9644_Bán đấu giá tài sản theo pháp luật Thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Vĩnh Phúc

luận văn tốt nghiệp

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

KIM HOÀNG TÙNG

ĐẤU GIÁ TÀI SẢN THEO PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN
DÂN SỰ TỪ THỰC TIỄN TỈNH VĨNH PHÚC

Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số : 60.38.01.07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN AM HIỂU

HÀ NỘI, 2016

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các số liệu, trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy,
chính xác, trung thực và được trích dẫn đầy đủ theo quy định.

TÁC GIẢ

Kim Hoàng Tùng

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ……………………………………………………………………………………………. 1
Chương 1: MỘT SỐ LÝ LUẬN VỀ BÁN ĐẤU GIÁ TÀI SẢN TRONG
THI HÀNH ÁN DÂN SỰ ……………………………………………………………………. 7
1.1. Khái niệm, đặc điểm của bán đấu giá tài sản ……………………………… 7
1.2. Bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự
…………………………….. 12
Chương 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN BÁN ĐẤU GIÁ TÀI SẢN
THEO PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TẠI TỈNH VĨNH PHÚC
…………………………………………………………………………………………………………. 27
2.1. Khái quát về tỉnh Vĩnh phúc
…………………………………………………… 27
2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về bán đấu giá tài sản trong thi hành
án dân sự trên địa bàn tỉnh Vĩnh phúc
……………………………………………. 28
2.3. Tồn tại, hạn chế của hoạt động bán đấu giá tài sản trong thi hành án
dân sự tại tỉnh Vĩnh phúc
……………………………………………………………… 40
Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐẤU
GIÁ TÀI SẢN TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ ……………………………… 50
3.1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật bán đấu giá tài sản
………………….. 50
3.2. Một số kiến nghị cụ thể …………………………………………………………. 55
KẾT LUẬN ………………………………………………………………………………………. 70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
…………………………………………….. 72

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BĐGTS
: Bán đấu giá tài sản
BLDS
: Bộ luật dân sự
HĐND
: Hội đồng nhân dân
NXB
: Nhà xuất bản
QPPL
: Quy phạm pháp luật
THADS
: Thi hành án dân sự
THPL về BĐGTS : Thực hiện pháp luật về bán đấu giá tài sản
UBND
: Ủy ban nhân dân

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự là giai đoạn cuối cùng
trong quá trình xử lý tài sản của người phải thi hành án khi bị cưỡng chế thi
hành án để đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp cho Nhà nước, tổ chức, cá nhân
và để Bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực thi hành trên thực tế.
Ở Việt Nam, bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự được quy
định khá sớm, xuất hiện lần đầu tiên trong Pháp lệnh THADS ngày
28/8/1989 (Điều 28 quy định về bán đấu giá tài sản đã kê biên). Bán đấu giá
tài sản trong THADS là một hình thức xử lý tài sản bị kê biên cưỡng chế và
có thể coi là tiền thân của quy định về Bán đấu giá tài sản nói chung.
Với vai trò quan trọng của Bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự,
Đảng và Nhà nước đã rất quan tâm và ngày càng hoàn thiện hệ thống chính
sách và hệ thống pháp luật về Bán đấu giá tài sản, đặc biệt là bán đấu giá tài
sản trong thi hành án dân sự. Kể từ pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1989,
đã có rất nhiều văn bản được ban hành, trong đó một số văn bản quan trọng
như Luật Thi hành án dân sự năm 2008, Luật sửa đổi bổ sung Luật Thi hành
án dân sự năm 2014; đặc biệt là sựa ra đời của Nghị định số 17/2010/NĐ-CP
ngày 04 tháng 3 năm 2010 của Chính phủ về BĐGTS (Sau đây gọi là Nghị
định số 17/2010/NĐ-CP) ra đời trên cơ sở kế thừa Nghị định số 05/2005/NĐ-
CP ngày 18/01/2005 đã góp phần đưa công tác BĐGTS trong cả nước nói
chung và trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng cơ bản đi vào nền nếp. Việc
triển khai thực hiện Nghị định số 17/2010/NĐ-CP, Luật Thi hành án dân sự
và các văn bản hướng dẫn nhìn chung nhận được sự quan tâm, ủng hộ của các
cấp, các ngành; trình tự, thủ tục BĐGTS bảo đảm chặt chẽ và khách quan
hơn, tính chuyên nghiệp của hoạt động bán đấu giá từng bước được nâng lên,
2

chủ trương xã hội hóa tiếp tục được đẩy mạnh, đạt được kết quả nhất định và
vai trò quản lý của Nhà nước đối với hoạt động BĐGTS tiếp tục được tăng
cường. Cùng với Nghị định số 17/2010/NĐ-CP, một số văn bản luật có liên
quan như: Luật các tổ chức tín dụng 2010, Luật Đất đai năm 2013, Luật xử lý
vi phạm hành chính 2012 … được ban hành trong nh ng năm gần đây đã chứa
đựng nhiều tư duy pháp lý mới đáp ứng yêu cầu Nghị quyết số 08 – NQ/TW
ngày 02 tháng 01 năm 2002 của Bộ Chính trị về Một số nhiệm vụ trọng tâm
công tác tư pháp trong thời gian tới (Sau đây gọi là Nghị quyết số 08 –
NQ/TW), Nghị quyết số 48 – NQ/TW ngày 24 tháng 5 năm 2005 của Bộ
Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam
đến 2010, định hướng đến năm 2020 (Sau đây gọi là Nghị quyết số 48 –
NQ/TW) và Nghị quyết số 49 – NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ
Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến 2020 (Sau đây gọi là Nghị quyết
số 49 – NQ/TW).
Dưới góc độ lý luận, trong nh ng năm qua đã có không ít nh ng công
trình nghiên cứu về Bán đấu giá tài sản nói chung và bán đấu giá tài sản trong
thi hành án dân sự nói riêng, nhưng mỗi công trình nghiên cứu được tìm hiểu
ở các khía cạnh, các quy định khác nhau của pháp luật nói chung, cho đến nay
tại tỉnh Vĩnh Phúc chưa có một đề tài nào nghiên cứu một cách đầy đủ và có
hệ thống về bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự.
Dưới góc độ thực tiễn, sau hơn 25 năm triển khai hoạt động bán đấu giá
tài sản trong THADS ở Việt Nam, pháp luật điều chỉnh trong lĩnh vực này
cũng đang dần được hoàn thiện, hoạt động bán đấu giá tài sản trong THADS
đã đạt được một số kết quả đáng ghi nhận, góp phần vào việc giảm số lượng
án dân sự chuyển kỳ sau, quyền và lợi ích của các bên trong hoạt động thi
hành án nhìn chung được bảo đảm. Tuy nhiên, bên cạnh nh ng kết quả đã đạt
được, hoạt động bán đấu giá tài sản trong THADS vẫn còn gặp một số khó
3

khăn, vướng mắc nhất định và cũng là bài toán nan giải cho cả Trung tâm
dịch vụ bán đấu giá tài sản và các cơ quan thi hành án dân sự như: Tâm lý của
khách hàng ngại mua tài sản thi hành án; Tài sản bán đấu giá thành nhưng
không bàn giao được hoặc kéo dài việc bàn giao gây bức xúc trong dư luận xã
hội, quyền lợi của các bên trong quan hệ bán đấu giá tài sản thi hành án chưa
đảm bảo và ngay cả uy tín của các tổ chức bán đấu giá tài sản cũng bị ảnh
hưởng; Dừng bán đấu giá do người phải thi hành án chuộc lại tài sản…
Nh ng khó khăn vướng mắc trên có nhiều nguyên nhân, một trong nh ng
nguyên nhân quan trọng đó là do hành lang pháp lý cho hoạt động này chưa
thực sự hoàn thiện, đang bộc lộ nhiều điểm bất cập như một số quy định về
trình tự, thủ tục bán đấu giá còn thiếu cụ thể, không rõ ràng dẫn đến nhiều
cách hiểu khác nhau, chế tài đối với đội ngũ đấu giá viên vi phạm nguyên tắc
nghề nghiệp còn chưa phù hợp v.v…
Xuất phát từ nh ng lý do trên với mục đích nghiên cứu thực trạng bán
đấu giá tài sản trong THADS trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc; từ đó đưa ra các
quan điểm, giải pháp bán đấu giá tài sản trong THADS đạt hiệu quả cao trong
thời gian tới; bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp cho các cá nhân, tổ chức và
Nhà nước, đáp ứng yêu cầu xã hội hóa mạnh mẽ hoạt động BĐGTS, tác giả
chọn nghiên cứu đề tài “Bán đấu giá tài sản theo pháp luật Thi hành án dân
sự từ thực tiễn tỉnh Vĩnh Phúc”
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong nh ng năm gần đây, trước yêu cầu đổi mới đất nước, cải cách
hành chính và cải cách tư pháp đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học
pháp lý đề cập đến vấn đề bán đấu giá tài sản ở Việt Nam nói chung và
bán đấu giá tài sản để THADS nói riêng đã được công bố. Cụ thể về đề tài
nghiên cứu, luận văn, luận án như: “Tập bài giảng đào tạo nghề đấu giá” của
Lê Thu Hà [14]; “Tài liệu hội nghị trực tuyến sơ kết 04 năm thi hành Nghị
4

định số 17/2010/NĐ-CP ngày 4/3/2010 của Chính phủ về bán đấu giá tài sản”
của Bộ Tư pháp [6]; “Hoàn thiện pháp luật về bán đấu giá tài sản ở Việt
Nam” của Nguyễn Việt Hùng [17]; “Một số vấn đề về quản lý nhà nước đối
với hoạt động bán đấu giá tài sản ở Việt Nam hiện nay” của Nguyễn Thị
Thanh Nga [19]; “Bán đấu giá tài sản – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”
của Đặng Thị Tâm [24]; “Kinh nghiệm bán đấu giá tài sản qua thực tiễn ở
Vĩnh Phúc” của Nguyễn Việt Hùng [16]; “Quá trình hình thành và phát triển
của pháp luật bán đấu giá tài sản ở Việt Nam” của Nguyễn Thị Minh [18]…
Nhìn chung các công trình khoa học trên, phần nào đã nghiên cứu được
một số cơ sở lý luận khoa học và thực tiễn trong lĩnh vực BĐGTS, như lý
luận về BĐGTS; hoàn thiện pháp luật về pháp luật BĐGTS; quản lý nhà nước
về BĐGTS; nh ng khó khăn, vướng mắc trong hoạt động BĐGTS,… Nh ng
công trình nghiên cứu khoa học trên đã giúp cho tác giả có được cách tiếp cận
để tiếp tục kế thừa nghiên cứu, bổ sung thêm về cơ sở lý luận và thực tiễn để
tác giả nghiên cứu và hoàn thiện đề tài khoa học của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của việc nghiên cứu nhằm làm rõ nh ng vấn đề lý luận
về bán đấu giá tài sản trong THADS, nội dung các quy định pháp luật Việt
Nam về bán đấu giá tài sản trong THADS và phát hiện ra nh ng bất cập để
qua đó đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật hoàn thiện chúng.
Từ mục đích nêu trên, luận văn tập trung giải quyết nh ng nhiệm vụ
cụ thể như:
– Phân tích các vấn đề về lý luận cơ bản của bán đấu giá tài sản trong
THADS.
– Phân tích và đánh giá các quy định của pháp luật Việt Nam về bán
đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự.
– Khảo sát thực tiễn thi hành pháp luật Việt Nam về bán đấu giá tài sản
5

trong THADS từ thực tiễn tại tỉnh Vĩnh Phúc.
– Phát hiện nh ng vướng mắc, bất cập của các quy định pháp luật Việt
Nam hiện hành về bán đấu giá tài sản trong THADS và thực tiễn của tỉnh
Vĩnh Phúc thực hiện từ đó tìm ra các giải pháp khắc phục nhằm nâng cao
hiệu quả của bán đấu giá tài sản trong THADS.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu đề tài là nh ng vấn đề lý luận về bán đấu giá tài
sản trong THADS, các quy định của pháp luật về bán đấu giá tài sản trong
THADS và thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về bán đấu giá
tài sản trong THADS.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong giới hạn của đề tài luận văn thạc sĩ luật học, việc nghiên cứu tập
trung vào các vấn đề chủ yếu sau đây:
– Khái niệm, ý nghĩa của bán đấu giá tài sản trong THADS và cơ sở
của việc pháp luật quy định bán đấu giá tài sản trong THADS.
– Nội dung các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về bán đấu
giá tài sản trong THADS.
– Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật Việt Nam về bán
đấu giá tài sản trong THADS trong nh ng năm gần đây tại tỉnh Vĩnh Phúc.
Ngoài ra, việc nghiên cứu cũng được tiến hành đối với một số quy
định tương ứng của pháp luật nước ngoài để đối chiếu tham khảo.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận Văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận củ Chủ nghĩa
Mac- Lê Nin, quan điểm Đảng cộng sản Việt Nam và tư tưởng Hồ Chí Minh
về nhà nước và pháp luật. Bên cạnh đó, kết hợp nh ng phương pháp khoa
học khác như phương pháp phân tích, diễn giải, tổng hợp, so sánh cũng được
6

sử dụng để giải quyết nh ng nhiệm vụ đặt ra đối với việc nghiên cứu đề tài.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
– Hệ thống hóa cơ sở lý luận về BĐGTS trong THADS.
– Chỉ ra thực trạng BĐGTS trong THADS ở tỉnh Vĩnh Phúc: Nh ng ưu
điểm, hạn chế, khó khăn và nguyên nhân trong giai đoạn 2010 – 2015.
– Luận văn đề xuất với Trung ương và với tỉnh Vĩnh Phúc một số giải
pháp nhằm bảo đảm nâng cao hơn n a chất lượng BĐGTS trong THADS
trong thời gian tới.
– Luận văn là tài liệu tham khảo đối với các nhà làm luật trong việc
hoạch định chính sách sửa đổi, bổ sung, ban hành mới pháp luật về BĐGTS;
đối với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền của tỉnh Vĩnh Phúc trong việc
quản lý nhà nước, nâng cao hiệu quả hoạt động BĐGTS tại địa phương và đối
với nh ng ai quan tâm đến lĩnh vực này.
7. Cơ cấu của luận văn
Chương 1. Một số lý luận về bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự.
Chương 2. Thực trạng về thực hiện bán đấu giá tài sản theo Thi hành
án dân sự tại tỉnh Vĩnh Phúc
Chương 3. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về đấu giá tài sản
trong Thi hành án dân sự
7

Chương 1
MỘT SỐ LÝ LUẬN VỀ BÁN ĐẤU GIÁ TÀI SẢN TRONG
THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM CỦA BÁN ĐẤU GIÁ TÀI SẢN
1.1.1. Khái niệm bán đấu giá tài sản
Bán đấu giá tài sản là một dịch vụ ngày càng có vị trí, vai trò quan
trọng trong đời sống kinh tế – xã hội. Đây là một trong nh ng phương thức
minh bạch để chuyển quyền sở h u tài sản từ chủ thể này sang chủ thể khác
góp phần thúc đẩy hoạt động kinh tế nói chung, hoạt động mua bán trao đổi
tài sản nói riêng phát triển một cách đa dạng. Trong nh ng năm qua, hoạt
động BĐGTS ở nước ta đã từng bước phát triển, hỗ trợ đắc lực cho công tác
thi hành pháp luật, cụ thể như: thi hành án dân sự, xử lý tài sản bảo đảm thu
hồi nợ vay cho các tổ chức tín dụng, xử lý vi phạm hành chính, nhà nước giao
đất có thu tiền sử dụng đất hoặc cho thuê đất qua hình thức đấu giá… Công tác
xã hội hóa hoạt động BĐGTS đã và đang thực hiện theo lộ trình trong việc
triển khai Nghị quyết số 49 – NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về
Chiến lược cải cách tư pháp đến 2020.
Bán đấu giá tài sản được sử dụng như một phương thức mua bán công
khai, phổ biến và rộng khắp trên thế giới. Có nhiều mục đích được đặt ra khi
các bên lựa chọn phương thức mua bán này, nhưng mục đích thường được
hướng tới là nhằm công khai đưa tài sản tiếp cận với đại chúng người mua,
qua đó phát huy cao nhất giá trị tài sản của tài sản hoặc đáp ứng cao nhất mục
đích khác mà người bán tài sản qua hình thức đấu giá mong muốn đạt được.
Việc bán đấu giá tài sản được tổ chức bằng các hình thức công khai (open
cry) hoặc theo hồ sơ niêm phong (sealed bid), theo phương thức đấu giá lên
hoặc đặt giá xuống.
Theo hình thức công khai thì tài sản chào bán tại một mức giá xác định,
8

người bán tiếp tục nâng mức giá lên cách mức giá cũ một khoảng nhất định
cho đến khi không còn người nào đưa ra mức giá cao hơn. Người đã trả mức
giá cao nhất cuối cùng chính là người thắng cuộc. Đây là hình thức vẫn
thường được áp dụng nhiều nhất để giao dịch tài sản, sản phẩm, đặc biệt với
các tài sản là cổ vật, các bộ sưu tập tem, tiền, xe cổ, tác phẩm nghệ thuật…
Theo hình thức niêm phong thì người tham gia cùng nộp giá một lúc
mà không được biết giá của người khác cũng như gi kín giá mà mình đã trả
cho tài sản, sản phẩm muốn mua. Thông thường người trả giá cao nhất sẽ là
người thắng cuộc, mua được tài sản.
Ngoài ra, cũng với sự phát triển của thương mại điện tử, hiện nay còn
xuất hiện phương thức đấu giá ngược. Đây là một loại hình đấu giá đặc biệt,
theo đó người trả giá thấp nhất và duy nhất sau khi kết thúc mỗi phiên đấu sẽ
trở thành người được mua tài sản bán đấu giá. Ở phương thức này nếu bên
bán đưa ra giá khởi điểm thì giá khởi điểm là mức giá lớn nhất (ngược với
phương thức trả giá lên – phương thức đấu giá xuôi).
Cùng với sự phát triển của xã hội, có thể nói rằng đến nay bán đấu giá
phát triển với tư cách là một phương thức mua bán tài sản thông thường, phổ
biến và không thể thiếu trong thương mại, kinh doanh của thế giới. Khái niệm
bán đấu giá đưa ra dưới nhiều góc độ khác nhau.
Theo quan niện truyền thống thì BĐGTS là việc bán tài sản hoặc tài sản
công khai có nhiều người cùng muốn mua tài sản, cho nên mỗi người trả một
giá theo nhu cầu, điều kiện kinh tế của mình, người trả giá cao nhất phù hợp
với nhu cầu của người bán tài sản sẽ là người mua được tài sản.
Theo từ điển Luật học có nêu: “BĐGTS là hình thức bán công khai một
tài sản, một khối tài sản; theo đó có nhiều người muốn mua tham gia trả giá,
người trả giá cao nhất nhưng không thấp hơn giá khởi điểm là người mua
được tài sản [30, tr.31].
Theo quy định tại khoản 1, điều 2, Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày
9

04 tháng 3 năm 2010 của Chính phủ về BĐGTS, thì:
“Bán đấu giá tài sản là hình thức bán tài sản công khai, có từ hai người
trở lên tham gia đấu giá theo nguyên tắc và thủ tục được quy định tại Nghị
định này. Phương thức trả giá lên là phương thức trả giá từ thấp lên cao cho
đến khi có người trả giá cao nhất” [9, tr.2].
Đồng thời tại khoản 2, điều 1, Nghị định số 17/2010/NĐ-CP cũng xác
định các loại tài sản được bán qua hình thức đấu giá trong đó bao gồm tài sản
để thi hành án theo quy định của pháp luật về thi hành án;
Bán đấu giá tài sản về cơ bản khác biệt so với bán tài sản thông thường
ở chỗ, nếu như ở BĐGTS chỉ thừa nhận phương thức trả giá lên thì bán đấu
giá tài sản thông thường được thực hiện theo hai phương thức là phương thức
trả giá lên và đặt giá xuống (Bán đấu giá tài sản thông thường được điều
chỉnh bởi Luật Thương mại).
Thông qua hình thức BĐGTS, quyền lợi của người có tài sản được thỏa
mãn một cách tốt nhất, còn người mua sẽ mua được tài sản mình mong muốn
với giá phù hợp, các quyền lợi của người mua liên quan đến tài sản đã mua
được đáp ứng một cách nhanh chóng. Giao dịch mua bán tài sản qua hình
thức đấu giá được pháp luật bảo vệ.
Từ nh ng khái niệm trên, có thể đưa ra khái niệm cơ bản về BĐGTS
như sau: Bán đấu giá tài sản là hình thức mua bán tài sản thực hiện công khai
theo trình tự, thủ tục luật định và được tiến hành qua phương thức trả giá lên,
người trả giá cao nhất không thấp hơn giá khởi điểm là người mua được tài
sản. Do các tổ chức bán đấu giá có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật
thực hiện, nhằm chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản của người có tài
sản hoặc người có quyền định đoạt tài sản của người khác sang người mua
tài sản trả giá cao nhất.
1.1.2. Đặc điểm của bán đấu giá tài sản
Chủ thể bán đấu giá tài sản chuyên nghiệp là Trung tâm dịch vụ
10

bán đấu giá hoặc doanh nghiệp bán đấu giá tài sản
Hoạt động bán đấu giá tài sản hình thành trên cơ sở đề xuất của chủ sở
h u và chủ sở h u ủy quyền hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền yêu cầu tổ
chức có chức năng bán đấu giá tài sản. Như vậy, tổ chức bán đấu giá tài sản
không phải là chủ sở h u của tài sản. Pháp luật quy định nh ng điều kiện cần
thiết để bảo đảm quyền lợi của chủ sở h u bằng cách cho họ tham gia định
giá khởi điểm của tài sản nhưng không trực tiếp đứng ra bán tài sản, người
mua phải trả bằng hoặc cao hơn giá khởi điểm thì tài sản mới được bán.
Theo quy định của Luật Thương mại và pháp luật dân sự thì chủ thể
trong bán đấu giá hàng hoá và đấu giá tài sản đều bao gồm có người bán tài
sản, hàng hoá, người tổ chức đấu giá, người điều hành giá và người trúng giá.
Tuy nhiên, về tổ chức, thẩm quyền của người tổ chức bán đấu giá trong hai
loại hình bán đấu giá này lại có nh ng điểm khác nhau:
– Trong bán đấu giá tài sản, người tổ chức bán đấu giá lại chỉ có thể là:
Doanh nghiệp bán đấu giá tài sản, Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản.
– Trong bán đấu giá hàng hoá, người tổ chức đấu giá là thương nhân có
đăng k
í kinh doanh dịch vụ đấu giá hoặc là người bán hàng của mình trong
trường hợp người bán hàng tự tổ chức đấu giá.
Như vậy, nếu trong đấu giá hàng hoá, người tổ chức bán đấu giá có thể
là cá nhân hoặc các chủ thể khác tự bán tài sản của mình thì trong bán đấu giá
tài sản, người tổ chức bán đấu giá chuyên nghiệp phải là một trong hai loại
hình tổ chức được pháp luật quy định.
Về phương thức đấu giá tài sản có nhiều người tham gia (từ hai
người trở lên)
Bán đấu giá tài sản được tổ chức bán công khai, có nhiều người tham
gia trả giá để cho nh ng người có nhu cầu có thể tham gia đấu giá để mua tài
sản. Pháp luật dân sự quy định đấu giá là hình thức công khai lựa chọn người
11

mua nên mọi vấn đề có liên quan đến cuộc bán đấu giá và nh ng thông tin về
tài sản, bán đấu giá phải được công khai cho tất cả nh ng người muốn mua
biết bằng hình thức: niêm yết, thông báo, trưng bày, giới thiệu về tài sản; công
khai về thời gian, địa điểm tiến hành bán đấu giá; tên loại tài sản bán đấu giá;
số lượng, chất lượng, giá khởi điểm; địa điểm trưng bày, các hồ sơ tài liệu liên
quan đến tài sản; công khai họ tên người bán hàng, tên tổ chức bán đấu giá và
cá nhân, tổ chức đăng kí mua và tại phiên đấu giá, người điều hành bán đấu
giá phải công khai các mức giá được trả và họ tên người mua trả giá cao nhất
của mỗi lần trả giá…
Nội dung bán đấu giá tài sản
Bán đấu giá tài sản theo phương thức trả giá cao nhất là hình thức mà
tại cuộc bán đấu giá, nhân viên điều hành bán đấu giá nêu lên giá khởi điểm
thấp nhất của tài sản bán đấu giá. Sau đó nh ng người mua sẽ trả giá nâng dần
lên theo từng mức mặc cả nhất định. Người trả giá cao nhất theo sự kết luận
của nhân viên điều hành đấu giá sẽ được quyền mua tài sản đó. Hình thức này
được áp dụng phổ biến nhất trong các cuộc đấu giá vì nó có lợi cho cả bên
mua và bên bán. Bên mua được chủ động đề xướng giá đặt mua nên quan hệ
mua bán mang tính tự nguyện rất cao. Còn bên bán thường được lợi về giá cả
vì luôn có sự trả giá cao hơn giá khởi điểm mà mình đưa ra.
Đấu giá tài sản về cơ bản khác biệt so với đấu giá hàng hóa ở chỗ, nếu
như ở bán đấu giá tài sản chỉ thừa nhận phương thúc trả giá lên thì bán, đấu
giá hàng hóa được thực hiện theo hai phương thức là phương thức trả giá lên
và phương thức trả giá xuống.
Phương thức đề nghị giao kết hợp đồng được thể hiện bằng miệng
(lời nói), hoặc bằng hành vi
– Bắt đầu phiên đấu giá, nhân viên điều hành đấu giá dùng lời nói của
mình để đưa ra giá khởi điểm. Nh ng người mua sẽ đặt giá cũng bằng lời nói
12

hoặc bằng việc làm dấu hiệu để người điều hành đấu giá biết. Phương thức đề
nghị giao kết hợp đồng trong đấu giá dùng lời nói có ưu điểm là sự trả giá của
mọi người mua đều công khai, người trả giá cao nhất được xác định ngay mà
không phải mất nhiều thời giờ để so sánh, vì thế mà cuộc đấu giá nhanh
chóng kết thúc.
– Phương thức trả giá (đề nghị) bằng văn bản của người mua được viết
ra giấy. Nhân viên điều hành sẽ thông báo mức giá cao nhất qua mỗi lần trả
giá trên cơ sở so sánh các mức giá chấp nhận mà họ được thông báo. Việc đấu
giá kéo dài cho tới lần trả giá liền trước đó. Tuy thủ tục có phức tạp và làm
mất nhiều thời gian hơn nhưng hình thức này hạn chế được tình trạng chạy
đua của nh ng người mua nâng giá lên một cách quá cao so với giá trị. Sau
khi người trả giá cao nhất được mua tài sản sẽ ký hợp đồng với tổ chức bán
đầu giá bằng văn bản. Nếu tài sản phải đăng ký quyền sở h u, sử dụng thì văn
bản bán đấu giá phải công chứng.
Tài sản trong đấu giá rất đa dạng tuỳ theo nhu cầu của chủ sở h u và
theo quy định của pháp luật. Các tài sản bán đấu giá bao gồm tài sản để thi
hành án theo quy định của pháp luật về thi hành án; tài sản là tang vật phương
tiện vi phạm hành chính bị tịch thu sung quỹ nhà nước theo quy định của
pháp luật về xử lý vi phạm hành chính; tài sản bảo đảm theo quy định của
pháp luật về giao dịch có bảo đảm; tài sản thuộc cá nhân, tổ chức có yêu cầu
bán đấu giá tài sản; hàng hoá lưu gi do người vận chuyển đường biển, đường
hàng không; đường bộ lưu gi tại Việt Nam; tài sản nhà nước phải bán đấu
giá tài sản theo quy định của pháp luật về quản lý tài sản nhà nước.
1.2. BÁN ĐẤU GIÁ TÀI SẢN TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
1.2.1. Khái niệm bán đấu giá tài sản trong pháp luật thi hành án dân sự
Trong hoạt động THADS, khi người phải thi hành án và người được thi
hành án không thỏa thuận được về việc nhận tài sản kê biên để thi hành án thì
13

Chấp hành viên căn cứ vào quy định của pháp luật về loại tài sản, giá trị tài
sản để xác định có thực hiện phương thức bán đấu giá hay không. Căn cứ trên
kết quả định giá tài sản mà Chấp hành viên ký hợp đồng với tổ chức bán đấu
giá tài sản hoặc tự đứng ra tổ chức bán đấu giá tài sản nhằm bảo đảm thi hành
bản án, quyết định của Tòa án.
Để có thể bán đấu giá một tài sản thì cần thiết phải có tài sản để mang
bán hay về danh nghĩa phải nắm gi được tài sản đó. Do đó, quá trình bán đấu
giá tài sản thi hành án được bắt đầu kể từ khi Chấp hành viên kê biên tài sản,
định giá tài sản và kết thúc khi tài sản đem bán đấu giá được bàn giao xong
xuôi cho người thắng cuộc trong phiên đấu giá.
Việc bán đấu giá tài sản trong THADS về bản chất vẫn là một phương
thức bán tài sản đặc biệt, được tổ chức công khai tại một nơi nhất định, theo
trình tự, thủ tục bán đấu giá pháp luật quy định. Trong quan hệ gi a người
mua và người bán tài sản thì chỉ có một người bán nhưng lại có rất nhiều
người mua. Tất cả người mua đều muốn mua tài sản nên sẽ cạnh tranh với
nhau, tăng giá của tài sản lên và đẩy giá tài sản lên đến mức cao nhất có thể
và người sở h u tài sản có thể thu được số tiền cao nhất cho tài sản mà mình
phải bán. Tuy nhiên, bán đấu giá tài sản trong THADS khác với bán đấu giá
tài sản thông thường ở thủ tục trước và sau khi tổ chức bán đấu giá. Trước khi
tổ chức bán đấu giá, sự khác biệt thể hiện ở thủ tục chuyển giao tài sản bán
đấu giá được thực hiện gi a tổ chức thực hiện bán đấu giá với cơ quan
THADS. Cơ quan THADS tiến hành thủ tục định giá tài sản, ký hết hợp đồng
nhất định. Theo đó, người mua tự trả giá dựa trên giá khởi điểm do bên bán
đưa ra. Người nào trả giá đáp ứng điều kiện quy định trước của phiên bán đấu
giá sẽ được quyền mua tài sản đấu giá. Sau khi kết thúc việc bán đấu giá tài
sản thì cơ quan THADS tiến hành thủ tục bàn giao, thanh toán chi phí bán đấu
giá, phối hợp làm thủ tục trong chuyển quyền sở h u tài sản cho người mua
14

được tài sản bán đấu giá.
Như vậy, bán đấu giá tài sản trong THADS là hình thức mua bán đặc
biệt, công khai đối với tài sản bị kê biên để thi hành án, theo nguyên tắc và
trình tự, thủ tục do pháp luật quy định, người mua trả giá dựa trên khởi điểm
do cơ quan thi hành án xác định, người nào trả giá cao nhất sẽ được quyền
mua tài sản đấu giá.
1.2.2. Các nguyên tắc bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự
Để tổ chức một cuộc bán đấu giá tài sản thi hành án thành công, trước
hết đòi hỏi việc bán đấu giá phải tuân thủ theo nh ng nguyên tắc nhất định
nhằm bảo đảm sự cạnh tranh công bằng và tính trung thực của cuộc đấu giá;
ngăn ngừa nh ng hành vi tiêu cực gây thiệt hại cho người sở h u tài sản,
người mua được tài sản và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Theo quy
định tại Điều 3 của Nghị định số 17/2010/NĐ-CP thì nh ng nguyên tắc đó là:
Nguyên tắc công khai, liên tục:
Nguyên tắc công khai, liên tục là nguyên tắc đảm bảo cho phiên bán
đấu giá được diễn ra trôi chảy, đảm bảo tính trung thực khách quan từ đó bảo
vệ quyền lợi của các bên tham gia quan hệ.
Bán đấu giá tài sản là hình thức công khai lựa chọn người mua tài sản
nên mọi vấn đề có liên quan đến cuộc bán đấu giá và nh ng thông tin về tài
sản bán đấu giá phải được công khai cho tất cả nh ng ai muốn mua biết được
dưới các hình thức như: niêm yết, thông báo, trưng bày, giới thiệu về tài sản.
Khi bán đấu giá tài sản nói chung và tài sản thi hành án nói riêng thì quá trình
phải diễn ra công khai và liên tục gi a các bên có liên quan. Trong trường hợp
không thỏa thuận được thì Chấp hành viên phải quyết định nhưng cũng công
khai đến cả hai bên biết về việc lựa chọn của mình đến nh ng thông tin về
thời gian, địa điểm bán đấu giá, danh mục tài sản, số lượng, chất lượng của tài
sản; giá khởi điểm của tài sản; nơi trưng bày tài sản; nội quy bán đấu giá, tài
15

sản bán đấu giá, danh sách người tham gia đấu giá, người thực hiện việc bán
đấu giá… cũng phải được niêm yết công khai, không chỉ với hai bên được thi
hành án – phải thi hành án mà còn đến toàn thể nh ng người đã đăng ký mua
tài sản bán đấu giá. Tại phiên bán đấu giá, người điều hành cuộc bán đấu giá
phải công khai các mức giá được trả và họ tên người mua trả giá cao nhất của
mỗi lần trả giá. Nếu vi phạm nguyên tắc này thì bất kỳ bên nào có liên quan
(tùy thuộc từng giai đoạn của cuộc đấu giá) cũng có quyền khiếu nại hoặc yêu
cầu hủy kết quả bán đấu giá do vi phạm nguyên tắc cơ bản của bán đấu giá tài
sản theo quy định của pháp luật.
Pháp luật có quy định như vậy để tránh tình trạng móc ngoặc gi a
khách hàng mua tài sản, bán đấu giá và người điều hành cuộc bán đấu giá.
Việc công khai các nội dung trên thể hiện được rất rõ các quy định trong
nguyên tắc bán đấu giá tài sản.
Nguyên tắc khách quan, trung thực, bình đẳng:
Đây là nguyên tắc đặc thù quan trọng, cơ bản nhất trong bán đấu giá
tài sản.
Nguyên tắc khách quan là việc cung cấp nhận thức dựa trên nh ng cơ
sở thực tế, xuất phát từ chính bản thân đối tượng, từ nh ng thuộc tính và mối
liên hệ vốn có của nó, từ nh ng quy luật vận động và phát triển của bản thân
nó; không thể dựa vào ý muốn chủ quan hoặc lấy ý chí chủ quan áp đặt cho
thực tế. Trong bán đấu giá tài sản THADS, nguyên tắc khách quan được biểu
hiện thông qua việc xác định giá trị khởi điểm của tài sản phải phù hợp với
giá trị thực tế của tài sản.
Nếu xác định giá trị tài sản không đúng sẽ gây thiệt hại cho một trong
nh ng bên có liên quan đến việc bán đấu giá và có thể sẽ phát sinh nh ng
tranh chấp làm chậm lại quá trình bán đấu giá (Giá thấp sẽ gây thiệt hại cho
người sở h u tài sản bán đấu giá và có thể gây thiệt hại cho người được thi
16

hành án; Giá quá cao thì sẽ không có ai mua hoặc nếu mua thì người mua tài
sản bán đấu giá sẽ bị thiệt hại do giá trị không đúng).
Nguyên tắc trung thực có quan hệ chặt chẽ, gắn bó mật thiết với nguyên
tắc công khai. Việc trung thực trong bán đấu giá được thể hiện thông qua việc
cung cấp đầy đủ nh ng thông tin về cuộc bán đấu giá (thời gian, địa điểm,
người tham dự…), về tài sản với nh ng thuộc tính, giá trị và nh ng khuyết tật
của nó; về nh ng giấy tờ liên quan đến tài sản bán đấu giá… Ngoài ra, đối với
nh ng người làm việc trong tổ chức bán đấu giá tài sản nơi thực hiện bán tài
sản đó, người trực tiếp giám định, định giá tài sản, chấp hành viên đang thi
hành bản án và cha, mẹ, vợ, chồng, con, anh, chị, em ruột của nh ng người
này không được quyền tham gia bán đấu giá tài sản do việc tham gia của họ
có khả năng ảnh hưởng đến sự trung thực, khách quan của cuộc bán đấu giá.
Nói tóm lại, nh ng nội dung sau phải thật rõ ràng, chính xác, đầy đủ để không
tạo sự nhầm lẫn hay lừa dối đối với các bên làm cuộc đấu giá bị vô hiệu: các
thông báo về cuộc đấu giá và thông tin về tài sản; các giấy tờ liên quan đến tài
sản bán đấu giá; nh ng đặc điểm khuyết tật không nhìn thấy (nhất là nh ng
tài sản là tài sản có gía trị về lịch sử, nghệ thuật); các giấy tờ xác định tư cách
người tham gia đấu giá. Người bán phải trung thực khi xác định giá khởi điểm
của tài sản, không nên đưa mức khởi điểm quá cao so với giá trị thực tế của
tài sản làm người mua bị thiệt. Nếu chất lượng tài sản không đúng như thông
báo, người mua có quyền trả lại hàng hoá cho tổ chức bán đấu giá và yêu cầu
bồi thường thiệt hại. Quy định tính trung thực cho mỗi cuộc bán đấu giá cũng
chính là nhằm bảo vệ quyền lợi cho các bên tham gia bán đấu giá nhất là
trong các cuộc bán đấu giá tài sản lớn thì tính trung thực đóng vai trò thiết
yếu. Tổ chức bán đấu giá không phải chịu trách nhiệm về giá trị, chất lượng
của tài sản bán đấu giá trừ trường hợp không thông tin đầy đủ cho người mua.
Nh ng người có thân phận pháp lý hay hoàn cảnh đặc biệt mà sự tham gia của
17

họ có ảnh hưởng đến sự trung thực của cuộc đấu giá thì không được tham gia
trả giá.
Nguyên tắc trung thực đòi hỏi tất cả các chủ thể tham gia quan hệ đấu
giá tài sản đều phải tuân theo. Nếu nguyên tắc trung thực không được đem
vào để thực hiện trong đấu giá tài sản thì sẽ xảy ra tình trạng móc ngoặc, thiên
vị, phá quấy làm ảnh hưởng phương hại đến lợi ích của các chủ thể có liên
quan. Nguyên tắc trung thực còn đảm bảo cho khách hàng có sự yên tâm về
tài sản mà mình lựa chọn [26, tr.278, 279].
Nguyên tắc bình đẳng gi a các bên được thể hiện qua việc bất cứ cá
nhân nào (trừ trường hợp không đủ điều kiện như người không được nhận
chuyển nhượng quyền sử dụng đất; người không thuộc trường hợp được Nhà
nước giao đất có thu tiền sử dụng đất, cho thuê đất theo quy định của pháp
luật về đất đai hoặc trường hợp tham gia gây ảnh hưởng đến tính trung thực,
khách quan của cuộc bán đấu giá như đã kể trên) cũng đều có quyền đăng ký
tham gia bán đấu giá. Khi đăng ký tham gia thì ai cũng phải nộp phí tham gia
đấu giá và khoản tiền đặt trước. Việc trưng bày tài sản bán đấu giá cũng được
công khai để mọi người tham gia có quyền tiếp cận ngang nhau. Tại phiên
bán đấu giá, mọi người tham gia đều có quyền tự do trả giá, người điều hành
phiên đấu giá buộc phải công khai các mức giá đã trả và họ tên người mua trả
giá cao nhất trong mỗi bước giá. Ai là người trả giá cao nhất, cuối cùng thì sẽ
thắng cuộc trong phiên đấu giá.
Nguyên tắc bảo vệ quyền và lợi ích của các bên tham gia:
Nguyên tắc này gắn liền với nguyên tắc trung thực. Trong quan hệ bán
đấu giá tài sản THADS, do có rất nhiều bên có quyền, lợi ích liên quan nên
việc bảo đảm quyền và lợi ích của các bên luôn được dung hòa. Người mua
được tài sản sau khi thanh toán tiền cho tổ chức bán đấu giá thì được nhận tài
sản và được thực hiện đầy đủ có quyền của mình theo hợp đồng bán đấu giá tài
18

sản. Họ được quyền cấp giấy chứng nhận quyền sở h u, quyền sử dụng tài sản
trong mọi trường hợp dù người sở h u tài sản có chây ỳ, không chịu bàn giao
giấy tờ sở h u tài sản. Số tiền bán tài sản được tổ chức bán đấu giá chuyển lại
cho cơ quan THADS địa phương sau khi thanh toán các khoản phí và chi phí
bán đấu giá tài sản. Cơ quan THADS thực hiện thi hành đầy đủ bản án, quyết
định của Tòa án (chi trả cho người được thi hành án), khấu trừ chi phí tổ chức
cưỡng chế thi hành án và bàn giao số tiền còn lại cho người phải thi hành án
(chính là chủ sở h u tài sản ban đầu). Như vậy, có thể thấy rằng nguyên tắc bảo
vệ quyền và lợi ích của các bên được gắn liền với các quy định về quyền và
nghĩa vụ của các bên khi tham gia quan hệ bán đấu giá tài sản.
Nguyên tắc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia
được thể hiện khá rõ qua việc pháp luật đưa ra các quy định về chủ thể ký kết
hợp đồng ủy quyền bán đấu giá tài sản. Quyền lợi của các bên tham gia bán
đấu giá tài sản còn được đảm bảo thông qua việc pháp luật quy định cụ thể về
tất cả các vấn đề như thời gian, địa điểm, quyền hạn của các bên tham gia
quan hệ đấu giá tài sản.
Quyền và lợi ích của các bên trong quan hệ đấu giá tài sản phải được
coi trọng và đảm bảo đầy đủ. Người bán hàng có quyền xác định giá khởi
điểm của tài sản, quyền yêu cầu tổ chức bán đấu giá thanh toán đầy đủ tiền
bán tài sản ngay sau khi cuộc đấu giá kết thúc, được bồi thường thiệt hại nếu
tổ chức bán đấu giá hay bên mua có hành vi xâm hại đến lợi ích của mình.
Người mua hàng có quyền được xem tài sản, yêu cầu cung cấp đầy đủ thông
tin về tài sản, được tự đặt giá, được xác lập quyền sở h u đối với tài sản sau
khi hoàn thành việc bản đấu giá và họ đã thực hiện xong nghĩa vụ thanh toán.
Tổ chức bán đấu giá được thu của người bán hàng lệ phí và các khoản chi phí
cần thiết cho việc tổ chức bán đấu giá theo quy định của pháp luật.
Việc tổ chức đấu giá tài sản phải tuân thủ theo nh ng nguyên tắc nhất
19

định trên nhằm đảm bảo sự cạnh tranh công bằng và tính trung thực của việc
bán đấu giá tài sản.
Mọi cuộc bán đấu giá đều phải do đấu giá viên điều hành theo đúng
trình tự, thủ tục bán đấu giá: Nguyên tắc này được quy định tại khoản 2 Điều
3 của Nghị định số 17/2010/NĐ-CP. Theo nguyên tắc này thì mọi phiên bán
đấu giá tài sản, tài sản phải do đấu giá viên (đủ điều kiện, năng lực bán đấu
giá tài sản như đã nêu tại mục 2.1.1) điều hành theo đúng trình tự, thủ tục quy
định trong Nghị định thì phiên đấu giá mới có giá trị và được pháp luật công
nhận. Nếu đấu giá viên không đủ điều kiện thì đương nhiên phiên bán đấu giá
đó sẽ bị hủy, quyền và nghĩa vụ của các bên không được thiết lập. Bên nào có
lỗi trong việc để xảy ra tình trạng này thì sẽ phải bồi thường thiệt hại cho
người trúng đấu giá mà không mua được tài sản.
Trong quan hệ THADS, ngoài đấu giá viên thì Chấp hành viên đang
được cơ quan thi hành án phân công thi hành bản án, quyết định có hiệu lực
của Tòa án cũng được bán đấu giá đối với tài sản đó. Việc bán đấu giá của
Chấp hành viên tất nhiên chỉ được giới hạn trong trường hợp đặc biệt hoặc
phạm vi rất nhỏ chẳng hạn như tại tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi
có tài sản chưa có tổ chức bán đấu giá (hiện nay trường hợp này không tồn tại
vì tại tỉnh, thành phố nào cũng đã có ít nhất 01 Trung tâm dịch vụ bán đấu giá
tài sản) hoặc có nhưng tổ chức bán đấu giá từ chối ký hợp đồng dịch vụ bán
đấu giá tài sản hoặc động sản có giá trị từ 2.000.000 đồng đến 10.000.000
đồng. Khi thực hiện bán đấu giá, Chấp hành viên cũng buộc phải tuân thủ các
quy định về trình tự, thủ tục bán đấu giá tài sản theo quy định tại Nghị định số
17/2010/NĐ-CP.
1.2.3. Sự khác biệt giữa bán đấu giá tài sản thi hành án dân sự và các loại
bán đấu giá khác
Trong bán đấu giá thông thường thì người có tài sản chủ động mang tài
20

sản, tài sản của mình tham gia đấu giá với mong muốn thu được lợi nhuận cao
nhất từ tài sản, tài sản đó do đó họ tham gia với vai trò tích cực, chủ động để
việc bán đấu giá nhanh chóng thành công. Tuy nhiên, bán đấu giá tài sản
THADS với tư cách là một biện pháp tiếp nối trong quá trình cưỡng chế tài
sản của người phải thi hành án nhằm bảo đảm thi hành án nên người có tài sản
bán đấu giá không tự nguyện mang tài sản của mình đến bán đấu giá mà bị
cưỡng chế bởi cơ quan có thẩm quyền (cơ quan THADS).
Khi tham gia bán đấu giá, người được thi hành án mong muốn việc bán
đấu giá nhanh chóng thành công để bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực
thực thi và bản thân nhanh chóng nhận được tài sản. Tuy nhiên, người phải thi
hành án (là người có tài sản bị mang ra bán đấu giá) thì mang tâm lý bị ép
buộc, cưỡng chế nên thường có tâm lý chây ỳ, cố tình gây khó khăn, cản trở
cho quá trình bán đấu giá tài sản thi hành án. Sau khi quá trình bán đấu giá tài
sản diễn ra thành công thì người đang sở h u tài sản bán đấu giá tìm mọi cách
cản trở, không bàn giao tài sản đã bán đấu giá khiến cho người mua được tài
sản bán đấu giá khá vất vả trong quá trình trở thành chủ sở h u hợp pháp của
tài sản.
Trong bán đấu giá thông thường thì người có tài sản có thể tự mình tổ
chức bán đấu giá nhưng cũng có thể bán thông qua tổ chức trung gian làm
dịch vụ bán đấu giá. Tuy nhiên trong bán đấu giá tài sản thi hành án thì ngoài
bên có tài sản bán đấu giá (người phải thi hành án) và tổ chức làm dịch vụ đấu
giá thì còn có tham gia của Cơ quan THADS, Chấp hành viên. Sự tham gia
của Cơ quan THADS, Chấp hành viên thể hiện ở việc quyết định lựa chọn tổ
chức bán đấu giá tài sản, ở việc ký hợp đồng dịch vụ đấu giá… Trong một số
trường hợp Chấp hành viên còn tự mình đứng ra trực tiếp bán đấu giá tài sản
phải thi hành án nếu tại tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi có tài sản
bán để THADS chưa có tổ chức bán đấu giá hoặc có nhưng tổ chức bán đấu
21

giá từ chối ký hợp đồng dịch vụ bán đấu giá tài sản hoặc đối với tài sản là
động sản có giá trị nhỏ.
Về phương thức, hình thức bán đấu giá
Trong bán đấu giá thông thường, việc bán đấu giá có thể thực hiện bằng
nhiều phương thức khác nhau như trả giá công khai lên, trả giá công khai
xuống v.v.. miễn là hai bên (bên có tài sản mang bán đấu giá và bên thực hiện
dịch vụ bán đấu giá) thỏa thuận với nhau về hình thức thực hiện và thỏa thuận
đó tuân thủ theo đúng quy định pháp luật. Việc bán đấu giá tài sản trong
THADS với tư cách là một công đoạn trong cưỡng chế thi hành án và người
trực tiếp sở h u tài sản đang bán đấu giá thường có tâm lý bị ép buộc phải
thực hiện nên tìm mọi cách gây khó khăn, cản trở. Do vậy, để giảm, tránh mọi
mâu thuẫn có thể phát sinh gi a các bên pháp luật đã có quy định chặt chẽ về
phương thức, hình thức bán đấu giá. Tại Việt Nam, việc bán đấu giá tài sản
được thực hiện theo hình thức đấu giá trực tiếp bằng lời nói và đấu giá bằng
bỏ phiếu. Tuy nhiên, trong thực tiễn thực hiện thì việc bán đấu giá tài sản thi
hành án chỉ thực hiện duy nhất bằng hình thức công khai, trực tiếp bằng lời
nói trả giá lên để đảm bảo tính an toàn và tránh nh ng rủi ro khi tổ chức bán
đấu giá tài sản.
Về tài sản bán đấu giá trong thi hành án dân sự
Trong bán đấu giá thông thường thì tài sản đem ra bán đấu giá có thể là
bất kỳ tài sản nào. Người bán hàng chỉ đưa ra mức giá cơ bản (giá khởi điểm)
để người mua tham khảo giá, còn giá bán thực tế do nh ng người tham dự cuộc
đấu giá xác định trên cơ sở tự cạnh tranh giá với nhau. Lợi ích mà người bán
muốn thu được là giá trị lợi nhuận từ tài sản, tài sản mà mình đang sở h u.
Xuất phát từ việc đảm bảo nghĩa vụ thi hành bản án, quyết định của
Tòa án nên tài sản được mang ra bán đấu giá để thi hành án có tính chất đặc
thù về giá trị và giá trị sử dụng. Tài sản mang ra bán đấu giá thường có giá trị
tương đương hoặc lớn hơn với giá trị phải thi hành của bản án, quyết định của

Đánh giá post

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *