9664_Bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng

luận văn tốt nghiệp

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

BÙI THỊ THANH HẰNG

BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM
HỢP ĐỒNG

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – 2018

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

BÙI THỊ THANH HẰNG

BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM
HỢP ĐỒNG

Chuyên ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự

Mã số: 69.38.01.03

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

1. PGS.TS. Phùng Trung Tập

2. TS. Nguyễn Minh Tuấn

HÀ NỘI – 2018

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu của riêng tôi. Các số liệu nêu trong luận án là
trung thực. Kết quả nghiên cứu nêu trong luận án
chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình
nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Bùi Thị Thanh Hằng

LỜI CẢM ƠN

Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với PGS.TS.
Phùng Trung Tập và TS. Nguyễn Minh Tuấn – hai người hướng
dẫn đã tận tình chỉ bảo trong quá trình tác giả thực hiện luận
án. Tác giả cũng xin cảm ơn các thầy, cô, anh, chị, bạn bè,
đồng nghiệp và gia đình đã động viên, khuyến khích, giúp đỡ,
đóng góp ý kiến quý báu để tác giả hoàn thành bản Luận án
này.

TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Bùi Thị Thanh Hằng

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLDS
: Bộ luật Dân sự
BLDS năm 2005
: Bộ luật Dân sự năm 2005
BLDS năm 2015
: Bộ luật Dân sự năm 2015
BLDS Pháp năm 1804
: Bộ luật Dân sự Pháp năm 1804
BTTH
: Bồi thường thiệt hại
CISG
: United Nations Convention on Contracts for the
International Sale of Goods (Công ước của Liên
hợp quốc về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
năm 1980)
LTM năm 2005
: Luật Thương mại năm 2005
NCS
: Nghiên cứu sinh
PECL
: The Principles of European Contract Law (Bộ
nguyên tắc về luật hợp đồng châu Âu)
SGA 1979
: Sale of good Act 1979 (Đạo luật về mua bán
hàng hóa năm 1979 của Anh)
Sắc lệnh số 2016-131
: Ordonnance n° 2016-131 du 10 février
2016 portant réforme du droit des contrats, du
régime général et de la preuve des obligations
(Sắc lệnh số 2016-131 ngày 10 tháng 2 năm 2016
về cải cách luật hợp đồng, các quy định chung và
chứng cứ của các nghĩa vụ)
TAND
: Tòa án nhân dân
UPICC
:
UNIDROIT
Principles
of
International
Commercial Contracts (Bộ nguyên tắc của
UNIDROIT về hợp đồng thương mại quốc tế)

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU……………………………………………………………………………………..1
TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
………………………… ….6
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM HỢP
ĐỒNG ………………………………………………………………………………………13
1.1. Khái luận chung về hợp đồng và vi phạm hợp đồng ……………………………………………….
13
1.1.1. Khái niệm hợp đồng
…………………………………………………………………………………………
13
1.1.2. Khái niệm vi phạm hợp đồng
…………………………………………………………………………….
14
1.2. Khái luận chung về biện pháp khắc phục hậu quả của hành vi vi phạm hợp đồng ………
20
1.2.1. Khái niệm biện pháp khắc phục hậu quả của hành vi vi phạm hợp đồng ………………..
20
1.2.2. Bản chất và chức năng của các biện pháp khắc phục hậu quả của hành vi vi phạm hợp
đồng……. ………………………………………………………………………………………………………………..
27
1.2.3. Khái niệm, bản chất và chức năng bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng
…………
30
1.2.3.1. Khái niệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng ………………………………………..
30
1.2.3.2. Bản chất và chức năng của bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng ………………..
31
1.3. Mối tương quan giữa bồi thường thiệt hại với một số biện pháp khắc phục hậu quả của
hành vi vi phạm hợp đồng chính ………………………………………………………………………………..
33
1.3.1. Mối tương quan giữa bồi thường thiệt hại với một số biện pháp khắc phục hậu quả
của hành vi vi phạm hợp đồng chính trong luật hợp đồng Pháp …………………………………….
34
1.3.2. Mối tương quan giữa bồi thường thiệt hại với một số biện pháp khắc phục hậu quả
của hành vi vi phạm hợp đồng chính trong luật hợp đồng Anh ………………………………………
36
1.3.3. Mối tương quan giữa bồi thường thiệt hại với một số biện pháp khắc phục hậu quả
của hành vi vi phạm hợp đồng chính trong CISG, UPICC và PECL
……………………………….
38
1.3.4. Mối tương quan giữa bồi thường thiệt hại với một số biện pháp khắc phục hậu quả
của hành vi vi phạm hợp đồng chính trong pháp luật hợp đồng Việt Nam
………………………
42
1.4. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng ……………………………………………
45
1.5. Thời điểm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng ………….49
1.6. Miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng ……………………………….
…51
1.7. Nghĩa vụ hạn chế thiệt hại …………………………………………………………………………………..
57
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ……………………………………………………………………………………… …61
CHƯƠNG 2. CĂN CỨ ÁP DỤNG BIỆN PHÁP BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM
HỢP ĐỒNG – THỰC TIỄN THỰC HIỆN VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN ……………… …64
2.1.
Có hành vi vi phạm hợp đồng……………………………………………………….66
2.2.
Có thiệt hại xảy ra…………………………………………………………………..76
2.3.
Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hợp đồng và thiệt hại xảy ra…….86

2.4.
Có lỗi của bên gây thiệt hại………………………………………………………..92
2.5.
Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về căn cứ áp dụng biện pháp bồi thường thiệt hại do
vi phạm hợp đồng ……………………………………………………………………………..
………………104
2.5.1.
Nhóm kiến nghị sửa đổi, bổ sung quy định của BLDS năm 2015 và LTM năm 2005

……………………………………………………………………………………107
2.5.2.
Nhóm kiến nghị về văn bản hướng dẫn thi hành BLDS năm 2015………………….110
2.5.3.
Nhóm kiến nghị sửa đổi, bổ sung luật liên quan……………………………………..111
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2………………………………………………………………….111
CHƯƠNG 3. XÁC ĐỊNH MỨC BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM HỢP ĐỒNG –
THỰC TIỄN THỰC HIỆN VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN…………………………….114
3.1.
Xác định mức bồi thường thiệt hại trong trường hợp các bên có thỏa thuận trước

…………………………………………………………………………………….114
3.2.
Xác định mức bồi thường trong trường hợp không có thỏa thuận trước
…………….
126
3.2.1.
Thiệt hại được bồi thường …………………………………………………………………………..
126
3.2.2.
Cơ sở xác định mức bồi thường trong trường hợp không có thỏa thuận
trước…………………………………………………………………………………….….132
3.2.3.
Thời điểm tính thiệt hại ………………………………………………………………………………
141
3.3.
Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về xác định mức bồi thường thiệt hại do vi phạm
hợp đồng ……………………………………………………………………………………………………………….
151
3.3.1.
Nhóm kiến nghị sửa đổi, bổ sung quy định của BLDS năm 2015 và LTM năm 2005

…………………………………………………………………………………….154
3.3.2.
Nhóm kiến nghị về văn bản hướng dẫn thi hành BLDS năm 2015 ………………….
..159
3.3.3.
Nhóm kiến nghị sửa đổi, bổ sung quy định của luật liên quan …………………
…….161
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3………………………………………………………………….161
KẾT LUẬN CHUNG………………………………………………………………………164
CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ
TÀI LUẬN ÁN……………………………………………………………………………..166
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………….….167
PHỤ LỤC 1. TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI LUẬN ÁN……..176
PHỤ LỤC 2. MỘT SỐ BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO VI
PHẠM HỢP ĐỒNG……………………………………………………………………..…192

1

MỞ ĐẦU

1.
Tính cấp thiết của đề tài
Hợp đồng là một trong những phương tiện pháp lý chủ yếu được mọi cá nhân, tổ
chức sử dụng nhằm thỏa mãn các nhu cầu về mọi mặt trong cuộc sống, do vậy, hợp đồng
luôn có vai trò quan trọng đối với sự vận hành của nền kinh tế. Do tầm quan trọng của
hợp đồng đối với đời sống xã hội nên các hệ thống pháp luật trên thế giới đều đặt luật
hợp đồng ở vị trí trung tâm của luật tư và luôn quan tâm hoàn thiện, phát triển lĩnh vực
pháp luật này.
Nếu như xác lập hợp đồng là quá trình các bên thỏa thuận, thống nhất với nhau về
các điều khoản hợp đồng thì thực hiện hợp đồng lại là quá trình các bên biến các điều
khoản họ đã tự nguyện cam kết thành hiện thực để đáp ứng các quyền và nghĩa vụ mà họ
mong muốn đạt được. Khi xác lập hợp đồng, thông thường các bên sẽ tự giác thực hiện
đầy đủ các điều khoản mà họ đã tự nguyện cam kết. Tuy nhiên, trong một số trường hợp,
vì những lý do chủ quan hoặc khách quan mà bên có nghĩa vụ không thực hiện đúng
nghĩa vụ đã cam kết, gây thiệt hại cho bên có quyền trong quan hệ hợp đồng. Để khắc
phục hậu quả bất lợi do hành vi vi phạm hợp đồng của bên có nghĩa vụ mang lại, luật
hợp đồng các quốc gia đều dự liệu một biện pháp giúp bên bị thiệt hại khắc phục những
hậu quả mà hành vi vi phạm hợp đồng của bên có nghĩa vụ gây ra, qua đó giúp bên bị
thiệt hại bảo vệ được các quyền và lợi ích hợp pháp do vi phạm hợp đồng.
Bồi thường thiệt hại (BTTH) do vi phạm hợp đồng là biện pháp pháp lý quan
trọng có vai trò bù đắp cho bên bị thiệt hại (bên có quyền) những tổn thất là hậu quả của
hành vi vi phạm hợp đồng. Trong các hệ thống pháp luật, về nguyên tắc BTTH là biện
pháp nhằm khắc phục những thiệt hại xảy ra để đưa bên bị thiệt hại vào vị trí mà đáng lẽ
bên này có được nếu hợp đồng được thực hiện đúng, tuy vậy, các hệ thống pháp luật
cũng có những khác biệt về biện pháp này như thiệt hại được bồi thường, căn cứ áp dụng
biện pháp BTTH, xác định mức BTTH, các trường hợp được miễn trách nhiệm BTTH…
Bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng không phải là vấn đề pháp lý mới trong
các hệ thống pháp luật hiện đại nhưng đây lại là vấn đề chưa nhận được sự quan tâm
đúng mức trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Chẳng hạn như những thiệt hại nào có thể
được bồi thường, căn cứ áp dụng biện pháp BTTH? Trong trường hợp nào bên vi phạm
hợp đồng được miễn trách nhiệm BTTH? Đây là những vấn đề vẫn chưa thực sự được
giải quyết triệt để trong pháp luật hợp đồng Việt Nam. Do vậy, nghiên cứu các quy định
của pháp luật hợp đồng Việt Nam trong mối tương quan với luật hợp đồng hiện đại của
một số quốc gia như Pháp và Anh, cũng như các văn bản pháp lý quốc tế quan trọng về
2

luật hợp đồng để từ đó rút ra những kinh nghiệm cho việc hoàn thiện pháp luật hợp đồng
Việt Nam trong việc áp dụng biện pháp BTTH do vi phạm hợp đồng là việc cần thiết cả
về lý luận và thực tiễn. Đấy là lý do để nghiên cứu sinh (NCS) chọn chủ đề “Bồi thường
thiệt hại do vi phạm hợp đồng” làm đề tài luận án tiến sỹ luật học của mình.
2.
Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận án là thông qua việc nghiên cứu các vấn đề lý luận
và thực tiễn các quy định của pháp luật Việt Nam về BTTH do vi phạm hợp đồng ở Việt
Nam, trên cơ sở so sánh đối chiếu với qui định BTTH do vi phạm hợp đồng của một số
quốc gia và một số văn bản pháp lý quốc tế nhằm góp phần làm rõ và làm phong phú
thêm về cơ sở lý luận, thực tiễn và pháp lý của vấn đề BTTH do vi phạm hợp đồng, tiếp
thu có chọn lọc những điểm tiến bộ trong pháp luật quốc tế; đồng thời đưa ra những kiến
nghị cụ thể để sửa đổi, bổ sung các qui định còn bất cập, thiếu sót trong pháp luật hiện
hành, hoàn thiện cơ chế pháp lý điều chỉnh BTTH do vi phạm hợp đồng theo xu hướng
hiện đại và hội nhập, qua đó nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật hợp đồng Việt
Nam.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích trên, luận án có các nhiệm vụ cụ thể sau đây:
– Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về BTTH do vi phạm hợp đồng, như: làm rõ
khái niệm và bản chất của các biện pháp khắc phục hậu quả của hành vi vi phạm hợp
đồng, BTTH do vi phạm hợp đồng; làm rõ những vấn đề lý luận về các căn cứ áp dụng
biện pháp BTTH do vi phạm hợp đồng, các trường hợp miễn trách nhiệm BTTH, xác
định mức BTTH.v.v…
– Nghiên cứu so sánh pháp luật hợp đồng Việt Nam với luật hợp đồng của Pháp,
Anh (điển hình của hệ thống Civil law và Common law) và các văn bản pháp lý quốc tế
về BTTH do vi phạm hợp đồng. Từ nghiên cứu so sánh, luận án sẽ đề xuất tiếp thu
những kinh nghiệm hay, phù hợp với điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội của Việt Nam.
– Đề xuất định hướng và giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện các quy định của Bộ
luật Dân sự năm 2015 (BLDS năm 2015) và một luật liên quan về biện pháp BTTH do vi
phạm hợp đồng.
3.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là các quy định của BLDS năm 2015, Bộ luật
Dân sự năm 2005 (BLDS năm 2005) và các văn bản pháp luật liên quan đến biện pháp
BTTH do vi phạm hợp đồng như Luật Thương mại năm 2005 (LTM năm 2005), Luật
3

Xây dựng năm 2014, Bộ luật hàng hải năm 2015, Luật Khám bệnh, chữa bệnh năm 2009,
Luật Luật sư năm 2012, Luật Hàng không dân dụng Việt Nam năm 2006 (sửa đổi, bổ
sung năm 2014). Bên cạnh đó, một số bản án của Tòa án Việt Nam cũng sẽ được sử
dụng, nghiên cứu trong luận án nhằm minh họa cho các kết quả nghiên cứu. Đối tượng
nghiên cứu của luận án cũng bao gồm luật hợp đồng của hai quốc gia tiêu biểu trong hệ
thống Civil law, Common law là Pháp, Anh và một số văn bản pháp luật quốc tế về hợp
đồng như Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (sau đây gọi tắt là
CISG), Bộ nguyên tắc Unidroit về hợp đồng thương mại quốc tế (sau đây gọi tắt là
UPICC), Bộ nguyên tắc Luật hợp đồng Châu Âu (sau đây gọi tắt là PECL).
Phạm vi nghiên cứu
Trên cơ sở những quy định trong các văn bản pháp lý nêu trên, luận án tập trung
nghiên cứu và làm rõ những vấn đề sau:
Thứ nhất, trên cơ sở những quy định của pháp luật về BTTH do vi phạm hợp
đồng, luận án sẽ tập trung nghiên cứu và làm rõ cơ sở lý luận về BTTH do vi phạm hợp
đồng.
Thứ hai, luận án tập trung làm rõ các quy định của BLDS năm 2005, BLDS năm
2015, LTM năm 2005 và một số văn bản pháp luật có liên quan về BTTH do vi phạm
hợp đồng. Thông qua đó làm rõ những thay đổi của BLDS năm 2015 so với BLDS năm
2005. Luận án nghiên cứu luật hợp đồng của Anh, Pháp và các văn bản pháp luật quốc tế
như CISG, UPICC, PECL trên cơ sở so sánh với các quy định của pháp luật Việt Nam,
qua đó nhằm làm rõ những điểm tương thích, hạn chế trong pháp luật hợp đồng Việt
Nam về BTTH do vi phạm hợp đồng.
Thứ ba, trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận, thực trạng pháp luật và thực tiễn
áp dụng pháp luật về BTTH do vi phạm hợp đồng, luận án sẽ đưa ra những ý kiến đánh
giá và những kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về vấn đề này.
Do BTTH do vi phạm hợp đồng là vấn đề pháp lý phức tạp và có mối liên hệ
biện chứng với nhiều vấn đề pháp lý quan trọng khác của luật hợp đồng, như giao kết
hợp đồng, thực hiện hợp đồng, chấm dứt hợp đồng, giải thích hợp đồng, các biện pháp
bảo đảm thực hiện nghĩa vụ… nên Luận án không có tham vọng giải quyết mọi vấn đề
liên quan tới BTTH do vi phạm hợp đồng mà chỉ tập trung nghiên cứu và làm rõ BTTH
do vi phạm hợp đồng với tính cách là một biện pháp khắc phục hậu quả của hành vi vi
phạm hợp đồng. Theo đó, Luận án chỉ đề cập đến một số vấn đề lý luận như khái niệm vi
phạm hợp đồng, khái niệm biện pháp khắc phục hậu quả của hành vi vi phạm hợp đồng,
mối quan hệ giữa BTTH với hủy bỏ hợp đồng và buộc tiếp tục thực hiện hợp đồng,
nguyên tắc BTTH do vi phạm hợp đồng, thời điểm phát sinh trách nhiệm BTTH do vi
4

phạm hợp đồng, hệ thống các căn cứ miễn, giảm trách nhiệm BTTH do vi phạm hợp
đồng, nghĩa vụ hạn chế tổn thất của bên bị thiệt hại, các căn cứ áp dụng biện pháp BTTH
do vi phạm hợp đồng và xác định mức BTTH. Do vậy, một số vấn đề liên quan đến trách
nhiệm BTTH do vi phạm hợp đồng sẽ không được đề cập tới trong Luận án như xác định
chủ thể trách nhiệm BTTH do vi phạm hợp đồng, sử dụng tài sản bảo đảm để thực hiện
nghĩa vụ BTTH, BTTH do vi phạm hợp đồng đối với người thứ ba… Ngoài ra do phạm
vi đối tượng của nghĩa vụ hợp đồng là vô cùng rộng nên Luận án cũng chỉ tập trung
nghiên cứu BTTH do vi phạm hợp đồng đối với các nghĩa vụ có đối tượng là tài sản và
nghĩa vụ có đối tượng công việc nói chung mà không nghiên cứu các đối tượng nghĩa vụ
đặc thù như quyền sử dụng đất, quyền bề mặt hay quyền hưởng dụng…
4.
Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận: Việc nghiên cứu luận án sẽ dưa trên cơ sở phương pháp luận
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác – Lênin. Đây được coi là kim
chỉ nam cho việc định hướng các phương pháp nghiên cứu cụ thể của NCS trong quá
trình thực hiện luận án.
Phương pháp nghiên cứu cụ thể: Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác – Lênin, NCS sẽ sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như sau:
– Phương pháp so sánh được áp dụng nhằm chỉ ra những điểm tương đồng và
khác biệt giữa pháp luật hợp đồng Việt Nam với luật hợp đồng của Anh, Pháp và các văn
bản pháp lý quốc tế về luật hợp đồng là CISG, UPICC và PECL.
– Phương pháp phân tích và bình luận để làm rõ những vấn đề lý luận và quy định
pháp luật hiện hành về BTTH do vi phạm hợp đồng;
– Phương pháp tổng hợp nhằm khái quát hoá thực trạng pháp luật về BTTH do vi
phạm hợp đồng nhằm đưa ra những kiến nghị phù hợp;
Trên cơ sở áp dụng các phương pháp nghiên cứu kể trên, NCS đưa ra những đánh
giá về chế định BTTH do vi phạm hợp đồng trong pháp luật Việt Nam để từ đó rút ra các
kiến nghị nhằm đưa pháp luật hợp đồng Việt Nam nói chung và chế định BTTH do vi
phạm hợp đồng nói riêng hoàn thiện hơn, tương thích hơn với pháp luật thế giới.
5.
Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
Về phương diện lý luận, thông qua việc làm rõ một số vấn đề lý luận về BTTH do
vi phạm hợp đồng, luận án góp phần vào việc củng cố và hoàn thiện những vấn đề lý
luận về hợp đồng trong khoa học pháp lý Việt Nam.
Về phương diện thực tiễn, những quan điểm và kiến nghị hoàn thiện pháp luật
Việt Nam liên quan đến BTTH do vi phạm hợp đồng được đề xuất trong luận án sẽ là tài
liệu tham khảo có giá trị cho các nhà lập pháp, các cơ quan có thẩm quyền trong việc
5

hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt Nam về BTTH do vi phạm hợp đồng. Luận
án cũng là tài liệu tham khảo cho các cơ quan toà án, trọng tài trong việc giải quyết các
tranh chấp liên quan đến BTTH do vi phạm hợp đồng. Bên cạnh đó, luận án cũng là
nguồn tài liệu tham khảo hữu ích cho các cá nhân và doanh nghiệp Việt nam trong quá
trình giải quyết tranh chấp bằng biện pháp BTTH do vi phạm hợp đồng.
6.
Tính mới của luận án
Thứ nhất, luận án là công trình đầu tiên ở Việt Nam nghiên cứu một cách hệ
thống, chuyên sâu dưới góc độ lý luận và thực trạng pháp luật về biện pháp BTTH do vi
phạm hợp đồng.
Thứ hai, dưới góc độ lý luận, luận án góp phần làm rõ vai trò quan trọng của
BTTH do vi phạm hợp đồng, đồng thời luận án cũng đã làm rõ hai nội dung quan trọng
của BTTH do vi phạm hợp đồng là căn cứ áp dụng biện pháp BTTH do vi phạm hợp
đồng và xác định mức BTTH do vi phạm hợp đồng.
Thứ ba, luận án đã phân tích thực trạng pháp luật hợp đồng Việt Nam về BTTH
do vi phạm hợp đồng kết hợp so sánh với luật hợp đồng của một số hệ thống pháp luật
hiện đại, từ đó chỉ rõ những ưu điểm và hạn chế của pháp luật Việt Nam và đề xuất
những kiến nghị hoàn thiện.
7.
Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, tổng quan về tình hình nghiên cứu đề tài luận án, kết luận,
danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận án gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng
Chương 2: Căn cứ áp dụng biện pháp bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng –
Thực tiễn thực hiện và kiến nghị hoàn thiện
Chương 3: Xác định mức bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng – Thực tiễn
thực hiện và kiến nghị hoàn thiện

6

TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1.
Tiền đề của việc đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài “Bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp
đồng” xuất phát từ các tiền đề sau: Thứ nhất, các biện pháp khắc phục hậu quả của hành
vi vi phạm hợp đồng nói chung và BTTH nói riêng được ghi nhận trong mọi hệ thống
pháp luật; và thứ hai, có sự khác biệt trong việc áp dụng biện pháp BTTH trong các hệ
thống pháp luật.
Từ tiền đề thứ nhất, các hệ quả sau cần được lưu ý khi đánh giá tổng quan tình
hình nghiên cứu đề tài: (1) sự tương đồng của các hệ thống pháp luật trong việc áp dụng
các biện pháp khắc phục hậu quả của hành vi vi phạm hợp đồng; và (2) sự khác biệt về
các biện pháp khắc phục hậu quả của hành vi vi phạm hợp đồng trong các hệ thống pháp
luật.
Từ tiền đề thứ hai, các hệ quả sau được lưu ý khi đánh giá tổng quan tình hình
nghiên cứu đề tài: (1) Sự khác biệt về vị trí của biện pháp BTTH trong các biện pháp
khắc phục hậu quả của hành vi vi phạm hợp đồng của các hệ thống pháp luật; (2) Sự
không đồng nhất về phạm vi áp dụng biện pháp BTTH do vi phạm hợp đồng trong các hệ
thống pháp luật.
Các tiền đề và hệ quả này cho thấy: chưa có một công trình nào nghiên cứu
chuyên sâu vấn đề BTTH do vi phạm hợp đồng trên thế giới mà chủ yếu các công trình
này chỉ nghiên cứu chung các biện pháp khắc phục hậu quả của hành vi vi phạm hợp
đồng. Mặt khác, hầu hết các công trình nghiên cứu chỉ đề cập đến lý thuyết chung về các
biện pháp khắc phục hậu quả của hành vi vi phạm hợp đồng và việc áp dụng chúng trong
hệ thống pháp luật của một số quốc gia cụ thể. Từ các tiền đề và hệ quả trên có thể khẳng
định việc nghiên cứu biện pháp BTTH do vi phạm hợp đồng là hết sức có ý nghĩa ở Việt
Nam hiện nay nhất là khi BLDS năm 2015 đã có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2017.
2.
Tình hình nghiên cứu trong nước
2.1. Khái quát chung về tình hình nghiên cứu trong nước
Trước đây vấn đề BTTH do vi phạm hợp đồng đã được một số luật gia nghiên
cứu trong các công trình nghiên cứu về luật dân sự nói chung và pháp luật hợp đồng nói
riêng. Điển hình là tác giả Vũ Văn Mẫu với cuốn “Dân luật khái luận” (Bộ quốc gia
giáo dục xuất bản, Sài Gòn, 1960), cuốn “Cổ luật Việt Nam và tư pháp sử – Diễn giải”
(Quyển thứ hai, Sài Gòn 1975), cuốn “Cổ luật Việt Nam lược khảo” (Quyển thứ hai, Sài
Gòn, 1970); tác giả Nguyễn Mạnh Bách với cuốn “Dân luật Việt Nam – Nghĩa vụ”
(1974), cuốn “Pháp luật về hợp đồng (lược giải)” (Nhà xuất bản chính trị Quốc gia,
7

1995), cuốn “Nghĩa vụ dân sự trong luật dân sự Việt Nam” (Nhà xuất bản chính trị Quốc
gia, 1998).
Luận văn, luận án: Luận văn Thạc sĩ luật học của tác giả Đinh Hồng Ngân với đề
tài “Trách nhiệm dân sự trong hợp đồng” năm 2006; luận văn Thạc sĩ luật học của tác
giả Trần Thuỳ Linh với đề tài “Bồi thường thiệt hại do hàng hoá không phù hợp với hợp
đồng theo quy định của Công ước Viên 1980 – So sánh với pháp luật Việt Nam” năm
2009; luận văn Thạc sĩ luật học của tác giả Lê Thị Yến với đề tài “Bồi thường thiệt hại
do vi phạm hợp đồng dân sự – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” năm 2013;…
Bài báo khoa học: Liên quan đến vấn đề này có thể kể tới một số bài báo khoa
học như tác giả Ngô Huy Cương với bài viết “Trách nhiệm dân sự – so sánh và phê
phán“ đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 5 năm 2009; tác giả Nguyễn Thị Hồng
Trinh với bài viết “Chế tài bồi thường thiệt hại trong thương mại Quốc tế qua luật
thương mại Việt Nam, Công ước CISG và Bộ nguyên tắc UNIDROIT” đăng trên Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp số 22 năm 2009; tác giả Dư Ngọc Bích với bài viết “Góp ý điều
khoản phạt hợp đồng và mối liên hệ với bồi thường thiệt hại trong dự thảo Bộ luật Dân
sự (sửa đổi)” đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật điện tử năm 2015…
Sách chuyên khảo: Chúng ta có thể kể đến một số sách chuyên khảo có đề cập tới
vấn đề nghiên cứu của luận án như cuốn “Chế định hợp đồng trong Bộ luật Dân sự Việt
Nam” của tác giả Nguyễn Ngọc Khánh do Nhà xuất bản Tư pháp xuất bản năm 2007;
cuốn “Luật hợp đồng Việt Nam – bản án và bình luận bản án” của tác giả Đỗ Văn Đại
do Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia xuất bản năm 2014, cuốn “Các biện pháp xử lý việc
không thực hiện đúng hợp đồng trong pháp luật Việt Nam” của tác giả Đỗ Văn Đại do
Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia tái bản năm 2013 (có sửa chữa, bổ sung ).
2.2. Tổng quan một số công trình nghiên cứu tiêu biểu ở trong nước
Thứ nhất, công trình “Các biện pháp xử lý việc không thực hiện đúng hợp đồng
trong pháp luật Việt Nam”.
Đây là một công trình nghiên cứu khá toàn diện về các biện pháp khắc phục hậu
quả của hành vi vi phạm hợp đồng và BTTH do vi phạm hợp đồng của tác giả Đỗ Văn
Đại được ấn hành bởi Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia vào năm 2010 và được tái bản
năm 2013 (có sửa chữa, bổ sung). Tác giả đã đề cập tới các vấn đề: (1) Những vấn đề
pháp lý cơ bản về các biện pháp khắc phục hậu quả của hành vi vi phạm hợp đồng; (2)
Các biện pháp khắc phục hậu quả của hành vi vi phạm hợp đồng do pháp luật dự liệu; (3)
Các biện pháp khắc phục hậu quả của hành vi vi phạm hợp đồng do các bên thỏa thuận;
(4) Thực tiễn áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả của hành vi vi phạm hợp đồng ở
8

Việt Nam hiện nay; và (5) Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về các
biện pháp khắc phục hậu quả của hành vi vi phạm hợp đồng.
Thứ hai, công trình “Luật hợp đồng Việt Nam – Bản án và bình luận bản án (tập
2)”.
Cuốn sách “Luật hợp đồng Việt Nam – Bản án và bình luận bản án (Tập 2)” là
sách chuyên khảo của tác giả Đỗ Văn Đại được Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia xuất
bản vào năm 2014. Cuốn chuyên khảo này nêu rõ nội dung của các vụ tranh chấp trong
lĩnh vực hợp đồng và đưa ra những bình luận xuất phát từ lý luận, luật thực định cũng
như thực tiễn đời sống.
Thứ ba, công trình “Chế định hợp đồng trong Bộ luật Dân sự Việt Nam”.
Công trình “Chế định hợp đồng trong Bộ luật Dân sự Việt Nam” của tác giả
Nguyễn Ngọc Khánh xuất bản năm 2007 là một công trình lý luận chung về luật hợp
đồng. Tác giả đã phân tích, lý giải một số nội dung cơ bản của chế định hợp đồng như:
khái niệm, chức năng, vị trí của hợp đồng; ý chí và tự do ý chí trong hợp đồng; giao kết
hợp đồng, thực hiện hợp đồng và sửa đổi, hủy bỏ hợp đồng.
Thứ tư, công trình “Chế tài bồi thường thiệt hại trong thương mại Quốc tế qua
luật thương mại Việt Nam, Công ước CISG và Bộ nguyên tắc UNIDROIT”.
“Chế tài bồi thường thiệt hại trong thương mại Quốc tế qua luật thương mại Việt
Nam, Công ước CISG và Bộ nguyên tắc UNIDROIT” là bài viết đăng trên Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp số 22 năm 2009 của tác giả Nguyễn Thị Hồng Trinh. Tác giả đã cố
gắng chỉ ra những điểm khác biệt trong các quy định về chế tài BTTH của LTM năm
2005, CISG và UPICC. Tác giả phân tích sự khác biệt giữa LTM năm 2005, CISG và
UPICC về chế tài BTTH về phạm vi thiệt hại được đền bù, về tính dự đoán trước của
thiệt hại, về cách tính toán thiệt hại, về nghĩa vụ chứng minh thiệt hại, về đồng tiền tính
toán thiệt hại, về điều khoản tiền lãi.
Thứ năm, công trình “Góp ý điều khoản phạt hợp đồng và mối liên hệ với bồi
thường thiệt hại trong dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi)”.
“Góp ý điều khoản phạt hợp đồng và mối liên hệ với bồi thường thiệt hại trong dự
thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi)” đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật. điện tử ngày 07
tháng 10 năm 2015 của tác giả Dư Ngọc Bích. Tác giả đã tiếp cận điều khoản phạt hợp
đồng trong mối liên hệ với biện pháp BTTH. Tác giả Dư Ngọc Bích trước hết giới thiệu
một cách khái quát nhất BTTH và phạt hợp đồng hệ thống Common law mà đại diện là
luật Anh, Mỹ và hệ thống Civil law mà đại diện là luật Pháp, Đức và vấn đề phạt hợp
đồng trong CISG.
3. Tình hình nghiên cứu ngoài nước
9

3.1. Khái quát chung về tình hình nghiên cứu ngoài nước
Cho tới thời điểm hiện tại có tương đối nhiều công trình nghiên cứu về luật hợp
đồng nói chung và các biện pháp khắc phục hậu quả của hành vi vi phạm hợp đồng nói
riêng, trong đó có các công trình nghiên cứu trực tiếp về biện pháp BTTH do vi phạm
hợp đồng, chẳng hạn như:
Bài báo khoa học: Công trình “Damages for breach of contract” được Robert
Cooter và Melvin Aron Eisenberg đăng trên California Law Review số 73 năm 1985;
Công trình “Measuring Damages under the CISG – Article 74 of the United Nations
Convention on Contracts for the International Sale of Goods” do Eric C. Schneider đăng
trên Pace International Law Review số 9 năm 1997; Công trình “Remarks on the
Damages Provisions in the CISG, Principles of European Contract Law (PECL) and
UNIDROIT Principles of International Commercial Contracts (UPICC)” do Friedrich
Blase và Philipp Höttler đăng trên trang web chính thức của CISG [63] năm 2004; …
Sách chuyên khảo: Cuốn “Principle of contract law” của Robert A.Hillman do
West Publisher xuất bản năm 2004; Cuốn “Contract Law & Theory” của Eric Posner do
Aspen Publishers xuất bản năm 2011; Cuốn “Contract damages: Domestic and
international perspectives”do Djakhongir Saidov và Ralph Cunnington đồng chủ biên
được xuất bản năm 2008 bởi Hart Publishing; Cuốn “Comparative Remedies for Breach
of Contract” của Nili Cohen và Ewan Mckendrick do Hart Publishing xuất bản năm
2005.
3.2. Tổng quan một số công trình nghiên cứu tiêu biểu ở ngoài nước
Thứ nhất, công trình “The principle of Hadley v. Baxendale”.
Công trình “The principle of Hadley v. Baxendale” là bài viết của Melvin Aron
Eisenberg đăng trên California law review năm 1992. Tác giả Melvin Aron Eisenberg tập
trung phân tích nguyên tắc tiết lộ thông tin được xem là một trong những cơ sở xác định
mức BTTH do bị đơn không thực hiện đúng hợp đồng.
Thứ hai, công trình “Remedies for breach of contract under CISG”.
Công trình “Remedies for breach of contract under CISG” của Avery W. Katz là
một bài đăng trên số 25 của International Review of Law and Economics năm 2006.
Trong bài viết này, tác giả Avery Wiener Katz đã phân tích ba biện pháp xử lý chính của
CISG đối với hành vi không thực hiện đúng hợp đồng là: tiếp tục thực hiện hợp đồng;
BTTH và hủy bỏ hợp đồng từ khía cạnh lý luận kinh tế của các biện pháp khắc phục hậu
quả của hành vi vi phạm hợp đồng.
10

Thứ ba, công trình “Punitive damages, liquidated damages and Clauses Penale
in contract actions: A comparative analysis of the American Common law and the
French Code Civil”.
“Punitive damages, liquidated damages and Clauses Penale in contract actions: A
comparative analysis of the American Common law and the French Code Civil” là công
trình của Charles Calleros đăng trên số 32 của Brooklyn Journal of International Law
năm 2006. Tác giả đã phân tích kinh nghiệm của Pháp trong việc áp dụng BTTH mang
tính chất phạt đối với hành vi vi phạm hợp đồng.
Thứ tư, công trình “Damages for breach of contract: Compensation, cost of cure
and vindication”.
Công trình “Damages for breach of contract: Compensation, cost of cure and
vindication”của Tareq Al-Tawil được đăng trên số 34 của Adelaide law review năm
2013. Tareq Al-Tawil đã phân tích về khoản đền bù đối với phần hợp đồng chưa được
được thực hiện (cost of cure award) và BTTH mang tính chất đền bù (compensatory
damages). Tareq Al-Tawil chỉ rõ sự khác biệt cơ bản giữa hai loại bồi thường này. Tareq
Al-Tawil cũng phân tích vai trò và mục đích khác nhau giữa khoản đền bù đối với phần
hợp đồng chưa được thực hiện với tính chất một trách nhiệm pháp lý do vi phạm hợp
đồng và BTTH mang tính chất đền bù và chỉ rõ hai loại bồi thường này có thể cùng tồn
tại hài hòa trong một số trường hợp nhất định.
Thứ năm, công trình “Comparative Contractual Remedies”.
Công trình “Comparative Contractual Remedies” của Thomas D Musgrave được
đăng trên số 34 của University of Western Australia Law Review năm 2009. Thomas D
Musgrave tiến hành phân tích lịch sử hình thành chế định các biện pháp khắc phục hậu
quả của hành vi vi phạm hợp đồng trong hệ thống Common law và hệ thống pháp luật
của Pháp. Trên cơ sở so sánh các biện pháp khắc phục hậu quả của hành vi vi phạm hợp
đồng trong hệ thống Common law và hệ thống Civil law, Thomas D Musgrave chỉ ra
những đặc điểm chung và những khác biệt cơ bản giữa hai hệ thống pháp luật này về các
biện pháp khắc phục hậu quả của hành vi vi phạm hợp đồng.
4. Kế thừa và hướng nghiên cứu trong khuôn khổ đề tài luận án
4.1. Những thành tựu nghiên cứu được kế thừa
Các công trình nghiên cứu ở trong và ngoài nước đã xây dựng được nền móng lý
luận vững chắc về các biện pháp khắc phục hậu quả của hành vi vi phạm hợp đồng. Các
công trình nghiên cứu này rất đa dạng nhưng không có nhiều công trình nghiên cứu
chuyên sâu về biện pháp BTTH do vi phạm hợp đồng. Các công trình nghiên cứu nước
ngoài chỉ có giá trị tham khảo, so sánh, gợi ý các giải pháp… cho Việt Nam, chứ không
11

có ý nghĩa áp đặt hay loại bỏ sự nghiên cứu vấn đề này ở Việt Nam. Hầu hết các công
trình nghiên cứu về các biện pháp khắc phục hậu quả của hành vi vi phạm hợp đồng nói
chung và BTTH nói riêng của Việt Nam chủ yếu tập trung vào phân tích pháp luật thực
định, do vậy, những công trình này vẫn còn những khoảng trống nhất định cho việc
nghiên cứu tiếp theo.
4.2. Những vấn đề chưa được nghiên cứu
Các công trình nghiên cứu về BTTH do vi phạm hợp đồng ở Việt Nam cho thấy
còn có một số vấn đề chưa được nghiên cứu hoặc nghiên cứu chưa đầy đủ như:
Mối tương quan giữa BTTH và một số biện pháp khắc phục hậu quả của hành vi
vi phạm hợp đồng chính; Một số vấn đề lý luận của việc ưu tiên áp dụng biện pháp
BTTH do vi phạm hợp đồng; Nguyên tắc áp dụng biện pháp BTTH do vi phạm hợp
đồng; Các loại thiệt hại được bồi thường; Mức BTTH; Các kiến nghị có tính hệ thống đối
với biện pháp BTTH do vi phạm hợp đồng ở Việt Nam hiện nay.
4.3. Những vấn đề luận án kế thừa và nghiên cứu mới
Do mục tiêu nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài, Luận án tiếp tục
nghiên cứu mới các vấn đề mà các công trình nghiên cứu trước đây ở Việt Nam vẫn còn
bỏ ngỏ như đã nêu tại tiểu mục 1.4.2 nói trên. Tuy nhiên, trong phạm vi nghiên cứu của
đề tài, Luận án không bao quát và đi sâu hoàn toàn vào các nội dung trên. Luận án chủ
yếu đi sâu vào nghiên cứu: nền tảng lý luận của BTTH; nguyên tắc BTTH, thứ tự ưu tiên
áp dụng BTTH so với biện pháp buộc tiếp tục thực hiện đúng hợp đồng; các loại thiệt hại
được bồi thường; mức BTTH; các kiến nghị có tính hệ thống đối với chế định BTTH ở
Việt Nam hiện nay.
5. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu
Câu hỏi nghiên cứu chung: Hiện nay ở Việt Nam đã có mô hình lý luận về biện
pháp BTTH để giải quyết các tranh chấp phát sinh do vi phạm hợp đồng chưa? Thực
trạng pháp luật về biện pháp BTTH do vi phạm hợp đồng có bất cập gì và làm thế nào để
khắc phục những bất cập đó?
Giả thuyết nghiên cứu chung: Việt Nam hiện chưa có mô hình lý luận rõ ràng về
BTTH do vi phạm hợp đồng. Do đó thực trạng pháp luật về BTTH do vi phạm hợp đồng
còn bất cập và cần có giải pháp đồng bộ để khắc phục.
Để trả lời các câu hỏi nghiên cứu chung và làm rõ giả thuyết nghiên cứu chung,
Luận án phải trả lời các câu hỏi nghiên cứu cụ thể và làm rõ các giả thuyết nghiên cứu cụ
thể:
Thứ nhất, về nghiên cứu lý luận. Luận án đặt ra câu hỏi nghiên cứu cụ thể về lý
luận là các khái niệm “không thực hiện đúng hợp đồng”, “vi phạm hợp đồng”, “các biện
12

pháp khắc phục hậu quả của hành vi vi phạm hợp đồng”, “BTTH do vi phạm hợp đồng”
được hiểu như thế nào? Vị trí của BTTH do vi phạm hợp đồng?
Giả thuyết nghiên cứu cụ thể về lý luận: Các khái niệm nêu trên chưa được diễn
giải đầy đủ ở Việt Nam. Hiện ở Việt Nam chưa có mô hình lý luận về BTTH do vi phạm
hợp đồng.
Thứ hai, về nghiên cứu thực trạng pháp luật. Luận án đưa ra câu hỏi nghiên cứu
cụ thể về thực trạng là môi trường xã hội và môi trường pháp lý ở Việt Nam có bảo đảm
tốt cho việc áp dụng biện pháp BTTH do vi phạm hợp đồng hay không? Các bất cập của
pháp luật hiện hành liên quan tới việc áp dụng biện pháp BTTH do vi phạm hợp đồng?
Giả thuyết nghiên cứu cụ thể về thực trạng: Môi trường pháp lý hiện tại chưa đáp
ứng tốt cho việc áp dụng biện pháp BTTH do vi phạm hợp đồng, còn tồn tại một số bất
cập trong các qui định pháp luật hiện hành.
Thứ ba, về kiến nghị. Luận án đưa ra câu hỏi nghiên cứu cụ thể là có cần các kiến
nghị về các quy định liên quan đến biện pháp BTTH do vi phạm hợp đồng không và nếu
có thì các kiến nghị đó bao gồm những gì?
Giả thuyết nghiên cứu cụ thể về kiến nghị cải cách: Cần có các kiến nghị nhằm
hoàn thiện các quy định về biện pháp BTTH do vi phạm hợp đồng nhằm góp phần đưa
pháp luật Việt Nam tương thích hơn với pháp luật quốc tế.
Trên đây là nội dung tóm tắt tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài. Nội dung chi
tiết được NCS trình bày cụ thể trong Phần PHỤ LỤC 1 đính kèm luận án này.
13

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM HỢP
ĐỒNG

1.1. Khái luận chung về hợp đồng và vi phạm hợp đồng
1.1.1. Khái niệm hợp đồng
Hợp đồng xuất hiện cùng với sự xuất hiện của phân công lao động xã hội và nhu
cầu trao đổi hàng hóa của xã hội loài người với nhiệm vụ quan trọng là điều tiết các quan
hệ tài sản. Cùng với sự phát triển của nhân loại, vị trí và vai trò quan trọng của hợp đồng
ngày càng được khẳng định và ngày nay luật hợp đồng được xem là bộ phận không thể
thiếu trong mọi hệ thống pháp luật trên thế giới.
Nghiên cứu so sánh cho thấy “hợp đồng”, “thỏa thuận”, “cam kết” hay “thỏa ước”
được xem là những thuật ngữ tương đương cho dù có sự khác biệt về sắc thái sử dụng
những thuật ngữ này, trong số các thuật ngữ được sử dụng, “hợp đồng” là thuật ngữ được
sử dụng phổ biến trong các văn bản pháp lý quốc gia cũng như quốc tế [82, p.21]. Mặc
dù được sử dụng phổ biến nhưng đến nay định nghĩa hợp đồng chỉ được tìm thấy trong
hệ thống pháp luật quốc gia mà hoàn toàn vắng bóng trong các văn bản pháp lý quốc tế
[82, p.7].
Trên thế giới hiện nay nhìn chung có hai cách tiếp cận về hợp đồng. Cách tiếp cận
thứ nhất xem hợp đồng là sự gặp gỡ ý chí của các bên nhằm tạo ra những hệ quả pháp lý
nhất định. Đây là cách tiếp cận của hầu hết các quốc gia trên thế giới cho dù có sự khác
biệt ít nhiều trong cách diễn đạt. Theo cách diễn đạt thứ nhất, hợp đồng được xem là sự
thỏa thuận, theo đó một hoặc nhiều chủ thể ràng buộc chính mình với một hoặc một số
chủ thể khác nhằm chuyển giao, làm hoặc không làm một công việc nhất định. Đây là
cách diễn đạt được Pháp [28, art.1101], Bỉ [16, art.1101], Luxembourg [20, art.1101], Ý
[18, art.1321], Quebec (Canada) [24, art.1378] và Tây Ban Nha [23, art.1254]… sử dụng.
Cách diễn đạt thứ hai xem hợp đồng là hành vi pháp lý gồm ít nhất hai tuyên bố ý chí để
tạo thành một thỏa thuận, hay nói cách khác hợp đồng là tuyên bố ý chí có khả năng tạo
ra những hệ quả pháp lý nhất định. Đại diện cho cách diễn đạt này là Đức [17, art.311.1],
Áo [15, art.861], Nhật bản [19, art.93].
Cách tiếp cận thứ hai xem xét hợp đồng ở góc độ rộng hơn, theo đó, hợp đồng
được hiểu là ý định tự nguyện chịu ràng buộc của một bên và cách xử sự của bên có ý
định chịu ràng buộc là hệ quả của ý định đó. Đây là cách tiếp cận của các quốc gia theo
hệ thống Common law. Cách tiếp cận này được thể hiện rõ qua định nghĩa hợp đồng
được ghi nhận tại Điều 1 Tuyển tập lần thứ hai về hợp đồng (Restatement (second) of
14

contract) của Hoa Kỳ, theo đó hợp đồng được hiểu là “lời hứa hoặc tập hợp các lời hứa
mà pháp luật dự liệu các biện pháp khắc phục trong trường hợp có hành vi vi phạm,
hoặc pháp luật thừa nhận, theo cách thức nào đó, việc thực hiện nó như một nghĩa vụ”.
[21, art.1] Như vậy, tùy thuộc vào cách tiếp cận của mỗi hệ thống pháp luật mà hợp đồng
được hiểu là sự gặp gỡ của ý chí làm phát sinh những hệ quả pháp lý nhất định hay ý
định chịu ràng buộc với cách xử sự là hệ quả của ý định đó. Mặc dù có sự khác biệt trong
cách tiếp cận nhưng các hệ thống pháp luật đều thừa nhận yếu tố đặc trưng của hợp đồng
là sự gặp gỡ ý chí nhằm tạo ra các hệ quả pháp lý ràng buộc các bên đã xác lập quan hệ
hợp đồng [82, p.26].
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, định nghĩa hợp đồng được ghi nhận tại Điều
388 BLDS năm 2005 và Điều 385 BLDS năm 2015. Theo đó, hợp đồng được hiểu là “sự
thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân
sự”. Có thể nhận thấy định nghĩa hợp đồng của BLDS năm 2015 được thể hiện cô đọng,
có tính khái quát cao, phản ánh được bản chất của hợp đồng và do đó, đáp ứng được yêu
cầu được đặt ra đối với quy phạm của đạo luật gốc – điều chỉnh mọi quan hệ hợp đồng
trong lĩnh vực tư. Dựa trên định nghĩa hợp đồng được ghi nhận tại Điều 388 BLDS năm
2005, Điều 385 BLDS năm 2015 và các cách tiếp cận khái niệm hợp đồng chính trên thế
giới hiện nay, có thể nhận thấy BLDS Việt Nam đã có cách tiếp cận khái niệm hợp đồng
tương tự các quốc gia theo hệ thống civil law. Như vậy, cách tiếp cận khái niệm hợp
đồng của BLDS năm 2005 cũng như BLDS năm 2015 đã thể hiện rõ bản chất của hợp
đồng là sự thỏa thuận giữa các chủ thể nhằm thiết lập các quyền và nghĩa vụ nhất định
của các chủ thể, điều này được thể hiện rõ thông qua mối liên hệ pháp lý chặt chẽ giữa
các chủ thể đã tự nguyện xác lập hợp đồng, theo đó quyền của chủ thể quyền chỉ có thể
được đáp ứng thông qua hành vi thực hiện nghĩa vụ của chủ thể nghĩa vụ.
Từ những phân tích trên, NCS rút ra khái niệm hợp đồng như sau:
Hợp đồng là sự ràng buộc pháp lý giữa các chủ thể đã tự nguyện thỏa thuận, xác
lập các quyền và nghĩa vụ nhằm đáp ứng hiệu quả các quyền và lợi ích hợp pháp của
các bên.
1.1.2. Khái niệm vi phạm hợp đồng
Trong nền kinh tế thị trường, dựa trên nhu cầu của bản thân, các chủ thể sẽ tiến
hành thỏa thuận trên cơ sở tự nguyện nhằm trao đổi hàng hóa, dịch vụ và do đó cơ chế
thị trường sẽ đóng vai trò đảm bảo sự cân bằng giữa yếu tố cung và cầu, ngược lại, kinh
tế thị trường sẽ không thể hình thành nếu như không có sự tồn tại của hợp đồng. Đặc
trưng cơ bản của hợp đồng là hình thành trên cơ sở tự nguyện, thống nhất ý chí của các
15

bên nhằm làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của các chủ thể trong đời sống xã hội và xác
lập, thực hiện hợp đồng chính là cách thức cơ bản để các chủ thể có thể đáp ứng một
cách hiệu quả nhất các quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Tầm quan trọng của hợp đồng nói chung và hiệu lực của hợp đồng nói riêng đã
được triết gia Hy Lạp cổ đại lừng danh Aristotle chỉ ra trong tác phẩm “Rhetorics”:
“Nhìn chung, luật là một dạng của hợp đồng vì vậy hành vi không tuân thủ hay vi phạm
hợp đồng cũng chính là hành vi vi phạm luật. Hơn nữa hầu hết các giao dịch thông
thường và các giao dịch được xác lập trên cơ sở tự nguyện đều được thực hiện dựa trên
cơ sở hợp đồng, vì vậy nếu hiệu lực của hợp đồng bị phá hủy thì mối quan hệ giữa con
người với con người cũng sẽ bị phá hủy” [57, p.232].
Nhìn chung, luật hợp đồng của các quốc gia cũng như quốc tế đều có nguồn gốc
hoặc chịu ảnh hưởng của luật La Mã và đặc biệt là chịu ảnh hưởng của nguyên tắc Pacta
sunt servanda (mọi thỏa thuận đều phải được thực hiện). Điều đó có nghĩa là khi một hợp
đồng được xác lập thì hợp đồng đó sẽ có hiệu lực bắt buộc đối với các bên đã xác lập hợp
đồng hay nói cách khác là sẽ áp đặt nghĩa vụ lên các bên (trong hợp đồng song vụ) hoặc
áp đặt nghĩa vụ lên một bên (trong hợp đồng đơn vụ). Do vậy, hành vi không thực hiện
nghĩa vụ hay không tôn trọng cam kết của một bên trong hợp đồng được biết đến là hành
vi sai trái.
Để chỉ đến hành vi không thực hiện đúng những gì mà các bên đã tự nguyện cam
kết khi xác lập hợp đồng, các hệ thống pháp luật trên thế giới sử dụng các thuật ngữ khác
nhau như “không thực hiện hợp đồng (inexécution hay non-performance)”, “vi phạm hợp
đồng (breach of contract)” hay “vi phạm nghĩa vụ (Pflichtverletzung)”. Mặc dù có sự
khác biệt trong việc sử dụng thuật ngữ nhưng khoa học pháp lý thế giới đều tiếp cận
hành vi không thực hiện đúng những gì mà các bên đã tự nguyện cam kết khi xác lập hợp
đồng theo một trong hai cách: cách tiếp cận đơn nhất hay cách tiếp cận đơn (unitary
approach) và cách tiếp cận kép (two tier approach) [91, p.956].
Cách tiếp cận đơn là cách tiếp cận sử dụng một khái niệm duy nhất để chỉ mọi
hành vi không thực hiện đúng cam kết trong hợp đồng, cho dù là hành vi không thực
hiện một phần, không thực hiện toàn bộ, chậm thực hiện hay có khiếm khuyết trong việc
thực hiện hợp đồng. Cách tiếp cận đơn là cách tiếp cận có nguồn gốc từ luật hợp đồng
Anh và là cách tiếp cận của các quốc gia thuộc hệ thống Common law cũng như là cách
tiếp cận của luật hợp đồng hiện đại của Pháp và Hà Lan [78].
Cách tiếp cận kép được biết đến là cách tiếp cận khái niệm hành vi không thực
hiện đúng cam kết của các chủ thể trong quan hệ hợp đồng dựa trên nguyên nhân vi
phạm [101, p.184]. Khác với cách tiếp cận đơn, cách tiếp cận kép chỉ rõ từng trường hợp
16

không thực hiện đúng cam kết trong hợp đồng như vi phạm hợp đồng do bất khả kháng,
vi phạm hợp đồng do chậm thực hiện nghĩa vụ và vi phạm hợp đồng do thực hiện hợp
đồng có khiếm khuyết… Điều đó có nghĩa là cách tiếp cận này không đưa ra một khái
niệm chung để chỉ mọi hành vi không thực hiện đúng cam kết của các chủ thể trong quan
hệ hợp đồng mà thay vào đó liệt kê từng trường hợp vi phạm cụ thể. Cách tiếp cận kép là
cách tiếp cận được luật nghĩa vụ cũ của Đức và của các quốc gia chịu ảnh hưởng của
Đức như Áo hay Thụy Sĩ [96, p.318]. Tuy nhiên, do sự phân biệt cứng nhắc trong việc
liệt kê các trường hợp không thực hiện đúng cam kết trong quan hệ hợp đồng của cách
tiếp cận này dẫn đến sự phức tạp quá mức và thiếu tính khả thi [68, p.60] trong áp dụng
pháp luật, do đó, cách tiếp cận này không được nhiều hệ thống pháp luật áp dụng.
Ngày nay, cách tiếp cận đơn được xem là cách tiếp cận chiếm ưu thế trong các hệ
thống pháp luật quốc gia cũng như quốc tế [68, p.58]. Điều này được thể hiện rõ qua việc
cả ba văn bản pháp lý quốc tế về luật hợp đồng là CISG, UPICC và PECL đều sử dụng
cách tiếp cận đơn để chỉ đến mọi hành vi không thực hiện đúng cam kết trong hợp đồng.
Theo đó, CISG sử dụng thuật ngữ “vi phạm hợp đồng (breach of contract)” trong khi
UPICC và PECL sử dụng thuật ngữ “không thực hiện hợp đồng (non-performance)” để
chỉ đến các hành vi không thực hiện đúng cam kết trong hợp đồng. Chẳng hạn với quy
định tại Điều 45(1) và 61(1): “Nếu người bán/người mua vi phạm nghĩa vụ phát sinh từ
hợp đồng hay Công ước này”, CISG đã thể hiện cách tiếp cận đơn nhất đối với khái
niệm vi phạm hợp đồng. Trong đó, “không thực hiện nghĩa vụ” có thể bao gồm chậm
thực hiện, hàng hóa không phù hợp, vi phạm nghĩa vụ thông tin hoặc nghĩa vụ cẩn
trọng… Có thể nói, việc lựa chọn cách tiếp cận đơn về vi phạm hợp đồng của CISG đã
loại bỏ được những tranh luận lý thuyết đơn thuần về nguyên nhân dẫn đến hành vi vi
phạm hợp đồng [67, p.8, 9]. Chịu ảnh hưởng của cách tiếp cận đơn của CISG, UPICC và
PECL, Hà Lan và Đức đã nội luật hóa cách tiếp cận này vào BLDS Hà Lan (sửa đổi)
năm 1992 và BLDS Đức (sửa đổi) năm 2002.
Mặc dù đều lựa chọn cách tiếp cận đơn đối với hành vi không thực hiện đúng cam
kết trong hợp đồng nhưng các hệ thống pháp luật nói trên lại có sự phân biệt những hành
vi này dưới các góc độ khác nhau. Đó là CISG phân biệt hành vi vi phạm thành “vi phạm
cơ bản” (fundamental breach) và “vi phạm không cơ bản” (non-fundamental breach) dựa
trên mức độ nghiêm trọng của hành vi vi phạm. Khác với CISG, UPICC và PECL có sự
phân biệt giữa không thực hiện hợp đồng được miễn trách nhiệm và không thực hiện hợp
đồng không được miễn trách nhiệm [26, art.8:108].
Tương tự như CISG, UPICC và PECL, BLDS Hà Lan, Đức, Pháp cũng có sự
phân biệt hành vi vi phạm hợp đồng dưới các góc độ khác nhau. Chẳng hạn, BLDS Hà
17

Lan bên cạnh việc sử dụng thuật ngữ “niet-nakoming” là thuật ngữ chung chỉ đến mọi
hành vi vi phạm còn sử dụng thuật ngữ “tekortcoming in de nakoming” để chỉ đến
trường hợp không thực hiện nghĩa vụ không được miễn trách nhiệm nhằm phân biệt với
trường hợp không thực hiện nghĩa vụ được miễn trách nhiệm tương tự sự phân biệt của
UPICC và PECL.
BLDS Đức (sửa đổi) năm 2002 sử dụng thuật ngữ “vi phạm nghĩa vụ
(Pflichtverletzung)” [17, art.280] để chỉ đến mọi hành vi không thực hiện đúng cam kết
theo hợp đồng thay vì cách tiếp cận kép (liệt kê từng trường hợp vi phạm hợp đồng) như
trước nhưng vẫn có sự phân biệt giữa các loại nghĩa vụ theo nội dung của hợp đồng như
“nghĩa vụ thực hiện (Leistungspflichten)” và “nghĩa vụ bảo vệ lợi ích của các bên
(Schutzpflichten)” – nghĩa vụ được áp dụng để bảo vệ lợi ích của bên bị vi phạm trong
trường hợp nội dung hợp đồng không ghi nhận bất cứ nghĩa vụ cụ thể nào.
Khác với Hà Lan và Đức, Pháp sử dụng thuật ngữ “không thực hiện
(inexécution)” để chỉ chung đến mọi hành vi không thực hiện đúng cam kết theo hợp
đồng nhưng lại phân biệt “nghĩa vụ cần mẫn/nghĩa vụ theo nỗ lực và khả năng cao nhất/
nghĩa vụ cấp phương tiện (obligations de moyens)” với “nghĩa vụ thành quả (obligations
de résultat)” do René Demogue đưa ra vào những năm 1920 [131, p.61] và ngày nay
được một số hệ thống pháp luật bao gồm cả UPICC sử dụng. Ý tưởng cơ bản của sự
phân biệt này là phân biệt giữa các nghĩa vụ hình thành dựa trên cam kết đạt được một
kết quả cụ thể và các nghĩa vụ không hình thành dựa trên cam kết đạt được một kết quả
cụ thể mà chỉ buộc bên có nghĩa vụ phải thực hiện những cách thức nhất định, đáp ứng
các chuẩn mực ứng xử được đặt ra với một người bình thường đặt trong những tình
huống tương tự.
Như trên đã nêu, các quốc gia thuộc hệ thống Common law như Anh, Ireland hay
Scotland lựa chọn sử dụng thuật ngữ “vi phạm hợp đồng” để chỉ đến mọi hành vi không
thực hiện đúng hợp đồng, tuy nhiên, nội hàm của khái niệm “vi phạm hợp đồng” trong
các hệ thống pháp luật này không bao hàm trường hợp không thực hiện hợp đồng không
được miễn trách nhiệm [124, p.83, 323, 324]. Điều này lý giải cho sự khác biệt trong
việc sử dụng thuật ngữ trong ba văn bản pháp lý quốc tế về luật hợp đồng là CISG,
UPICC và PECL, đó là, để tránh gây nhầm lẫn với khái niệm “vi phạm hợp đồng” dùng
trong hệ thống Common law, UPICC và PECL là những văn bản ra đời sau CISG đã sử
dụng thuật ngữ “không thực hiện hợp đồng” thay vì thuật ngữ “vi phạm hợp đồng” [68,
p.59].
Trên cơ sở các thuật ngữ được sử dụng trong các văn bản pháp lý quốc tế cũng
như quốc gia nêu trên, có thể nhận thấy hai thuật ngữ được sử dụng phổ biến để chỉ đến
18

trường hợp không thực hiện đúng nghĩa vụ hợp đồng mà các bên đã tự nguyện cam kết
trước đó là “vi phạm hợp đồng” và “không thực hiện hợp đồng”. “Vi phạm hợp đồng” là
thuật ngữ chủ yếu được sử dụng trong hệ thống Common law, trong khi thuật ngữ
“không thực hiện hợp đồng” lại được biết đến rộng rãi hơn trong hệ thống Civil law
nhưng nhìn chung trong các hệ thống pháp luật, thuật ngữ “không thực hiện hợp đồng”
và “vi phạm hợp đồng” được xem là hai thuật ngữ đồng nghĩa và được sử dụng thay thế
cho nhau [66, p.59] và đều chỉ đến cùng một nội hàm là bao hàm mọi hành vi không thực
hiện đúng hợp đồng, cho dù là không thực hiện một phần, không thực hiện toàn bộ, chậm
thực hiện hay có khiếm khuyết trong việc thực hiện hợp đồng.
Khác với các hệ thống pháp luật trên thế giới, pháp luật hợp đồng Việt Nam sử
dụng cả thuật ngữ “vi phạm” và “không thực hiện” để chỉ đến hành vi không thực hiện
đúng hợp đồng. Đó là trong khi LTM năm 2005 sử dụng thống nhất thuật ngữ “vi phạm
hợp đồng” để chỉ mọi hành vi không thực hiện hợp đồng, cho dù là không thực hiện một
phần, không thực hiện toàn bộ, chậm thực hiện hay có khiếm khuyết trong việc thực hiện
hợp đồng [4, đ.3(12), đ.40, đ.61, đ.294, đ.295…] thì BLDS năm 2015 lại sử dụng nhiều
thuật ngữ như “vi phạm”, “không thực hiện hoặc thực hiện không đúng”, “không thực
hiện đúng”.
Định nghĩa “vi phạm hợp đồng” được ghi nhận trực tiếp trong LTM năm 2005,
theo đó vi phạm hợp đồng được hiểu là “việc một bên không thực hiện, thực hiện không
đầy đủ hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ theo thoả thuận giữa các bên hoặc theo quy
định của Luật này” [4, đ.3 (12)]. Khác với LTM năm 2005, BLDS năm 2015 không trực
tiếp đưa ra định nghĩa “vi phạm hợp đồng” mà khái niệm vi phạm hợp đồng được biết
đến thông qua khái niệm “vi phạm nghĩa vụ” được quy định tại khoản 1 Điều 351 BLDS
năm 2015: “Vi phạm nghĩa vụ là việc bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ đúng
thời hạn, thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ hoặc thực hiện không đúng nội dung của
nghĩa vụ” [2, đ.351(1)]. Như vậy theo khoản 1 Điều 351 BLDS năm 2015, “không thực
hiện nghĩa vụ đúng thời hạn”, “thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ”, “thực hiện không
đúng nội dung của nghĩa vụ” được hiểu là các trường hợp vi phạm nghĩa vụ nói chung và
vi phạm nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng nói riêng. Nói cách khác, thuật ngữ vi phạm
nghĩa vụ/vi phạm hợp đồng theo BLDS năm 2015 chỉ đến mọi trường hợp vi phạm về
thời hạn thực hiện, thực hiện nghĩa vụ có khiếm khuyết, không thực hiện một phần nghĩa
vụ hoặc không thực hiện toàn bộ nghĩa vụ đã cam kết. Như vậy, có thể nhận thấy BLDS
năm 2015 cũng như LTM năm 2005 đã lựa chọn cách tiếp cận đơn khi đề cập đến khái
niệm vi phạm nghĩa vụ, vi phạm hợp đồng.

Đánh giá post

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *