ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
——————————————
MAI KHÁNH LINH
CAN THIỆP CHO MỘT TRƢỜNG HỢP TRẺ 7 TUỔI
CÓ RỐI LOẠN LO ÂU PHÂN LY
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC
Hà Nội -2020
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
——————————————
MAI KHÁNH LINH
CAN THIỆP CHO MỘT TRƢỜNG HỢP TRẺ 7 TUỔI
CÓ RỐI LOẠN LO ÂU PHÂN LY
Chuyên ngành: Tâm lý học lâm sàng ứng dụng
Mã số: Thí Điểm
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. TRẦN THÀNH NAM
Hà Nội -2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng
dẫn của PGS. TS. Trần Thành Nam. Các kết quả nêu trong luận văn chưa được
công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Những số liệu, trích dẫn trong luận văn
đảm bảo tính trung thực, tin cậy và chính xác.
Hà Nội, ngày 10 tháng 03 năm 2020
Học viên
Mai Khánh Linh
LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm chân thành và lòng biết ơn sâu sắc, cho phép tôi gửi lời cảm ơn
chân thành nhất tới:
Trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn, các thầy cô trong khoa Tâm lý
học – các giảng viên đã tận tình giảng dạy và tạo mọi điều kiện giúp đỡ tôi trong
quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Đặc biệt tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến người hướng dẫn luận văn
PGS.TS Trần Thành Nam– giảng viên đã truyền cảm hứng về thái độ, đạo đức hành
nghề cho tôi và cũng là người đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo và giúp đỡ, động viên
tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Cảm ơn những người bạn – đồng nghiệp đã cùng tôi trao đổi và về chuyên
môn. Cảm ơn gia đình đã động viên, khích lệ và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập
và nghiên cứu khoa học, cảm ơn thân chủ của tôi đã đồng ý để tôi đưa quá trình
làm việc vào trong luận văn.
Mặc dù đã cố gắng rất nhiều, nhưng luận văn không tránh khỏi những thiếu
sót; tác giả rất mong nhận được sự thông cảm, chỉ dẫn, giúp đỡ và đóng góp ý kiến
của các nhà khoa học, của quý thầy cô và các bạn đồng nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 10 tháng 03 năm 2020
Học viên
Mai Khánh Linh
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU …………………………………………………………………………………………..
1
1. Lý do chọn ca lâm sàng.
………………………………………………………………………………
1
2. Nhiệm vụ nghiên cứu. …………………………………………………………………………………
2
3. Khách thể nghiên cứu:…………………………………………………………………………………
2
4. Nhiệm vụ nghiên cứu: …………………………………………………………………………………
2
5. Khách thể nghiên cứu :………………………………………………………………………………..
2
6. Phương pháp nghiên cứu
……………………………………………………………………………..
3
CHƢƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ LO ÂU PHÂN LY Ở TRẺ EM
…………………………………………………………………………………………………………………….
5
1.1. Điểm luận một số nghiên cứu về lo âu phân ly ở trẻ em ……………………………….
5
1.1.1 . Các hướng nghiên cứu về tỉ lệ dịch tễ, biểu hiện và nguyên nhân của lo âu
phân ly. …………………………………………………………………………………………………………
5
1.1.2. Các nghiên cứu về đánh giá và can thiệp lo âu phân ly ở trẻ em.
………………..
8
1.2. Khái niệm cơ bản …………………………………………………………………………………..
21
1.2.1. Rối loạn lo âu:
…………………………………………………………………………………….
21
1.2.2 Khái niệm về rối loạn lo âu phân ly
………………………………………………………..
21
1.2.3 Rối loạn lo âu phân ly theo các tiếp cận lý thuyết tâm lý. …………………………
21
1.2.4. Các tiêu chuẩn chẩn đoán lo âu phân ly
………………………………………………..
28
1.2.5. Đặc điểm của trẻ mắc lo âu phân ly. ……………………………………………………..
32
1.3. Phương pháp can thiệp rối loạn lo âu phân ly.
……………………………………………
38
CHƢƠNG 2: CAN THIỆP CHO MỘT TRƢỜNG HỢP TRẺ 7 TUỔI CÓ RỐI
LOẠN LO ÂU PHÂN LY
……………………………………………………………………………
41
2.1 Thông tin chung về thân chủ
…………………………………………………………………….
41
2.1.1. Thông tin về hành chính
……………………………………………………………………….
41
2.1.2. Những lý do thăm khám ……………………………………………………………………….
41
2.1.3. Hoàn cảnh gặp gỡ. ………………………………………………………………………………
41
2.1.4. Ấn tượng chung về thân chủ
………………………………………………………………….
42
2.2. Các vấn đề đạo đức và hạn chế trong nghiên cứu
……………………………………….
42
2.2.1. Vấn đề đạo đức trong nghiên cứu ………………………………………………………….
42
2.2.2. Hạn chế trong nghiên cứu
…………………………………………………………………….
42
2.3. Đánh giá ………………………………………………………………………………………………
43
2.3.1. Mô tả ca
……………………………………………………………………………………………..
43
2.3.2. Đánh giá vấn đề sơ bộ………………………………………………………………………….
45
2.3.3. Kết luận chung của chẩn đoán.
……………………………………………………………..
49
2.3.4. Cá nhân hóa định hình trường hợp.
………………………………………………………
49
2.4. Lập kế hoạch can thiệp
……………………………………………………………………………
53
2.4.1.Xác định mục tiêu
…………………………………………………………………………………
53
2.4.2.Kế hoạch can thiệp
……………………………………………………………………………….
53
2.5. Thực hiện can thiệp ………………………………………………………………………………..
54
2.6. Đánh giá hiệu quả can thiệp …………………………………………………………………….
78
2.6.1. Cách thức đánh giá và các công cụ lâm sàng sử dụng để đánh giá
……………
80
2.6.2. Kết quả đánh giá sau can thiệp và điều trị rối loạn lo âu phân ly. …………….
80
2.7. Kết thúc ca và theo dõi sau can thiệp
………………………………………………………..
81
2.7.1. Tình trạng hiện thời của thân chủ
………………………………………………………….
81
2.7.2. Kế hoạch theo dõi sau trị liệu ……………………………………………………………….
81
2.8. Bàn luận chung
………………………………………………………………………………………
81
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ……………………………………………………………….
83
TÀI LIỆU THAM KHẢO …………………………………………………………………………..
85
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1: Kết quả thang đánh giá các vấn đề tâm lý và phát triển của trẻ em
Việt Nam ( CBCL)
Bảng 2: Kết quả thang đánh giá Lo âu SPENCE ( SCAS).
DANH MỤC HÌNH ẢNH ĐÍNH KÈM
Tranh 1: Vẽ tranh bữa cơm gia đình
Tranh 2: Vẽ tranh lớp học của em
DANH MỤC VIẾT TẮT
SAD : Rối loạn lo âu phân ly
CBCL : Thang đánh giá các vấn đề tâm lý và phát triển của trẻ em Việt Nam.
SCAS: Thang đánh giá lo âu Spence
CBT: Trị liệu nhận thức hành vi
Nh: Tên mẹ trẻ ( đã được thay đổi)
Kh.H: tên trẻ (đã được thay đổi)
Kh.V: tên chị gái ( đã được thay đổi)
H: Tên em con chú của trẻ ( đã được thay đổi).
HT: tên bạn trẻ (đã được thay đổi)
NTL: nhà tâm lý
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn ca lâm sàng.
Theo các nghiên cứu dịch tễ học trong xã hội khoảng từ 2-5% trong mẫu dân
số chung và 29-45% trong mẫu dân số lâm sàng mắc rối loạn lo âu phân ly. Nếu
không được hỗ trợ kịp thời sẽ có 1/3 trẻ có rối loạn lo âu phân ly sẽ có chẩn đoán
thêm là rối loạn lo âu toàn thể, trong giai đoạn phát triển sau này, 1/3 trong số đó có
thể phát triển thành rối loạn trầm cảm. Có từ 1 – 3% trẻ trong độ tuổi đến trường từ
chối đi học trong mỗi năm học, khoảng 8% học sinh từ chối đi học ở một thời điểm
nào đó trong suốt quãng đời đi học và đây là nguyên nhân thường gặp thứ 3 gây cho
trẻ thất bại trong học tập, chiếm 5% các lý do đến khám với bác sĩ tâm thần, nhà
tâm lý. Có khoảng 1/3 trẻ có giai đoạn đã từng từ chối đi học sẽ có thêm 1 giai đoạn
nữa có thể diễn biến sang trầm cảm, một số nghiên cứu ghi nhận từ chối đi học hay
gặp ở nữ hơn, một số còn lại cho là tỉ lệ nam , nữ là ngang nhau, đỉnh tuổi khởi
phát là 6 – 7 tuổi, 10 – 11 tuổi và 14 – 15 tuổi, tương ứng với các thời điểm chuyển
tiếp giữa các cấp học, thay đổi trường , rối loạn lo âu phân ly trẻ có thể gặp ở mọi
thành phần kinh tế – xã hội khác nhau [1]. Theo nghiên cứu có hơn 50% trẻ từ chối
đi học có các rối loạn hành vi khác và 75% trẻ từ chối đi học có rối loạn lo âu
thường gặp là lo âu phân ly ở các học sinh tiểu học và ám ảnh sợ khoảng trống,
hoặc ám ảnh sợ xã hội ở trẻ lớn và trẻ càng lớn càng nhiều khả năng bị trầm cảm.
Như vậy, nếu không được kịp thời phát hiện và hỗ trợ trẻ rối loạn lo âu phân ly sẽ
có nhưng diễn biến trầm trọng hơn ảnh hưởng rất lớn đến quá trình học tập, nhận
thức, hành vi, và phát triển tâm lý sau này [2].
Trong quá trình thực tập tại cơ sở Viện Nhi Trung ương, tôi đã làm việc với
một trường hợp học sinh tiểu học từ chối đi học, trẻ lăn ra nhà, ôm chân, khóc, nhập
viện trong tình trạng bồn chồn lo âu, cả đêm không ngủ, trở lên bám mẹ, các câu
chuyện em kể không rõ ràng, rất lộn xộn, khí sắc nhợt nhạt, mệt mỏi, rất dễ khóc,
hỏi chuyện trẻ không nói, nhắc lại cảm giác sợ đi học rất nhiều, tay nắm chặt rất hồi
hộp. Trẻ được khám và chẩn đoán bởi bác sĩ tâm thần cần điều trị và hỗ trợ tâm lý
sau khi nhập viện và uống thuốc- gia đình trẻ mong muốn được hỗ trợ trị liệu tâm lý
2
cho con mình, nhận được sự đồng ý của gia đình nên tôi đã tiến hành hỗ trợ tâm lý
dưới sự cho phép của nhà tâm lý giám sát tại cơ sở thực tập để tiếp nhận ca.
2. Nhiệm vụ nghiên cứu.
Nghiên cứu được tiến hành với mục tiêu thu thập thông tin, phân tích trường
hợp, lên kế hoạch và tiến hành can thiệp hỗ trợ tâm lý cho trường hợp học sinh mắc
rối loạn lo âu phân ly, từ đó đề xuất một số kiến nghị trong can thiệp và trị liệu tâm
lý phù hợp với đặc điểm của trẻ.
– Xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài: xác định tổng quan nghiên cứu vấn đề
rối loạn lo âu phân ly, làm rõ các khái niệm công cụ, các lý thuyết được sử dụng để
định hình trường hợp, các phương pháp trị liệu cho trường hợp cụ thể.
– Nghiên cứu thực tiễn: trường hợp trẻ có rối loạn lo âu phân ly, đánh giá,
chẩn đoán, phân tích chân dung lâm sàng, lên kế hoạch và tiến hành trị liệu tâm lý,
đánh giá hiệu quả can thiệp tâm lý.
– Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến vấn đề của trẻ.
– Đề xuất và kiến nghị, liên quan đến quá trình trị liệu trẻ có rối loạn lo âu
phân ly với trường hợp cụ thể.
3. Khách thể nghiên cứu:
Một trường hợp trẻ 7 tuổi có rối loạn lo âu phân ly.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu:
– Xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài: xác định tổng quan nghiên cứu vấn đề
rối loạn lo âu phân ly, làm rõ các khái niệm công cụ, các lý thuyết được sử dụng để
định hình trường hợp, các phương pháp trị liệu cho trường hợp cụ thể.
– Nghiên cứu thực tiễn: trường hợp trẻ có rối loạn lo âu phân ly, đánh giá,
chẩn đoán, phân tích chân dung lâm sàng, lên kế hoạch và tiến hành trị liệu tâm lý,
đánh giá hiệu quả can thiệp tâm lý.
– Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến vấn đề của trẻ.
– Đề xuất và kiến nghị, liên quan đến quá trình trị liệu trẻ có rối loạn lo âu
phân ly với trường hợp cụ thể.
5. Khách thể nghiên cứu :
Một học sinh 7 tuổi mắc rối loạn lo âu phân ly.
3
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
– Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây:
Phương pháp nghiên cứu tài liệu
Phương pháp này giúp chúng tôi có thêm nhiều cơ sở để tiến hành nghiên
cứu đề tài. Qua đây, chúng tôi biết được rằng, những nghiên cứu đi trước đã làm
được những gì, nghiên cứu của chúng tôi góp phần củng cố luận điểm nào, bổ sung
luận điểm nào. Những tài liệu mà chúng tôi sử dụng đề viết tổng quan cho đề
nghiên cứu được tham khảo từ các tạp chí khoa học, từ luận văn, luận án tiến sĩ,
cũng như trên các trang web tâm lý học uy tín bằng tiếng Anh, tiếng việt.
Phương pháp quan sát lâm sàng.
Trong nghiên cứu này, phương pháp quan sát lâm sàng được thực hiện với
mục đích quan sát những hành vi, biểu hiện về cảm xúc của thân chủ thông qua
gương mặt và tư thế ngồi trong các phiên trị liệu từ đó đưa ra những bằng chứng
cho thân chủ biết về sự tiến triển của thân chủ sau những phiên làm việc.
Phương pháp hỏi chuyện lâm sàng.
Hỏi chuyện lâm sàng hay phỏng vấn lâm sàng đây là một trong những
phương pháp chủ đạo trong khi thực hiện nghiên cứu này. Mục đích của việc sử
dụng phương pháp này trong nghiên cứu này nhằm đánh giá nhận thức, cảm xúc,
hành vi cũng như các đặc điểm nhân cách của thân chủ, phân tích và sắp xếp chúng
vào một hiện tượng tâm lý hoặc tâm bệnh lý nào đó với các tiêu chí như loại hình,
mức độ…
Việc sử dụng phương pháp này trong nghiên cứu này không chỉ nhằm lắng
nghe những than phiền của thân chủ về vấn đề của thân chủ mà còn làm rõ những
động cơ tiềm ẩn và các cơ chế tâm lý bên trong của thân chủ, cũng như trợ giúp tâm
lý “khẩn cấp” cho thân chủ trong những trường hợp cần thiết.
Phương pháp nghiên cứu trường hợp:
Phương pháp này giúp chúng tôi nghiên cứu một cách tích cực, toàn diện về
một trường hợp cụ thể. Thông qua sự phát triển về thể chất, sự phát triển về tâm lý
và sự phát triển các mối quan hệ xã hội qua từng giai đoạn, từ đó chúng tôi có thể
phân tích, lý giải phục vụ cho quá trình nghiên cứu.
4
Phương pháp trắc nghiệm/ thang đo:
Phương pháp này giúp chúng tôi đánh giá tìm hiểu vấn đề của thân chủ một
khía cạnh định lượng rõ ràng. Thông qua các đánh giá chúng tôi xác định được vấn
đề của thân chủ, từ đó đưa ra hướng chẩn đoán cho vấn đề.
5
CHƢƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ LO ÂU PHÂN LY Ở TRẺ EM
1.1. Điểm luận một số nghiên cứu về lo âu phân ly ở trẻ em
1.1.1 . Các hướng nghiên cứu về tỉ lệ dịch tễ, biểu hiện và nguyên nhân của lo âu
phân ly.
Theo Hiệp hội Tâm thần Hoa Kỳ, Rối loạn lo âu phân ly (SAD) là một biểu
lộ quá mức của nỗi sợ hãi và đau khổ khi phải đối mặt với tình huống tách ra khỏi
gia đình hoặc từ một nhân vật cụ thể có gắn bó tình cảm. Sự lo lắng thể hiện quá
mức này được phân loại là sự phát triển không bình thường theo mức độ phát triển
và tuổi tác dự kiến của trẻ. Mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng dao động từ
sự lo lắng phỏng đoán đến lo lắng toàn diện về sự tách biệt. SAD có thể gây ra
những tác động tiêu cực đáng kể trong các lĩnh vực hoạt động xã hội và tình cảm,
cuộc sống gia đình và sức khỏe thể chất của cá nhân bị rối loạn. Thời gian của vấn
đề này phải tồn tại ít nhất bốn tuần và phải có mặt trước khi một đứa trẻ 18 tuổi
được chẩn đoán là SAD ở trẻ em, nhưng bây giờ SAD có thể được chẩn đoán ở
người lớn với thời gian kéo dài 6 tháng theo quy định bởi DSM-5[7].
Một dấu hiệu quan trọng để thiết lập sự khác biệt giữa SAD và các lo âu tâm
lý hoặc rối loạn tâm lý khác là xem xét nơi mà sự sợ hãi tách biệt của cá nhân đó bắt
nguồn từ đâu; điều này có thể được thực hiện bằng cách hỏi “những gì họ sợ sẽ xảy
ra trong một sự tách biệt với người khác có vai trò quan trọng của họ”. Điều nổi bật
về SAD là những hành vi tránh né hiện diện bên trong một cá nhân. Các cá nhân
thường biểu lộ sự đau khổ quá mức biểu hiện bằng cách khóc, lặp đi lặp lại các
phàn nàn về các triệu chứng thể chất (ví dụ: đau bụng, nhức đầu…), tránh (chẳng
hạn, từ chối đi học, ngủ một mình, bị bỏ lại một mình trong nhà, tham gia vào các
sự kiện xã hội, đi làm…) và tham gia vào các hành vi an toàn (ví dụ, các cuộc gọi
thường xuyên đến hoặc từ những người quan trọng, và hoặc người chăm sóc chính).
Số liệu từ các cuộc điều tra sức khỏe tâm thần thế giới của Tổ chức Y tế Thế
giới (WHO) cho thấy tỷ lệ tồn tại của rối loạn lo âu phân ly khá cao tới 4,8% ở các
quốc gia, với gần một nửa trong đó tồn tại sau 18 tuổi .
Báo cáo dữ liệu lâm sàng tỷ lệ, rối loạn lo âu phân ly phổ biến từ 20% đến
40%, cho thấy tỷ lệ đi kèm cao với hầu hết các rối loạn lo âu. Các dữ liệu dịch tễ
6
học có sẵn, trên thực tế chỉ ra rằng tỷ lệ tồn tại của rối loạn lo âu phân ly trong
người lớn nói chung dao động từ 4,8 đến 6,6%.
Rối loạn lo âu là một trong những dạng tâm lý phổ biến nhất ở thanh thiếu
niên, với ước tính tỷ lệ phổ biến từ 5% đến 25% trên toàn thế giới ( Boyd,
Kostanski, Gullone, Ollendick, & Shek, 2000 [1] ; Costello, Mustillo, Erklani,
Keeler, & Angold, 2003[2] ; Essau, Conradt, & Petermann, 2000 [3]; Roza, Hofstra,
van der Ende, & Verhulst, 2003[4] ; Wittchen, Nelson, & Lachner, 1998[5] ). Trong
số này, rối loạn lo âu phân ly (SAD) là rối loạn lo âu thời thơ ấu được chẩn đoán
thường gặp nhất, chiếm khoảng 50% số lượt giới thiệu điều trị rối loạn lo âu về sức
khỏe tâm thần ( Bell-Dolan, 1995 ; Cartwright-Hatton, McNicol, & Doubleday,
2006 )[6].
Thời kỳ đầu phát triển, kinh nghiệm về sự lo lắng chia tách mẹ và người thân
trong gia đình của trẻ nhỏ là một hiện tượng bình thường thường giảm dần khi trẻ
trưởng thành. Chẩn đoán SAD chỉ được chỉ định khi trẻ gặp khó khăn trong quá
trình chia ly không phù hợp với độ tuổi và trình độ phát triển của trẻ ( APA,
2000 )[7]. Nghiên cứu cho thấy rằng 4,1% trẻ em sẽ biểu hiện mức độ lo âu phân ly
lâm sàng và khoảng một phần ba các trường hợp thời thơ ấu này (36,1%) vẫn tồn tại
đến tuổi trưởng thành nếu không được điều trị ( Shear, Jin, Ruscio, Walters, &
Kessler, 2006 )[8].
Rối loạn lo âu phân ly phổ biến hơn ở phụ nữ so với nam giới, ở những
người từ 18 đến 59 tuổi, và chưa kết hôn và trước đây đã kết hôn (so với người hiện
đang kết hôn hoặc sống chung).
Tình trạng rối loạn lo âu ở trẻ em thường phổ biến hơn ở trẻ em gái với tỷ lệ
gần như gấp đôi so với tỷ lệ được báo cáo ở trẻ em trai.
Một nghiên cứu ước tính rằng 50% trẻ 8 tuổi đã có các triệu chứng SAD không
gây suy giảm đáng kể. Một số nhà điều tra cho rằng SAD ở Mỹ có thể phổ biến hơn ở
phụ nữ, người Mỹ gốc Phi và các gia đình có tình trạng kinh tế xã hội thấp.
Hầu hết các lý thuyết hiện nay đều cho thấy sự lo âu về sự phân ly phát triển
từ sự tương tác giữa các yếu tố sinh học và môi trường. Các yếu tố nguy cơ đối với
rối loạn lo âu phân ly –(SAD) có thể bao gồm một lỗ hổng di truyền để trải nghiệm
7
sự lo âu cũng như các lỗ hổng cơ bản và sinh học (Goldsmith & Gottesman,
1981)[9]. Tuy nhiên, nghiên cứu cho thấy rằng SAD có thể bị ảnh hưởng đáng kể
bởi các yếu tố môi trường, nhiều hơn so với các rối loạn lo âu về thời thơ ấu khác
(Eley, 2001)[10].
Trong Nghiên cứu Phát triển Hành vi Vị thành niên Virginia, các triệu chứng
lo âu được đánh giá thông qua báo cáo về trẻ em và phụ huynh trong 1412 cặp sinh
đôi cùng tuổi từ 8–16 tuổi. Kết quả cho thấy sự khác biệt về SAD do trẻ báo cáo là
do cả hai yếu tố môi trường chia sẻ và không chia sẻ mà không có ảnh hưởng di
truyền đáng kể (Topolski và cộng sự, 1997)[11]. Tuy nhiên, trong một nghiên cứu
tương tự bao gồm 2043 cặp sinh đôi cùng giới tính tuổi từ 3–18, kết quả cho thấy cả
ảnh hưởng chung và môi trường di truyền đối với SAD (Feigon, Waldman, Levy, &
Hay, 1997) [12]. Kết hợp với nhau, những phát hiện này cho thấy các yếu tố môi
trường có thể đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển của SAD (Vasey &
Dadds, 2001) [13].
Một yếu tố môi trường thường được bắt nguồn trong sự phát triển của sự lo
âu thời thơ ấu (do hành vi nuôi dạy con cái). Tình yêu thương ấm áp của cha mẹ
thấp và hành vi nuôi dạy con cái không khuyến khích sự tự chủ có liên quan đến sự
phát triển của sự lo âu và những khó khăn khác của tuổi thơ ( Ginsburg, Siqueland,
Masia-Warner, & Hedtke, 2004)[14]. Nghiên cứu trong tâm lý học phát triển và lý
thuyết gắn bó đã liên tục phát hiện ra rằng các kiểu gắn bó không an toàn hoặc lo âu
cũng là yếu tố nguy cơ cho các dạng rối loạn cảm xúc và tâm lý, bao gồm: trầm
cảm, lo lắng và các vấn đề hành vi (Foote, Eyberg, & Schuhmann, 1998; Sroufe,
2005; Westen, Nakash, Thomas, & Bradley, 2006)[15]. Ngoài ra, nghiên cứu cho
thấy rằng sự kiểm soát đóng một vai trò là nguyên nhân (kinh nghiệm thời thơ ấu về
việc bị kiểm soát thúc đẩy hoặc giảm bớt cảm giác sợ bị kiểm soát bởi môi trường
bên ngoài của một người). Điều đó có thể là một yếu tố nguy cơ cho sự phát triển
của lo âu (Chorpita & Barlow, 1998)[16].
Các hành vi nuôi dạy con cái kiểm soát quá mức và sự quá mức này cũng là
trung tâm của sự tiến triển và duy trì những rối loạn lo âu của tuổi thơ. Hơn nữa, sự
can thiệp theo kiểu kiểm soát của cha mẹ dường như là một yếu tố nguy cơ cụ thể
8
đối với trẻ em bị chẩn đoán rối loạn lo âu (Wood, 2006)[17]. Trong bối cảnh này,
việc nuôi dạy con cái theo kiểu xâm lấn được đặc trưng bởi sự điều chỉnh không cân
xứng về cảm xúc và hành vi của trẻ cũng như việc cho phép sự tự chủ nơi trẻ. Sự
kiểm soát của cha mẹ thường được thể hiện bằng cách hỗ trợ quá mức trong các
hoạt động hàng ngày của trẻ, chẳng hạn như mặc quần áo hoặc thói quen đi ngủ, do
đó ngăn trẻ tham gia và nắm vững các hành vi và hoạt động phù hợp với lứa tuổi.
Những hành vi xâm lấn của cha mẹ, nhằm giảm thiểu hoặc ngăn ngừa sự khám phá
của trẻ, thay vào đó có thể khuyến khích sự phụ thuộc của trẻ vào cha mẹ, do đó ảnh
hưởng đến nhận thức của trẻ về sự thành thạo trong môi trường của chúng (xem
Wood, McLeod, Sigman, Hwang, & Chu, 2003)[18].
Như vậy, với các nghiên cứu trên, chúng tôi nhận thấy rối loạn lo âu phân ly
trẻ gái thường mắc nhiều hơn trẻ trai, rối loạn lo âu phân ly ( SAD) do cả yếu tố do
môi trường và cả yếu sinh học. Trong đó, cách tương tác, kiểm soát, hỗ trợ từ cha
mẹ với trẻ trong quá trình nuôi dạy ảnh hưởng đến sự phát triển của rối loạn lo âu
phân ly ở trẻ.
1.1.2. Các nghiên cứu về đánh giá và can thiệp lo âu phân ly ở trẻ em.
Nghiên cứu về đánh giá cho trẻ có rối loạn lo âu phân ly.
Phần lớn các công cụ đánh giá lo âu ở trẻ nhỏ được phát triển và áp dụng với
trẻ trong độ tuổi đến trường, khiến các rối loạn lo âu của trẻ nhỏ hơn dưới 6 tuổi
chưa được khám phá ( Angold & Egger, 2004 ) [19]. Sự ít ỏi của các công cụ chẩn
đoán phù hợp với trẻ nhỏ đã cản trở sự hiểu biết của chúng ta về nguyên nhân và
quy luật phát triển của tâm lý học sớm, cũng như tác động của can thiệp lâm sàng
sớm ( Egger & Angold, 2006 )[20]. Cho rằng các triệu chứng SAD thường khởi
phát trước 6 tuổi và các triệu chứng như vậy ở thời thơ ấu có liên quan đến tâm lý
phát triển sau này, việc xác định và điều trị SAD sớm là rất quan trọng.
Trong những năm gần đây, các nhà nghiên cứu đã cố gắng phát triển các tiêu
chí chẩn đoán và tài liệu đánh giá cho trẻ em ở độ tuổi mẫu giáo (13 trẻ em và vị
thành niên (CAPA), nhưng được điều chỉnh về hình thức và nội dung để phù hợp
với trẻ nhỏ. PAPA là cuộc phỏng vấn tâm lý có cấu trúc phù hợp phát triển đầu tiên
để đánh giá các yếu tố tâm lý, gia đình và cộng đồng, cũng như khả năng phục hồi
9
và các yếu tố bảo vệ, trong cả mẫu cộng đồng và lâm sàng của trẻ mẫu giáo khi còn
nhỏ. Hy vọng rằng, PAPA sẽ góp phần phát triển một hệ thống phân loại tâm thần
đáng tin cậy cho trẻ nhỏ. Nghiên cứu đã tìm thấy PAPA là một biện pháp hợp lý
đáng tin cậy về các rối loạn DSM-IV trong thời thơ ấu. Cụ thể, độ tin cậy chẩn đoán
(kappa) dao động từ 0,36 đến 0,79, trong khi các thử nghiệm tương quan thử
nghiệm lại với điểm số của thang điểm hội chứng DSM-IV dao động từ 0,56 đến
0,89. Đối với SAD của PAPA, độ tin cậy chẩn đoán là 0,5 và tương quan nội bộ
kiểm tra thử lại là 0,63. Không có sự khác biệt đáng kể về độ tin cậy được tìm thấy
theo độ tuổi, giới tính hoặc chủng tộc (Egger và cộng sự, 2006 )[22].
Phƣơng pháp tự báo cáo.
Mặc dù các biện pháp phỏng vấn chẩn đoán thường được coi là tiêu chuẩn chất
lượng tốt, để đánh giá chính xác và kỹ lưỡng các tiêu chí DSM-IV cho SAD, các
cuộc phỏng vấn này thường kéo dài, tốn kém và đòi hỏi một số mức độ đào tạo
chuyên môn. Khi thời gian và nguồn lực hạn chế hơn, các biện pháp tự báo cáo
cũng có thể được thu thập từ phụ huynh và trẻ em trong đánh giá SAD, miễn là trẻ
có kỹ năng đọc, viết để trả lời hiệu quả các câu hỏi đó. Các biện pháp sau đây đã
được chứng minh là hữu ích trong việc đánh giá và điều trị tiếp theo cho trẻ em với
rối loạn lo âu và rối loạn lo âu phân ly, mặc dù chúng không nên được sử dụng
riêng rẽ để đánh giá chẩn đoán SAD.
Các biện pháp tự báo cáo với cả phiên bản cha mẹ và con
Thang đo lo âu đa chiều ( Multidimensional Anxiety Scale for Childen) ( MASC;
March, Parker, Sullivan, Stallings,& Cibbers, 1997) [23] gồm 39 câu hỏi, theo kinh
nghiệm có nguồn gốc, đa chiều biện pháp tự báo cáo được thiết kế để đánh giá một
loạt các triệu chứng lo âu. Các tiêu chí nhỏ trong thang MASC bao gồm Căng thẳng
/ không ngừng nghỉ, Somatic / Tự trị, tổng số triệu chứng thực thể, Chủ nghĩa hoàn
hảo, đối phó lo âu, né tránh hoàn toàn, xấu hổ/ Từ chối, mức độ sợ hãi, tổng lo âu /
hoảng loạn và tổng điểm MASC. Một phiên bản rút gọn hơn gồm 10 câu hỏi
(MASC-10) cũng được sử dụng. Khả năng của MASC để đánh giá một loạt các
triệu chứng lo âu đặc biệt hữu ích do mức độ hiệu lực cao giữa trẻ em và thanh thiếu
niên mắc SAD, GAD, OCD và các rối loạn lo âu khác (xem Curry, March, &
10
Hervey, 2004) [24].Thang MASC có hỗ trợ thực nghiệm đáng kể chứng minh tính
hợp lệ và độ tin cậy cũng như cấu trúc nhân tố của nó ( March et al., 1997 ; March
et al., 1999 ) [25]. Độ tin cậy kiểm tra lại trong ba tháng đã được tìm thấy là đạt yêu
cầu đến mức tuyệt vời, với tất cả các mối tương quan giữa các lớp trên 0,5. Thống
nhất nội bộ cũng được tìm thấy là chấp nhận được. Phiên bản gốc của MASC cũng
tồn tại và thường được sử dụng cho mục đích nghiên cứu. Tuy nhiên, các thuộc tính
tâm lý của phiên bản gốc này vẫn đang được khám phá.
Thang đánh giá lo âu phân ly cha mẹ và con (Separation Anxiety Assessment
Scale, Parent and Child Versions) gồm 34 mục (SAAS-C / P; Eisen & Schaefer,
2007 ) [26] đo lường các mức độ cụ thể của SAD thời thơ ấu dựa trên các tiêu
chuẩn chẩn đoán DSM-IV cũng như các triệu chứng lo âu liên quan. SAAS bao
gồm bốn khía cạnh triệu chứng: Sợ một mình, Sợ bị bỏ rơi, Sợ bị bệnh về thể chất
và lo lắng về các sự kiện tai họa. Ngoài ra, SAAS chứa một phạm vi tần xuất của
các sự kiện tai họa, cũng như một chỉ số tín hiệu an toàn. Dữ liệu sơ bộ, hỗ trợ cấu
trúc yếu tố, độ tin cậy, tính hợp lệ và hiệu quả lâm sàng của biện pháp này ( Hahn,
Hajinlian, Eisen, Winder, & Pincus, 2003 ; Hajinlian et al., 2003 ; Hajinlian,
Mesnik, & Eisen, 2005 )[27].
Thang đánh giá lo âu SPENCE ( The Spence Children’s Anxiety Scale) (
SCAS, Spence, 1997) [28] đánh giá lo âu tự báo cáo phiên bản phụ huynh và trẻ
em. Thang đo đo lường một loạt các triệu chứng lo âu, có một yếu tố / thang đo cụ
thể đánh giá các triệu chứng lo âu phân ly và cung cấp thông tin về các triệu chứng
rối loạn lo âu khác. Các tiểu thang đo SCAS bao gồm: lo âu phân ly, rối loạn hoảng
loạn, ám sợ xã hội , ám ảnh cưỡng bức và sợ tổn thương thể chất. 6 tiểu thang đo
của SCAS đã được thiết lập bằng phân tích nhân tố xác nhận ( Spence,
1997 ; Spence,1998 ) [29]. Tổng điểm thống nhất nội bộ các tiểu thang đo của thang
đo là 0,92 đã được tìm thấy trong các nghiên cứu trong khi đó tính nhất quán bên
trong của phạm vi nhỏ các thang đo trong các khoảng từ 0,62 đến 0,74 (Muris,
Merckelbach, Ollendick, King, & Bogie, 2002 ; Muris, Schmidt, & Merckelbach,
2000 ; Spence, 1998 ; Spence, Barrett & Turner, 2003 ) [30]. Các thử nghiệm kiểm
tra thử lại trong ba và sáu tháng lần lượt là 0,5 và 0,63 đã được báo cáo cho tổng số
11
điểm ( Spence, 1998 ; Spence at el., 2003 [31]. Một phiên bản mầm non của SCAS
cũng có sẵn. Thang đo lo âu của trường mầm non ( Spence, Rapee, McDonald, &
Ingram, 2001 ) [31] dựa vào báo cáo của phụ huynh về các triệu chứng lo âu với dữ
liệu quy chuẩn có sẵn cho trẻ em từ hai đến sáu tuổi. Trong khi biện pháp này đang
được phát triển, thông tin có hiệu lực hứa hẹn đã được thiết lập bằng cách sử dụng
phân tích nhân tố xác nhận (Spence và cộng sự, 2001 )[32].
Thang đo màn hình cảm xúc cho trẻ có rối loạn lo âu và cảm xúc (The Screen
for Child Anxiety Related Emotional Disorders-Revised) (Scared-R; Muris,
Merckelbach, Schmidt, & Mayer, 1999)[33] là một bảng câu hỏi tự báo cáo cho trẻ
em từ bảy tuổi. Một phiên bản dành cho cha mẹ của biện pháp này cũng tồn
tại. SCARED-R chứa 66 mục đo tất cả các rối loạn lo âu DSM-IV xảy ra ở trẻ em
và thanh thiếu niên, bao gồm 8 mục đánh giá SAD cụ thể. Trong một mẫu thanh
thiếu niên được đề cập lâm sàng, hầu hết các thang đo của SCARED-R đều đáng tin
cậy về tính nhất quán bên trong, và cronbach’s alpha là 0,72 cho phiên bản con và
0,81 cho phiên bản gốc đã được tìm thấy cho tiểu thang đo mục SAD. Hơn nữa,
thỏa thuận giữa cha mẹ và con cái là hợp lý, với các mối tương quan là 0,69 cho
tổng số điểm và 0,62 cho tiểu cảnh SAD được báo cáo. Hiệu lực hội tụ và phân biệt
đối xử cũng được thiết lập, vì tổng điểm SCARED-R có liên quan đáng kể đến các
vấn đề nội bộ của CBCL nhưng không phải với các vấn đề bên ngoài (Muris,
Dreessen, Bogels, Weckx, & van Melick, 2004 )[34].
Biện pháp tự báo cáo bổ sung
Khi giải quyết lo âu phân ly, đánh giá chính xác các hành vi tránh né có thể rất
quan trọng đối với việc điều trị hành vi nhận thức tiếp theo. Các hệ thống phân
cấp Sợ hãi và tránh né (The Fear and Avoidance Hierarchy) (FAH), thường được sử
dụng trong nhiều phương pháp tiếp cận hành vi nhận thức trong điều trị chứng lo
âu, vận hành đã xác định chủ động các tình huống gây lo lắng hàng đầu trong top 10
của trẻ em, FAH là một thước đo tiến trình điều trị. Tùy thuộc vào độ tuổi của trẻ,
FAH có thể được hoàn thành bởi cha mẹ hoặc cha mẹ và con cùng nhau. Mỗi tình
huống hoặc vật phẩm gây lo lắng được liệt kê bởi đứa trẻ được xếp hạng riêng về
mức độ sợ hãi và mức độ tránh theo thang điểm từ 0 (không hoàn toàn) đến 8 (cực
12
kỳ) theo kiểu Likert. Việc đưa vào đánh giá tránh có thể giúp điều trị sau này khi
thiết kế các phơi nhiễm cụ thể cho trẻ. FAH cung cấp một phương pháp có giá trị về
mặt sinh thái để xác định giới hạn hành vi của chứng lo âu phân ly của trẻ và đã
được sử dụng rộng rãi với các rối loạn lo âu thời thơ ấu, như ám ảnh sợ xã hội và
nỗi sợ hãi cụ thể (Albano & Barlow, 1996 ) [35]. Trẻ em và cha mẹ của mình nên
hoàn thành FAH với sự giúp đỡ của bác sĩ lâm sàng,nhà tâm lý người có thể hỗ trợ
trong việc đưa ra các tình huống chia tách có thể cần được giải quyết trong điều trị.
Các thang đánh giá được sử dụng rộng rãi khác cho các triệu chứng lo âu ở trẻ
em và thanh thiếu niên bao gồm phiếu khảo sát lo hãi đối với trẻ em được điều
chỉnh (FSSC-R; Ollendick, 1983 )[36], Thang đo biểu hiện lo âu của trẻ em đã sửa
đổi (RCMAS; Reynolds & Richmond, 1978 ) [37], Stait- Trait Anx Inventory for
Children (STAIC; Spielberger, Gorsuch, & Luchene, 1970 )[38], và Social Phobia
và Anxiety Inventory for Children (SPAI-C; Beidel, Turner, & Morris,
1995 )[39]. Ngoài MASC, các biện pháp này có thể cung cấp thông tin quan trọng
về một loạt các khó khăn lo lắng ở trẻ em. Tuy nhiên, MASC thuận tiện đánh giá
mặt cắt ngang rộng của những khó khăn lo âu theo DSM-IV thời thơ ấu trong một
biện pháp duy nhất ( March, 1997 )[40].
Đánh giá sự tƣơng tác giữa cha mẹ và con cái
Các yếu tố tương tác giữa cha mẹ và con cái từ lâu đã có liên quan đến nguyên
nhân và duy trì các rối loạn lo âu thời thơ ấu ( Ainsworth, Blehar, Waters, & Wall,
1978 )[41]. Do đó, trong một đánh giá tâm lý toàn diện, quan sát hành vi trực tiếp là
vô cùng quan trọng và có lợi, đặc biệt là với trẻ em ( Ciminero, 1986 ; McMahon &
Forehand, 1988 )[42]. Việc quan sát như vậy cũng cần thiết do kết quả không đầy
đủ thường được tạo ra bằng các biện pháp tự báo cáo, đặc biệt là khi đánh giá hành
vi không phù hợp, chẳng hạn như đặc điểm hành vi tránh né của trẻ bị SAD
( Hartmann & Wood, 1990)[43]. Mặc dù các giao thức quan sát hành vi không phải
là công cụ chẩn đoán, chúng cho phép đánh giá các yếu tố tương tác được cho là
góp phần vào SAD thời thơ ấu và cha mẹ – con phản ứng với bối cảnh tách biệt. Sự
phát triển của Hệ thống mã hóa tương tác giữa phụ huynh và trẻ em (Dyadic
Parent-Child Interaction Coding System) (DPICS; Eyberg & Robinson, 1983 ) [44]
13
và Hệ thống mã hóa tương tác giữa phụ huynh và trẻ em Dyadic II ( Dyadic Parent-
Child Interaction Coding System II ) (DPICS II; Eyberg, Bessmer, Newcomb,
Edwards & Robinson, 1994) [45] đã cung cấp cho cộng đồng lâm sàng một phương
pháp dựa trên quan sát trực tiếp để đánh giá tương tác giữa cha mẹ và con cái. Điều
đặc biệt quan trọng là phải giải quyết các tương tác như vậy ở trẻ em với sự lo lắng
về sự chia ly vì những tương tác này, khi không ổn định, tạo thành cấu trúc cốt lõi
của rối loạn. Dữ liệu tâm lý cho DPICS II đã được chứng minh là có hiệu quả
( Deskin, 2005 )[46].
DPICS II chứa các danh mục về cả hành vi của cha mẹ và con cái, bao gồm
mô tả hành vi, mô tả thông tin, câu hỏi, mệnh lệnh, lời khen được dán nhãn và
không gắn nhãn và phê bình. Được quản lý trong một giao thức cụ thể, DPICS II
bao gồm ba giai đoạn tương tác chơi ngắn giữa trẻ và cha mẹ. Trong giai đoạn một
(Tương tác theo hướng trẻ em; CDI), trẻ được khuyến khích dẫn dắt vở kịch trong
khi cha mẹ cố gắng tạo ra một môi trường tích cực, không chỉ thị. Trong giai đoạn
thứ hai của sự tương tác (Tương tác có hướng của phụ huynh; PDI), phụ huynh chỉ
đạo vở kịch. Trong giai đoạn cuối (Dọn dẹp; CU), đứa trẻ được hướng dẫn dọn dẹp
phòng chơi ( Eyberg et al., 1994 )[47].
DPICS II và hệ thống mã hóa của nó gần đây đã được sửa đổi để sử dụng cho
trẻ nhỏ với sự lo lắng về sự chia tách với gia đình của chúng ( Pincus, Cheron,
Santucci & Eyberg, 2006 ) [48]. Bằng cách thêm một giai đoạn quan sát thứ tư
(Tách; SEP), trong đó cha mẹ rời khỏi phòng một cách nhanh chóng và đứa trẻ
được yêu cầu chơi với một liên minh, bác sĩ lâm sàng biết các loại hành vi mà đứa
trẻ có thể thể hiện trong giai đoạn tách biệt cấp tính. DPICS II, như được sửa đổi
cho trẻ em có lo lắng về sự tách biệt, có thể hữu ích không chỉ để đánh giá, mà còn
để theo dõi tiến trình điều trị, kết quả và duy trì mức tăng theo thời gian.
Như đã lưu ý trước đây, nghiên cứu đã chỉ ra sự xâm nhập của cha mẹ là một
yếu tố rủi ro cụ thể đối với SAD thời thơ ấu ( Wood, 2006 )[49]. Để đánh giá cụ thể
sự tương tác giữa cha mẹ và con cái và sự xâm nhập của cha mẹ, bốn biện pháp sau
đây đã được kết hợp thành Thang đo xâm nhập của cha mẹ tổng hợp (The Composite
Parental Intrusiveness Scale) bởi Wood , 2006 : một nhiệm thắt dây đai trong ghế oto
14
được ghi hình lại và sau đó được mã hóa cho hành vi xâm nhập, Tương tác giữa cha
mẹ và con cái, bảng câu hỏi phiên bản dành cho phụ huynh và trẻ em (PCIQ-Parent-
Child Interaction Questionnaire, Parent and Child versions (PCIQ) và bảng kiểm
những kĩ năng trong cuộc sống ( Skills of Daily Living Checklist- SDLC). Thang đo
tổng hợp này đã được tìm thấy có thuộc tính tâm lý thuận lợi. Hiệu lực hội tụ và phân
biệt đối xử đã được thiết lập thông qua ma trận đa tuyến tính . Điều quan trọng
là Thang đo xâm nhập của cha mẹ tổng hợp đã được tìm thấy để làm trung gian cho
kết quả điều trị và đáp ứng với đào tạo của phụ huynh.
Một báo cáo do Compton và cộng sự năm 2004 đánh giá về liệu pháp nhận thức
hành vi khi điều trị lo âu và trầm cảm ở trẻ em và thanh thiếu niên. Báo cáo kết luận
rằng trong dân số trẻ em và thanh thiếu niên, có 21 thử nghiệm có kiểm chứng ngẫu
nhiên đánh giá liệu pháp nhận thức hành vi điều trị lo âu và 12 thử nghiệm có kiểm
chứng ngẫu nhiên điều trị trầm cảm. Đối với mục đích báo cáo này, chỉ có thử nghiệm
xuất bản bằng tiếng Anh, các tạp chí tương đương từ năm 1990 đến 2002 tiếp nhận trẻ
từ 8 – 18 tuổi và dùng 1 phương pháp kết quả cải thiện lâm sàng.
Với 21 nghiên cứu liên quan đến rối loạn lo âu, trong đó 19 thử nghiệm liên
quan phỏng vấn lâm sàng bán cấu trúc (semi – structured); Thang phỏng vấn rối
loạn lo âu, phiên bản trẻ em và cha mẹ (ADIS-C/P: Anxiety Disorders Interview
Schedule, Child and Parents Versions) được sử dụng trong 13 nghiên cứu, 6 trong
12 tạp chí liên quan đến trầm cảm cũng sử dụng phỏng vấn bán cấu trúc, thường
dùng Thang rối loạn khí sắc (SAD – Schedule for Affective Disorders) và tâm thần
phân liệt cho trẻ đi học; còn lại 6 nghiên cứu trầm cảm thanh thiếu niên, không ghi
nhận phương pháp nghiên cứu hoặc dựa vào tự báo cáo.
Nghiên cứu về điều trị với rối loạn lo âu phân ly
Mặc dù rối loạn lo âu thời thơ ấu là một trong những dạng tâm lý phát triển
phổ biến nhất, phương pháp điều trị hiệu quả chỉ được giới thiệu và đánh giá trong
20 năm qua. Hiện nay, phương pháp điều trị với nhiều bằng chứng nhất hỗ trợ hiệu
quả của nó trong việc cải thiện chứng rối loạn lo âu thời thơ ấu, bao gồm SAD, là
liệu pháp hành vi nhận thức (CBT; Kazdin & Weisz, 1998 ; Velting, Setzer, &
Albano, 2004). Liệu pháp hành vi nhận thức sử dụng cả kỹ thuật tái cấu trúc nhận
15
thức và tiếp xúc để giảm bớt lo lắng và cho phép những người lo lắng đối phó hiệu
quả hơn với sự lo lắng của họ. Ngoài ra, CBT thường bao gồm phân tích tâm lý về
bản chất và điều trị các kỹ thuật giảm lo âu, bao gồm cả thở lại và thư giãn cơ tiến
triển. Trong khi một số nghiên cứu có kiểm chứng đã cho thấy hiệu quả của CBT
đối với chứng rối loạn lo âu ở trẻ em và thanh thiếu niên ( Barrett, Dadds, & Rapee,
1996 ; Kendall, 1994 ; Kendall et al., 1997 ), phần lớn các nghiên cứu này đã loại
trừ thanh thiếu niên dưới 7 tuổi.
Chương trình Coping Cat ( Kendall, 1990 ) [50] là một can thiệp CBT thủ
công phổ biến cho thanh thiếu niên mắc chứng rối loạn lo âu, bao gồm
SAD. Chương trình này kết hợp đào tạo tái cấu trúc nhận thức và thư giãn, sau đó
tiếp xúc dần với các tình huống gây lo lắng trong khi áp dụng các kỹ năng đối phó
đã học trong các phiên trước ( Grover, Hughes, & Bergman, 2006 )[51]. Chương
trình Coping Cat được đánh giá trong một thử nghiệm ngẫu nhiên có kiểm soát
(RCT; Kendall, 1994)[ 52] bao gồm 47 trẻ em trong độ tuổi từ 8 đến 13. Tất cả
những người tham gia nghiên cứu đều đáp ứng các tiêu chí chẩn đoán cho GAD,
SAD hoặc Nỗi ám ảnh xã hội và được chỉ định ngẫu nhiên điều trị trong 16 tuần
hoặc không chỉ định trị liệu và ở trong danh sách chờ. Kết quả cho thấy trẻ em trong
tình trạng điều trị có kết quả tốt hơn đáng kể so với những trẻ được chỉ định vào
danh sách chờ. Sau điều trị, 66% những người tham gia theo dõi chương trình
Coping Cat không còn đáp ứng các tiêu chí cho chứng rối loạn lo âu so với chỉ 5%
trong điều kiện danh sách chờ không được điều trị có không còn đáp ứng các tiêu
chí cho chứng rối loạn lo âu. Đánh giá theo dõi dài hạn được thực hiện trong ba năm
và bảy năm rưỡi cho thấy duy trì mức tăng điều trị theo thời gian ( Kendall &
Southam-Gerow,
1996 ; Kendall,
Safford,
Flannery-Schroeder,
&
Webb,
2004)[53]. Những kết quả đầy hứa hẹn này đã được nhân rộng trong một RCT thứ
hai bao gồm 94 thanh niên lo lắng từ chín đến 13 tuổi, một lần nữa được phân ngẫu
nhiên vào kiểm soát danh sách chờ hoặc chương trình điều trị Coping Cat. Hơn 50%
thanh niên trong tình trạng điều trị không có chẩn đoán chính ở giai đoạn sau điều
trị ( Kendall et al., 1997 )[54].
16
Sự tham gia của gia đình trong điều trị SAD thường được khuyến nghị vì vai
trò không thể thiếu của cha mẹ trong việc duy trì nỗi sợ chia ly của trẻ em. Chương
trình FRIENDS ( Barrett, Lowry-Webster, & Turner, 2000) [55] là một can thiệp
CBT 10 buổi cho trẻ em bị rối loạn lo âu được phân phối theo định dạng nhóm.
Chương trình bao gồm tất cả các thành phần thiết yếu của CBT, như tái cấu
trúc nhận thức và tiếp xúc có hệ thống, nhưng cũng kết hợp sự tham gia của gia
đình và các yếu tố của liệu pháp liên cá nhân. Ví dụ, tái cấu trúc nhận thức cho cha
mẹ được bao gồm trong chương trình và các gia đình được khuyến khích phát triển
các mạng xã hội hỗ trợ. Phụ huynh được khuyến khích thực hành các kỹ năng làm
bạn với con cái hàng ngày và cung cấp sự củng cố tích cực khi các kĩ năng của con
làm tốt. Ngoài tầm quan trọng của sự tham gia của cha mẹ, chương trình còn thúc
đẩy sự tham gia của đồng nghiệp và hỗ trợ giữa các cá nhân thông qua việc nhấn
mạnh vào việc phát triển tình bạn, nói chuyện với bạn bè về những tình huống khó
khăn. Chương trình FRIENDS đã được đánh giá một cách có hệ thống trong một
RCT bao gồm 71 trẻ em từ sáu đến 10 tuổi đáp ứng các tiêu chí chẩn đoán cho
GAD, SAD hoặc ám ảnh xã hội ( Shortt, Barrett & Fox, 2001 )[56]. Các đối tượng
được phân ngẫu nhiên vào một điều kiện kiểm soát hoặc điều kiện danh sách
chờ. Kết quả chỉ ra rằng 69% trẻ em trong chương trình FRIENDS so với chỉ 6%
đối chứng không còn đáp ứng các tiêu chuẩn chẩn đoán cho chứng rối loạn lo âu
sau điều trị. Đối với những người tham gia nghiên cứu trong nhóm điều trị, lợi ích
trị liệu được duy trì ở mức đánh giá theo dõi một năm.
Như đã đề cập trước đây, cả phụ huynh và trẻ em thường được khuyến nghị
điều trị SAD. Tuy nhiên, nghiên cứu sơ bộ cho thấy rằng sự tham gia trực tiếp của
trẻ em có thể không cần thiết. Một nghiên cứu gần đây của Eisen và cộng sự (2008)
đã xem xét hiệu quả của một can thiệp đào tạo cha mẹ hành vi nhận thức tích hợp
đặc biệt nhắm vào các bậc cha mẹ của thanh niên SAD. Sử dụng một thiết kế cơ sở,
sáu gia đình đã được đưa vào nghiên cứu, mỗi gia đình có một đứa trẻ (bảy đến 10
tuổi) đáp ứng các tiêu chí chẩn đoán cho SAD. Phác đồ điều trị bao gồm 10 buổi chỉ
dành cho phụ huynh và kết hợp các kỹ thuật hành vi nhận thức truyền thống như
tâm lý học, thực hành trong phiên, tiếp xúc tưởng tượng và bài tập về nhà. Sau khi