9782_Cảm nhận hạnh phúc của người làm tham vấn tâm lí tại TP.HCM

luanvantotnghiep.com

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Hồ Tâm Đan

CẢM NHẬN HẠNH PHÚC CỦA
NGƯỜI LÀM THAM VẤN TÂM LÝ
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÍ HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh – 2019
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Hồ Tâm Đan

CẢM NHẬN HẠNH PHÚC CỦA
NGƯỜI LÀM THAM VẤN TÂM LÝ
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Chuyên ngành : Tâm lí học
Mã số
: 8310401

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÍ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. VÕ THỊ TƯỜNG VY

Thành phố Hồ Chí Minh – 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các dữ liệu và
kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác.

TP.HCM, ngày 30 tháng 9 năm 2019
Tác giả

Hồ Tâm Đan

LỜI CẢM ƠN

Xin được chân thành bày tỏ lòng biết ơn đến:
TS. Võ Thị Tường Vy, người hướng dẫn khoa học, một nhà giáo với sự tận tâm
và bề dày kinh nghiệm, đã tận tình hướng dẫn giúp tôi hoàn thành luận văn này.
Ban Giám hiệu, các Thầy Cô khoa Tâm lí học, Phòng Sau đại học Trường Đại
học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh đã giúp đỡ và tạo điều kiện trong suốt thời
gian tôi học tập và thực hiện luận văn.
Gia đình, bạn bè, những người đã luôn bên cạnh, ủng hộ, động viên và hết lòng
giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn.
Xin chân thành cảm ơn!

MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục chữ viết tắt
Danh mục các bảng
Danh mục các biểu đồ
MỞ ĐẦU …………………………………………………………………………………………………….. 1
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CẢM NHẬN HẠNH PHÚC CỦA
NGƯỜI LÀM THAM VẤN TÂM LÍ
………………………………………….. 7
1.1. Tổng quan các nghiên cứu liên quan đến hạnh phúc và cảm nhận
hạnh phúc …………………………………………………………………………………………… 7
1.1.1. Tổng quan các nghiên cứu trên thế giới …………………………………………… 7
1.1.2. Tổng quan các nghiên cứu trong nước …………………………………………… 16
1.2. Cơ sở lý luận về cảm nhận hạnh phúc của người làm tham vấn tâm lí ……… 21
1.2.1. Lý luận về cảm nhận hạnh phúc
…………………………………………………… 21
1.2.2. Lý luận về người làm tham vấn tâm lí ………………………………………….. 28
1.2.3. Lý luận về cảm nhận hạnh phúc của người làm tham vấn tâm lí ……… 41
1.2.4. Các yếu tố có mối liên hệ với cảm nhận hạnh phúc của người làm
tham vấn tâm lí
………………………………………………………………………….. 44
Tiểu kết chương 1 ……………………………………………………………………………………… 49
Chương 2. THỰC TRẠNG BIỂU HIỆN CẢM NHẬN HẠNH PHÚC
CỦA NGƯỜI LÀM THAM VẤN TÂM LÍ TẠI TP.HCM …………. 50
2.1. Tổ chức nghiên cứu …………………………………………………………………………… 50
2.1.1. Mẫu nghiên cứu ………………………………………………………………………….. 50
2.1.2. Phương pháp nghiên cứu ……………………………………………………………… 51
2.1.3. Tiến trình nghiên cứu
…………………………………………………………………… 60
2.2. Kết quả nghiên cứu thực trạng biểu hiện cảm nhận hạnh phúc của người
làm tham vấn tâm lí tại TP.HCM
…………………………………………………………. 60
2.2.1. Thực trạng biểu hiện chung về cảm nhận hạnh phúc của người làm
tham vấn tâm lí tại TP.HCM
……………………………………………………….. 61
2.2.2. Mức độ cảm nhận hạnh phúc của người làm tham vấn tâm lí qua
các mặt biểu hiện
……………………………………………………………………….. 62
2.2.3. Tương quan giữa các mặt biểu hiện của cảm nhận hạnh phúc ở
người làm tham vấn tâm lí tại TP.HCM ……………………………………….. 79
2.2.4. Cảm nhận hạnh phúc của người làm tham vấn tâm lí tại TP.HCM
xét theo giới tính, độ tuổi, số năm làm tham vấn và thu nhập ………….. 81
2.2.5. Các yếu tố có mối tương quan với cảm nhận hạnh phúc của người
làm tham vấn tâm lí tại TP.HCM
…………………………………………………. 83
2.2.6. Tính hiệu quả của các biện pháp nhằm nâng cao cảm nhận hạnh
phúc của người làm tham vấn tâm lí
…………………………………………….. 91
Tiểu kết chương 2 ……………………………………………………………………………………… 93
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ …………………………………………………………………….. 95
TÀI LIỆU THAM KHẢO
………………………………………………………………………….. 97
PHỤ LỤC

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt
Nội dung viết tắt
CNHP
Cảm nhận hạnh phúc
NLTVTL
Người làm tham vấn tâm lí
ĐTB
Điểm trung bình
ĐLC
Độ lệch chuẩn
Nxb
Nhà xuất bản
TP.HCM
Thành phố Hồ Chí Minh

DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1.
Phân bố khách thể tham gia nghiên cứu (N=63) ………………………….. 50
Bảng 2.2.
Cách thức quy đổi đổi điểm của thang đo RPWB ………………………… 54
Bảng 2.3.
Cách thức quy đổi đổi điểm của các tiểu thang đo trong thang
RPWB ……………………………………………………………………………………. 54
Bảng 2.4.
Cách thức quy đổi đổi điểm của thang đo SWLS
…………………………. 55
Bảng 2.5.
Cách thức quy đổi đổi điểm của thang đo GQ-6 ………………………….. 56
Bảng 2.6.
Cách thức quy đổi đổi điểm của thang đo RES ……………………………. 56
Bảng 2.7.
Cách thức quy đổi đổi điểm của thang đo LOT-R
………………………… 57
Bảng 2.8.
Cách thức quy đổi đổi điểm của thang đo tính hiệu quả của các
biện pháp ………………………………………………………………………………… 57
Bảng 2.9.
Hệ số tin cậy của các thang đo
…………………………………………………… 59
Bảng 2.10. Biểu hiện chung CNHP của NLTVTL tại TP.HCM
……………………… 61
Bảng 2.11. Mức độ CNHP biểu hiện qua các nội dung của mặt tự chủ
……………. 63
Bảng 2.12. So sánh mức độ CNHP biểu hiện qua các nội dung của mặt tự chủ
theo độ tuổi …………………………………………………………………………….. 65
Bảng 2.13. So sánh mức độ CNHP biểu hiện qua các nội dung của mặt tự chủ
theo số năm làm tham vấn ………………………………………………………… 65
Bảng 2.14. So sánh mức độ CNHP biểu hiện qua các nội dung của mặt tự chủ
theo trình độ đào tạo ………………………………………………………………… 66
Bảng 2.15. Mức độ CNHP biểu hiện qua các nội dung của mặt làm chủ
hoàn cảnh ……………………………………………………………………………….. 68
Bảng 2.16. Mức độ CNHP biểu hiện qua các nội dung của mặt phát triển bản
thân
………………………………………………………………………………………… 70
Bảng 2.17. Mức độ CNHP biểu hiện qua các nội dung của mặt mối quan hệ
tích cực
…………………………………………………………………………………… 73
Bảng 2.18. Mức độ CNHP biểu hiện qua các nội dung của mặt mục tiêu sống

………………………………………………………………………………………………. 75
Bảng 2.19. Mức độ CNHP biểu hiện qua các nội dung của mặt tự chấp nhận ….. 77
Bảng 2.20. Tương quan giữa các mặt biểu hiện của CNHP ở NLTVTL tại
TP.HCM
…………………………………………………………………………………. 80
Bảng 2.21. So sánh mức độ CNHP của NLTVTL theo giới tính…………………….. 81
Bảng 2.22. So sánh mức độ CNHP của NLTVTL theo độ tuổi
………………………. 81
Bảng 2.23. So sánh mức độ CNHP của NLTVTL theo số năm làm tham vấn
….. 82
Bảng 2.24. So sánh mức độ CNHP của NLTVTL theo thu nhập ……………………. 82
Bảng 2.25. Mức độ hài lòng với cuộc sống của NLTVTL tại TP.HCM
…………… 83
Bảng 2.26. Tương quan giữa CNHP và sự hài lòng với cuộc sống của
NLTVTL tại TP.HCM ……………………………………………………………… 84
Bảng 2.27. Mức độ trải nghiệm lòng biết ơn của NLTVTL tại TP.HCM ………… 85
Bảng 2.28. Tương quan giữa CNHP và lòng biết ơn của NLTVTL tại
TP.HCM
…………………………………………………………………………………. 86
Bảng 2.29. Mức độ trải nghiệm lòng tự trọng của NLTVTL tại TP.HCM
……….. 87
Bảng 2.30. Tương quan giữa CNHP và lòng tự trọng của NLTVTL tại
TP.HCM
…………………………………………………………………………………. 88
Bảng 2.31. Mức độ lạc quan của NLTVTL tại TP.HCM
……………………………….. 89
Bảng 2.32. Tương quan giữa CNHP và thái độ lạc quan của NLTVTL tại
TP.HCM
…………………………………………………………………………………. 90
Bảng 2.33. Mức độ hiệu quả của các biện pháp nhằm nâng cao CNHP của
NLTVTL tại TP.HCM ……………………………………………………………… 91

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1. Mức độ chung về CNHP của NLTVTL tại TP.HCM
……………………. 62
Biểu đồ 2.2. Mức độ CNHP biểu hiện qua mặt tự chủ
…………………………………….. 62
Biểu đồ 2.3. Mức độ CNHP biểu hiện qua mặt làm chủ hoàn cảnh…………………… 67
Biểu đồ 2.4. Mức độ CNHP biểu hiện qua mặt phát triển bản thân
…………………… 70
Biểu đồ 2.5. Mức độ CNHP biểu hiện qua mặt mối quan hệ tích cực ……………….. 72
Biểu đồ 2.6. Mức độ CNHP biểu hiện qua mặt mục tiêu sống …………………………. 74
Biểu đồ 2.7. Mức độ CNHP biểu hiện qua mặt tự chấp nhận …………………………… 77

1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hạnh phúc dù cho ở thời đại nào thì vẫn luôn là một giá trị nhân sinh quan trọng
bậc nhất mà con người theo đuổi. Ngay từ rất sớm trong lịch sử, hạnh phúc đã là đối
tượng được mọi tôn giáo và nhiều trường phái triết học quan tâm. Như Aristote đã
từng nói: “Hạnh phúc là ý nghĩa và mục đích của cuộc đời, là mục tiêu và cũng là
giới hạn tận cùng của sự tồn tại của con người”. Những câu hỏi như: “Điều gì khiến
cuộc sống trở nên đáng sống?”, “Hạnh phúc thật sự là gì?”, “Làm thế nào để có được
hạnh phúc?” đã dẫn đến vô số cuộc tranh luận, và đến nay vẫn chưa thật sự được trả
lời một cách thỏa đáng. Suốt một khoảng thời gian dài trước đây hạnh phúc hoàn toàn
chỉ được nghiên cứu theo kiểu định tính. Bắt đầu từ thế kỷ 19, cùng với sự tiến bộ
của các ngành khoa học, hạnh phúc mới được nghiên cứu theo hướng định lượng bởi
nhiều ngành khoa học khác nhau như: kinh tế học, xã hội học, sinh học, hóa học…
kể cả tâm lí học. Đến cuối thế kỷ 19, nhà tâm lí học người Mỹ, Martin Seligman đã
sáng lập ra một phân ngành mới của tâm lí học đó là tâm lí học tích cực, chuyên
nghiên cứu định lượng về hạnh phúc, và hướng đến định hướng cho cuộc sống con
người đạt đến sự hưng thịnh.
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, hạnh phúc có mối liên hệ với sự thành công
của một cá nhân. Trong bài viết “The Benefits of Frequent Positive Affect: Does
Happiness Lead to Success?” đăng trên tạp chí Psychological Bulletin do Hiệp hội
Tâm lí học Hoa Kỳ xuất bản, Sonja Lyubomirsky, Laura King và Ed Diener ghi nhận
sau một khoảng thời gian dài nghiên cứu về sức khỏe con người đã có hàng loạt các
nghiên cứu cho thấy những cá nhân hạnh phúc thì thành công trong nhiều lĩnh vực
của cuộc sống như hôn nhân, bạn bè, thu nhập, sự nghiệp và sức khỏe. Mối quan hệ
giữa hạnh phúc và thành công không hẳn là mối quan hệ một chiều, một mặt, thành
công sẽ tạo nên hạnh phúc, ngược lại, hạnh phúc cũng sẽ dẫn đến thành công
(Lyubomirsky và Diener, 2005).
Tham vấn tâm lí là một quá trình trong đó NLTVTL giúp cho thân chủ hiểu ra
vấn đề của họ, biết nhận lấy trách nhiệm của bản thân, có khả năng tự chủ và tự đưa
ra quyết định. Do bản chất của công việc, NLTVTL thường phải có những buổi làm
việc riêng tư cùng thân chủ, lắng nghe và thấu cảm với những khó khăn, thất bại, đặc
2
biệt là những cảm xúc tiêu cực như giận dữ, lo lắng, sợ hãi, thất vọng… của chính
họ, trong khi vẫn phải duy trì mối quan hệ trị liệu một cách chuyên nghiệp. Đồng
thời, cũng trong tiến trình hỗ trợ thân chủ, bản thân NLTVTL còn phải làm việc với
những suy nghĩ, cảm xúc và vấn đề của riêng mình. Từ lý luận đến thực tiễn đều cho
thấy, bản thân của NLTVTL và phẩm chất mà họ biểu hiện đóng vai trò vô cùng quan
trọng trong tiến trình tham vấn.
Một trong những yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả của tham vấn tâm lí chính là
khả năng bị kiệt sức nghề nghiệp ở NLTVTL. Một nghiên cứu đã cho thấy mức độ
kiệt sức rất cao ở những NLTVTL. Những người làm tham vấn đã nói rằng cảm giác
kiệt sức đã ảnh hưởng tiêu cực đến mối quan hệ cá nhân và công việc của họ, dẫn đến
giảm cảm giác hài lòng trong công việc và có những nhận định tiêu cực về khả năng
tham vấn của bản thân.
Khi xét đến tầm quan trọng của NLTVTL trong hiệu quả tham vấn và những
yêu cầu cơ bản của việc thực hành lâm sàng cần đảm bảo rằng người làm tham vấn
đang làm việc trong tình trạng tối ưu nhất. Nhiều vấn đề cá nhân và chuyên môn có
thể ảnh hưởng đến chất lượng tham vấn. Ba khía cạnh đã thu hút được những sự chú
ý đáng kể trong nghiên cứu chính là: CNHP, sự hài lòng trong công việc và tình trạng
kiệt sức. Sự ổn định về mặt cảm xúc của người làm tham vấn không chỉ quan trọng
đối với riêng họ mà đó còn là một phần nền tảng tạo nên tính hiệu quả trong công
việc. Có một sự tương quan đồng nhất giữa kết quả tham vấn thành công với CNHP
và sự điều chỉnh tích cực về mặt tâm lí của NLTVTL. Ngược lại, những người làm
tham vấn có chỉ số CNHP thấp lại có xu hướng gợi lên sự tiêu cực ở những thân chủ
của mình. Chính những NLTVTL đã thừa nhận tầm quan trọng của CNHP ở cá nhân
đối với sự hiệu quả trong chuyên môn và nhận ra rằng chất lượng tham vấn của mình
có thể bị suy giảm khi mức độ kiệt sức của họ gia tăng. (O’Donovan và May, 2007)
Có thể thấy, mức độ CNHP ở NLTVTL đóng vai trò vô cùng quan trọng trong
tiến trình tham vấn tâm lí, ảnh hưởng lớn đến hiệu quả tham vấn tâm lí. Tuy nhiên,
hiện nay ở Việt Nam có rất ít nghiên cứu về CNHP, và hoàn toàn chưa có nghiên cứu
nào về CNHP của NLTVTL.
Xuất phát từ những lý do trên, đề tài nghiên cứu: “Cảm nhận hạnh phúc của
người làm tham vấn tâm lí tại thành phố Hồ Chí Minh” được xác lập, với mong
3
muốn tìm hiểu thực trạng các mặt biểu hiện và mức độ biểu hiện CNHP của NLTVTL
hiện nay tại TP.HCM, cùng các yếu tố có mối liên hệ với CNHP. Từ đó, đề ra một số
biện pháp giúp cải thiện mức độ CNHP của NLTVTL, nhằm góp phần nâng cao hiệu
quả trong công việc tham vấn đồng thời giúp họ cân bằng trong đời sống tâm lí của
bản thân.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu thực trạng các mặt biểu hiện và mức độ biểu hiện CNHP của
NLTVTL hiện nay tại TP.HCM. Từ đó đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao
CNHP ở NLTVTL tại TP.HCM.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Các mặt biểu hiện và mức độ biểu hiện CNHP của NLTVTL tại TP.HCM.
3.2. Khách thể nghiên cứu
60 người hiện đang làm tham vấn tâm lí tại TP.HCM.
4. Giả thuyết nghiên cứu
Có sự khác nhau về mức độ giữa các mặt biểu hiện CNHP của NLTVTL tại
TP.HCM.
Có sự khác biệt về mức độ CNHP của NLTVTL tại TP.HCM xét theo số năm
làm tham vấn và thu nhập.
Trong những yếu tố có mối tương quan với CNHP của NLTVTL tại TP.HCM
thì yếu tố lòng tự trọng có mối tương quan chặt chẽ nhất.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Xây dựng cơ sở lý luận về CNHP của NLTVTL.
Khảo sát thực trạng các mặt biểu hiện và mức độ biểu hiện CNHP của NLTVTL
tại TP.HCM.
Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao CNHP ở NLTVTL tại TP.HCM.

4
6. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
6.1. Giới hạn và phạm vi về nội dung
Có nhiều lý thuyết về CNHP của nhiều tác giả khác nhau. Trong nghiên cứu
này, tôi chỉ tập trung nghiên cứu CNHP dưới góc độ là CNHP tâm lí (psychological
well-being) theo lý thuyết của Carol D. Ryff và cộng sự. Đồng thời cũng có nhiều
yếu tố có mối liên hệ với CNHP của NLTVTL nhưng đề tài chỉ tập trung nghiên cứu
các yếu tố chủ quan như: lòng biết ơn, sự hài lòng trong cuộc sống, lòng tự trọng, thái
độ lạc quan; và các yếu tố khách quan như: giám sát chuyên môn, thâm niên nghề
nghiệp.
6.2. Giới hạn và phạm vi về khách thể
Trong điều kiện thời gian và kinh phí có hạn, đề tài chỉ nghiên cứu 60 NLTVTL
tại thành phố Hồ Chí Minh.
7. Quan điểm tiếp cận và phương pháp nghiên cứu
7.1. Quan điểm tiếp cận
Quan điểm hệ thống – cấu trúc
Vận dụng quan điểm hệ thống – cấu trúc để xây dựng cơ sở lý luận về CNHP
của NLTVTL. Nghiên cứu đề tài (xây dựng bảng hỏi, bình luận thực trạng) được tiến
hành trên cấu trúc đã được xác lập theo quan điểm hệ thống cấu trúc toàn vẹn nhưng
có tính động.
Quan điểm hoạt động – nhân cách
Tham vấn tâm lí là một hoạt động nghề nghiệp. Với tư cách là chủ thể trong
hoạt động tham vấn tâm lí, CNHP của NLTVTL diễn ra và hình thành trong chính
hoạt động đó. Yêu cầu của hoạt động nghề nghiệp đòi hỏi NLTVTL có những phẩm
chất và năng lực nhất định như có khả năng tự định hướng, tự điều chỉnh, tự kiểm tra
nhận thức, thái độ, hành vi của mình. Vì vậy, nghiên cứu về CNHP của NLTVTL
phải đồng thời nghiên cứu cả hoạt động nghề nghiệp và một số đặc điểm nhân cách
của họ.

5
7.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu tài liệu
– Mục đích
Dựa trên sự tổng hợp các tài liệu và công trình nghiên cứu có liên quan đến
CNHP nói chung và CNHP của NLTVTL nói riêng để xây dựng một hệ thống khái
niệm công cụ cũng như những khái niệm có liên quan để định hướng cho việc thiết
kế công cụ nghiên cứu, thực thi quá trình tìm hiểu thực trạng các mặt biểu hiện và
mức độ biểu hiện CNHP của NLTVTL.
– Cách thực hiện
Tham khảo, phân tích, tổng hợp, đánh giá các công trình nghiên cứu, sách, tạp
chí chuyên ngành và thu thập thông tin trên internet về các nội dung có liên quan đến
CNHP của NLTVTL.
Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
– Mục đích
Đề tài xây dựng bảng hỏi nhằm đánh giá nhận thức của NLTVTL về CNHP; tác
động của CNHP đến quá trình tham vấn tâm lí; các yếu tố có mối liên hệ với CNHP.
– Cách thực hiện
Bảng hỏi tự thiết kế được căn cứ trên cơ sở lý luận của đề tài và các phương
pháp luận để đảm bảo phù hợp với mục đích nghiên cứu. Bảng hỏi được thử nghiệm
trước khi đưa vào khảo sát chính thức trên khách thể.
Phương pháp phỏng vấn sâu
– Mục đích
Nhằm làm rõ, bổ sung, kiểm tra thông tin của những vấn đề thu được từ phương
pháp bảng hỏi bằng cách phỏng vấn các khách thể nghiên cứu thông qua các mẫu
phiếu phỏng vấn.
– Cách thực hiện
Sau khi thu số liệu và xử lí thống kê toán học, người nghiên cứu dự kiến tiến
hành phỏng vấn 10 NLTVTL dựa theo bảng phỏng vấn chi tiết đã soạn sẵn.

6
Phương pháp thống kê toán học
– Mục đích
Phần mền SPSS phiên bản 20.0 sẽ được dùng để xử lý các dữ kiện thu được,
phục vụ cho việc phân tích số liệu cũng như đảm bảo tối đa yêu cầu định lượng và
tính khách quan trong quá trình nghiên cứu.
– Cách thực hiện
Các phép tính thống kê suy luận được sử dụng để tính hệ số tin cậy, tần số, tỉ số
phần trăm, điểm trung bình, độ lệch chuẩn, kiểm nghiệm T – test, kiểm nghiệm
Anova, tương quan Pearson để bình luận số liệu thu được từ phương pháp điều tra
bằng bảng hỏi và phương pháp trắc nghiệm.

7
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CẢM NHẬN HẠNH PHÚC
CỦA NGƯỜI LÀM THAM VẤN TÂM LÍ
1.1. Tổng quan các nghiên cứu liên quan đến hạnh phúc và cảm nhận hạnh phúc
Hạnh phúc là một khái niệm trừu tượng. Các tác giả nghiên cứu về hạnh phúc
đã tiếp cận theo nhiều hướng và nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm này. Sau
đây, đề tài sẽ tóm lược những nghiên cứu có liên quan về hạnh phúc (happiness) và
CNHP (psychological well-being).
1.1.1. Tổng quan các nghiên cứu trên thế giới
1.1.1.1. Tổng quan các nghiên cứu trên thế giới về hạnh phúc (happiness)
Suốt một khoảng thời gian dài “chủ đề hạnh phúc” vẫn được xem là chủ đề
thuộc về triết học, thần học, chính trị. Do tính chất mơ hồ, khó nắm bắt, hạnh phúc
rất khó để trở thành đối tượng có thể phân tích một cách duy lý và định lượng của
khoa học, mà chỉ là một khái niệm được nghiên cứu chủ yếu thiên về định tính. Vì
không thỏa mãn với những cách giải thích đầy tính duy tâm và định tính về hạnh phúc
như thế, việc quy giản hạnh phúc thành các đại lượng có thể đo lường đã trở thành
tham vọng của các nhà khoa học nói chung. Những kết quả nghiên cứu ban đầu về
hạnh phúc đều đến từ những ngành khoa học khác như: sinh lý học, xã hội học, kinh
tế học… Các nhà nghiên cứu lúc này chủ yếu quan tâm các vấn đề như: nguồn gốc
của hạnh phúc, cấu trúc của hạnh phúc, các yếu tố tác động đến hạnh phúc, ảnh hưởng
của hạnh phúc đến cuộc sống cá nhân…
Khi truy tìm nguồn gốc của hạnh phúc, một số nhà khoa học cho rằng con người
cảm thấy hạnh phúc khi nhiều chất hóa học trong cơ thể tương tác với nhau. Năm
1872, nhà sinh vật học và bệnh lý học người Ý Camillo Golgi, đã phát hiện ra thành
phần nền tảng nhất của não bộ là tế bào nơ-ron và cũng chính tế bào nơ-ron là tác
nhân tạo ra cảm xúc.
Đến năm 1954, hai nhà tâm lí học James Olds và Peter Milner, làm việc tại Đại
học McGill ở Canada, đã thực hiện các thí nghiệm tiên phong của họ và khám phá ra
“cơ chế” sản sinh ra hạnh phúc. Họ phát hiện ra rằng chuột sẽ liên tục nhấn đòn bẩy
để nhận được những dòng điện nhỏ được truyền qua điện cực được cấy vào sâu trong
8
não của chúng. Đặc biệt là khi sự kích thích này nhắm vào các khu vực nhất định
trong vùng nhân não – khu vực có chức năng tạo ra những xung thần kinh khiến ta có
cảm giác dễ chịu khi được thỏa mãn – chuột sẽ liên tục nhấn cần gạt, thậm chí lên tới
2000 lần mỗi giờ (Olds, 1956). Những phát hiện ấn tượng này dường như cho thấy
Olds và Milner đã khám phá ra trung tâm khoái cảm trong não.
Nghiên cứu trong hai thập kỷ tiếp theo đã xác định rằng dopamine là một trong
những hóa chất chính hỗ trợ tín hiệu thần kinh ở những vùng này, và trong nhiều năm,
dopamine được đề xuất là hóa chất khoái cảm của não bộ. Ngoài ra, còn có một vài
hóa chất khác cũng góp phần tạo ra cảm giác hạnh phúc, như serotonin, oxytocin và
endorphin – một loại morphine “tự nhiên” do cơ thể sản xuất… (Kringelbach và
Berridge, 2010).
Như vậy, cho đến khoảng giữa thế kỷ thứ 20 thì các nghiên cứu về hạnh phúc
chủ yếu tiếp cận vấn đề theo hướng sinh lý học, và nhiều bằng chứng đã cho thấy
hạnh phúc được sinh ra từ não bộ, đồng thời còn có sự kết hợp của nhiều chất hóa
học trong cơ thể.
Mặc dù hạnh phúc rõ ràng là mối quan tâm cơ bản của con người, nhưng phải
đến vài thập kỷ gần đây thì các ngành khoa học xã hội nói chung và ngành tâm lí học
nói riêng mới thật sự quan tâm nghiên cứu chủ đề này. Tuy bắt đầu muộn, nghiên cứu
về hạnh phúc đã tăng lên theo cấp số nhân trong những năm gần đây và kết quả của
những nỗ lực này cho đến nay đang thực sự rất ấn tượng.
Cuộc điều tra thực nghiệm đầu tiên về hạnh phúc là vào năm 1912 ở Anh trên
khách thể là sinh viên và học sinh. Cuộc điều tra chủ yếu tập trung vào mức độ trải
nghiệm cảm xúc vui vẻ của khách thể. Trong những thập kỷ sau nhiều nghiên cứu
tương tự ở Mỹ cũng đã được tiến hành trên khách thể là sinh viên. Sau Thế chiến II,
số lượng các cuộc điều tra đã tăng lên và trọng tâm đã chuyển sang điều tra về mức
độ hạnh phúc nói chung và trên mẫu đại diện cho toàn bộ dân số của quốc gia. Chỉ
riêng trong giai đoạn từ năm 1911 đến năm 1975, đã có 245 cuộc điều tra được ghi
nhận (Veenhoven, 1984).
Nhìn chung, các công trình này tập trung vào việc cố gắng mô tả một cách phổ
biến ai là người hạnh phúc. Trong một bài bình luận về các công trình nghiên cứu
này, Warner Wilson đã mô tả “người hạnh phúc là một người trẻ, khỏe mạnh, có học
9
thức, được trả lương cao, hướng ngoại, lạc quan, không lo lắng, có tín ngưỡng, có
gia đình, có lòng tự trọng cao, có tinh thần làm việc, có khát vọng khiêm tốn, có sự
thông thái bất kể giới tính” (Wilson, 1967). Trong khi khảo sát về thực trạng hạnh
phúc nói chung của con người, các tác giả cũng bắt đầu nhận thấy rằng “hạnh phúc”
không phải là một khái niệm đơn nhất, mà có thể được chia thành các yếu tố cấu
thành khác nhau. Ví dụ, Bradburn và Caplovitz đã thực hiện các cuộc khảo sát lớn
và họ đã nhận thấy sự khác biệt giữa “cảm xúc tích cực” (possitive affect) và “cảm
xúc tiêu cực” (negative affect) mà họ phát hiện được không phải là hai thái cực đối
lập như mọi người vẫn nghĩ. Bradburn và Caplovitz nhận thấy rằng hai loại cảm xúc
này hình thành các kích thích riêng biệt và được gây ra bởi các yếu tố khác nhau
(Bradburn và Caplovitz, 1965).
Các cuộc điều tra lớn về hạnh phúc thường dựa trên phương pháp xã hội học,
và do đó nhấn mạnh các yếu tố nhân khẩu học như thu nhập, giới tính, giáo dục, tình
trạng hôn nhân và tuổi tác là có mối tương quan với hạnh phúc. Đồng thời, một số
những nghiên cứu khác lại dựa trên các phương pháp xuất phát từ tâm lí học nhân
cách. Ví dụ, Wessman và Ricks (1966) đã thu thập dữ liệu chuyên sâu về sinh viên
Harvard, nghiên cứu tâm trạng của họ hàng ngày. Trái ngược với các nghiên cứu khảo
sát, nghiên cứu cổ điển này tập trung vào các yếu tố bên trong liên quan đến động lực
mang tính tâm lí, chẳng hạn như cơ chế phòng vệ và đặc điểm tính cách (Diener,
2009).
Vào năm 1998, đã diễn ra một sự kiện có thể được xem là bước ngoặt quan
trọng trong tâm lí học nói chung, và trong nghiên cứu hạnh phúc nói riêng. Nhà tâm
lí học người Mỹ Martin Seligman vào năm 1998, khi ông đang là chủ tịch của Hiệp
hội Tâm lí học Hoa Kỳ (APA), đã mời đến thành phố Akumal (Mexico) các nhà tâm
lí học hàng đầu nước Mỹ để chia sẻ một mục tiêu mới của tâm lí học: nghiên cứu
hạnh phúc. Trào lưu tâm lí học tích cực được xem như ra đời qua sự kiện này, mở ra
một phân ngành mới của tâm lí học – tâm lí học tích cực, chuyên nghiên cứu định
lượng về hạnh phúc, nhằm bổ sung, thay thế cho những lĩnh vực mà triết học, tôn
giáo còn đang giải thích một cách rối rắm hoặc trừu tượng, hướng đến sự phát triển
con người và hỗ trợ con người tận hưởng cuộc sống tích cực một cách trọn vẹn.
10
Khởi đầu sự nghiệp của mình như là một nhà tâm lí học, Seligman đã phát triển
lý thuyết về sự bất lực học tập được (theory of learned helplessness), trong đó mô tả
những phản ứng của một người khi người đó tin rằng hành động của mình là không
có kết quả. Điều này đã dẫn ông đến khám phá một ý tưởng rằng nếu chúng ta có thể
học cách bất lực, chúng ta cũng có thể học được cách lạc quan. Chính những nghiên
cứu tiên phong này đã nhấn mạnh vai trò của quá trình nhận thức trong hạnh phúc
của chúng ta. Trong sự nghiệp nghiên cứu hạnh phúc của mình, Seligman đã có rất
nhiều cống hiến to lớn đáng được ghi nhận, một trong số đó là việc ông đã phát triển
một cách sáng tạo quan điểm “cảm thụ lạc quan” (optimal experience) hay còn được
gọi là lý thuyết FLOW, vốn đã được Mihaly Csikszentmihalyi đề xuất trước đó.
Lý thuyết FLOW cho thấy một khía cạnh năng động nội tại của tâm lí con người,
thể hiện trong việc một người lĩnh hội những thử thách khó khăn cũng đồng thời phát
triển những kỹ năng cá nhân tương thích. Sự năng động thể hiện ở chỗ nhận thức các
thử thách khó khăn thúc đẩy sự phát triển các kỹ năng liên quan; đến lượt mình, sự
phát triển năng lực lại khuyến khích cá nhân tìm kiếm những thách thức phức tạp hơn
và sẽ đòi hỏi những khả năng cao hơn để giải quyết. Chu trình này thúc đẩy sự phát
triển thông qua cả việc tiếp thu không ngừng các thông tin ngày càng phức tạp và
hoàn thiện các kỹ năng trong các hoạt động và lĩnh vực cụ thể. Mặc dù chu trình này
có thể xảy ra trong các hoạt động hoặc bối cảnh rất khác nhau của cuộc sống hằng
ngày, như công việc, học tập, thể thao, nghệ thuật, thủ công và tương tác xã hội,
nhưng chỉ ở trong những hoạt động đủ thách thức, phức tạp, đòi hỏi cá nhân phải phát
huy các kỹ năng tương thích, huy động sự tập trung chú ý cao, thì mới có thể diễn ra
chu trình FLOW. Chính trong những hoạt động như vậy, những người tham gia khảo
sát đã báo cáo về việc trải nghiệm sự thích thú, kiểm soát hoàn cảnh, cảm nhận được
mục tiêu rõ ràng và có sự hài lòng nội tại. Do đó, hạnh phúc theo lý thuyết này, chính
là “sản phẩm phụ” của các hoạt động sáng tạo (Compton và Hoffman, 2012).
Nhìn chung, phải đến cuối thế kỷ 20 thì hạnh phúc mới được khoa học xã hội
nói chung và tâm lí học nói riêng quan tâm một cách thích đáng. Tuy nhiên, một số
thành quả quan trọng cũng cần được ghi nhận. Trong nỗ lực ở giai đoạn đầu, các nhà
nghiên cứu đã đi đến nhận định rằng hạnh phúc không phải là một khái niệm đơn
nhất, mà được cấu thành bởi nhiều yếu tố khác nhau. Bên cạnh tác động của các yếu
11
tố bên ngoài như thu nhập, giáo dục, tình trạng hôn nhân…, tác động của các yếu tố
bên trong như nhận thức, cảm xúc, tính cách… cũng được các nhà khoa học quan tâm
nghiên cứu.
1.1.1.2. Tổng quan các nghiên cứu trên thế giới về cảm nhận hạnh phúc
Từ thời xa xưa, con người đã tự hỏi điều gì tạo nên một cuộc sống tốt đẹp (the
good life). Các nhà khoa học nghiên cứu về CNHP cho rằng điều thiết yếu làm nên
cuộc sống tốt đẹp của một người chính là bản thân người đó thích cuộc sống của
chính mình.
Đến đầu thế kỷ 20, các nghiên cứu khảo sát về CNHP bắt đầu được hình thành.
Đầu năm 1925, Flugel nghiên cứu về tâm trạng của mọi người bằng cách yêu cầu
người tham gia ghi nhận những cảm xúc của họ và sau đó tổng hợp lại các phản ứng
cảm xúc đó. Sau Chiến tranh thế giới thứ 2, các nhà nghiên cứu khảo sát bắt đầu thăm
dò ý kiến của mọi người về hạnh phúc và sự hài lòng với cuộc sống của họ bằng cách
sử dụng bảng câu hỏi khảo sát toàn cầu dạng đơn giản. Các nhà nghiên cứu đã thăm
dò trên một lượng mẫu lớn đại diện cho các quốc gia. George Gallup, Gerald Gurin
cùng các đồng nghiệp và Hadley Cantril đã tiên phong trong việc sử dụng các cuộc
khảo sát quy mô lớn như một kỹ thuật đánh giá. Họ đã hỏi người tham gia các câu
hỏi như “Bạn hạnh phúc ở mức nào?” với những lựa chọn trả lời đơn giản khác nhau
từ “Rất hạnh phúc” đến “Rất không hạnh phúc” (Diener et al., 2002).
Kế thừa từ những thành quả đã có, việc khảo sát về mức độ hạnh phúc của
người dân ngày càng được tiến hành thường xuyên hơn và trên diện rộng hơn. Tổ
chức Khảo sát Giá trị Thế giới (World Values Survey, 2008) đã báo cáo kết quả khảo
sát về mức độ CNHP của 82 quốc gia trên thế giới. Kết quả đã xếp loại 82 quốc gia
vào bốn nhóm theo mức độ CNHP gồm: thấp; khá thấp; khá cao và cao. Theo đó,
năm quốc gia đứng đầu lần lượt là: Pueto Rico, Mexico, Đan Mạch, Cộng hòa Ireland
và Iceland. Xếp cuối danh sách là năm quốc gia sau đây: Nga, Cộng hòa Armenia,
Ukraine, Zimbabwe và Indonesia. Ngoài ra, cũng thuộc vào nhóm có mức độ CNHP
cao còn có một số quốc gia sau đây (theo thứ tự giảm dần): Thụy Sỹ, Canada, Mỹ,
Úc, New Zealand, Thụy Điển… Đa số các quốc gia châu Á được xếp vào nhóm có
CNHP ở mức khá, bao gồm (theo thứ tự giảm dần): Vương quốc Ả Rập Xê Út,
Singapore, Việt Nam, Philippines, Đài Loan và Nhật Bản. Nhiều bằng chứng từ các
12
cuộc khảo sát về CNHP ở các quốc gia cho thấy có sự khác biệt rõ rệt về mức độ
CNHP giữa các quốc gia. Ví dụ, các quốc gia thuộc khu vực Bắc Âu có vẻ như là các
quốc gia hạnh phúc nhất, tiếp theo là Anh, Mỹ, Canada và Úc (Argyle, 1996;
Blanchflower & Oswald, 2004; Diener & Suh, 1999; Donovan & Halpern, 2002; và
Inglehart & Klingemann, 2000). Các quốc gia có mức CNHP thấp nhất dường như là
các quốc gia châu Á (Sirgy, 2012b).
Theo sự phát triển của xã hội nói chung và của tâm lí học nói riêng, đặc biệt là
với sự xuất hiện của trào lưu Tâm lí học tích cực, khái niệm CNHP ngày càng được
quan tâm nhiều hơn, cũng từ đó ngành khoa học về CNHP đã phát triển một cách
nhanh chóng. (Diener, Lucas và Oishi, 2002)
Dần dần, lĩnh vực nghiên cứu này được chia thành hai hướng chính: CNHP
khoái lạc (hedonic well-being) và CNHP hưng thịnh (eudaimonia well-being). Theo
chủ nghĩa khoái lạc thì CNHP bao gồm các cảm xúc vui vẻ, hài lòng và thích thú
trong cuộc sống (Keyse, 2002). Người tiên phong trong hướng tiếp cận này là Ed
Diener. Ed Diener (1984), trong bài báo Subjective Well-Being đăng trên tạp chí
Psychological Bulletin, đã trình bày mô hình gồm ba thành tố về CNHP, trong đó mô
tả cách mọi người trải nghiệm chất lượng cuộc sống của họ, các phản ứng cảm xúc
và những đánh giá về mặt nhận thức. Mô hình này đã đặt ra ba thành phần riêng biệt
nhưng thường liên quan đến CNHP: cảm xúc tích cực (positive affect), cảm xúc tiêu
cực (negative affect), và sự hài lòng trong cuộc sống (life satisfaction) (Diener, 2000).
Ed Diener, Eunkook Suh, Richard Lucas, và Heidi Smith (1999) khi xác định các
thành phần của CNHP đã bổ sung thêm sự hài lòng với các khía cạnh trong cuộc
sống (domain satisfactions). Khi nghiên cứu khía cạnh cảm xúc của CNHP, Bradburn
đã chỉ ra rằng những cảm xúc dễ chịu và khó chịu tương đối độc lập với nhau và có
những tương quan khác nhau – chúng không đơn giản là đối lập với nhau. Do đó, hai
cảm xúc này cần được nghiên cứu riêng biệt để có được bức tranh hoàn chỉnh về
CNHP của một cá nhân (Bradburn, 1969). Khám phá này có ý nghĩa quan trọng đối
với lĩnh vực nghiên cứu CNHP: nó cho thấy những nỗ lực loại bỏ các cảm xúc tiêu
cực không nhất định sẽ tạo các cảm xúc tích cực. Mặc dù mức độ độc lập giữa cảm
xúc tích cực và tiêu cực khi xét ngắn hạn vẫn còn nhiều tranh cãi, nhưng khi xem xét
dài hạn thì ít có tranh cãi hơn. Diener và Emmons (1984) nhận thấy rằng cảm xúc tích
13
cực và tiêu cực ngày càng tách biệt theo thời gian. Diener, Smith và Fujita (1995)
trong nghiên cứu của họ đã thấy rằng hai cấu trúc có mối tương quan nghịch đảo vừa
phải nhưng rõ ràng có thể tách rời. Bởi vì các nhà nghiên cứu CNHP chủ yếu quan
tâm đến tâm trạng lâu dài hơn là cảm xúc nhất thời, nên họ cần phải đo lường cả cảm
xúc tích cực và tiêu cực trong các nghiên cứu của mình. Ngoài việc nghiên cứu các
phản ứng cảm xúc, các nhà nghiên cứu CNHP còn quan tâm đến các đánh giá nhận
thức về sự hài lòng với cuộc sống nói chung và các khía cạnh khác nhau trong cuộc
sống nói riêng. Andrew và Withey (1976) nhận thấy rằng sự hài lòng với cuộc sống
là một yếu tố riêng biệt với hai loại cảm xúc tích cực và tiêu cực. Lucas, Diener và
Suh (1996) đã sử dụng các phân tích đa tuyến tính để chỉ ra rằng cảm xúc tích cực,
cảm xúc tiêu cực và sự hài lòng với cuộc sống là những cấu trúc có thể tách rời. Có
thể thấy, các nhà nghiên cứu CNHP đa phần đều cho rằng các thành tố chính của
CNHP nên được đo lường riêng biệt trong các nghiên cứu (Diener et al., 2002).
Vào những năm 1980 và 1990, đã có một số quan điểm không đồng tình với
hướng tiếp cận theo chủ nghĩa khoái lạc. Các nhà tâm lí học bắt đầu suy nghĩ về
CNHP với các khái niệm như cảm nhận ý nghĩa của cuộc sống, sự hoàn thiện bản
thân và hiện thực hóa tiềm năng con người, điều này đã tạo ra hướng tiếp cận thứ hai,
được gọi là CNHP hưng thịnh. Theo hướng này, các công trình nghiên cứu của Carol
Ryff trở nên có sức ảnh hưởng nhất. Ryff đã xem xét lại các lý thuyết tâm lí trước đó
về tối ưu hóa sự phát triển đời sống (Erikson, Jung, Neugarten), tối ưu hóa chức năng
và tự nhận thức (Allport, Maslow, Rogers), sức khỏe tâm thần tích cực (Jahoda), và
đã tìm thấy sáu yếu tố cơ bản của các chức năng tích cực thường xuyên được nhắc
đến trong những tài liệu này. Sáu yếu tố này đã tạo nên cái mà tác giả gọi là CNHP
tâm lí (psychological well-being), bao gồm: tự chấp nhận bản thân (self-acceptance),
mục tiêu sống (purpose in life), sự tự chủ (autonomy), mối quan hệ tích cực với người
khác (positive relations with others), làm chủ hoàn cảnh (environmental mastery), và
sự phát triển bản thân (personal growth) (Westerhof và Keyes, 2010).
Các nghiên cứu của Ryff, cũng như các nghiên cứu khác theo hướng tiếp cận
CNHP hưng thịnh, tập trung chủ yếu vào sự hoàn thiện bản thân của cá nhân. Corey
Keyes (1998) đã lập luận rằng, con người sống trong xã hội, do đó CNHP của con
người cũng phải gắn liền với xã hội, thể hiện ở việc cá nhân tham gia và gắn kết với
14
xã hội, và ông đã đề xuất năm chiều kích của CNHP xã hội (social well-being). Trong
khi hạnh phúc tâm lí đại diện cho các tiêu chí riêng tư và cá nhân hơn, thì hạnh phúc
xã hội lại đại diện cho các tiêu chí mang tính cộng đồng và xã hội hơn. Những chiều
kích xã hội này bao gồm: sự gắn kết xã hội (social coherence), sự chấp nhận xã hội
(social acceptance), sự hiện thực hóa xã hội (social actualization), sự đóng góp xã
hội (social contribution) và sự hòa nhập xã hội (social integration) (Keyes, 2002).
Tích hợp các quan điểm trước đó của Ed Diener và Carol Ryff, Corey Keyes đưa ra
cách tiếp cận 3 thành tố về CNHP, bao gồm: CNHP cảm xúc (emotional well-being),
CNHP tâm lí (psychological well-being) và CNHP xã hội (social well-being). Keyes
đề cập đến CNHP như là một dấu hiệu của sức khỏe tinh thần, ông cho rằng CNHP
có mối liên hệ chặt chẽ với sức khỏe tinh thần và sức khỏe tinh thần là yếu tố đặc
trưng của CNHP. Theo ông, người trưởng thành với sức khỏe tinh thần tốt sẽ có mức
độ CNHP cao, khi đó họ trải nghiệm những cảm xúc tích cực và có các hoạt động
tâm lí, xã hội tốt. Ngược lại, những người trưởng thành có sức khỏe tinh thần kém sẽ
có mức độ CNHP thấp, với những cảm xúc tiêu cực, hoạt động tâm lí, xã hội thiếu
hiệu quả.
Từ những thành quả trong lĩnh vực nghiên cứu về CNHP nói chung, các nhà
nghiên cứu cũng bắt đầu quan tâm đến mối quan hệ giữa CNHP và nghề nghiệp, đặc
biệt là tác động của mức độ CNHP đến hiệu quả công việc của cá nhân.
Trong một đánh giá gần đây Lyubomirsky, King và Diener đã chỉ ra rằng
những người hạnh phúc thì thành công trong nhiều lĩnh vực cuộc sống và thành công
này ít nhất một phần là do mức độ hạnh phúc của họ (Lyubomirsky, King và Diener,
2005). Những người hạnh phúc thường thân thiện, vị tha, năng động, quý trọng bản
thân và những người khác hơn, có cơ thể cùng hệ miễn dịch khỏe mạnh và có kỹ năng
giải quyết xung đột tốt hơn. Hơn nữa, tâm trạng dễ chịu cũng được chứng minh là
thúc đẩy tư duy sáng tạo của cá nhân (Larsen và Eid, 2008).
Những người báo cáo rằng đã trải cảm xúc tích cực ở mức cao vào tuổi 18 có
công việc tốt hơn ở tuổi 26 so với những người báo cáo có cảm xúc tích cực ở mức
thấp (Roberts, Caspi, & Moffitt, 2003). Ngoài ra, những người hạnh phúc nhận được
đánh giá hiệu suất công việc cao hơn từ những người giám sát của họ (Cropanzano
& Wright, 1999; Wright & Staw, 1999). Không có gì đáng ngạc nhiên khi những
15
người hạnh phúc sau đó đã đạt được thu nhập cao hơn (Diener, Nickerson, Lucas, &
Sandvik, 2002, và Marks & Fleming, 1999). Staw, Sutton và Pelling (1994) cho thấy
những người lao động có cảm xúc tích cực cao sau đó nhận được nhiều hỗ trợ từ đồng
nghiệp hơn so với những người có cảm xúc tích cực thấp, điều này chỉ ra rằng lợi ích
của cảm xúc tích cực cũng thể hiện rõ trong tình bạn (Oishi và Koo, 2008).
Trong một bài đánh giá các nghiên cứu của tổ chức Khảo sát, Tư vấn quốc tế
Gallup (Mỹ) về CNHP nơi làm việc và mối quan hệ giữa điều này với kết quả công
việc, Harter, Schmidt và Keyes cho rằng sự hiện diện của trạng thái cảm xúc và sự
đánh giá tích cực của người lao động và mối quan hệ của cá nhân đó trong công việc
giúp gia tăng hiệu suất và chất lượng cuộc sống của người lao động (Harter, Schmidt
và Keyes, 2003).
Neugaard, Andresen, McKune và Jamoom vào năm 2008 đã tiến hành kiểm
tra chất lượng cuộc sống của những người làm công tác chăm sóc. Bằng một cuộc
khảo sát trên toàn quốc do Trung tâm Kiểm soát dịch bệnh Hoa Kỳ tiến hành, kết quả
nghiên cứu cho thấy những người làm công tác chăm sóc có sức khỏe thể chất và tinh
thần ở mức rất thấp, đặc biệt là những người trẻ tuổi (Neugaard, Andresen, McKune
và Jamoom, 2008).
Và khi đề cập đến những nhà tâm lí học lâm sàng nói chung, và những
NLTVTL nói riêng, thì một nguy cơ không thể phủ nhận là những đối tượng này có
khả năng cao bị kiệt sức nghề nghiệp (burnout), phát sinh từ sự căng thẳng tích lũy
của công việc chuyên sâu với mọi người. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng mức độ
kiệt sức đáng kể xảy ra giữa các nhà trị liệu (Onyett, Pillinger & Muijen, 1997;
Ackerley, Burnell, Holder, & Kurdek, 1988, Vredenburgh, Carlozzi, & Stein, 1999).
Một nghiên cứu cho thấy rằng bốn trong số mười nhà tâm lí học thực hành trong mẫu
đang trải qua mức độ đau khổ tâm lí đáng kể về mặt lâm sàng (Hannigan, Edwards &
Burnard, 2004), và kết luận rằng nhiều nhà tâm lí học thấy công việc của họ rất căng
thẳng. Các nhà tâm lí học báo cáo rằng cảm giác kiệt sức có tác động tiêu cực đến
các mối quan hệ cá nhân và ảnh hưởng đến công việc, dẫn đến giảm sự hài lòng trong
công việc và nhận thức tiêu cực về khả năng tham vấn thành công của họ (dẫn theo
O’Donovan và May, 2007).

Đánh giá post

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *