: quần áo, nhà cửa, xe hơi) hoặc đố kỵ với cuộc
sống của người khác (ví dụ: sự nghiệp thành công, tình yêu lãng mạn hay gia
đình hạnh phúc). Những ví dụ này minh họa sự đố kỵ thường xuất hiện trong
những tình huống mà cá nhân quan sát được hoặc nhận thấy vận may xảy ra
với người khác hơn là bản thân họ (Parrott & Smith, 1993; Smith & Kim,
2007).
Trước khi đố kỵ được nghiên cứu một cách độc lập, từ lâu nó đã được
xem như một đặc trưng của nhân cách ái kỷ. Theo Hướng dẫn sử dụng chẩn
đoán và thống kê các rối loạn tâm thần – IV (DSM – IV; American
Psychological Association, 1994) thì đố kỵ với người khác hay tin rằng người
khác đang đố kỵ với bản thân được xem như một tiêu chuẩn chẩn đoán rối
loạn nhân cách ái kỷ. (Narcissistic personality disorder-NPD).
Theo từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học, “đố kỵ là cảm thấy khó
chịu và đâm ra ghét khi thấy người ta có thể hơn mình” (Viện ngôn ngữ học,
2003, tr.334). Theo từ điển Merriam-Webster đố kỵ là nhận thức đau đớn
hoặc tức giận về lợi ích của người khác với mong muốn sở hữu những điều
tương tự. Trước hết, khái niệm này nhấn mạnh đố kỵ là một phản ứng cảm
xúc tiêu cực, phản ứng này là kết quả của so sánh xã hội với những tiêu chuẩn
vượt trội. Nghĩa là, cá nhân mong muốn có được điều mà người khác đang sở
hữu vì cá nhân không có điều đó. Cảm xúc tiêu cực trong mỗi tình huống
được thể hiện khác nhau, tùy thuộc vào mong muốn của cá nhân.
Theo APA Dictionary of Psychology, đố kỵ là một cảm xúc tiêu cực
của sự bất mãn và oán giận được tạo ra bởi mong muốn sở hữu những phẩm
11
chất hoặc thành tích của người khác. Với những điểm chung nhất định, đố kỵ
thường bị nhầm lẫn với ghen tị. Đố kỵ chỉ liên quan đến hai cá nhân trong khi
ghen tị luôn liên quan đến người thứ ba.
Theo Parrott & Smith (1993) thì đố kỵ là cảm xúc nảy sinh khi một
người thiếu những phẩm chất, thành tích, hay sở hữu những thứ cao cấp mà
người khác có, từ đó cá nhân mong muốn có được những điều trên hoặc muốn
người khác thiếu đi những điều đó. Cũng theo ông, đố kỵ đem đến một cảm
xúc vô cùng khó chịu, được đặc trưng bởi cảm giác tự ti, khao khát, oán giận
và không tán thành. Những cảm xúc này được nảy sinh từ những so sánh xã
hội với những người hơn mình khiến cá nhân cảm thấy bản thân thua kém.
Qua cách định nghĩa trên, ta thường xem xét đố kỵ mang nhiều xu hướng gây
hại cho người khác. Tuy nhiên, theo một số tác giả có một kiểu đố kỵ lành
tính, không gây hại cho người khác.
Smith và Kim (2007) xác định đố kỵ là một cảm xúc khó chịu và đau
đớn thường được đặc trưng bởi sự tự ti, thù địch, và oán giận gây ra bởi sự so
sánh với một người hoặc một nhóm người có thứ gì đó mà chúng ta mong
muốn. Sự đố kỵ không chỉ là muốn những gì người khác có mà còn cảm thấy
tiêu cực và phẫn nộ về sự thành công hoặc sự giàu có về vật chất của người
khác. Điều này thúc đẩy cá nhân mong muốn lấy đi những lợi thế đó từ những
người may mắn hơn. Có thể thấy, đố kỵ phát triển từ so sánh xã hội.
Theo Maijala, Munnukka & Nikkonen (2000), đố kỵ là một cảm xúc
đau đớn và mâu thuẫn dựa trên sự so sánh và những kinh nghiệm thiếu sót,
bao gồm một mong muốn đặc biệt là có được một điều gì đó tốt đẹp mà người
kia sở hữu và cá nhân thiếu điều đó. Sự đố kỵ có thể bao gồm cảm giác bất
công, xấu hổ, tội lỗi, đau buồn cũng như sự ngưỡng mộ và niềm hy vọng. Đó
là sự tham lam đã biến đổi, gợi lên trạng thái cảm xúc của sự đố kỵ. Về cơ
bản, đố kỵ là một hiện tượng đa chiều với những nội dung khác nhau trong
12
các giai đoạn khác nhau của cuộc sống cũng như các khía cạnh tích cực và
tiêu cực.
Có nhiều quan điểm khác nhau bàn về đố kỵ, các quan điểm đều có
điểm chung là đề cập đến cảm xúc tiêu cực và so sánh bản thân với người
khác.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả
Parrott & Smith “Đố kỵ là sự nảy sinh các cảm xúc tiêu cực khi so sánh mình
với người khác do cá nhân không có những phẩm chất, thành tích hay sở hữu
những thứ vượt trội của người khác mà cá nhân mong muốn có được.”
1.2.1.2. Biểu hiện của đố kỵ
Để hiểu rõ hơn về tính đố kỵ của cá nhân, những đặc điểm nổi bật của
tính đố kỵ như quá trình so sánh xã hội, cảm giác thua kém, hay sự ác cảm
được chỉ ra như sau:
a)
So sánh xã hội
So sánh xã hội là một đặc trưng quan trọng của đời sống xã hội. So sánh
xã hội là điều tất yếu để cá nhân nhận thức rõ hơn về vị trí của bản thân trong
xã hội và sự khác biệt giữa mình với những người xung quanh. Trong đó, so
sánh xã hội là sự đánh giá năng lực và lựa chọn của bản thân dựa trên việc so
sánh bản thân với người khác (Festinger, 1954). Cảm xúc đố kỵ xuất hiện ở
mỗi cá nhân khi họ so sánh bản thân với những người ở trên mình. Mọi người
thường so sánh bản thân với những người có tài năng và thuộc tính tốt hơn so
với chính họ (Collins, 1996). Các so sánh xã hội với những người khác tốt
hơn sẽ kích hoạt một phản ứng đố kỵ bốc đồng đòi hỏi một xu hướng hành vi
để phấn đấu cho những điều tốt đẹp của họ (Crusius & Mussweiler, 2012). Có
thể thấy xu hướng so sánh xã hội nảy sinh một cách tự nhiên ở con người vì
vậy cảm xúc đố kỵ xuất hiện cũng là điều dễ hiểu.
Khi nhắc tới so sánh xã hội, những nhà nghiên cứu về tính đố kỵ thường
tập trung xem xét về những kiểu người mà cá nhân có xu hướng đố kỵ. Smith
13
& Kim (2007) cho rằng cá nhân có xu hướng đố kỵ với những người có nhiều
điểm tương đồng với họ, nhất là những người có ưu thế hơn trong lĩnh vực mà
họ quan tâm hay mong muốn. Những điểm tương đồng này có thể phụ thuộc
vào các yếu tố như giới tính, tuổi tác, trình độ học vấn. Bên cạnh đó, cá nhân
luôn tìm kiếm và khẳng định giá trị bản thân thông qua việc làm thật tốt
những điều mà họ có xu hướng so sánh. Ngoài so sánh với những người có
giá trị tương đồng, sự đố kỵ xuất hiện mạnh mẽ hơn trong các tình huống về
sự thành công không đáng có của người khác. Không những vậy, theo Piskorz
& Piskorz (2009) cảm xúc đố kỵ thường xuất hiện khi cá nhân so sánh với
người lạ, trong khi thành công của một người quen không gợi lên cảm xúc
này hoặc có xuất hiện nhưng với cường độ thấp.
b)
Cảm giác thua kém
Để hiểu được sự đố kỵ xuất hiện như thế nào, một sự so sánh xã hội
hướng lên là cần thiết. Con người có nhiều lý do để so sánh bản thân với
người khác, và thường những lý do như vậy có khả năng dẫn đến những cái
nhìn sai lệch về bản thân (Dijkstra, Gibbons & Buunk, 2010). Sự so sánh này
khiến cá nhân cảm thấy kém cỏi hơn người khác về một thuộc tính mà bản
thân mong muốn và cho là quan trọng. Thông qua so sánh với người hơn
mình, cá nhân dần có xu hướng đổ lỗi cho bản thân và có thể dẫn đến suy
giảm lòng tự trọng, đồng thời đem lại cảm giác tự ti (Mola, Saavedra &
Reyna, 2014).
Có thể lý giải cảm giác thua kém ở đố kỵ là do những so sánh xã hội
trước đó thường xuyên xảy ra khiến cá nhân đánh giá thấp về những thuộc
tính của bản thân. Việc tự đánh giá bản thân có ảnh hưởng không nhỏ từ so
sánh xã hội. Tuy nhiên, cho rằng trải nghiệm của sự đố kỵ là đau đớn, tự đe
dọa và không được xã hội tán thành nên mọi người thường cố gắng kiểm soát
phản ứng đố kỵ của họ (Crusius & Mussweiler, 2012).
c)
Ác cảm
14
Một trong những đặc trưng khác của đố kỵ có thể kể đến chính là tính ác
cảm của người đố kỵ và người bị đố kỵ. Sự so sánh với người hơn mình
thường thể hiện những mong muốn mà cá nhân không thể có được và có thể
gây thất vọng, điều này góp phần tạo ra cảm giác tức giận hay thù địch với
người có khả năng hoặc thuộc tính tốt hơn mình. Mặt khác, việc so sánh mình
với người khác cũng đem lại cảm giác bất công, nó phát sinh khi một người
tương tự mình lại trở nên có lợi thế hơn mình và điều này có thể tạo ra ác cảm
với đối phương. Lần lượt, những thất vọng nảy sinh từ những so sánh xã hội
bất lợi như vậy, dẫn đến một xu hướng chung là phẫn nộ khi so sánh với
những người khác (Smith et al., 1999).
1.2.1.3. Phân loại đố kỵ
a) Đố kỵ theo phạm vi cụ thể
Dựa trên định nghĩa chung về sự đố kỵ là cảm giác mãnh liệt, khó chịu
xuất hiện khi một người nhận ra rằng người khác có thứ gì đó mà người đó
khao khát, phấn đấu hoặc mong muốn. Các nhà nghiên cứu về tính đố kỵ
thường xem xét cảm xúc này dưới góc độ xu hướng hành động của cá nhân
sau khi cảm xúc đố kỵ xảy ra, chẳng hạn như sự tức giận, thù địch với người
bị đố kỵ hay là động lực thúc đẩy cá nhân vươn lên so với người đố kỵ. Tuy
nhiên, Rentzsch & Gross (2015) cho rằng đố kỵ là một dạng xu hướng có tính
ổn định để trải nghiệm cảm giác khó chịu một cách dữ dội khi phải đối mặt
với kết quả so sánh xã hội tiêu cực. Ngoài ra, Rentzsch & Gross cho rằng đố
kỵ xảy ra phụ thuộc vào các lĩnh vực mà cá nhân so sánh xã hội, quan điểm
này ngược lại với các cách tiếp cận trước đây cho rằng sự đố kỵ là một cấu
trúc chung không thay đổi giữa các lĩnh vực so sánh.
Trong nghiên cứu, 74 sinh viên tâm lý tại một trường đại học ở Đức
tham gia vào một nghiên cứu trực tuyến đã mô tả những kinh nghiệm trong
quá khứ về sự đố kỵ. Rentzsch & Gross (2015) yêu cầu nhóm khách thể ghi
nhớ và hồi tưởng lại một tình huống gần đây mà họ đã trải qua về cảm giác đố
15
kỵ với người khác. Kết quả phân tích tiết lộ rằng các lĩnh vực về sự hấp dẫn,
năng lực và sự giàu có là những yếu tố thường được báo cáo bởi những người
tham gia. Cụ thể có 40,5% các mô tả đề cập đến những trải nghiệm đố kỵ gắn
liền với lĩnh vực về sự hấp dẫn (như hấp dẫn thể chất, thu hút xã hội). Hơn
nữa, 28,9% các mô tả là về sự so sánh trong lĩnh vực năng lực (như trí thông
minh, điểm thi); 21,1% mô tả khác là về sự đố kỵ đối với sự giàu có (như tài
sản, tiền bạc, lối sống); 9,5% mô tả còn lại không được phân loại. Họ đề cập
đến may mắn (2,7% trong tất cả các mô tả), điểm số, gia đình, sự gắn kết,
hoàn cảnh sống (tương ứng 1,1%), đăng ký khóa học, nghề nghiệp, không xác
định (tương ứng 0,7%) và mang thai (0,3%). Tổng cộng, hơn 90% ý kiến
thuộc một trong ba loại: sự hấp dẫn, năng lực và sự giàu có. Từ kết quả thu
được, Rentzsch & Gross (2015) đã xây dựng thang đo Đố kỵ theo phạm vi cụ
thể gồm 3 thành tố đó là đố kỵ với sự hấp dẫn, nổi tiếng của người khác, đố
kỵ với năng lực, sự thông minh của người khác và đố kỵ với sự giàu có của
người khác.
Tóm lại, đố kỵ theo phạm vi cụ thể là một trải nghiệm cảm xúc tiêu cực
dựa trên việc so sánh với những người hơn mình về một phạm vi cụ thể nào
đó (ví dụ sự hấp dẫn, nổi tiếng, về điểm số hay thành tích, hay về giá trị vật
chất) sẽ nảy sinh ở cá nhân cảm giác thua kém và mong muốn đạt được từ
người mà cá nhân đố kỵ. Những cảm xúc này có thể dẫn cá nhân tới một
trong hai xu hướng nhận thức và hành vi thể hiện động cơ muốn san bằng vị
thế giữa người bị đố kỵ với cá nhân qua việc cải thiện vị thế của cá nhân hoặc
hạ thấp vị thế của người mà mình đố kỵ.
b) Đố kỵ vô hại và nguy hại
Khi nhắc tới đố kỵ, mọi người thường mặc định rằng đây là một cảm xúc
tiêu cực với xu hướng nguy hại, tuy nhiên trong các nghiên cứu gần đây một
xu hướng khác đang được quan tâm và chú ý đến đó là xu hướng đố kỵ vô hại
(ví dụ, Lange & Crusius, 2015). Để giải quyết các phản ứng đố kỵ khác nhau,
16
Lange và Crusius (2015) tập trung vào hai xu hướng khác nhau như các hình
thức phản ứng đố kỵ ở cấp độ đặc điểm. Đố kỵ vô hại có khuynh hướng mô tả
xu hướng được thúc đẩy để nâng cao vị thế của cá nhân so với người khác,
trong khi đố kỵ nguy hại có khuynh hướng mô tả xu hướng giảm vị thế của
người khác. Cả hai hình thức thuộc về một đặc điểm cảm xúc dựa trên so sánh
có liên quan đến sự thất vọng phát sinh từ một so sánh xã hội tiêu cực, nhưng
chúng khác nhau về động lực và hành động liên quan đến cảm giác đó. Để
đánh giá các khía cạnh động lực và hậu quả hành vi của đố kỵ, thang đo Đố
kỵ vô hại và nguy hại đã được phát triển (Lange & Crusius, 2015). Nó đo
lường xu hướng phấn đấu để có được điều mong muốn khi cảm thấy đố kỵ và
xu hướng phản ứng thù địch khi đố kỵ.
Van de Ven et al. (2009) chỉ ra sự khác biệt giữa đố kỵ vô hại và đố kỵ
nguy hại với những trải nghiệm cảm xúc tương tự hoặc gần giống với chúng.
Cụ thể, đố kỵ vô hại và sự ngưỡng mộ, tuy cùng tập trung vào người được
ngưỡng mộ/người bị đố kỵ nhưng đố kỵ vô hại còn tập trung vào cảm giác
thua kém ở cá nhân. Xét về phương diện trải nghiệm cảm xúc, đố kỵ vô hại
tạo ra sự mệt mỏi và cảm xúc tiêu cực, còn ngưỡng mộ thì đem đến những trải
nghiệm tích cực với cá nhân. Tương tự, đố kỵ nguy hại và sự phẫn nộ có một
khác biệt cơ bản ở chỗ phẫn nộ đơn thuần chỉ tập trung vào người bị phẫn nộ,
còn đố kỵ nguy hại thì tập trung vào cả người bị đố kỵ lẫn bản thân người đố
kỵ.
Đố kỵ vô hại xảy ra khi các cá nhân nhận thấy một cái gì đó (ví dụ như
một vật thể, một tình huống trong cuộc sống) đang được yêu thích, thừa nhận
giá trị và mình mong muốn có được (van de Ven et al., 2009; 2012). Đố kỵ vô
hại thường thúc đẩy các cá nhân cải thiện trạng thái của chính họ và thúc đẩy
họ đạt được kết quả mong muốn. Đố kỵ nguy hại, ngược lại, có liên quan đến
sự thất vọng và mong muốn vận may sẽ bị tước khỏi người bị đố kỵ (Smith &
Kim, 2007; van de Ven et al., 2009; 2012). Xuất hiện từ cảm giác bất công,