BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ. HỒ CHÍ MINH
Trần Lý Ngọc Thanh
XUNG ĐỘT TÂM LÝ VỀ KỲ VỌNG THÀNH TÍCH
HỌC TẬP GIỮA CHA MẸ VÀ CON CỦA HỌC SINH
LỚP 9 TẠI MỘT SỐ TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH.
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÍ HỌC
Thành Phố Hồ Chí Minh – Năm 2019
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ. HỒ CHÍ MINH
Trần Lý Ngọc Thanh
XUNG ĐỘT TÂM LÝ VỀ KỲ VỌNG THÀNH TÍCH
HỌC TẬP GIỮA CHA MẸ VÀ CON CỦA HỌC SINH
LỚP 9 TẠI MỘT SỐ TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Chuyên ngành : Tâm lí học
Mã số
: 8310401
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÍ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TRƯƠNG CÔNG THANH
Thành Phố Hồ Chí Minh – Năm 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là kết quả nghiên cứu của riêng tôi.Các dữ liệu, kết quả
nghiên cứu trong luận văn này là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kì
công trình nghiên cứu nào khác.
Tác giả
Trần Lý Ngọc Thanh
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn “Xung đột tâm lý về kỳ vọng thành tích học tập giữa
cha mẹ và con của học sinh lớp 9 tại thành phố Hồ Chí Minh”tôi xin chân thành
cảm ơn:
Ban Giám hiệu Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh; Các phòng
ban Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh; và quý thầy cô khoa Tâm lí
học đã tận tình truyền đạt những kiến thức quý báu, giúp đỡ tôi trong quá trình học
tập và nghiên cứu.
Tôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc đến thầy Trương Công Thanh, người đã trực
tiếp hướng dẫn khoa học đã luôn dành nhiều thời gian, công sức đốc thúc, chỉnh sửa,
chỉ bảo tận tình trong suốt quá trình tôi thực hiện đề tài.
Tôi xin cảm ơn là sự hỗ trợ của Ban Giám Hiệu và sự hợp tác của cán bộ giáo
viên các Trường Trung học Cơ sở Bạch Đằng, Trường Trung học Cơ sở Lê Anh
Xuân, Trường Trung học cơ sở Hoàng Hoa Thám đã tạo điều kiện cho tôi thu thập số
liệu thực tế. Cuối cùng tôi xin cảm ơn đến gia đình, bạn bè và các bạn học viên cao
học khóa 27 đã luôn động viên, nâng đỡ tôi về mặt tinh thần để hoàn thành luận văn.
Tuy có nhiều cố gắng, nhưng trong đề tài nghiên cứu khoa học này không tránh
khỏi những thiếu sót. Tôi kính mong Quý thầy cô, các chuyên gia, những người quan
tâm đến đề tài, đồng nghiệp, gia đình và bạn bè tiếp tục có những ý kiến đóng góp,
giúp đỡ để đề tài được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU
……………………………………………………………………………………………………. 1
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
………………………… 6
1.1. Lược sử nghiên cứu vấn đề …………………………………………………………………….. 6
1.1.1. Nghiên cứu về vấn đề ở nước ngoài …………………………………………………… 6
1.1.2. Nghiên cứu vấn đề tại Việt Nam …………………………………………………….. 10
1.2. Các khái niệm của đề tài ………………………………………………………………………. 15
1.2.1. Khái niệm thành tích học tập …………………………………………………………… 15
1.2.2. Một số vấn đề về tự ý thức, tự đánh giá ……………………………………………. 19
1.2.3. Khái niệm kỳ vọng
…………………………………………………………………………. 24
1.2.4. Kỳ vọng thành tích học tập
……………………………………………………………… 28
1.3. Xung đột và xung đột tâm lý
…………………………………………………………………. 30
1.3.1.Khái niệm xung đột ………………………………………………………………………… 30
1.3.2. Khái niệm xung đột tâm lý, cách giảm thiểu xung đột tâm lý
………………. 32
1.4. Xung đột tâm lý về KVTTHT giữa cha mẹ và con của học sinh THCS ……… 40
1.4.1.Một số đặc điểm tâm lý học sinh THCS
…………………………………………….. 40
1.4.2. Khái niệm xung đột tâm lý về kỳ vọng thành tích học tập giữa cha mẹ
và con của học sinh THCS
……………………………………………………………… 44
1.4.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến xung đột tâm lý về kỳ vọng thành tích học
tập giữa cha mẹ và con học lớp 9.
……………………………………………………. 47
Tiểu kết Chương 1 ………………………………………………………………………………………. 50
Chương 2. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN XUNG ĐỘT TÂM LÝ
VỀ KỲ VỌNG THÀNH TÍCH HỌC TẬP GIỮA CHA MẸ VÀ
CON CỦA HỌC SINH LỚP 9 TẠI TP.HCM
……………………………… 51
2.1. Tổ chức nghiên cứu
……………………………………………………………………………… 51
2.1.1. Nghiên cứu lý luận
…………………………………………………………………………. 51
2.1.2. Nghiên cứu thực tiễn
………………………………………………………………………. 51
2.2. Thực trạng xung đột tâm lý về kỳ vọng thành tích học tập giữa cha mẹ và
con học sinh lớp 9
……………………………………………………………………………….. 58
2.2.1. Biểu hiện kỳ vọng thành tích học tập của học sinh lớp 9 …………………….. 58
2.2.2. Thực trạng xung đột tâm lý về kỳ vọng thành tích học tập ở các lĩnh
vực học tập của học sinh lớp 9
………………………………………………………… 61
2.2.3. Mức độ xung đột tâm lý về kỳ vọng thành tích học tập trên mặt nhận
thức, cảm xúc, hành vi …………………………………………………………………… 63
2.2.4. Mức độ xung đột tâm lý về kỳ vọng thành tích học tập của học sinh
lớp 9…………………………………………………………………………………………….. 71
2.2.5. So sánh mức độ XĐTL về KVTTHT giữa cha mẹ và con học lớp 9 và
các nhóm kỳ vọng thành tích học tập.
………………………………………………. 72
2.2.6. So sánh xung đột tâm lý về kỳ vọng thành tích học tập giữa cha mẹ
và con theo giới tính, học lực, hạnh kiểm, giới tính, thứ tự con trong
gia đình và trình độ học vấn cha mẹ. ……………………………………………….. 76
2.2.7. Hệ quả xung đột tâm lý về kỳ vọng thành tích học tập ……………………….. 82
2.3. Đề xuất một số giải pháp nhằm giảm thiểu XĐTL về KVTTHT giữa cha
mẹ và con của học sinh lớp 9………………………………………………………………… 83
Tiểu Kết Chương 2 ……………………………………………………………………………………… 86
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
………………………………………………………………………. 87
TÀI LIỆU THAM KHẢO
……………………………………………………………………………. 89
PHỤ LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
THCS
Trung học cơ sở
THPT
Trung học phổ thông
XĐTL
Xung đột tâm lý
TTHT
Thành tích học tập
KVTTHT
Kỳ vọng thành tích học tập
KV
Kỳ vọng
XĐ
Xung đột
TYT
Tự ý thức
TĐG
Tự đánh giá
ĐTB
Điểm trung bình
SL
Số lượng
ĐLC
Độ lệch chuẩn
MĐ
Mức độ
HS
Học sinh
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1.
Mẫu nghiên cứu học sinh
……………………………………………………………. 52
Bảng 2.2.
Mẫu nghiên cứu trên 110 học sinh lớp 9 ………………………………………. 55
Bảng 2.3.
Bảng quy đổi điểm trung bình …………………………………………………….. 57
Bảng 2.4.
Mức độ kỳ vọng của học sinh về thành tích học tập (N=316) …………. 58
Bảng 2.5.
Biểu hiện kỳ vọng thành tích học tập của học sinh lớp 9 (N=316) …… 59
Bảng 2.6.
Đánh giá mức độ XĐTL về KVTTHT trên các nhóm lĩnh vực
(N=316)……………………………………………………………………………………. 61
Bảng 2.7.
Mức độ XĐTL về KVTTHT trên mặt nhận thức (N=110) ……………… 63
Bảng 2.8.
Đánh giá MĐXĐ trên mặt nhận thức của 206 học sinh không có
XĐTL về KVTT giữa cha mẹ và con (N= 206). ……………………………. 64
Bảng 2.9.
Biểu hiện XĐTL về KVTTHT trên mặt nhận thức trên từng lĩnh
vực (N=110)
……………………………………………………………………………… 64
Bảng 2.10. Mức độ XĐTL về KVTTHT trên mặt cảm xúc (N=110)
………………… 67
Bảng 2.11. Đánh giá mức độ xung đột trên mặt cảm xúc của 206 học sinh
không có XĐTL về KVTT giữa cha mẹ và con (N= 206). ……………… 68
Bảng 2.12. Đánh giá mức độ XĐTL về KVTTHT trên mặt hành vi (N=110). …… 69
Bảng 2.13. Đánh giá MĐXĐ trên mặt hành vi của 206 học sinh không có
XĐTL về KVTT giữa cha mẹ và con (N= 206) …………………………….. 70
Bảng 2.14. Mức độ XĐTLvề KVTTHT của học sinh lớp 9 (N=110) ……………….. 71
Bảng 2.15.
Tương quan mức độ XĐTL trên các mặt nhận thức, cảm xúc,
hành vi và mức độ XĐTL về KVTTHT. ………………………………………. 71
Bảng 2.16. Xung đột tâm lý về KVTTHT giữa cha mẹ và con trong mong
muốn về thành tích học tập.
………………………………………………………… 72
Bảng 2.17. Xung đột tâm lý về KVTTHT giữa cha mẹ và con trong mong
muốn về TTHT ở những lĩnh vực cụ thể. ……………………………………… 74
Bảng 2.18. So sánh xung đột tâm lý về kỳ vọng thành tích học tập theo
giới tính
……………………………………………………………………………………. 76
Bảng 2.19. So sánh xung đột tâm lý về kỳ vọng thành tích học tập theo
học lực……………………………………………………………………………………… 77
Bảng 2.20. So sánh xung đột tâm lý về kỳ vọng thành tích học tập theo
hạnh kiểm
…………………………………………………………………………………. 78
Bảng 2.21. So sánh xung đột tâm lý về kỳ vọng thành tích học tập theo thứ tự
con trong gia đình ……………………………………………………………………… 78
Bảng 2.22. So sánh xung đột tâm lý về kỳ vọng thành tích học tập theo trình
độ học vấn của cha.
……………………………………………………………………. 80
Bảng 2.23. So sánh xung đột tâm lý về kỳ vọng thành tích học tập theo trình
độ học vấn của mẹ …………………………………………………………………….. 81
Bảng 2.24. ĐTB hệ quả khi xảy ra xung đột tâm lý về kỳ vọng thành tích học
tập (N=110).
……………………………………………………………………………… 82
Bảng 2.25. Một số giải pháp nhằm giảm thiểu xung đột tâm lý về kỳ vọng
thành tích học tập giữa cha mẹ và con của học sinh lớp 9 (N=316) …. 83
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ xưa đến nay, gia đình luôn được xem là tế bào của xã hội, là trường học đầu
tiên của mỗi cá nhân, nơi rèn luyện và đào tạo cá nhân thành những người khỏe
mạnh về thể chất lẫn tinh thần để trở thành những thành viên tài, đức ưu tú cho xã
hội. Trong quá trình phát triển của trẻ em, gia đình là nhóm xã hội đầu tiên trẻ tham
gia với tư cách là thành viên, mối quan hệ cha mẹ – con ảnh hưởng rất lớn đến chiều
hướng, tốc độ và mức độ phát triển tâm lý của trẻ, tuy nhiên “tương tác giữa cha mẹ
không phải lúc nào cũng diễn ra trong điều kiện có sự hiểu biết, tương hợp, tạo nên
bầu không khí hòa thuận mà nhiều khi xuất hiện mâu thuẫn, xung đột” (Lê Minh
Nguyệt, 2015). Nhiều phụ huynh cảm thấy căng thẳng, bất lực khi những đứa con
bắt đầu có những tranh luận với bố mẹ về các vấn đề trong cuộc sống hàng ngày.
Đặc biệt lứa tuổi THCS nói chung và học sinh lớp 9 nói riêng là lứa tuổi đang trải
qua quá trình phát triển tâm sinh lý hết sức phức là lứa tuổi dậy thì có nhiều biến đổi
quan trong về tâm sinh lý nói chung tạp gây ảnh hưởng đến các hoạt động cuộc sống
của rất cần sự hỗ trợ, quan tâm của cha mẹ. Về mặt lý luận có nhiều công trình
nghiên cứu của các tác giả đi trước nhằm tìm hiểu nguyên nhân, tính chất, đề xuất
một số biện pháp giải quyết xung đột trong gia đình như “Xung đột tâm lý giữa cha
mẹ và con lứa tuổi học sinh Trung Học Cơ Sở về nhu cầu độc lập” của tác giả Đỗ
Hạnh Nga (2014), “Xung đột tâm lý giữa cha mẹ với con của tuổi thiếu niên (Lê Thị
Minh Nguyệt, 2016); “XĐTL giữa cha mẹ và con ở Thành phố Bắc Giang (Thân Thị
Nga, 2010)… hầu hết các tác giả đi sâu tìm hiểu nội dung xảy ra XĐ trong gia đình
là gì, những nguyên nhân và biện pháp từ đó đưa ra kết luận chung XĐTL vữa mang
tinh tích cực và tiêu cực tùy theo tính chất và mức độ xung đột. Nhưng nếu XĐTL
xảy ra theo hướng tiêu cực sẽ ảnh hưởng đến thiếu niên, gia đình và xã hội (Trần Thị
Tuyết Mai, 2014). Các kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra rằng trong các mặt học tập,
quan hệ bạn bè, thầy cô… thì học tập là nội dung thường xuyên xảy ra XĐTL giữa
cha mẹ và con nhất. Đối với học sinh THCS đặc biệt là học sinh lớp 9, ngoài hoạt
động chủ đạo là giao tiếp với bạn bè thì hoạt động học tập cũng là rất cần được chú
trọng vì ở độ tuổi này các em chuẩn bị bước vào giai đoạn mới chuẩn bị cho các hoạt
2
động học tập khó khăn hơn về kiến thức, kỹ năng và thi chuyển cấp. Kết quả nghiên
cứu Trần Thị Thanh Hà (2000) đã nghiên cứu kỳ vọng cha mẹ về thành tích học tập
của học sinh THCS, THPT. Kết quả cho thấy cha mẹ có kỳ vọng nhiều vào sự thành
đạt của con. Nghiên cứu Đáp ứng kỳ vọng của con đối với cha mẹ của Tô Thị Hoan
(Tô Thị Hoan, 2017) cho thấy áp lực kỳ vọng về học tập là một trong những nguyên
nhân gây nên stress, trầm cảm, lo âu tình trạng không hài lòng cuộc sống, giảm chất
lượng cuộc sống của trẻ. Hiện nay tuy chưa có những thống kê chính xác nhưng
những con số dưới đây cho thấy sự áp lực hay xung đột đỉnh điểm về kỳ vọng học
tập của cha mẹ đến con cụ thể gần đây báo Thanh niên số ra 15/9/2017 một học sinh
lớp 9 nhảy lầu tự tử vì bị điểm 3 môn Tiếng Anh. Năm 2015 một con số thống kê sơ
bộ nhận định về con số “17% học sinh có ý định tự tử”, Tiến sĩ Nguyễn Tùng Lâm –
Chủ tịch Hội Tâm lý Giáo dục Hà Nội, Hiệu trưởng Trường THPT Đinh Tiên Hoàng
cho rằng, đây là thực trạng đáng lo ngại. Theo Tiến sĩ Tùng Lâm, lỗi thuộc về người
lớn khi đã đặt lên vai trẻ quá nhiều áp lực, kỳ vọng. Trong khi đó, bố mẹ, thầy cô
giáo lại chưa trang bị được cho các em những kỹ năng vượt qua giây phút căng
thẳng, bế tắc. Từ những lý do trên, người nghiên cứu lựa chọn đề tài “Xung đột tâm
lý về kỳ vọng thành tích học tập giữa cha mẹ và con của học sinh lớp 9 tại một
số trường THCS trên địa bàn Tp.HCM”.
2. Mục đích nghiên cứu
Xác định mức độ xung đột tâm lý về kỳ vọng thành tích học tập giữa cha mẹ và
con, và hệ quả của nó, từ đó đề xuất một số giải pháp giảm thiểu dạng xung đột này.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Xung đột tâm lý về kỳ vọng thành tích học tập giữa cha mẹ và con.
3.2. Khách thể nghiên cứu
Học sinh lớp 9 khu vực nội thành Thành phố Hồ Chí Minh.
Khách thể bổ trợ: Một số phụ huynh học sinh lớp 9 và giáo viên THCS dạy lớp
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Giới hạn về đối tượng:Đề tài chỉ tập trung xác định mức độ xung đột tâm lý về
kỳ vọng thành tích học tập giữa cha mẹ và con trên các mặt nhận thức, cảm xúc,
3
hành vi ở một số lĩnh vực như điểm số cuối học kì I, học kì II; khả năng tổ chức xây
dựng nề nếp học tập để đạt kết quả tốt; điểm trung bình một số môn học (Toán, Lý,
Hóa, Văn, Sử, Địa, Ngoại Ngữ, Sinh, Âm nhạc, Mỹ thuật, Thể dục), nhận xét của
giáo viên, mong muốn kết quả thi chuyển cấp.
Giới hạn về khách thể: 316 học sinh lớp 9; 3 giáo viên dạy lớp 9 và 2 phụ
huynh.
Giới hạn địa bàn nghiên cứu: Trường THCS Bạch Đằng (Quận 3); THCS Lê
Anh Xuân (Quận Tân Phú); THCS Hoàng Hoa Thám (Bình Thạnh).
5. Giả thuyết nghiên cứu
– Xung đột tâm lý về kỳ vọng thành tích học tập giữa cha mẹ và con của học
sinh lớp 9 được biểu hiện rõ nét qua mặt nhận thức, cảm xúc, hành vi.
– Mức độ XĐTL về KVTTHT ở những mong muốn về thành tích học tập khác
nhau là khác nhau, trong đó XĐTL về KVTTHT ở mặt kỳ vọng về ĐTB từng nhóm
môn học là cao nhất.
– Có sự khác biệt về mức độ xảy ra xung đột tâm lý về kỳ vọng thành tích học
tập giữacha mẹ và con theo giới tính, thứ bậc con trong gia đình, trình độ học vấn
của cha mẹ.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
6.1. Xây dựng cơ sở lý luận về xung đột tâm lý, xung đột tâm lý giữa cha mẹ và
con, kỳ vọng, kỳ vọng về thành tích học tập.
6.2. Xác đinh biểu hiện và mức độ xung đột về kỳ vọng thành tích học tập giữa
cha mẹ và con học lớp 9 trên các mặt nhận thức, cảm xúc, hành vi.
6.3.Đề xuất một số giải pháp phòng ngừa và giảm thiểu xung đột tâm lý về kỳ
vọng thành tích học tập giữa cha mẹ và con.
7. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện được những nhiệm vụ nghiên cứu đã đề ra, chúng tôi sử dụng một
số phương pháp nghiên cứu sau:
7.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
Sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp và khái quát hóa.
Mục đích : Xây dựng khung lý thuyết và công cụ nghiên cứu của đề tài
4
Nội dung: Các vấn đề lý luận và các kết quả nghiên cứu từ các công trình trong
và ngoài nước, sách, báo, tạp chí chuyên ngành và những nghiên cứu đi trước có liên
quan đến đề tài.
Cách thực hiện : Đọc, phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa tài liệu.
7.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.1. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi.
Mục đích : Đây là phương pháp nghiên cứu được sử dụng chủ yếu trong đề tài
để thu thập thông tin, xác định mức độ xung đột tâm lý về kỳ vọng thành tích học tập
giữa cha mẹ và con học lớp 9.
Nội dung : Tác giả sử dụng hai hình thức điều tra bằng bảng hỏi là câu hỏi mở
và câu hỏi đóng. Câu hỏi mở được sử dụng để thăm dò ý kiến của học sinh về những
nội dung của kỳ vọng thành tích học tập, các lĩnh vực thường xảy ra xung đột tâm lý
về kỳ vọng thành tích học tập giữa cha mẹ và con, những cảm xúc và hành vi có thể
xảy ra khi có xung đột, người trả lời tự diễn tả ý nghĩ của mình, phương pháp này
giúp cho người trả lời có thể nói lên tất cả những gì mình muốn nói từ đó làm cơ sơ
để tác giả thiết kế bảng hỏi chính thức. Câu hỏi đóng (sử dụng trong phiếu khảo sát
chính thức) gồm hai phần nhằm tìm hiểu các biểu hiện kỳ vọng thành tích học tập
học sinh lớp 9 và xung đột tâm lý về kỳ vọng thành tích học tập (những lĩnh vực
thường xảy ra xung đột lâm lý, biểu hiện trên mặt nhận thức – cảm xúc – hành vi; hệ
quả xung đột tâm lý và cách giảm thiểu xung đột). Ở phiếu khảo sát chính thức, học
sinh chỉ cần đọc đánh dấu vào những câu trả lời phù hợp ý kiến của mình.
Cách thực hiện:Thiết kế bảng hỏi dành cho học sinh để đánh giá xung đột tâm
lý về kỳ vọng thành tích học tập giữa cha mẹ và con học sinh lớp 9 dựa trên khái
niệm kỳ vọng thành tích học tập, xung đột tâm lý về kỳ vọng thành tích học tập được
viết trong phần cơ sở lý luận.
– Thiết kế một bảng hỏi liên quan đến kỳ vọng thành tích học tập dành cho giáo
viên và cha mẹ học sinh nhằm đánh giá mong muốn về thành tích học tập đối với học
sinh lớp 9.
– Để xây dựng được phiếu khảo sát chính thức tác giả thực hiện qua 3 bước:
+ Bước 1: Xây dựng và phát phiếu thăm dò ý kiến trên một số học sinh lớp 9.
5
+Bước 2: Dựa trên những thông tin từ phiếu thăm dò ý kiến tác giả thiết kế
bảng hỏi chính thức.
+Bước 3: Phát phiếu khảo sát thử trên 7 học sinh lớp 9, chỉnh sửa những câu
không đạt yêu cầu, sai sót trong cách đặt câu hỏi, cách dùng từ … trong bảng hỏi cho
phù hợp với khác thể nghiên cứu.
7.2.2 Phương pháp phỏng vấn
Mục đích : Đây là phương pháp nghiên cứu bổ trợ nhằm khẳng định lại thông
tin chưa rõ, cũng như củng cố lại các kết luận đã thu thập được từ phiếu thăm dò ý
kiến về tính cần thiết và tính khả thi của các biện pháp giảm thiểu dạng xung đột tâm
lý về kỳ vọng thành tích học tập giữa cha mẹ và con học sinh lớp 9 tại Tp.HCM.
Nội dung :Các câu hỏi được thiết kế dựa trên kết quả có được từ phiếu thăm dò
các biện pháp nhằm giảm thiểu tình trạng xung đột tâm lý giữa cha mẹ và con, chủ
yếu nhấn mạnh ở các biện pháp mà các em chưa đồng ý nhiều.
Cách thực hiện :Tác giả liên hệ với hai cặp cha mẹ – con, một số giáo viên dạy
lớp 9, tác giả chuẩn bị sẵn câu hỏi liên quan kỳ vọng thành tích học tập, xung đột tâm
lý về kỳ vọng thành tích học tập và tiến hành phỏng vấn và ghi chép câu trả lời một
cách chính xác nhất trên giấy.
7.3. Phương pháp xử lý số liệu
Mục đích:Xử lý các số liệu thu được từ việc khảo sát thực trạng
Nội dung : Xử lý các tham số thống kê như: tính tần số, điểm trung bình, độ
lệch chuẩn, cũng như các phép kiểm định T-test, tương quan.
Cách thực hiện: Sử dụng phương pháp thống kê toán học với sự trợ giúp của
phần mềm SPSS 20.0
6
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Lược sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Nghiên cứu về vấn đề ở nước ngoài
a) Nghiên cứu liên quan đến kỳ vọng thành tích học tập
Khi nhắc tới tác động của kỳ vọng, người ta thường nhớ tới “hiệu ứng
Pygmalion” hay còn gọi là lời tiên đoán trở thành sự thực từ thực nghiệm của Robert
Roesenthal (1968). Trong thực nghiệm của mình, Rosenthal và Jacobson đã lựa chọn
ngẫu nhiên một số học sinh ở một trường tiểu học công lập và nói với giáo viên rằng
đây là những học sinh có thể trở thành “những người phát triển nhảy vọt”. Các giáo
viên đã thể hiện sự trông đợi vào những học sinh này thông qua việc ứng xử với các
em như thể chúng sẽ trở thành “người nhảy vọt”. Sau một thời gian phần lớn học
sinh đều đáp ứng những kỳ vọng mà giáo viên đã đặt ra và đạt thành tích cao trong
học tập (dẫn theo Nguyễn Thị Uyên Thy, 2001); (Tô Thị Hoan, 2017); (Đinh Thị
Trinh, 2012).
Nhiều nghiên cứu trên thế giới đã chỉ ra mối quan hệ giữa những kỳ vọng của
cha mẹ với thành tích học tâp của trẻ, với sự thích nghi, căng thẳng tâm lý của học
sinh. Trong đó kỳ vọng về thành tích học tập được nghiên cứu trên một môn học, kết
quả học tập thông qua điểm số của trẻ ở trường hoặc ảnh hưởng như thế nào đến khả
năng học đọc của trẻ.
Kỳ vọng của cha mẹ đã được tìm thấy đóng một vai trò quan trọng trong học
tập và sự thành công trong học tập. Học sinh có cha mẹ có kỳ vọng cao nhận được
điểm cao hơn, đạt được điểm số cao hơn về các bài kiểm tra chuẩn (Davis-
Kean, 2005; Pearce, 2006; Vartanian, 2007). Kỳ vọng của cha mẹ cao cũng liên quan
đến động cơ của học sinh đạt được trong trường học, khả năng thích ứng về học vấn
và xã hội, và khát vọng đi học đại học (Hossler and Stage, 1992) (dẫn theo Yoko
Yamamoto &Susan D. Holloway, 2010).
Wigfield và Eccles đã phát triển lý thuyết giá trị kỳ vọng về động lực thành
tích. Lý thuyết cho rằng những mong đợi và giá trị của cá nhân bị ảnh hưởng bởi bối
cảnh xã hội của họ (cha mẹ, thầy cô, bạn bè, khu phố, và cộng đồng) và thành tích
học tập trước đây. Sau khi thành lập, kỳ vọng và giá trị của một cá nhân sẽ ảnh
7
hưởng đến thành tích học tập, kiên trì và lựa chọn môn học của cá nhân. Nói cách
khác, lý thuyết đưa ra các mối quan hệ nhân quả từ bối cảnh xã hội (ví dụ như mong
đợi của cha mẹ) đến kỳ vọng của học sinh và thành tích học tập của họ (Eccles và
Wigfield, 2002).
Sự kỳ vọng của cha mẹ về thành tích học tập của trẻ được xác định theo nhiều
khía cạnh như kỳ vọng ngắn hạn cho từng lớp học (Entwisle& Hayduk, 1987) với kỳ
vọng dài hạn cho từng cấp học (Pugh, 1976); những thành công cụ thể (như làm tốt
môn toán) với những thành công chung chung (Crandall, Dewey, Katkovsky &
Preston, 1964). Sự kỳ vọng cao của bố mẹ dẫn trẻ tới việc thiết lập cho mình mức độ
cao về học tập và đặt ra cho bản thân nhu cầu cao hơn từ khi còn nhỏ rằng phải đạt
được thành tích cao (Boocock, 1972).
Wahedi (2010) đã nghiên cứu về “ảnh hưởng của những kỳ vọng từ phía cha
mẹ vào thành tích tương lai của con đến sự phát triển trong những năm đầu đời. Đây
là một nghiên cứu tương quan giữa biến độc lập là mức độ kỳ vọng và biến phụ
thuộc là mức độ ngôn ngữ của trẻ 5 – 6 tuổi. Kết quả cho thấy có mối tương quan
thuận giữa mức độ kỳ vọng của cha mẹ và sự phát triển ngôn ngữ của trẻ. Bên cạnh
đó, nghiên cứu còn phát hiện ra cha mẹ có tình trạng kinh tế càng cao thì mức độ kỳ
vọng vào thành tích tương lai càng cao” ( dẫn theo Tô Thị Hoan, 2017).
Yeung và cộng sự (2010) đã thực hiện một nghiên cứu trên 275 học sinh lớp 7
ở Singapore nhằm tìm hiểu xem kỳ vọng của cha mẹ ảnh hưởng ngắn hạn hay dài
hạn trong việc học môn Vật Lý của học sinh không (thành tích và hứng thú). “Người
tham gia được yêu cầu trả lời 29 câu hỏi trong bảng khảo sát về khái niệm bản thân
trong việc học môn Vật lý (thành tích và hứng thú), nhận thức về những kỳ vọng của
cha mẹ ở môn Vật lý, sự tham gia học môn vật lý (thành tích ngắn hạn), khát vọng
học Vật lý trong tương lai (thành tích dài hạn). Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng có
một sự ảnh hưởng tích cực của những nhận thức về kỳ vọng từ phía cha mẹ lên cả
thành tích ngắn hạn và dài hạn trong việc học môn Vật lý” (dẫn theo Tô Thị Hoan,
2017).
Tóm lại, kỳ vọng thành tích học tập nói được nghiên cứu từ rất lâu, các nghiên
cứu tập trung xác định mức độ ảnh hưởng tích cực của kỳ vọng đến kết quả học tập
8
của trẻ trong từng môn học riêng lẻ, từng giai đoạn học tập của trẻ.
b) Nghiên cứu xung đột tâm lý và xung đột tâm lý về kỳ vọng thành tích học tập
giữa cha mẹ và con.
XĐTL như là một hiện tượng tâm lýtương đối phổ biến trong các mối quan hệ
xã hội, nó ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống tâm lý, hiệu quả làm việc, sự phát triển
xã hội… vì vậy XĐTL được rất nhiều nhà tâm lý học quan tâm nghiên cứu.
Hướng nghiên cứu thứ nhất: Nghiên cứu về nguồn gốc, cấu trúc xung đột tâm
lý.
Tiêu biểu cho hướng nghiên cứu này có các tác giả S. Freud, J. Piaget, L.X.
Vưgotxki, X.L. Rubinstein…
Theo S.Freud, mỗi giai đoạn phát triển của đứa trẻ đều có sự khoái cảm, xung
đột, lo hãi riêng. Đây chính là nhân tố thúc đẩy sự phát triển tâm lý. Ông cho rằng,
giai đoạn dậy thì ở tuổi thiếu niên là tuổi sôi động nhất nhưng cũng dễ xung đột nhất.
Trẻ bắt đầu thấy cha mẹ không thật hoàn hảo. Nó phát hiện ra những nhược điểm của
cha mẹ, đôi khi thất vọng về gia đình mình. Từ đó trẻ dễ mắc những bệnh như: Tự
kỉ, trầm cảm, hung tính… S.Freud cho rằng: ở trẻ có mặc cảm Odip cũng dễ gây nên
xung đột trong gia đình ( Lê Minh Nguyệt, 2016).
J.Piaget và các nhà tâm lý học nhân thức cho rằng XĐ có ý nghĩa quan trọng
đối với sự phát triển nhận thức nói riêng và nhân cách của trẻ nói chung. Xung đột
tâm lý như là một trạng thái thiếu hụt, mất cân bằng giữa các quá trình đồng hóa và
điều ứng các kích thích từ các môi trường. Ông chỉ ra nguyên lý của sự phát triển
nhận thức bắt nguồn từ sự đan xen thường xuyên giữa đồng hóa và điều ứng (Dương
Thủy Nguyên, 2016).
Vưxgotki và các nhà tâm lý học cùng xu hướng quan tâm tới xung đột với tư
cách là mâu thuẫn giữa các yếu tố tâm sinh lý bên trong của các cá nhân với các yếu
tố bên ngoài thuộc về môi trường, khi sự phát triển các yếu tố bên trong và điều kiện
khách quan bên ngoài không thống nhất với nhau sẽ dẫn đến xung đột tâm lý, cá
nhân sẽ rơi vào tình trạng khủng hoảng trong quá trình phát triển (Lê Minh Nguyệt,
2014)
Cùng với các lý thuyết trên các tác giả khẳng định một lần nữa XĐTL mang
9
tính tất yếu, khách quan theo quy luật của sự phát triển, tuy nhiên các nghiên cứu của
Freud và các nhà tâm lí học trị liệu cho rằng việc giải quyết không đúng các xung
đột tâm lý cá nhân là nguyên nhân dẫn đến lệch lạc tâm lí, hành vi.
Hướng thứ hai: Nghiên cứu xung đột tâm lý giữa các cá nhân trong nhóm, giữa
các nhóm và tập thể.
E.Mayo (1880 -1949) đã chỉ ra rằng trong mỗi nhóm bao giờ cũng xuất hiện
XĐ: giữa cá nhân với cá nhân trong nhóm; giữa cá nhân và nhóm; giữa nhóm và
nhóm. XĐ xuất hiện thường xuyên và kết quả là nó luôn là sự căm ghét, sự bất hòa,
thù địch…(Nguyễn Thị Hiền, 2017).
Theo Kauzer (1956), XĐ là một bộ phận không thể tách rời của tồn tại xã hội
và tác động qua lại giữa các cá nhân và nhóm (dẫn theo Lê Minh Nguyệt, 2016).
Xung đột tâm lý giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân với tập thể không chỉ xảy ra
ở người lớn mà còn xuất hiện ở tuổi thiếu niên, tiểu học. Cụ thể có các công trình
nghiên cứu như: Inge B. Wissink, Maja Dekovic đã nghiên cứu trên 508 thiếu niên
về mối quan hệ giữa các khía cạnh khác nhau của quan hệ tình bạn cụ thể như tần
xuất liên hệ giữa bạn bè, sự tự tin, sự tin tưởng vào bạn bè của tuổi thiếu niên và
nhận thức về sự lệch lạc hành vi của bạn. Từ kết quả cho thấy có vấn đề gây hấn và
phạm pháp đáng báo động trong mối quan hệ bạn bè hư hỏng ở giai đoạn tuổi thiếu
niên (dẫn theo Nguyễn Thị Hiền, 2017).
Dr. Brenda Davies (2001) trong tác phẩm “làm thế nào để đối phó với những
xung đột trong tình bạn” đã đưa ra cách thức giải quyết xung đột trong tình bạn như:
tìm ra động cơ xảy ra xung đột là xuất phát từ yêu thương hay trả đũa vết thương
lòng của bạn.
Hướng thứ ba: Nghiên cứu xung đột tâm lý giữa cha mẹ và con ở lứa tuổi thiếu
niên
D.E Way (1953), Brett Laursen (1989) cũng nghiên cứu về xung đột trẻ em
trong đó có lứa tuổi thiếu niên. Theo các tác giả, những biểu hiện XĐ của trẻ rất đa
dạng. Cùng xuất phát từ một nguyên nhân nhưng biểu hiện hành vi XĐ lại rất khác
nhau như cãi lại, lý sự, bỏ đi lang thang hoặc chứng trầm cảm …(Lê Minh Nguyệt,
2016).
10
Petrovski (1982) đi sâu nghiên cứu xung đột lứa tuổi thiếu niên với người lớn.
Ông cho rằng nguyên nhân xung đột là do người lớn không biết cách và không muốn
tìm cho thiếu niên một vị trí bên cạnh mình.
Nghiên cứu bản chất XĐTL các nhà nghiên cứu cho rằng mặc dù phần lớn
xung đột xảy ra trong gia đình dường như không có gì nặng nề (con đi chơi về
khuya, ngủ không đúng giờ giấc, ăn mặc không phù hợp lứa tuổi…) nhưng chính
những xung đột ở mức độ thấp đó lại có ý nghĩa quan trọng trong sự phát triển tâm lý
của con tuổi đầu vị thành niên. Hơn nữa các nhà tâm lý học cũng cho rằng những chủ
đề mà lứa tuổi này cha mẹ thường tranh luận với nhau đã thay đổi ít nhiều so với sáu
mươi năm trước đây nhưng những cuộc tranh luận về việc nhà, giơ giấc đi lại, sở
thích, hứng thú, phép lịch sự, ăn mặc và chuyện học hành là những chủ đề gây ra
“sóng gió”, “va chạm” nhiều nhất giữa cha mẹ và con mọi thời điểm của lịch sử (dẫn
theo Đỗ Hạnh Nga, 2014).
Xem xét nguyên nhân XĐTL từ phía cha mẹ, V.C.Zaclugenhuc và
V.A.Xemichenco (1996) cho rằng cha mẹ thường quan niệm con có nhiệm vụ thực
hiện những ước mơ và kỳ vọng của họ (chẳng hạn: học giỏi, hát hay…) và nếu con
hành động ngược lại sẽ tạo nên sự bế tắc tâm lý và khoảng cách với cha mẹ (dẫn theo
Đỗ Hạnh Nga, 2014).
Như vậy, XĐTL có thể xảy ra trong bất cứ mối quan hệ xã hội, ở đâu có mối
quan hệ xã hội thì ở đó có thể xuất hiện xung đột. Các nghiên cứu trên thế giới hiện
nay đi sâu và làm sáng tỏ nguyên nhân, hệ quả xung đột, cấu trúc xung đột… liên
quan nhiều đối tượng cụ thể (bạn bè, cha mẹ, con, tập thể…) nhưng những nghiên
cứu xung đột liên quan đến kỳ vọng thành tích học tập chưa được tập trung mà chủ
yếu dạng xung đột này thường nằm trong nhóm các nội dung xung đột hoặc được
nghiên cứu dưới dạng nguyên nhân của xung đột.
1.1.2. Nghiên cứu vấn đề tại Việt Nam
a) Nghiên cứu liên quan đến kỳ vọng thành tích học tập
Đến hiện tại, các nghiên cứu về kỳ vọng của cha mẹ Việt Nam chưa nhiều và
chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực khác nhau trong cuộc sống.
Ở Việt nam, một số nghiên cứu cho thấy, cha mẹ đã bắt đầu kỳ vọng tới trẻ khi
11
còn là học sinh tiểu học. Những lĩnh vực mà cha mẹ kỳ vọng khác nhau ở từng giai
đoạn. Theo đó ở lứa tuổi tiểu học tình trạng sức khỏe và phẩm chất đạo đức được đặt
lên hàng đầu. Nghiên cứu khảo sát trên 270 phụ huynh có con học lớp 3;4 trên địa
bàn Hà Nội cho thấy mức độ kỳ vọng của cha mẹ vào conlứa tuổi tiểu học là khá
cao, trong đó mối quan tâm của phụ huynh với trẻ tiểu học là sức khỏe thể chất và
phẩm chất đạo đức ( Lã Thị Thu Thủy, 2009). Cũng nghiên cứu về kỳ vọng của bố
mẹ về các phẩm chất cần có ở con họ, tác giả Nguyễn Tuấn Anh tiến hành nghiên
cứu trên 540 cha mẹ có con đang học ở bậc trung học cho thấy cha mẹ hiện nay đang
kỳ vọng cao ở con mình những phẩm chất như: “nề nếp, ngoan ngoãn, lễ phép”; “yêu
nước, trách nhiệm và có tinh thần cộng đồng”; “sống trọn vẹn tình nghĩa và yêu lao
động”. Bài báo cũng chỉ ra rằng yếu tố giới tính và nghề nghiệp của cha mẹ ảnh
hưởng đến những kỳ vọng này. Các bậc cha mẹ có xu hướng kỳ vọng ở con mình
những phẩm chất phù hợp với tính chất công việc và đặc điểm nghề nghiệp của cha
mẹ (Nguyễn Tuấn Anh, 2017).
Năm 2000 tác giả Trần Thị Thanh Hà đã nghiên cứu kỳ vọng của bố mẹ về
thành tích học tập của con. Kết quả cho thấy cha mẹ có kỳ vọng nhiều vào sự thành
đạt của con trong tương lai khi nghiên cứu kỳ vọng của cha mẹ về sự thành đạt của
con (Trần Thị Thanh Hà, 2000).
Tác giả Nguyễn Thị Uyên Thy (2001) nghiên cứu về kỳ vọng thành đạt của cha
mẹ với con ở học sinh THPT cho thấy kỳ vọng của cha mẹ tương đối cao. Mong đợi
chủ yếu của cha mẹ là con thi đậu đại học (87,2%). Nghiên cứu cũng cho thấy có
mối tương quan giữa biểu hiện của kỳ vọng qua các việc làm cụ thể của cha mẹ có
tương quan với kết quả học tập của con nhưng chỉ ở mức thấp (Nguyễn Thị Uyên
Thy, 2001).
Trần Đình Tuấn (2015) đã tìm ra rằng hầu hết phụ huynh đều mong rằng con
của mình sau này sẽ thành đạt. Các bậc cha mẹ đều có những cách thức khác nhau để
thể hiện sự quan tâm hay truyền tải những kỳ vọng của mình đến con thông qua việc
quản lý, giáo dục con và phản ứng trước những thành công hay thất bại của con.
Kết quả nghiên cứu 100 thiếu niên tuổi 16 – 17 đang học lơp 10 tại Hà Nội của
Văn Thị Kim Cúc (2005) đã chỉ ra rằng mức độ kỳ vọng của cha mẹ vào sự thành đạt
12
của con có mối liên hệ với sự tự đánh giá bản thân của trẻ. “Việc bố mẹ không mong
đợi gì vào sự thành công của con mình hoặc sự mong đợi thái quá có thể gây ra
những khó khăn cho trẻ về mặt cảm xúc, những rào cản trong cuộc sống học đường
và những hạn chế cho việc hoạch định các kế hoạch tương lai.
Tuy nhiên cho đến thời điểm hiện tại có thể thấy các nghiên cứu quan tâm đến
lĩnh vực này còn khá ít, bên cạnh đó nhiều tài liệu dịch được từ nước ngoài chưa giải
thích được rằng những kỳ vọng của cha mẹ ảnh hưởng như thế nào tới trẻ em và
thanh thiếu niên Việt Nam (Nguyễn Văn Đồng, 2012).
Nguyễn Thị Nhân Ái và Tô Thị Hoan (2014) cũng chỉ ra rằng có sự liện hệ giữa
mức độ kỳ vọng của cha mẹ và sự căng thẳng tâm lý của học sinh THPT trên 150
học sinh THPT và 50 phụ huynh ở Hà Nội. Nghiên cứu cho thấy phần lớn phụ huynh
có mức độ kỳ vọng vừa phải vào thành tích học tập hiện tại và thành công trong học
tập, định hướng nghề nghiệp tương lai của con. Có sự tương đồng giữa cha mẹ và
con trong đánh giá về mức độ kỳ vọng của cha mẹ, các em thấy lo lắng và sợ hãi vì
sợ làm bố mẹ thất vọng hoặc cảm thấy buồn và xấu hổ khi không đạt được những
mong đợi đó. Tuy nhiên kết quả nghiên cứu này chưa thực sự làm rõ mối quan hệ
giữa những kỳ vọng của cha mẹ và sự căng thẳng tâm lý của trẻ.
Tác giả Tô Thị Hoan nghiên cứu “Đáp ứng kỳ vọng từ cha mẹ và chất lượng
cuộc sống của học sinh THPT” trên 418 học sinh từ lớp 10 đến lớp 12 tại một số
trường Hà Nội đã khảo sát nhận thức học sinh về kỳ vọng của cha mẹ ở mức độ cao.
Trong đó học sinh cho rằng cha mẹ mong đợi các em là các em có những hành vi,
thái độ thể hiện “sự trưởng thành”, kế đến là “thành tích học tập” và cuối cùng là
“các mối quan hệ lãng mạn” trong khi đó học sinh tựđánh giá sự đáp ứng những kỳ
vọng đó của bản thân ở mức độ thấp hơn, điều đó dẫn tới việc phần lớn học sinh
không đáp ứng được kỳ vọng từ phía cha mẹ nói chung. Kết quả khảo sát cũng chỉ ra
được mối liên hệ giữa chất lượng cuộc sống của học sinh với việc đáp ứng kỳ vọng
của cha mẹ, một trong hai biến này thay đổi thì biến kia cũng thay đổi (Tô Thị Hoan,
2017).
13
b) Nghiên cứu về xung đột tâm lý, xung đột tâm lý giữa cha mẹ và con về kỳ
vọng thành tích học tập.
Hướng thứ nhất: Nghiên cứu XĐTL giữa các cá nhân trong nhóm, giữa nhóm
trong tập thể
Ở Việt Nam, XĐTL cũng được rất nhiều nhà Tâm lí học quan tâm nghiên cứu.
Đầu tiên là công trình nghiên cứu XĐTL trong tập thể của tác giả Trần Trọng Thủy
“XĐ với không khí tâm lý trong tập thể”. Tác giả cho rằng có XĐTL trong tập thể
người sản xuất với nhau khi họ có cùng nhóm và cùng tập thể tham gia vào hoạt
động sản xuất. Mức độ của XĐTL khác nhau tùy theo từng nguyên nhân, nó liên
quan đến mối quan hệ xã hội hay mối quan hệ kinh tế (dẫn theo Nguyễn Thị Hiền,
2017).
Tác giả Cao Huyền Nga (2001), Nguyễn Thị Minh khai thác XĐTL trong mối
quan hệ vợ chồng, gần đây nhất có nghiên cứu Nguyễn Đình Mạnh (2006) đã chỉ ra
mức độ xung đột cũng như biểu hiện xung đột của các cặp vợ chồng, nguyên nhân,
biểu hiện, ảnh hưởng của XĐTL đến hạnh phúc của gia đình.
Nguyễn Xuân Thức (2005) đã chỉ ra nguyên nhân xảy ra xung đột trong nhóm
bạn bè học sinh Tiểu học và xu hướng giải quyết mâu thuẫn của học sinh tiểu học.
Ông cho rằng xung đột với bạn bè là điều tất yếu, điều quan trọng là giáo viên, người
lớn nhận thức được xung đột của học sinh, phân loại xung đột, các nguyên nhân dẫn
đến xung đột đế tìm ra cách giải quyết phù hợp. Trong đó, ông đã chỉ ra nguyên nhân
đẫn đến xung đột đa dạng, nhưng nhiều nhất là do bất đồng quan điểm, ý kiến cá
nhân của các thành viên trong nhóm, người đứng ra giải quyết xung đột gồm nhiều
lực lượng khác nhau, thủ lĩnh – người có uy tín trong nhóm là lực lượng tham gia giải
quyết chủ yếu nhất. Ông còn cung cấp thêm xu hướng giải quyết xung đột trong
nhóm bạn bè của học sinh tiểu học là giải quyết trong nội bộ, hạn chế nhờ “ngoại
bang” bên ngoài.
Hướng thứ hai: Nghiên cứu XĐTL giữa cha mẹ và con lứa tuổi thiếu niên
Theo tác giả Lê Minh Nguyệt khảo sát 1350 học sinh THCS 7 tỉnh thành phố có
khoảng “20% -25% số gia đình có XĐ giữa cha mẹ và con ở mức có nguy cơ cao,
mâu thuẫn và xung khắc nhau (xung đột gay gắt); khoảng 60% số gia đình có XĐ
14
giữa cha mẹ và con ở mức 2, 3 tức là mức có sự khác biệt khá rõ giữa cha mẹ với con
về nhận thức, thái độ và hành động của cha mẹ và con trong lĩnh vực hoạt động chủ
yếu của con. Trong các lĩnh vực hoạt động được khảo sát thì lĩnh vực học tập (2,63)
và quan hệ với bạn (2,69) của con thường xảy ra xung đột cao hơn so với các lĩnh
vực định hướng giá trị (2,62) và tác phong sinh hoạt của con (2,62)” ( Lê Minh
Nguyệt, 2016).
Nghiên cứu trên 250 cặp cha mẹ và học sinh THCS trên địa bàn thành phố Bắc
Giang của tác giả Thân Thị Nga cho thấy xung đột giữa cha mẹ và con thường xuyên
xảy ra ở mức độ cao trong các mặt xung đột về thái độ – nhận thức hành vi thì xung
đột về thái độ giữa cha mẹ và con thường xuyên diễn ra, trong đó đề tài cũng chỉ ra
lĩnh vực XĐ thường xuyên xảy ra là học tập (theo đánh giá cha mẹ: 3,17), (theo đánh
giá của con: 3,38) và sinh hoạt hằng ngày. Đề tài tìm hiểu nguyên nhân và cách giải
quyết XĐ giữa cha mẹ và con (Thân Thị Nga, 2016).
Tác giả ĐỗHạnh Nga đã lí giải XĐ theo bốn nhóm nguyên nhân XĐ giữa cha
mẹ với con: Nguyên nhân từ phía cha mẹ là do cha mẹ không hiểu tâm lý của con
chiếm tỉ lệ 48,8%; cha mẹ muốn áp đặt yêu cầu của cha mẹ với con chiếm tỷ lệ 41,2
%; thời gian gần gũi con chiếm tỷ lệ 31,2%;cha mẹ sợ con chụy nhiều ảnh hưởng của
thần tượng; cha mẹ chưa có kinh nghiệm giải quyết xung đột với con; uy tín của cha
mẹ với con bị giảm sút. Cũng trong nghiên cứu này tác giả đã sử dụng trị liệu hành vi
nhận thức để giải quyết xung đột giữa trẻ và cha mẹ liên quan đến vấn đề thần tượng
(dẫn theo Lê Minh Nguyệt, 2016).
Năm 2005 trong nghiên cứu “XĐTL giữa cha mẹ và con lứa tuổi học sinh
THCS về nhu cầu độc lập cho rằng đặc điểm nổi bật của XĐTL về nhu cầu độclập là
sự khác biệt về nhận thức giữa cha mẹ và con lứa tuổi học sinh THCS, khi conđã có
khả năng trong nhận thức và muốn tự quyết định những công việc trong cuộc sống
hàng ngày, còn cha mẹ lại muốn duy trì sự phụ thuộc của con vào mình (Đỗ Hạnh
Nga, 2005).
Nghiên cứu của Đặng Thị Tâm trên 125 học sinh và cha mẹ ở Thành phố Đà
Nẵng cho thấy phần lớn học sinh có mâu thuẫn với cha mẹ (tần suất xung đột từ phía
con: 95,2%; cha mẹ: 97,6%) nhiều nhất là vấn đề học tập (ĐTB của con: 2,74, ĐTB
15
cha mẹ: 2,61). Hầu hết cha mẹ và con đều chưa có cách giải quyết xung đột, và đa
phần sau khi xảy ra xung đột với cha mẹ các em thường rơi vào trạng thái ức chế
(Đặng Thị Tâm, Nguyễn Thị Phương Trang, 2016).
Theo Đinh Thị Hồng Vân trong nghiên cứu “Cảm xúc âm tính trong quan hệ xã
hội của trẻ vị thành niên” tác giả chỉ ra 50,1% học sinh cho rằng nguyên nhân gây
xúc cảm âm tính cho trẻ là áp lực về thành tích học tập của bố mẹ đặt ra cho trẻ. Với
mong muốn con cái có cuộc sống tốt đẹp cha mẹ đã đặt ra những yêu cầu, kỳ vọng
quá mức so với năng lực, trí tuệ, sức khỏe cũng như đối lập với sở thích, hứng thú
của các em và khi TTHT không đáp ứng mong muốn bố mẹ, bố mẹ thường tỏ thái độ
không bằng lòng hoặc la mắng quát nạt con, đây cũng là những hành vi biểu hiện của
sự XĐTL về kỳ vọng TTHT giữa cha mẹ và con (Đinh Thị Hồng Vân, 2014).
Tóm lại, các nghiên cứu trên đã mô tả được phần nào bức tranh thực trạng
XĐTL giữa cha mẹ và con lứa tuổi học sinh THCS và nguyên nhân, hậu quả của
XĐTL giữa cha mẹ và con ở từng nội dung khác nhau trong hoạt động hằng ngày
của con và cha mẹ, trong nhóm nội dung XĐ các tác giả cho thấy học tập là một
trong những nội dung có tần xuất xung đột ở mức thường xuyên. Bởi vậy nghiên cứu
XĐTL trong hoạt động học tập thật sự rất cần thiết vì đây cũng là hoạt động chủ yếu
của thiếu niên ở giai đoạn này cũng là sự quan tâm chính của các bậc cha mẹ học
sinh.
1.2. Các khái niệm của đề tài
1.2.1. Khái niệm thành tích học tập
a) Khái niệm
Kết quả học tập (learning result), hay thành tích học tập (achievement) hoặc
thành quả học tập là một thuật ngữ chưa được thống nhất về cách gọi nhưng được
hiểu theo nghĩa giống nhau ( Nguyễn Công Khanh, 2015).
James Madision University (2003) cho rằng “kết quả học tập là bằng chứng sự
thành công của học sinh về kiến thức, kỹ năng, năng lực, thái độ đã được đặt ra trong
mục tiêu giáo dục và kết quả học tập được thể hiện cụ thể ở các chỉ số học tập” (dẫn
theo Lê Thị Ngọc Sương, 2017). Từ khái niệm trên có thể hiểu kết quả học tập của
học sinh chính là mức độ đạt được về kiến thức, kỹ năng, thái độ so với những yêu
16
cầu, mục tiêu dạy – giáo dục và cách hiểu kết quả học tập ở trên cũng tương tự như
nội làm của khái niệm “thành tích học tập” được đề cập trong từ điển Cambridge
“thành tích học tập là kết quả đầu ra của quá trình giáo dục phản ánh mức độ người
học chiếm lĩnh mục tiêu giáo dục đã đề ra như thế nào” (dẫn theo Trần Thị Huyền
Anh, 2015).
Năm 2017, trong “Đánh giá kết quả học tập môn học theo định hướng phát
triển năng lực sinh viên” tác giả Nguyễn Thành Nhân, trên cơ sở kế thừa các nghiên
cứu lý luận và thực tiễn về kết quả học tập của các nhà khoa học kết hợp với các
tuyên bố gần đây của UNESCO về học tập và giáo dục trong thế kỷ XXI, tác giả trên
cho rằng cần xem xét khái niệm kết quả học tập qua hai mức độ. Theo nghĩa rộng
(gắn với quá trình học tập và phát triển chung của cá nhân trong cuộc sống) và nghĩa
hẹp (gắn với quá trình học tập và phát triển của người học trong quá trình giáo dục
được tổ chức bởi nhà trường) của kết quả học tập. Cụ thể như sau:
Theo nghĩa rộng, kết quả học tập là tổng thể các biểu hiện phản ánh sự thay đổi
trên phương diện nhận thức, năng lực hành động, thái độ biểu cảm xã hội cũng như
tương tác xã hội mà cá nhân có được thông qua hoạt động học tập tự giác, tích cực và
chủ động, diễn ra một cách bình thường trong cuộc sống, trong các hoạt động và các
mối quan hệ xã hội của mỗi người.
Theo nghĩa hẹp, kết quả học tập là thành quả thực tế của cá nhân người học
phản ánh mức độ đáp ứng yêu cầu học tập theo định hướng của mục tiêu, của nội
dung học tập, trong môn học cũng như trong chương trình giáo dục quy định chúng
được đánh giá trên cơ sở đo lường và kiểm tra theo các tiêu chí khác nhau.
Theo các tác giả Trần Khánh Đức (2012) và Nguyễn Công Khanh (2015), kết
quả học tập là mức độ thành công trong học tập của học sinh được xem xét trong mối
quan hệ với mục tiêu đã xác định, chuẩn tối thiểu cần đạt và công sức, thời gian bỏ
ra. Hay nói cách khác, kết quả học tập là mức thực hiện các tiêu chí và các chuẩn
mực theo mục tiêu học tập đã xác định Trần Khánh Đức (2012), (Nguyễn Công
Khanh, 2015). Trong luận văn của mình, tác giả lựa chọn khái niệm này là hướng
tiếp cận của đề tài, theo đó kết quả học tập được xem xét trong mối quan hệ với nhất
định với các mục tiêu giáo dục được thống nhất chung trong trường học và thông qua