TIỂU LUẬN
“Quá trình hình thành và phát
triển nền kinh tế thị trường theo
định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam”
LỜI MỞ ĐẦU
Năm 1986 trở về trước nền kinh tế nước ta là nền kinh tế sản xuất nhỏ,
mang tính tự cung tự cấp vận hành theo cơ chế tập trung quan liêu bao cấp.
Mặt khác do những sai lầm trong nhận thức về mô hình kinh tế xã hội chủ
nghĩa. Nền kinh tế nước ta ngày càng tụt hậu, khủng hoảng trầm trọng kéo
dài, đời sống nhân dân thấp. Muốn thoát khỏi tình trạng đó con đường duy
nhất là phải đổi mới kinh tế .
Sau đại hôị Đảng VI năm 1986 nền kinh tế nước ta chuyển sang một
hướng đi mới :phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ
chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa-
đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Việc nghiên cứu về kinh tế thị trường-sự hình thành và phát triển có ý
nghĩa vô cùng to lớn cả về lý thuyết lẫn thực tế. Một mặt, cho ta thấy được
tính khách quan của nền kinh tế thị trường, và sự cần thiết phải phát triển kinh
tế Thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước ở nước
ta hiện nay, thấy được những gì đã đạt được và chưa đạt được của Việt nam .
Mặt khác, giúp chúng ta có cái nhìn tổng quan về nền kinh tế nước nhà, đồng
thời thấy được vai trò to lớn của quản lý nhà nước đối với nền kinh tế thị
trường, những giải pháp nhằm đưa nước ta tiến nhanh lên nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ở Việt Nam, phát triển kinh tế thị trường trong thực tế không những là
nội dung của công cuộc đổi mới mà lớn hơn thế còn là công cụ, là phương
thức để nước ta đi tới mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhưng vấn đề đặt
ra là: Thực hiện mô hình này bằng cách nào để hạn chế tiêu cực, tăng tích cực
giúp cho kinh tế nước ta ngày càng phát triển sánh vai cùng các cường quốc
năm châu khác?
Chính vì vậy, việc nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện những quan điểm,
biện pháp để nền kinh tế nước ta phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa
và giữ vững định hướng đó là công việc vô cùng thiết thực và cần thiết, có ý
nghĩa to lớn đối với mỗi nhà nghiên cứu và phân tích kinh tế. Xuất phát từ
tầm quan trọng đó nên tôi quyết định chọn đề tài nghiên cứu: “Quá trình
hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam”..
Đây là một đề tài rất rộng mang tính khái quát cao, mặc dù rất cố gắng,
song bài viết của tôi sẽ không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót về nội dung
cũng như hình thức. Kính mong các thầy cô xem xét và góp ý để bài viết của
tôi được hoàn thiện hơn.
PHẦN 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
I. Quá trình hình thành nền kinh tế thị trường.
1. Kinh tế thị trường.
Kinh tế thị trường không phải là một chế độ kinh tế – xã hội. Kinh tế
thị trường là hình thức và phương pháp vận hành kinh tế. Các qui luật của thị
trường chi phối việc phân bổ các tài nguyên, qui định sản xuất cái gì, sản xuất
như thế nào, và sản xuất cho ai. Đây là một kiểi tổ chức kinh tế hình thành và
phát triển do những đòi hỏi khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất.
Nó là phương thức sinh hoạt kinh tế của sự phát triển.
Kinh tế thị trường là hình thức phát triển cao nhất của kinh tế hàng hoá.
Khái niệm kinh tế thị trường phản ánh trạng thái tồn tại vận động của nền
kinh tế theo cơ chế thị trường, thật ra kinh tế thị trường là sản phẩm của sự
phát triển khách quan của xã hội loài người. Nền kinh tế thị trường có khả
năng “tự động” tập hợp trí tuệ và tiềm lực của hàng triệu con người hướng tới
lợi ích chung của xã hội, do đó nó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tăng năng
suất lao động, hiệu quả sản xuất, góp phần thúc đẩy sự phát triển của một xã
hội.
Quá trình hình thành và phát triển kinh tế thị trường là quá trình mở
rộng phân công lao động xã hội, phát triển khoa học – công nghệ mới và ứng
dụng chúng vào thực tiễn sản xuất – kinh doanh. Sự phát triển của kinh tế thị
trường gắn liền với quá trình phát triển của nền văn minh nhân loại, của khoa
học – kĩ thuật, của lực lượng sản xuất.
2. Quá trình hình thành kinh tế thị trường gắn với quá trình xã hội hoá
sản xuất thông qua các quá trình:
2.1. Quá trình tổ chức phân công và phân công lại đối với lao động xã
hội.
Sản xuất bao giờ cũng mang tính chất xã hội.Tính xã hội của sản xuất
không chỉ tồn tại trong buổi đầu hình thành xã hội con người, mà còn phát
triển cao hơn trong điều kiện của xã hội hiện đại.
Xã hội hoá sản xuất là sự liên kết nhiều quá trình kinh tế riêng biệt
thành quá trình kinh tế – xã hội, tồn tại, hoạt động và phát triển liên tục như
một quá hệ thống hữu cơ, đó là quá trình kinh tế khách quan phù hợp với trình
độ phát triển cao của lực lượng sản xuất, phản ánh xu thế phát triển tất yếu
mang tính chất xã hội của sản xuất.
Xã hội hoá được biểu hiện ở trình độ phát triển của sự phân công và
phân công lại lao động xã hội . Phân công lao động xã hội là việc phân chia
người sản xuất vào những nghành nghề khác nhau của xã hội, là cơ sở của sản
xuất và lưu thông hàng hoá. Theo dòng lịch sử, phân công lao động phát triển
cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội, phân công lao động tạo
ra sự hợp tác và trao đổi lao động, hình thức đầu tiên là hiệp tác giản đơn. Với
hình thức này, lần đầu tiên lao động được xã hội hoá, “ người lao động tổng
hợp” xuất hiện, tiếp đến là sự phân công trong công trường thủ công gắn liền
với sự chuyên môn hoá công cụ thủ công dựa trên tay nghề của người lao
động. Máy móc ra đời là một nấc thang mới của sự phát triển lực lượng sản
xuất là nền sản xuất dựa trên cơ khí, khi mà hiệp tác lao động thực sự trở
thành ” tất yếu kỹ thuật” lấy máy móc làm chủ thể. Đến lượt mình, đại công
nghiệp cơ khí thúc đẩy sự phân công lao động và hiệp tác lao động trên độ
mới cao hơn.
2.2. Quá trình đa dạng hoá các hình thức sở hữu đối với tư liệu sản xuất.
Quá trình này gắn liền với điều kiện sản xuất hàng hoá. Các hình thức
từ sở hữu phát triển từ thấp đến cao, từ sở hữu riêng độc lập tới sở hữu chung,
sở hữu tập thể, sở hữu nhà nước, của các hình thức tổ chức sản xuất từ công
ty tư nhân tới công ty liên doanh đến công ty trách nhiệm hữu hạn…từ hình
thức cac-ten tới xanh-đi-ca, tơrớt, công-xac-xi-on, từ những công ty quốc gia
đến công ty đa quốc gia, xuyên quốc gia có các chi nhánh ở nhiều nước.
Sở hữu về tư liệu sản xuất là hình thái xã hội của sự chiếm hữu về tư
liệu sản xuất, một nội dung chủ yếu trong hệ thống các quan hệ sản xuất. Vì
vậy hình thức, quy mô, phạm vi cũng như tính đa dạng của sở hữu không phải
do ý muốn chủ quan của con người quyết định mà là một quá trình phát triển
lịch sử tự nhiên.
2.3. Quá trình tiến hành cách mạng công nghệ làm xuất hiện thị trường
mới
Xã hội hoá sản xuất biểu hiện ở mối liên hệ giữa các ngành, các nghề,
các vùng ngày càng cao và chặt chẽ. Mối liên hệ này không chỉ diễn ra trên
lĩnh vực lưu thông mà còn diễn ra trong lĩnh vực đầu tư, hợp tác khoa học-
công nghệ và dưới các hình thức liên doanh liên kết đa dạng, phong phú. Quá
trình hình thành kinh tế thị trường gắn liền với quá trình cách mạng khoa học-
công nghệ làm xuất hiện thị trường đầu vào sản xuất. Công nghệ là tinh hoa
trí tuệ, là lao động sáng tạo của con người để phục vụ con người. Chính công
nghệ là chìa khoá cho sự phát triển, là cơ sở và là động lực thúc đẩy phát triển
kinh tế-xã hội dựa trên nèn tảng phát triển công nghệ bền vững và tăng trưởng
cao. Công nghệ làm biến đổi cơ cấu xã hội đồng thời nó cũng là kết quả của
sự thay đổi xã hội, sự phát triển khoa học- công nghệ làm xuất hiện thị trường
vốn, thị trường lao động kỹ thuật.
Ngoài ra, xã hội hoá sản xuất còn biểu hiện ở tính chất xã hội hoá của
sản phẩm. Trong nền sản xuất xã hội hoá, sản phẩm làm ra phải qua tay nhiều
người , nhiều công đoạn. Tính đa dạng của nhu cầu phổ biến và sự khác nhau
trong điều kiện thuận lợi cho sản xuất ở các nuức đòi hỏi bất cứ nền kinh tế
nào cũng phải có sự trao đổi kết quả hoạt động lao động với bên ngoài với
mức độ và phạm vi khác nhau. Sự tham gia vào phân công lao động quốc tế
dưới nhiều hình thức sẽ ra tăng sự thích ứng và phù hợp về cơ cấu của nền
kinh tế với bên ngoài. Ngày nay trong điều kiện phân công chuyên môn hoá
và hợp tác quốc tế thì một sản phẩm không chỉ một công ty hay một quốc gia
sản xuất ra mà có thể do nhiều công ty thuộc nhiều quốc gia sản xuất ra.
II. Các bước phát triển kinh tế thị trường.
Kinh tế thị trường phát triển qua 3 bước: Từ kinh tế tự nhiên sang nền
kinh tế hàng hoá giản đơn; từ kinh tế hàng hoá giản đơn sang kinh tế thị
trường tự do; từ kinh tế thị trường tự do sang kinh tế hỗn hợp.
1.Từ kinh tế tự nhiên phát triển sang kinh tế hàng hoá giản đơn.
Trong nền kinh tế tự nhiên, sản xuất nhỏ chiếm ưu thế. Nền kinh
tế tự nhiên do nhiều đơn vị kinh tế thuần nhất hợp thành(các gia đình nông
dân gia trưởng, các công xã nông nông thôn, các lãnh địa phong kiến) và mỗi
đơn vị kinh tế ấy làm đủ mọi công việc đẻ tạo ra sản phẩm cuối cùng.
Trong các nền kinh tế tự nhiên, ruộng đất là tư liệu sản xuất chủ yếu;
nông nghiệp là ngành sản xuất cơ bản, công cụ kỹ thuật canh tác lạc hậu dựa
vào chân tay là chủ yếu chỉ có một số trang trại của địa chủ hoặc phường hội
mới có hiệp tác lao động giản đơn. Đây chính là mô hình kinh tế đóng kín,
không có sự giao lưu sản phẩm với bên ngoài, nó tồn tại suốt một thời kỳ dài
cho đến chế độ phong kiến.
Bước đi chủ yếu của sản xuất tự cung, tự cấp là tiến lên sản xuất hàng
hoá giản đơn. Điều kiện cho quá trình chuyển hoá này là sự phát triển của
kinh tế hàng hoá. Phân công xã hội là cơ sở của kinh tế hàng hoá.
Những người sản xuất ở những vùng khác nhau có những điều kiện tự
nhiên khác nhau, có khả năng và ưu thế trong sản xuất ra những sản phẩm
khác nhau đạt hiệu quả cao hơn. Ngay trong một vùng, một địa phương những
người sản xuất cũng có những khả năng, điều kiện và kinh nghiệm sản xuất
khác nhau. Mỗi người chỉ tập trung sản xuất những sản phẩm nào mà mình có
ưu thế, đem sản phẩm của mình trao đổi lấy những sản phẩm cần thiết cho sản
xuất và đời sống của mình, họ trở thành những người sản xuất hàng hoá cùng
trao đổi mua bán hàng hoá với nhau, trên cơ sở đó thị trường, tiền tệ cũng ra
đời và phát triển.
Sản xuất hàng hoá ra đời lúc đầu dưới hình thức sản xuất nhỏ, giản đơn
nhưng là một bước tiến trong lịch sử phát triển xã hội. Sản xuất hàng hoá giản
đơn là sản xuất dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất trong điều kiện kỹ
thuật thủ công lạc hậu. Khi trình độ lực lượng sản xuất phát triển cao hơn, sản
xuất hàng hoá giản đơn chuyển sang sản xuất hàng hoá quy mô lớn hơn. Quá
trình đó diễn ra trong thời kỳ quá độ từ xã hội phong kiến lên xã hội tư bản.
2.Từ kinh tế hàng hoá giản đơn lên kinh tế thị trường tự do.
Nền kinh tế thị trường tự do ra đời từ từ nền kinh tế hàng hoá giản đơn
nhưng có những đặc điểm cơ bản khác với nền kinh tế hàng hoá giản đơn. Ở
đây người sản xuất trực tiếp là công nhân làm thuê, không phải là người sở
hữu tư liệu sản xuất mà tư liệu sản xuất là của nhà tư bản. Sản phẩm lao động
do những công nhân làm ra thuộc về nhà tư bản.
Trong nền sản xuất hàng hoá giản đơn, tác động của qui luật giá trị dẫn
tới sự phát triển tự phát của lực lượng sản xuất. Do tác động tự phát đó, do sự
biến động của giá cả, cạnh tranh đã làm phân hoá những người sản xuất hàng
hoá và trong giai đoạn phát triển lịch sử nhất định làm nảy sinh chủ nghĩa tư
bản. Kinh tế hàng hoá giản đơn đẻ ra chủ nghĩa tư bản, sản xuất hàng hoá
trong thời kỳ này cạnh tranh gay gắt. Trong điều kiện sản xuất qui mô lớn, các
nguồn lực tự nhiên ngày càng khan khiếm buộc người sản xuất phải không
ngừng cải tiến đổi mơí kỹ thuật, công nghệ, nâng cao năng suất, chất lượng và
hiệu quả sản xuất, sử dụng tiết kiệm các yếu tố sản xuất. Đây là động lực
mạnh mẽ cho sự phát triển nền sản xuất hàng hoá.
3.Từ kinh tế thị trường tự do sang kinh tế hỗn hợp
Xuất phát của quan điểm “kinh tế hỗn hợp” có từ cuối những năm của
thế kỷ XIX. Sau khi thời kỳ chiến tranh, nó được các nhà kinh tế học Mỹ, như
A.Hasen, tiếp tục nghiên cứu. Tư tưởng này được phát triển trong “kinh tế
học” của P.A.Samuelson.
Nếu các nhà kinh tế học Cổ điển và Cổ điển mới say sưa với “bàn tay
vô hình” và “cân bằng tổng quát”, trường phái Keynes và Keynes mới say
sưa với “bàn tay nhà nước”, thì P.A.Samuelson chủ trương phát triển kinh tế
phải dựa vào cả “hai bàn tay”, là cơ chế thị trường và nhà nước. Ông cho
rằng diều hành một nền kinh tế không có chính phủ hoặc thị trường thì cũng
như vỗ tay bằng một bàn tay”.
Cơ chế thị trường là một hình thức tổ chức kinh tế, trong đó, cá nhân
người tiêu dùng và các nhà kinh doanh tác động lẫn nhau qua thị trường để
xác định ba vấn đề trung tâm của tổ chức kinh tế là: cái gì? Như thế nào? Và
cho ai? Cơ chế thị trường “không phải là một sự hỗn hợp mà là trật tự kinh
tế”. Một nền kinh tế thị trường là một cơ chế tinh vi để phối hợp một cách
không tự giác nhân dân và doanh nghiệp thông qua hệ thống giá cả thị trường.
Nó là một phương tiện giao tiếp để tập hợp tri thức và hành động của hàng
triệu cá nhân khác nhau, không có bộ não trung tâm, nó vẫn giải được bài
toán mà máy tính lớn nhất ngày nay không thể giải nổi. Không ai thiết kế ra
nó. Nó tự nhiên, và cũng như xã hội loài người, nó đang thay đổi.
Thị trường là một quá trình mà trong đó, người bán một thứ hàng hoá
tác động qua lại lẫn nhau để xác định giá cả và số lượng hàng hoá. Như vậy,
nói đến thị trường và cơ chế thị trường là phải nói tới hành hoá, người bán và
người mua, giá cả hàng hoá. Hàng hoá bao gồm tiêu dùng, dịch vụ và yếu tố
sản xuất như lao động, đất đai, tư bản. Từ đó hình thành nên thị trường hàng
tiêu dùng và thị trường các yếu tố sản xuất. Trong hệ thống thị trường, mỗi
hàng hoá, mỗi loại dịch vụ đều có giá cả của nó. Giá cả mang lại thu nhập cho
hàng hoá mang đi bán. Và mỗi người lại dùng thu nhập đó để mua hàng mình
cần. Nếu một loại hàng hoá nào đó có nhiều người mua, thì người bán sẽ tăng
giá lên để phân phối một lượng cung hạn chế. Giá lên cao sẽ thúc đẩy người
sản xuất làm ra nhiều hàng hoá hơn. Khi có nhiều hàng hoá, người bán muốn
mua nhanh để giải quyết hàng của mình nên hạ giá xuống. Khi hạ giá, số
người mua hàng đó tăng lên. Do đó, người bán lại tăng giá lên. Như vậy,
trong cơ chế thị trường có một hệ thống tự tạo ra sự cân đối giữa giá cả và sản
xuất. “Giá cả là phương tiện tín hiệu của xã hội”. Nó chỉ cho người sản xuất
biết sản xuất cái gì và như thế nào và cũng thông qua đó thực hiện phân phối
cho ai.
Nói đến cơ chế thị trường là ta phải nói đến cung – cầu hàng hoá, đó là
sự khái quát của hai lực lượng người bán và người mua trên thị trường. Sự
biến động của giá cả đã làm cho trạng thái cân bằng cung – cầu thường xuyên
biến đổi và đó cũng chính là nội dung của quy luật cung – cầu hàng hoá.
Nền kinh tế thị trường chịu sự điều khiển của hai ông vua: Người tiêu
dùng và kỹ thuật. Người tiêu dùng thống trị thị trường, vì họ là người bỏ tiền
ra để mua hàng hoá do doanh nghiệp sản xuất. Song, kỹ thuật hạn chế người
tiêu dùng vì nền sản xuất bằng tiền của người mua, không thể quyết định vấn
đề phải sản xuất hàng gì. Như vậy, nhu cầu phải chịu theo cung ứng của
người kinh doanh. Vì người sản xuất phải định giá hàng của mình theo chi phí
sản xuất. Nên họ sẵn sàng chuyển sang lĩnh vực nhiều lợi nhuận hơn. Như
vậy thị trường chịu sự chi phối của cả chi phí kinh doanh, lẫn các quyết định
cung-cầu của người tiêu dùng quy định. Ở đây, thị trường đóng vai trò môi
giới trung gian hoà giải sở thích người tiêu dùng và hạn chế kỹ thuật.
Cũng trong nền kinh tế thị trường, lợi nhuận là động lực chi phối hoạt
động của người kinh doanh. Lợi nhuận đưa các nhà doanh nghiệp đến các
khu vực sản xuất hàng hoá mà người tiêu dùng cần nhiều hơn, bỏ qua các khu
vực ít có người tiêu dùng. Lợi nhuận đưa các nhà doanh nghiệp đến việc sử
dụng kỹ thuật sản xuất hiệu quả nhất. Như vậy, hệ thống thị trường luôn phải
là một hệ thống hỗn hợp để giải quyết tốt nhất ba vấn đề có bản của nền kinh
tế.
IIICơ chế thị trường
1.Hàng hoá.
Hàng hoá là sản phẩm của lao động , một là nó có thể thoả mãn được
nhu cầu nào đó của con người, hai là nó được sản xuất ra không phải để người
sản xuất ra nó tiêu dùng mà là để đem ra trao đổi. Hàng hoá có hai thuộc tính:
Bao gồm thuộc tính giá trị và giá trị sử dụng.
Giá trị là lao động xã hội của người sản xuất hàng hoá kết tinh trong
hàng hoá. Sản phẩm nào mà không chứa đựng lao động của con người thì
không có giá trị, khi giá trị thay đổi thì giá trị trao đổi cũng thay đổi. Giá trị
trao đổi chính là hình thức biểu hiện của giá trị. Giá trị là một phạm trù lịch sử
nó gắn liền với nền sản xuất hàng hoá, khi nào còn sản xuất và trao đổi hàng
hoá thì còn tồn tại phạm trù giá trị.
Giá trị sử dụng là công dụng của sản phẩm có thể thoả mãn một nhu
cầu nào đó của con người. Công dụng của sản phẩm do thuộc tính tự nhiên
của sản phẩm đó qui định. Giá trị sử dụng thể hiện ở việc sử dụng hay tiêu
dùng nó là nội dung của của cải, không kể hình thức xã hội của cải đó như thế
nào. Với ý nghĩa như vậy thì giá trị sử dụng là một phạm trù vĩnh viễn. Một
sản phẩm đã là hàng hoá thì nhất thiết phải có giá trị sử dụng nhưng không
phải bất cứ sản phẩm gì có giá trị sử dụng cũng đều là hàng hoá. Trong kinh
tế hàng hoá, giá trị sử dụng là cái mang giá trị trao đổi.
2.Tiền tệ
Trong giai đoạn đầu của trao đổi hàng hoá, người ta đổi trực tiếp một
vật này lấy một vật khác, với sự phát triển tiếp tục của phân công lao động xã
hội và trao đổi hàng hoá trong thời kì suy tàn của chế độ công xã nguyên
thuỷ, những nhược điểm của hình thái giá trị toàn bộ hay mở rộng càng thể
hiện rõ rệt.Trong quá trình troa đổi hàng hoá xuất hiện một nhu cầu là những
người chủ hàng hoá phải tìm được một loại hàng hoá nào mà được nhiều
người ưa thích để đổi hàng hoá của mình lấy hàng hoá đó. Sau đó dùng hàng
hoá ấy đổi lấy thứ hàng hoá mà mình cần. Như vậy việc trao đổi không còn là
trực tiếp mà phải qua một bước trung gian. Lực lượng sản xuất tiếp tục phát
triển cuộc phân công lao động xã hội lớn lần thứ hai thúc đẩy mạnh sự phát
triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá, điều đó đòi hỏi phải có vật ngang
giá chung thống nhất giữa các vùng, như vậy tiền tệ đã xuất hiện. Tiền tệ xuất
hiện là kết quả lâu dài và tất nhiên của trao đổi hàng hoá. Tiền tệ có khả năng
trao đổi trực tiếp với mọi hàng hoá,nó trở thành phương tiện biểu hiện giá trị
của các hàng hoá. Tiền tệ là thứ hàng hoá đặc biệt được tạo ra là vật ngang giá
chung cho các hàng hoá khác. Nó thể hiện giá trị lao động xã hội và biểu hiện
quan hệ giữa những người sản xuất hàng hoá.
Từ sự phát triển mạnh mẽ của sản xuất và trao đổi đã ra đời một loại
hàng hoá đặc biệt đóng vai trò vật ngang giá chung. Đó là tiền tệ. Trong lịch
sử tiền tệ, nhiều loại hàng hoá đã được sử dụng cho vai trò này như vỏ ốc, gia
súc,…sắt, đồng, bạc, vàng…Bản thân chúng là những yếu tố vật chất và có giá
trị. Sự ra đời của tiền giấy đánh dấu một sự thay đổi to lớn trong quá trình
phát triển của chúng tính bằng bạc, hoặc vàng. Nhưng ngày nay mọi nền kinh
tế hiện đại đều không có bất kỳ một sự hứa hẹn đảm bảo “giá trị thực” của
chúng.
Nhu cầu trao đổi đã phát triển đến mức cần có những loại tiền mới
không chỉ là tiền giấy, séc mà còn thẻ tín dụng, tiền điện tử v.v…Nó được
chuyển nhượng thông qua các máy tính, đường điện thoại và thậm chí có thể
tồn tại trên giấy tờ.
Như vậy ngày nay, tiền được coi là mọi thứ được xã hội chấp nhận
dùng làm phương tiện thanh toán và trao đổi. Bản thân chúng có thể có hoặc
không có giá trị riêng.
3. Giá cả.
Giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá. Trong nền kinh tế
hàng hoá nói chung cũng như nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần trong
thời kì quá độ ở nước ta, giá cả là công cụ vô cùng quan trọng không những
đẻ bảo đảm cho lưu thông hàng hoá cũng tứ là cho sinh hoạt hoạt động
thương nghiệp được thuận lợi mà còn để điều tiết sản xuất và tiêu dùng theo
hướng có lợi cho lao động. Giá cả trong thời kì quá độ thể hiện những lợi ích
khác nhau, cho nên phải có chính sách đúng đắn để tạo ra một sự nhất trí giữa
các lợi ích đa dạng đó.
Giá cả phản ánh tình hình cung-cầu, có thể nhận biết sự khan hiếm
tương đối của hàng hoá qua sự biến đổi giá cả. Tin tức về giá cả có thể hướng
dẫn đơn vị kinh tế có liên quan định ra những quyết sách đúng đắn, không có
những thông tin về giá cả quyết sách sẽ không chuẩn xác thậm trí có những
quyết sách mù quáng.Trong lĩnh vực phân phối,lưu thông và tiêu dùng, sự
biến đổi giá cả cũng cung cấp những thông tin cần thiết để chính phủ, xí
nghiệp và cá nhân định ra những quyết định.
Sự biến động của giá cả có thể dẫn tới sự biến động của cung cầu, sản
xuất và tiêu dùng, biến động về lưu chuyển tài nguyên. Khi giá cả của một
loại hàng hoá nào đó tăng lên thì người sản xuất nói chung có thể tăng sản
xuâts mặt hàng đó và tất nhiên sẽ thu hút tài nguyên xã hội lưu chuyển vào
ngành đó nhưng giá cả tăng có thể làm cho tiêu dùng giảm nhu cầu về loại
hàng hoá đó. Khi giá cả giảm người sản xuất nói chung có thể giảm sản xuất
loại hàng hoá ấy và do đó một phần tài nguyên có thể không lưu chuyển vào
ngành ấy, tiêu dùng lại có thể tăng lên. Chính trong quá trình này mà giá cả
điều tiết qui mô sản xuất của xí nghiệp sự bố trí tài nguyên giữa các ngành và
cân đối giữa tổng cầu và tổng cung của xã hội.
Giá cả lên xuống như một bàn tay vô hình điều tiết lợi ích của mọi
người, chỉ huy hành động của người sản xuất, điều tiết hành vi của người tiêu
dùng.Giá cả còn có chức năng thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật, giảm lượng lao động
xã hội trung bình cần thiết và chức năng phân phối và phân phối lại thu nhập
quốc dân, thu nhập cá nhân. Giá cả chỉ có thể phát huy các chức năng trên dựa
vào tiền tệ. Giá cả có đầy đủ tính đàn hồi, thị trường phải có tính cạnh tranh
đầy đủ nếu không sẽ làm thiệt hại chức năng của giá cả.
Trước đây do cơ chế kinh tế kế hoạch tập trung quan liêu nên tác dụng
của qui luật giá trị bị xem nhẹ, vì thế hệ thống giá cả của nước ta rất bất hợp
lí. Giá cả không phản ánh được giá trị cũng không phản ánh được cung- cầu,
tỷ giá giữa các hàng hoá khác nhau cũng như giữa các hàng hoá cùng loại
cũng bất hợp lí. Sự bất hợp lí trên làm cho giá cả không phát huy được vai trò
là đòn bẩy kinh tế mạnh mẽ đối với sự phát triển của sản xuất và phát huy tính
tích cực của người lao động.
Để chuyển sang cơ chế thị trường, điều đầu tiên đặt ra đối với sự hình
thành giá cả là phải lấy giá trị làm cơ sở và dựa vào yêu cầu của qui luật giá
trị Đồng thời sự hình thành giá cả hàng hoá còn phải chịu quan hệ của qui luật
cung – cầu hàng hoá, số lượng phát hành tiền giấy với chính sách kinh tế của
nhà nước ở mỗi thời kì nhất định…Qui luật giá trị quyết định giá cả thông qua
cung cầu có ý nghĩa quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Cho nên vận
dụng qui luật giá trị, tình hình cung cầu trên thị trường để hình thành giá cả là
phương tiện và là con đường quan trọng thúc đẩy tiến bộ xã hội.
Mặc dù cơ chế thị trường ở nước ta trong thời kì quá độ lên CNXH là
cơ chế có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, song cơ
chế hình thành giá cả phải từ thị trường là chủ yếu, người sản xuất kinh doanh
có quyền định giá.Cơ chế hình thành giá này đòi hỏi nhà nước trong khi chỉ
đạo và quản lý giá cả phải làm cho tuyệt đại đa số hàng hoá phù hợp với giá
thị truờng do các tổ chức kinh tế căn cứ vào quan hệ cung cầu của thị trường
qui định, thông qua giá cả nhà nước điều tiết, hướng dẫn việc đầu tư một cách
hợp lý.
4. Lợi nhuận.
Do có sự chênh lệch giữa giá trị hàng hoá và chi phí sản xuất tư bản
chủ nghĩa, nên khi bán hàng hoá theo giá cả thị thường (bằng giá trị hàng hoá)
nhà tư bản thu được một khoản tiền lời gọi là lợi nhuận. So sánh lợi nhuận với
giá trị thặng dư cho thấy:
Về lượng, nếu cung bằng cầu và do đó giá hàng hoá bán ra theo đúng
giá trị của nó thì số lượng lợi nhuận thu được bằng giá trị thặng dư. Nếu cung
nhỏ hoặc lớn hơn cầu giá cả hàng hoá có thể sẽ cao hơn lượng hay thấp hơn
giá trị của nó thì từng tư bản cá biệt có thể thu được một lượng lợi nhuận lớn
hơn hoặc nhỏ hơn lượng giá trị thặng dư. Nhưng trong toàn xã hội, tổng số giá
cả ngang bằng với tổng số giá trị của hàng hoá, tổng số lợi nhuận ngang bằng
với tổng số giá trị thặng dư.
Về chất, giá trị thặng dư là bộ phận giá trị mới do lao động mà công
nhân tạo ra trong lĩnh vực sản xuất dôi ra ngoài phânf bù lại giá trị trung bình
khả biến mà nhà tư bản đã trả cho công nhân, còn lợi nhuận là hình thức biểu
hiện bên ngoài của giá trị thặng dư, là giá trị thặng dự khi nó đưịc quan niệm
là con đẻ của toàn bộ tư bản ứng ra, là kết quả hoạt động của toàn tue bản đầu
tư vào sản xuất và kinh doanh.
C.Mác viết: “giá trị thặng dư hay là lợi nhuận, chính là phần giá trị
dôi ra ấy của giá trị hàng hoá so với chi phí sản xuất của nó, nghĩa là phần
dôi ra của tổng số lượng lao động chứa đựng trong hàng hoá so với số
lượng lao động được trả công chứa đựng trong hàng hoá”.
Phạm trù lợi nhuận phản ánh sai lệch bản chất quan hệ sản xuất giữa tư
bản và lao động, vì nó làm cho người ta tưởng rằng giá trị thặng dư không
phải chỉ do lao động làm thuê tạo ra. Thực chất lợi nhuận và giá trị thặng dư
cũng là một, lợi nhuận chẳng qua chỉ là một hình thái thần bí của giá trị thặng
dư ‘
5.Quy luật giá trị.
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế căn bản của sản xuất và trao đổi hàng
hoá. Chừng nào còn trao đổi hàng hoá thì chừng đó còn quy luật giá trị.
Theo quy luật này, sản xuất và trao đổi hàng hoá phải dựa trên cơ sở
lượng giá trị hàng hoá hay thời gian lao động cần thiết. Trong nền kinh tế
hàng hoá, vấn đề quan trọng là hàng hoá sản xuất ra có bán được hay không?
Để hàng hoá có thể bán được thì hao phí lao động cá biệt để sản xuất ra hàng
hoá phải phù hợp với mức hao phí lao động xã hội cần thiết, tức là phải phù
hợp với mức hao phí mà xã hội có thể chấp nhận được. Trong trao đổi hàng
hoá cũng phải dựa vào hao phí lao động xã hội cần thiết. Hai hàng hoá có giá
trị sử dụng khác nhau có thể trao đổi với nhau được khi lượng giá trị của
chúng ngang nhau. Theo nghĩa đó thì trao đổi phản ánh theo nguyên tắc
ngang giá. Quy luật giá trị là trừu tượng. Nó thể hiện sự vận động thông qua
sự biến động của giá cả hàng hoá.
Trong sản xuất, quy luật giá trị điều tiết việc phân phối tư liệu sản xuất
vá sức lao động giữa các ngành sản xuất thông qua sự bién động của giá cả
hàng hoá. Như dã nói trên, do ảnh hưởng của quan hệ cung – cầu, giá cả hàng
hoá trên thị trường lên xuống xoay quanh giá trị của nó. Nếu có ngành nào đó
cung không đáp ứng cầu, giá cả hàng hoá lên cao thì sản xuất đổ xô vào
ngành đó. Ngược lại, khi ngành đó thu hút quá nhiều lao động xã hội, cung
vượt quá cầu, giá cả hàng hoá hạ xuống thì người sản xuất sẽ phải chuyển bớt
tư liệu sản xuất và sức lao động ra khỏi ngành này để đầu tư vào nơi có giá cả
hàng hoá cao. Nhờ vậy, tư liệu sản xuất và sức lao động được phân phối qua
lại một cách tự phát vào các ngành sản xuất khác nhau. Sự biến động xung
quanh giá trị không những chỉ rõ sự biến động về kinh tế mà còn có tác dụng
điều tiết nguồn hàng từ nơi giá thấp đến nơi giá cao.
Trong nền sản xuất hàng hoá, ngưòi nào có hao phí lao động cá biệt ít
hơn hoặc bằng hao phí lao động xã hội cần thiết để sản xuất hàng hoá thì
người đó có lợi, còn người nào có hao phí cá biệt lớn hơn hao phí lao động xã
hội cần thiết thì sẽ bị thiệt, vì không thu được toàn được lao động đã hao phí.
Muốn đứng vững và thắng trong cạnh tranh mỗi người sản xuất đều luôn
luôn tìm cách cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động. Vì thế, trong nền
kinh tế hàng hoá, lực lượng sản xuất được kích thích và phát triển nhanh hơn
nhiều so với trong nền kinh tế tự cấp, tự túc.
Trong cuộc cạnh tranh chạy theo giá trị, lao động cá biệt của mỗi người
sản xuất không nhất trí với lao động xã hội cần thiết. Như vậy, quy luật giá trị
có ý nghĩa bình tuyển, đánh giá người sản xuất. Về phương diện này quy luật
giá trị bảo đảm sự bình đẳng đối với người sản xuất.
6.Quy luật cung-cầu
Cầu là khối lượng hàng hoá và dịch vụ mà người tiêu dùng mua trong
một thời kỳ tương ứng với giá cả, thu nhập và các biến số kinh tế xác định.
Người tiêu dùng ở đây bao gồm dân cư, các doanh nghiệp nhà nước và cả
nước ngoài. Tiêu dùng bao gồm cả tiêu dùng sản xuất và tiêu dùng cá nhân.
Lượng cầu phụ thuộc vào các yếu tố chủ yếu như: thu nhập, sức mua
của tiền tệ, giá cả hàng hoá, lãi suất, thị hiếu của người tiêu dùng. Trong đó,
giá cả hàng hoá là nhân tố tác động trực tiếp và tỷ lệ nghịch với lượng cầu, giá
cả càng cao thì cầu về hàng hoá đó thấp, ngược lại giá cả hàng hoá thấp,
lượngcầu sẽ cao.
Cung là khối lượng hàng hoá và dịch vụ mà chủ thể kinh tế đem bán ra
thị trường trong một thời kỳ nhất định, tương ứng với mức giá cả, khả năng
sản xuất, chi phí sản xuất xác định.
Lượng cung phụ thuộc vào khả năng sản xuất, vào số lượng và chất
lượng các nguồn lực, các yếu tố sản xuất được sử dụng, năng suất lao động và
chi phí sản xuất. Giá cả của hàng hoá và dịch vụ trên thị trường là yếu tố trực
tiếp ảnh hưởng tới lượng cung về hàng hoá, dịch vụ đó. Cung tỷ lệ thuận với
giá. Giá cả cao thì cung lớn và ngược lại, giá cả thấp thì cung giảm.
Quan hệ cung cầu là quan hệ giữa những người bán và những người
mua, giữa những người sản xuất và người tiêu dùng; là những quan hệ có vai
trò quan trọng trong nền kinh tế hàng hoá. Không phải chỉ có giá cả ảnh
hưởng tới cung cầu mà quan hệ cung cầu ảnh hưởng tới việc xác định giá cả
trên thị trường.
Khi cung lớn hơn cầu, người bán phải giảm gía, giá cả có thể thấp hơn
giá trị hàng hoá . Khi cung nhỏ hơn cầu, người bán có thể tăng giá, giá cả có
thể cao hơn giá trị. Khi cung bằng cầu, người bán sẽ bán hàng hoá theo đúng
giá trị giá cả bằng giá trị. Khi đó cân bằng thị trường xuất hiện tại mức giá mà
tại đó lượng cung và cầu bằng nhau. Mức giá đó gọi là giá cân bằng, sản
lượng đó gọi là sản lượng cân bằng.
PHẦN 2
SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
THEO ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM.
I.Sự cần thiết khách quan hình thành và phát triển kinh tế thị trường
định hướng XHCN ở Việt Nam
1.Cơ chế cũ và hạn chế của nó.
Cơ chế cũ là cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Đó là cơ chế mà ở đó
Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng mệnh lệnh hành chính là chủ yếu, thể hiện
ở sự chi tiết hoá các nhiệm vụ do Trung ương giao bằng một hệ thống chỉ tiêu
pháp lệnh từ một trung tâm. Các doanh nghiệp căn cứ vào chỉ tiêu kế hoạch
của nhà nước từ đó lập kế hoạch sản xuất kinh doanh cho mình.
Trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, các cơ quan nhà nước can
thiệp qúa sâu vào các hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp
nhưng lại không chịu trách nhiệm gì đối với các quyết định của mình, từ đó
làm cho các doanh nghiệp thụ động không phát huy được tính sáng tạo, các
quan hệ kinh tế bị hiện vật hoá. Quan hệ hàng hoá tiền tệ chỉ mang tính hình
thức, bỏ qua hiệu quả kinh tế, quản lý kinh tế và kế hoạch hoá bằng chế độ
cấp phát, giao nộp. Bộ máy quản lý cồng kềnh, nhiều khâu trung gian nhưng
kém năng lực.
Cơ chế tập trung bao cấp đã góp phần cho thắng lợi giải phóng đất
nước, nhưng sau khi điều kiện kinh tế xã hội đã thay đổi. Đặc biệt khi trình độ
phát triển kinh tế đã nâng cao lên rất nhiều, cơ cấu càng phức tạp thì những
khuyết điểm bên trong nền kinh tế kế hoạch ngày càng bộc lộ. Cuộc chạy đua
theo mục tiêu chế độ quốc hữu hoá làm loại bỏ hoặc hạn chế chế độ kinh tế
phi quốc hữu, kiềm chế cạnh tranh nên khó làm sống động nền kinh tế.
Trên thực tế kinh tế kế hoạch lấy chủ nghĩa bình quân làm phương
châm phân phối cho nên đã kìm hãm tích cực và sáng tạo của người sản xuất
kinh doanh. Chúng ta thực hiện phân phối theo lao động trong điều kiện chưa
cho phép. Trong hoạt động kinh tế việc nhà nước quản lý hành chính bằng
mệnh lệnh trực tiếp, chính quyền và xí nghiệp không tách riêng, đầu vào cao
đầu ra thấp đã trở thành những căn bệnh cũ của nền kinh tế kế hoạch.Những
điều trên đã gây trở ngại cho sự phát triển sản xuất xã hội. Trước tình hình đó
việc chuyển đổi nền kinh té nước ta sang nền kinh tế thị trường là đúng đắn
phù hợp với thực tế, qui luật kinh tế và xu thế của thời đại
2.chủ trương phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong khi các nước trong khu vực đã đạt được những bước phát triển
nhảy vọt dựa vào cơ chế kinh tế thị trường, mở rộng quan hệ kinh tế đối
ngoại, xây dựng cơ cấu kinh tế hướng bên ngoài, thì Việt Nam trong nhiều
năm qua vẫn theo đổi cơ chế kế hoạch hoá tập trung bằng mệnh lệnh hành
chính, quan liêu từ trung ương và cơ cấu kinh tế hướng nội là chủ yếu, đã kìm
hãm khả năng hoà nhập vào trào lưu phát triển của khu vực.
Sau đại hội 6(1986), do đổi mới nói chung và sự đổi mới trong nhận
thức xã hội, Đảng ta nhận định rằng để phát triển theo kịp các nước trong khu
vực và thế giới thì phải phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định
hướng xã hội chủ nghĩa có sụ quản lý của nhà nước.
Bởi vì hiện nay ở nước ta, các điều kiện của sản xuất hàng hoá vẫn còn
đang tồn tại. Phân công lao động: ở nước ta đang tồn tại hệ thống phân công
lao động do lịch sử để lại với nhiều ngành nghề. Với sự phát triển khoa học
kỹ thuật hiện đại, nhiều ngành nghề mới xuất hiện làm cho sự phân công lao
động ở nước ta trở nên phong phú hơn, nó tạo điều kiện cho hàng hoá phát
triển. Ở nước ta cũng đang tồn tại quan hệ sở hữu đa dạng về tư liệu sản xuất
và ứng với nó là nền kinh tế nhièu thành phần. Điều đó tạo nên sự độc lập về
mặt kinh tế giữa các thành viên, doanh nghiệp. Nó cũng có tác dụng làm cho
hàng hoá phát triển.
Mặt khác, kinh tế hàng hoá phát triển, nó thúc đẩy quá trình phân công
lao động, quá trình chuyên môn hoá và hiện đại hoá. Qua đó thiết lập được
mối quan hệ kinh tế giữa các vùng xoá bỏ tình trạng tự cung, tự cấp. Đẩy
mạnh quá trình xã hội hoá sản xuất. Nó thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung
vốn và lao động thể hiện ở quy mô của các doanh nghiệp, quy mô về kinh tế
ngày càng tăng.
Kinh tế hàng hoá góp phần tăng năng suất lao động thực hiện dân chủ
hoá đời sống kinh tế. Nó khai thác được thế mạnh từng ngành, từng địa
phương để làm ra nhiều sản phẩm cho xã hội, tạo tiền đề cho việc mở rộng
liên kết, liên doanh cả trong nước và nước ngoài. Mở rộng phạm vi giao lưu
hàng hoá giữa nước ta và các nứơc khác. Là điều kiện thúc đẩy sự phát triển
của một số ngành, lĩnh vực khác.
Trong bất cứ hình thái kinh tế – xã hội nào cũng có phương thức sản
xuất giữ vị trí chi phối. Ngoài ra, còn có phương thức sản xuất tàn dư của xã
hội trước và phương thức sản xuất mầm mống của xã hội tương lai. Các
phương thức sản xuất này ở vào địa vị lệ thuộc, bị chi phối bởi phương thức
sản xuất thống trị.
Tronh một hình thái kinh tế xã hội có nhiều phương thức sản xuất biểu
hiện thành phần kinh tế. Trong thời kỳ quá độ, chưa có thành phần kinh tế nào
giữ vai trò thống trị, chi phối các thành phần kinh tế khác, mà chúng chỉ là
những mảnh, những bộ phận hợp thành kết cấu kinh tế xã hội trong một hệ
thống thống nhất biện chứng. Mỗi thành phần kinh tế có kiểu tổ chức sản xuất
kinh doanh của nó hợp thành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần.
Nền kinh tế thời kỳ quá độ tồn tại nhiều thành phần kinh tế là vì:
Thứ nhất, khi giai cấp công nhân và nhân dân lao động dành chính
quyền, tiếp quản nền kinh tế chủ yếu dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản
xuất. Thực tế có hai loại tư hữu: tư hữu lớn:nhà máy, hầm mỏ, doanh nghiệp,
đồn điền…của các chủ tư bản trong và ngoài nước-đó là kinh tế tư bản chủ
nghĩa, và tư hữu nhỏ: gồm những người nông dân cá thể, những người buôn
bán nhỏ, đó là sản xuất nhỏ cá thể.
Thái độ của chính quyền mới đối với hai loại tư hữu trên là khác nhau.
Đối với tư hữu lớn kinh tế tư bản tư nhân, chỉ có phương pháp duy nhất là
quốc hữu hoá. Lý luận về quốc hữu hoá của chủ nghĩa Mac-Lênin khẳng định
không nên quốc hữu hoá ngay một lúc mà phải được tiến hành từ từ theo từng
giai đoạn và và bằng hình thức, bằng phương pháp nào là từy điều kiện cụ thể,
cho nên những doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa còn
tồn tại như một tất yếu. Đồng thời hướng chủ nghĩa tư bản vào con đường tư
bản Nhà nước, hình thành thành phần kinh tế tư bản nhà nước.
Đối với tư hữu nhỏ thì chỉ có thông qua con đường hợp tác hoá, theo
các nguyên tắc mà Lênin vạch ra là tự nguyện, quản lý dân chủ, cùng có
lợi…tuân theo các quy luật khách quan. Do đó trong thời kỳ quá độ còn tồn tại
thành phần kinh tế cá thể. Hơn nữa các thành phần kinh tế cũ do lịch sử để lại,
chúng còn có vai trò, chức năng, nhiệm vụ, còn có khả năng phát triển…Vì thế
nhà nước bằng các chính sách biện pháp sử sụng các thành phần kinh tế tư
nhân phục vụ cho sự nghiệp xây dựng xã hội mới.
Thứ hai, sự phát triển kinh tế ở mỗi quốc gia, do đặc điểm lịch sử, điều
kiện chủ quan, khách quan nên tất yếu có sự phát triển không đều về lực
lượng sản xuất giữa các ngành, các vùng, các doanh nghiệp. Chính sự phát
triển không đều đó quyết định quan hệ sản xuất, trước hết là hình thức, quy
mô và quan hệ sở hữu phải phù hợp với nó nghĩa là tồn tại những quan hệ sản
xuất không giống nhau. Đó là cơ sở hình thành các thành phần kinh tế khác
nhau.
Thứ ba, để phát triển kinh tế, củng cố và phát triển hệ thống chính trị,
xã hội, nhà nước xây dựng hệ thống những có sở kinh tế mới, hình thành
thành phần kinh tế nhà nước. Mặt khác, trong điều kiện quốc tế hoá đời sống
kinh tế, quốc hữu hoá hợp tác và đầu tư nước ngoài, nhà nước cùng các nhà
nước cùng các nhà tư bản, các công ty trong và ngoài nước, hình thành kinh tế
tư bản nhà nước.
Việc nhận thức và tổ chức thực hiện trên thực tế các thành phần kinh tế
trong thời kỳ quá độ có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn.
Hiện nay, ở nước ta đang tồn tại nhiều trình độ khác nhau của lực
lượng sản xuất (thủ công, trình độ cơ khí, tự động hoá, tin học hoá…). Vì vậy
khi thiết lập quan hệ sở hữu thì cũng phải đa dạng phù hợp ở nước ta hiện nay
có thể làm xuất hiện thêm một số thành phần kinh tế khác.
Ở nước ta tồn tại một nền kinh tế nhiều thành phần là một tất yếu khách
quan. Vì kinh tế nhiều thành phần, đây là tồn tại khách quan do lịch sử để lại
trong thời kỳ quá độ và có nhiều thành phần kinh tế mà sụ tồn tại của nó vẫn
có lợi cho sự phát triển đất nước. Phát triển kinh tế nhiều thành phần nhằm
thực hiện cái quy luật: Quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất, trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất. Phát triển kinh tế nhiều thành phần nhằm để
cho sản xuất nước ta phát triển liên tục không bị gián đoạn. Phát triển kinh tế
nhiều thành phần nhằm tạo ra sự cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế thị
trường hiện nay ở nước ta.
Tóm lại: Trong thời kỳ quá độ tồn tại một nền kinh tế nhiều thành phần
không chỉ là một tất yếu khách quan mà còn có một tác dụng tích cực tolớn
đối với sự phát triển của nền kinh tế.Cụ thể là:
Sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần cũng có ý nghĩa là tồn tại nhiều
hình thức quan hệ sản xuất , do đó nó sẽ phù hợp với các trình độ phát triển
khác nhau về lực lượng sản xuất từ đó mà có thể tăng năng suất lao động, tăng
tốc độ phát triển kinh tế, tăng hiệu quả kinh tế trong mỗi thành phần cũng như
trong toàn bộ nền kinh tế .
Góp phần khôi phục kinh tế cho sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá.
Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần chính là đảm bảo quyền tự
do kinh doanh, quyền dân chủ về kinh tế cho mọi công dân. Một công dân đều
có quyền hoạt độngtrong nền kinh tế thị trường (theo đúng pháp luật) để làm
giài cho mình và cho xã hội.
Nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần không những tạo điều kiện sử
dụng sức mạnh tổng hợp của mọi thành phần kinh tế trong nước mà còn tạo ra
môi trường thông thoáng ,thích hợp cho sự thu hút vốn, khoa học kĩ thuật tiên
tiến của thế giới .
Nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần không những tạo điều kiện
thực hiện và mở rộng các hình thức kinh tế quá độ, đặc biệt là hình thức kinh
tế tư bản nhà nước, là “cầu nối” là trung gian cần thiết để chuyển nền kinh tế
nước ta từ sản xuất nhỏ nên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa
Từ những tác động tích cực mà hội nghị trung ương lần thứ VI khoá
VI đã chỉ rõ: “chính sách kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược
lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội và thể hiện
tinh thần dân chủ về kinh tế, đảm bảo cho mọi người làm ăn theo pháp
luật”.
Khi cơ chế cũ kìm hãm sự phát triển kinh tế Việt Nam trong nhiều năm.
Điều đó đặt ra một yêu cầu khách quan là phải đổi mới cơ chế kinh tế, thay
thế cơ chế mới vào cơ chế cũ. Trong khi đó, cơ chế thị trường có sự quản lý
của nhà nước đang được áp dụng rộng rãi, phổ biến ở nhiều nước trên thế giới
và đã đạt được những thành tựu rất đáng quan tâm. Vì vậy, chuyển đổi từ cơ
chế cũ sang cơ chế thị trường có sự quản lý nhà nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa là cần thiết, khách quan.
Kinh tế thị trường định hưỡng xã hội chủ nghĩa thực chất là kiểu tổ
chức nền kinh tế vừa dựa trên những nguyên tắc và quy luật của kinh tế thị
trường, vừa dựa trên những nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội. Đây
chính là mô hình kinh tế “mở”, trong đó có sự kết hợp giữa cái chung và cái
đặc thù. Cái chung kà nền kinh tế thị trường, cái đặc thù – định hướng xã hội
chủ nghĩa. Chúng ta không chủ trương xây dựng mô hình kinh tế thị trường
bất kỳ, trừu tượng, càng không chủ trương xây dựng mô hình kinh tế tư bản
mà chủ trương xây dựng mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Vì vậy, không thể lấy kinh tế thị trường làm chủ đạo mà tất yếu phải
lấy định hướng xã hội chủ nghĩa làm chủ đạo.
Nền kinh tế nước ta hiện nay chưa phải là nền kinh tế thị trường xã hội
chủ nghĩa mà còn là một nền kinh tế quá độ: nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Tức một nền kinh tế thị trường tuy còn chưa thoát
khỏi đặc điểm của kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa nhưng bước đầu đã
mang những yếu tố xã hội chủ nghĩa và những yếu tố này ngày càng lớn mạnh
lên thay thế dần những yếu tố tư bản chủ nghĩa.
II.Quá trình hình thành kinh tế thị trường ở nước ta
1.Trước năm 1986
Khác với một số nước Đông Âu, chúng ta tiến lên chủ nghĩa xã hội từ
một nước nông nghiệp lạc hậu, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.
Bởi vậy chúng ta gặp rất nhiều khó khăn, nhất là trong việc xây dựng và phát
triển nền kinh tế. Để sớm có chủ nghĩa xã hội, chúng ta đã sử dụng mô hình
kinh tế mà LiênXô và các nước xã hội chủ nghĩa khác đang có . Để là nền
kinh tế xã hội chủ nghĩa với sự thống trị của chế độ công hữu xã hội chủ
nghĩa về tư liệu sản xuất dưới hai hình thức: sở hữu toàn dân và sở hữu tập
thể, trong đó sở hữu toàn dân đóng vai trò chủ đạo.
Xuất phát từ quan niệm nền kinh tế xã hội chủ nghĩa là một nền kinh tế
phát triển có kế hoạch, quy luật phát triển có kế hoạch và cân đối nền kinh tế
quốc dân là quy luật đắc thù riêng của chủ nghĩa xã hội, nên nhà nước ta đã
lấy kế hoạch hoá làm công cụ chủ yếu để quản lý nền kinh tế. Như vậy trong
thời kì này đã nhận thức rõ tầm quan trọng có ý nghĩa chi phối của các chính
sách kinh tế vĩ mô đối với các hoạt động kinh tế.
Nhưng nhà nước quản lý nền kinh tế bằng mệnh lệnh hành chính, các
cơ quan nhà nước thì can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh.
Các cơ sở sản xuất (quốc doanh và tập thể chiếm đại bộ phạn, thành phần
kinh tế cá thể nhỏ bé, không đáng kể việc sản xuất cái gì bao nhiêu, như thế
nào và bán cho ai đều là do nhà nước quyết định và theo một kế hoạchthống
nhất từ trung ương. Các cơ sở sản xuất chỉ là người chấp hành một cách thụ
động.
Việc quản lý nền kinh tế theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung đã giúp
chúng ta giải quyết được một số vấn đề kinh tế – xã hội quan trọng nhất là
việc huy động nhân tài, vật lực phục vụ cho cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu
nước, giải phóng Miền nam, thống nhất đất nước.
Nhưng khi đất nước được hoà bình, thống nhất và bước vào thời kỳ xây
dựng, phát triển kinh tế thì cơ chế quản lý này bộc lộ nhược điểm cơ bản là nó
thiếu động lực cho sự phát triển.
Trên thực tế, kinh tế hàng hoá vẫn được thừa nhận, quan hệ hàng hoá-
tiền tệ được thừa nhận nhưng thực chất đó chỉ là kinh tế hàng hoá một thành
phần – thành phần xã hội chủ nghĩa, dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản
xuất dưới hình thức: toàn dân và tập thể.
2.Sau năm 1986
Đó là thời kỳ đổi mới toàn diện Mô hình kinh tế thông qua nghị quyết
của các đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ Vi, VII, VIII. Mô hình kinh tế bị
xoá bỏ, mô hình kinh tế mới được xây dựng phù hợp với quy luật kinh tế
khách quan, với trình độ phát triển nề kinh tế.
Trong thời kỳ này, đã diễn ra sự biến đổi cơ bản trong mô hình kinh tế,
từ mô hình quá độ trực tiếp lên chủ nghĩa xã hội sang mô hình quá độ gián
tiếp, tức là chuyển sang mô hình kinh tế lấy sản xuất và trao đổi hàng hoá
trong nền kinh tế nhiều thành phần ở một nước kém phát triển về kinh tế làm
nội dung cốt lõi. Đây là mô hình kinh tế được xây dựng trên cơ sở tổng kết
thực tiễn chủ nghĩa xã hội của nước ta, vận dụng một cách có phát triển sáng
tạo những quan điểm cơ bản của Lênin về “chính sách kinh tế mới” vào
những điều kiện lịch sử ở nước ta và thế giới ngày nay, đặc biệt khi Liên Xô
và các nước Đông Âu sụp đổ.
Thực hiện mô hình kinh tế mới nhằm mục tiêu căn bản, cấp thiết là
tăng nhanh lực lượng sản xuất, từng bước cải thiện đời sống nhân dân, tạo cơ
sở vật chất và xã hội hoá từng bước nền sản xuất xã hội.
Thực tiễn kinh tế đất nước từ khi chuyển sang mô hình kinh tế mới đã
và đang chứng minh tính khách quan khoa học, tính hiệu quả cao của mô hình
kinh tế đó. Chỉ trong một thời gian ngắn mô hình kinh tế mới đã đem lại
những thành tựu rất quan trọng, góp phần quyết định đưa nước ta thoát khỏi
cuộc khủng hoảng kinh tế – xã hội gay gắt và tạo ra những tiền đề cho thời kỳ
phát triển mới – thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Là một mô hình kinh tế hoàn toàn mới chưa hề có trong lịch sử, mà
thời gian đưa vào thực hiện chưa được bao lâu nên chúng ta chưa thể xem đó
là mô hình đã xong xuôi, hoàn chỉnh. Còn cần phải cói thời gian và kinh
nghiệm thực tiễn để bổ sung, hoàn thiện mô hình đó.
Nói tóm lại, sau năm 1986 nền kinh tế nước ta đã đạt được thành tựu
đáng kể. Nền kinh tế chuyển dần từ đóng sang mở, làm xuất hiện nhiều Thị
trường với quy mô lớn; đời sống nhân dân được cải thiện, kinh tế đất nước
tăng trưởng. Song nước ta vẫn là một nước chậm phát triển, công nghệ kỹ
thuật lạc hậu, nền kinh tế còn tồn tại nhiều vấn đề bức xúc.
III.Đặc trưng của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng có những tính
chất chung của nền kinh tế : nền kinh tế vận động theo những quy luật vốn có
của nền kinh tế thị trường như quy luật gía trị, quy luật cung cầu, quy luât
cạnh tranh ; có chủ thể kinh tế có tính độc lập, tự chủ để có quyền ra những
quyết định phi tập trung hoá ; thị trường có vai trò quyết định trong việc phân
phối các nguồn lực kinh tế ; gía cả do thị trường quyết định ; nhà nước điều
tiết kinh tế vĩ mô để giảm bớt những “thất bại của thị trường”
Nhưng bất cứ nền kinh tế thị trường nào cũng hoạt động trong những
điều kiện lịch sử–xã hội của một nước nhất định, nên nó bị chi phối bởi điều
kiện lịch sử và đặc biệt là chế độ xã hội của nước đó, và do đó có những đặc
điểm riêng phân biệt với nền kinh tế thị trường của các nước khác. Nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có những đặc trưng sau đây :
1.Về chế độ sở hữu
Nền kinh tế dựa trên cơ sở cơ cấu đa dạng về hình thức sở hữu , trong
đó sở hữu làm chủ đạo. Do đó nền kinh tế gồm nhiều thành phần, trong đó
kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo
Trong nền kinh tế thị trường ở nước ta tồn tại ba loại hình sở hữu cơ
bản: sở hữu toàn dân, sở hưũ tập thể, sở hữu tư nhân. Từ ba loại hình sở hữu
cơ bản đó hình thành nhiều thành phần kinh tế, nhiều tổ chức kinh doanh. Do
đó không chỉ ra sức phát triển các thành phần kinh tế thuộc chế độ công hữu,
mà còn phải khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế thuộc sở hữu tư
nhân để hình thành nền kinh tế thị trường rộng lớn bao gồm các đơn vị kinh tế
thuộc chế độ công hữu, các đơn vị kinh tế tư doanh, các hình thức hợp tác liên
doanh giữa trong và ngoài nước, các hình thức đan xen và thâm nhập vào
nhau giữa các thành phần kinh tế đều có thể tham gia thị trường với tư cách
chủ thể thị trường bình đẳng;
Trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta, kinh tế nhà nước giữ
vai trò chủ đạo.Việc xác định kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo là sự khác
biệt có tính chất bản chất giữa kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
với kinh tế thị trường cuả các nước khác. Tính định hướng xã hội chủ nghĩa
của nền kinh tế thị trường ở nước ta đã quy định kinh tế nhà nước phải giữ vai
trò chủ đạo trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần. Bởi lẽ, mỗi một chế độ xã
hội đều có một cơ sở kinh tế tương ứng với nó, kinh tế nhà nước, nói đúng ra
kinh tế dựa trên chế độ công hữu bao gồm kinh tế nhà nước và kinh tế hợp
tác, tạo cơ sở kinh tế cho chế độ xã hội mới – xã hội chủ nghĩa.
2.Về quan hệ phân phối
Nước ta thực hiện nhiều hình thức phân phối thu nhập: phân phối theo
kết qủa lao động và hiệu quả kinh tế, phân phối dựa trên mức đóng góp các
nguồn lực và sản xuất kinh doanh, và phân phối thông qua các quỹ phúc lợi
xã hội,trong đó phân phối theo kết quả lao động giữ vai trò nòng cốt, đi đôi
với chính sách điều tiết thu nhập một cách hợp lí. Chúng ta không coi bất bình
đẳng xã hội như là một trật tự tự nhiên, là điều kiện của sự tăng trưởng kinh tế
gắn liền với cải thiện đời sống nhân dân, tiến bộ và công bằng xã hội;
Như đã biết, mỗi chế độ xã hội có một chế độ phân phối tương ứng với
nó. Chế độ phân phối do quan hệ sản xuất thống trị, trước hết là quan hệ sở
hữu quyết định. Phân phối có liên quan đến chế độ chính trị, xã hội. Chủ
nghĩa xã hội có đặc trưng riêng về sở hữu do đó chế độ phân phối cũng có đặc
trưng riêng, phân phối theo lao động là đặc trưng riêng của chủ nghĩa xã hội.
Mà thu nhập của người lao động không phải chỉ giới han ở giá trị sức lao
động, mà nó phải vượt qua đại lượng đó, nó phụ thuộc chủ yếu vào kết quả
lao động và hiệu quả kinh tế. Việc đo lường trực tiếp lao động là một vấn đề
quá phức tạp và kho khăn, nhưng trong nền kinh tế thị trường, có thể thông
qua thị trường để đánh giá kết quả lao động, sự cống hiến thực tế và dựa vào
đó để phân phối. Kết hợp vấn đề lợi nhuận với vấn đề xã hội, kết hợp chặt chẽ
những nguyên tắc phân phối của chủ nghĩa xã hội và nguyên tắc của kinh tế
thị trường.
3. Cơ chế quản lý và vận hành nền kinh tế.
Trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa: Sự can thiệp của nhà nước vào nền
kinh tế nhằm bảo đảm môi trường kinh tế – xã hội thuận lợi cho sự thống trị
của giai cấp tư sản.
Trong nền kinh tế thị trường định hưỡng xã hội chủ nghĩa, sự quản lý
của nhà nước lại nhằm mục đích bảo vệ những quyền lợi chính đáng của tập
thể nhân dân lao động.
Cơ chế vận hành kinh tế thị trường định hưóng xã hội chủ nghĩa là cơ
chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng
sản Việt nam. Cơ chế đó đó đảm bảo tính hướng dẫn, điều khiển hướng tới
đích xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế theo phương châm: nhà nước điều tiết
vĩ mô, thị trường hướng dẫn doanh nghiệp.
Trong điều hành quản lý vĩ mô nền kinh tế. Nhà nước cần hạn chế tối đa
những mệnh lệnh hành chính để cho các hoạt động thị trường được diễn ra
chue yếu theo sự hướng dẫn của quy luật giá trị, cung-cầu, cạnh tranh; đảm
bảo nguyên tắc thị trường “tự điều chỉnh”. Mặt khác, do trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa không phải là thị trường tự điều tiết kinh
tế – xã hội của đất nước trong từng thơì kỳ, do đó còn phải chịu sự điều chỉnh,
quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Do vậy, không thể xem các quan hệ thị
trường hoạt động theo quy luật, biệp lập hoàn toàn với kế hoạch hoá định
hướng và các chính sách kinh tế của nhà nước.
Cơ chế vận hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
thể hiện rõ các mặt cơ bản : Một là, nhà nước xã hội chủ nghĩa – nhà nước của
dân, do dân và vì dân – là nhân tố đóng vai trò “nhân vật trung tâm” và điều
tiết nền kinh tế vĩ mô nhằm tạo dựng và đảm bảo môi trường pháp lý, kinh tế
xã hội thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động theo cơ chế thị trường, thực
hiện chính sách xã hội, đảm bảo công bằng xã hội; can thiệp trực tiếp vào các
hoạt động kinh tế để đạt được các mục tiêu đặt ra. Hai là, cơ chế thị trường là
nhân tố “trung gian” của nền kinh tế, Đóng vai trò “trung gian” giữa nhà
nước và doanh nghiệp.
Một vấn đề quan trọng nước ta quản lý nền kinh tế-xã hội theo nguyên
tắc kết hợp thị trường với kế hoạch, phát huy mặt tích cực, hạn chế và khắc
phục mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo về lợi ích của người lao động và
của toàn thể nhân dân.
IV. Thực trạng và giải pháp của quá hình thành và phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
1.Thực trạng của quá trình hình thành và phát triển kinh tế thị trường.
1.1.Thành tựu đạt được.
Gần 20 năm bước vào công cuộc đổi mới nền kinh tế đang được
cấu trúc lại, hình thành các hình thức sở hữu và kinh doanh đa dạng, năng
động hơn nhiều so với trước. Các đơn vị kinh doanh thuộc mọi thành phần
kinh tế là chủ thể của thị trường, có quyền độc lập tự chủ kinh doanh, tự chịu
lãi lỗ.
Kinh tế thoát khỏi khủng hoảng triền miên hàng chục năm và
bước đầu thời kì phát triển toàn diện và tăng trưởng liên tục. Tốc độ tăng
GDP bìng quân 1 năm của thời kì 1996-2000 đạt 7% so với 3,9% thời kì
1986-1990. Lạm phát giảm từ 374,6%năm 1986 xuống còn 67,4%năm 1990;
12,7% năm 1995; 0,1% năm 1999; và 0% năm 2000. Sản xuất công nghiệp
tăng trưởng liên tục với tốc độ trên 2 con số. Bình quân thời kì 1991-1995
tăng 13,7%, thời kì 1996-2000 trên 13,2%. Mức bình quân đầu người của
nhiều sản phẩm công nghiệp như điện, than, vải, thép, xi măng…,tăng nhanh
trong những năm đổi mới, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của sản xuất và đời sống
nhân dân và xuất khẩu. Riêng ngành công nghiệp khai thác dầu khí, xuất hiện
trong thời kì đổi mới với sản lượng 40 ngàn tấn dầu thô năm 1986 đã tăng lên
15 triệu tấn năm 2000 với giá trị xuất khẩu 3,3 tỉ USD. Không chỉ tăng
trưởng cao mà sản xuất công nghiệp những năm cuối thế kỉ XX đã xuất hiện
xu hướng đa ngành, đa sản phẩm và đa thành phần, trong đó công nghiệp
quốc doanh vẫn giữ vai trò chủ đạo .
Nông nghiệp phát triển toàn diện cả trồng trọt, chăn nuôi, nghề
rừngvà thuỷ sản. Thành tựu nổi bật nhất là đã giải quyết vững chắc an toàn
lương thực quốc gia, biến Việt Nam tự nước thiếu lương thực trước năm
1986 thành nước xuất khẩu thư 2 thế giới. Tính chung 12 năm qua đã xuất
30,5 triệu tấn gạo, bình quân 2,54 triệu tấn/năm nhưng giá cả lương thực
trong nước vẫn ổn định, kể cả nhũng năm thiên tai lớn như 1999, 2000. Năm
2000sản lượng cà phê xuất khẩu đã đạt 660 nghìn tấn, gấp 2,7 lần năm 1995
và đứng thứ 2 thế giới sau Bra-xin. Giá trị xuất khẩu thuỷ sản đạt 1,4 tỉUSD,
gấp 2,5 lần năm 1995. Hàng thuỷ sản Việt Nam hiện đã được công nhận
trong danh sách nhóm I của các nước xuất khẩu thuỷ sản vào thị trường EU.
Hoạt động đầu tư nước ngoài bắt đầu từ năm 1988 với 37 dự án và 371 triệu
USD, đén nay cả nước có hơn 3000 dư án với hơn 700 doanh nghiệp thuộc
62 nước và vùng lãnh thổ với tổng vốn đăngkí trên 36 tỉ USD, vốn thực hiện
17 tỉ USD. Khu vực này đã nộp ngân sách hơn 1,52 tỉ USD, tạo ra hơn 21,6 tỉ
USD hàng hoá xuất nhập khẩu và giải quyết việc làm cho 32 vạn lao động
trực tiếp và hơn 1 triệu lao động gián tiếp. Cùng với đó đời sống nhân dân
được nâng lên cả về vật chất và tinh thần. Thu nhập của dân cư tăng bình
quân 10% trong 15 năm đổi mới. Bộ mặt đất nước thay đỏi ngày càng văn
minh, hiện đại.
1.2. Những tồn tại khó khăn
Thị trường nước ta hình thành chưa đồng bộ hoàn thiện còn nhiều
bất cập. Thị trường chứng khoán còn mới phôi thai, qua hơn một năm hoạt
động với hàng hoá quá nghèo nàn, có lẽ còn lâu mới trở thành phong vũ biểu
cho nền kinh tế như ở các nước phát triển. Thị trường bất động sản, thị
trường lao động và nhiều thị trường khác chưa phát triển. Sự cạnh tranh trên
thị trường còn nhiều yếu tố bất bình đẳng. Vì vậy, sự phân phối và sử dụng
nguồn lực như đất đai, lao động, nguồn vốn còn kém hiệu quả.
Sự tăng trưởng của nền kinh tế chưa thật ổn định và vững chắc.
Sự tăng trưởng này chủ yếu theo đầu tư vốn và lao động.Chưa tạo lập được
một hệ thống thị trường đầy đủ theo yêu cầu của cơ chế thị trường, thị trường
hàng hoá và dịch vụ tuy có hoạt động sôi nổi nhưng chỉ tập trung ở thành
phố, đô thị lớn và một số tỉnh biên giới, về cơ bản là tự phát, lộn xộn rất
không bình thường, thị trương nông thôn không được quan trọng. măt khác
nó cũng chưa với tới bàn tay vô hình tới những vùng miền núi, trung du – nơi
có tiềm năng lớn về tài nguyên khoáng sản. Trong khu vực kinh tế nhà nước,
thị trường lao động chỉ tồn tại ở trình độ thấp, còn có 1/3 trong số hơn 6000
doanh nghiệp nhà nước làm ăn chưa có lãi hoặc thua lỗ.Tình trạng kinh
doanh phi pháp rất nghiêm trọng. Nạn tham nhũng, buôn lậu, làm hàng giả
ngày càng gia tăng phá hoại sản xuất nội địa gây thiệt hại cho lợi ích người
tiêu dùng và gây thất thu cho ngân sách nhà nước. Trình độ lực lượng sản
xuất ngày càng thấp kém có nguy cơ tụt hậu so với nhiều nước. Mặt khác kết
cấu hạ tầng trong kinh tế còn quá kém, việc phát triển nguồn lực con người
nhăm tạo ra lực lượng lao động có kĩ thuật, năng suất-cơ sở quan trọng nhất
cho sự cất cánh của nền kinh tế còn quá hạn hẹp. Sự phân hoá giàu nghèo
trong xã hội đang diễn ra khá nhanh và có xu hướng ngày càng gia tăng.
2.Giải pháp khắc phục khó khăn phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa
2.1.Mở rộng phân công và phân công lao động xã hội
Phân công lao động là cơ sở của việc trao đổi sản phẩm. Để đẩy mạnh
phát triển kinh tế hàng hoá,cần phải mở rộng phân công lao động xã hội, phân
bố lại lao động và dân cư trong phạm cả nước cũng như từng địa phương,
từng vùng theo hướng chuyên môn hoá, hợp tác hoá nhằm khai thác mọi
quyền lực, phát triển nhiều ngành nghề, sử dụng có hiệu quả, cơ sở vật chất-
kỹ thuật hiện có và tạo việc làm cho người lao động. Cùng với mở rộng phân
công lao động xã hội trong nước, phải tiếp tục mở rộng quan hệ kinh tế với
nước ngoài nhằm gắn phân công lao động trong nước với phân công lao động
quốc tế, gắn thị trường trong nước với thị trường thế giới.
Quan hệ sở hữu phải được xem xét và xây dựng trong mối tương quan
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và trinhf độ xã hội hoá của nền
kinh tế. Cần xây dựng các loại hình sở hữu, quy mô và cấp độ phù hợp với
đặc điểm của từng lĩnh vực sản xuất kinh doanh. Đây là một vấn đề phức tạp,
cần nắm vững nội dung bản chất, hình thức biểu hiện và điều kiện hình thành
của các quan hệ sở hữu.
Cần nhận thức, xem xét đầy đủ cả về nội dung và cấu trúc quan hệ sở
hữu. Xem xét mối quan hệ biện chứng giưuã quan hệ sở hữu với chiếm hữu,
quyền định đoạt và quyền sử dụng kinh doanh.
Phải xây dựng quan hệ sản xuất, phải tién hành từ thấp đến cao, đa
dạng hoá hình thức sở hữu và bước đi thích hợp làm cho quan hệ sản xuất phù
hợp với lực lượng sản xuất. Khắc phục những nhận thức không đúng về vai
trò của sở hữu nhà nước cũng như vai trò của thành phần kinh tế nhà nước.
Kinh tế nhà nước phải củng cố và phát triển kinh tế nhà nước và kinh
tế hợp tác để trở thành nền tảng của nền kinh tế có khả năng, có hướng dẫn
các thành phần kinh tế khai thác phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
2.2.Giải quyết vấn đề sở hữu
Thực chất của quan hệ sở hữu là qg lợi ích, mà lợi ích đó lại được thể
hiện ở quyền sở hữu, quyền sử dụng, quỳen làm chủ quá trình sản xuất và sản
phẩm làm ra. Bảo đảm lợi ích không chỉ phản ánh ở nguyên tắc phan phối mà
còn ở những hình thức phân phối ehể hiện trong quan hệ sở hữu và phải được
thể chế hoá.
Quan hệ sở hữu phải được xem xét và xây dựng trong mối tương quan
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và trình độ xã hội hó của nền
kinh tế. Cần xây dựng các loại hình sở hữu, quy mô và cấp độ phù hợp với
đặc điểm của từng lĩnh vực sản xuất kinh doanh. Đây là một vấn đề phức tạp,
cần nắm vững nội dung bản chất, hình thức biểu hiện và điều kiện hình thành
các quan hệ sở hữu.
Cần nhận thức, xem xét đầy đủ cả về nội dung cấu trúc quan hệ sở hữu.
Xem xét mối quan hệ biện chứng giữa quan hệ sở hữu với quan hệ phân phối
và quan hệ quản lý giữa quyền sở hữu với quyền chiếm hữu, quyền định đoạt
và quyền sử dụng kinh doanh.
Phải xây dựng quan hệ sản xuất tiến hành từ thấp đến cao, đa dạng hoá
hình thức sở hữu và bước đi thích hợp làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với
lực lượng sản xuất. Khắc phục những nhận thức không đúng về vai trò của sở
hữu nhà nước cũng như vai trò của thành phần kinh tế nhà nước.
2.3.Xây dưng cơ sở hạ tầng
Hệ thống kết cấu hạ tầng cơ sở và dịch vụ hiện đại, đồng bộ cũng đóng
vai trò quan trọng cho sự phát triển kinh tế hàng hoá. Hệ thống đó ở nước ta
đã quá lạc hậu, không đòng bộ, cân đối nghiêm trọng nên đã cản trở nhiều đến
quyết tâm của các nhà đầu tư cả ở trong nước lẫn nước ngoài; cản trở phát
triển kinh tế hàng hoá ở mọi miền đất nước.
Vì thế, cần gấp rút xây dựng và củng cố các yếu tố của hệ thống kết cấu
đó. Trước mắt, nhà nước cần tập trung ưu tiên xây dựng, nâng cấp một số yếu
tố thiết yếu nhất như đường sá, cầu cống, bến cảng, sân bay, điện nước, hệ
thống thông tin liên lạc, ngân hàng, dịch vụ, bảo hiểm.K
2.4.Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ
Trong kinh tế hàng hoá, các doanh nghiệp chỉ có thể đứng vững trong
cạnh tranh nếu thường xuyên đổi mới công nghệ để hạ chi phí, nâng cao chất
lượng sản phẩm. Muốn vậy, phải đẩy mạnh công cuộc cách mạng khoa học-
công nghệ vào quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá. So với thế giới, trình
độ công nghệ của ta còn thấp kém không đồng bộ, do đó khả năng cạnh tranh
của hàng hoá nước ta so với hhy nước ngoài trên cả thị trường nội địa và thế
giới còn kém.
Đại hội IX tiếp tục khẳng định khoa học và công nghệ cùng với giáo
dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Những nhiệm vụ cụ thể đối với các lĩnh
vực khoa học trong những năm tới là:
Đối với khoa học xã hội và nhân văn: hướng vào việc giải đáp các vấn
đề lý luận và thực tiễn, dự báo các xu thế phát triển, cung cấp luận cứ khoa
học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách phát triển kinh tế-
xã hội, xây dựng con người, phát huy những di sản văn hoá dân tộc, sáng tạo
những giá trị văn hoá mới của Việt Nam.
Đối với khoa học tự nhiên: hướng vào việc giải quyết các vấn đề thực
tiễn, xây dựng cơ sở khoa học của sự phát triển các lĩnh vực công nghệ trọng
điểm và khai thác các nguồn tài nguyênthiên nhiên, bảo vệ môi trường, dự
báo, phòng chống thiên tai.
Khoa học-công nghệ hướng vào việc nâng cao năng suất lao động, đổi
mới sản phẩm, nâng cáo năng lực cạnh tranh của Hàng hoá trên Thị trường,
xây dựng năng lực công nghệ quốc gia, ứng dụng một cách sáng tạo những
công nghệ nhập khẩu, từng bước tạo ra công công nghệ mới. Đi nhanh vào
một số ngành, lĩnh vực sử dụng công nghệ hiện đại, công nghệ cao.
Xuất phát từ những nhiệm vụ đó, giải pháp đặt ra đối với khoa học và
công nghệ là:
-Tạo thị trường cho khoa học và công nghệ, đổi mới cơ chế tài chính
nhằm khuyến khích sáng tạo và gắn ứng dựng khoa học và công nghệ với sản
xuất kinh doanh, quản lý, dịch vụ.
-Tăng đầu tư ngân sách và có chính sách và có chính sách khuyến
khích, huy động các nguồn lực khác để đi nhanh vào một số ngành, lĩnh vực
sử dụng công nghệ hiện đại, công nghệ cao.
Coi trọng nghiêm cứu cơ bản trong các ngành khoa học. Sắp xếp và đổi
mới hệ thống nghiên cứu khoa học, phối hợp chặt chẽ việc nghiên cứu khoa
học tự nhiên, khoa học-công nghệ với khoa học xã hội và nhân văn.Đẩy mạnh
hợp tác quốc tế trong nghiên cứu khoa học và công nghệ. Thực hiện tốt chính
sách bảo hộ sở hữu trí tuệ, đãi ngộ đặc biệt đối với các nhà khoa học có công
trình nghiên cứu xuất sắc.
2.5.Mở rộng, nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại
Đại hội IX tiếp tục khẳng định thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại
độc lập, tự chủ, rộng mở, đa phương hoá, đa rậng hoá các quan hệ quốc tế.
Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng
quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển.
Việt Nam sẵn sàng là đối tác tin cậy, điều đó thể hiện rõ hơn chủ
trương của Đảng ta “chủ động hội nhập quốc tế và khu vực, chủ yếu và
trước hết về nền kinh tế”.Trong quan hệ hợp tác kinh tế, chúng ta muốn hợp
tác lâu dài, có hiệu quả, tin cậy lẫn nhau với các nước trên cơ sở các nguyên
tắc xác định; phát triển quan hệ hợp tác hữu nghị với các nước, trong đó hợp
tác lâu dài, tin cậy lẫn nhau, đối tác tin cậy của nhau là cơ sở để củng cố và
phát triển quan hệ hữu nghị vì mục tiêu và lưọi ích chung, vì độc lập, hoà bình
và phát triển.
Nhiệm vụ đối ngoại trong thời gian tới: Tiếp tục giữ vững môi trường
hoà bình và tạo các điều kiện quốc tế thuận lợi để đẩy mạnh phát triển kinh tế-
xã hội, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
bảo đảm độc lập và chủ quyền quốc gia, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc
đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc và dân
chủ. Giải pháp của vấn đề mở rộng quan hệ đối ngoại là:
-Mở rộng quan hệ nhiều mặt, song phương và đa phương với các nước
và vùng lãnh thổ, các trung tâm chính trị, kinh tế quốc tế lớn, các tổ chức
quốc tế và khu vực theo nguyên tắc: Tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn
lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, không dùng vũ lực
hoặc đe doạ dùng vũ lực; bình đẳng và cùng có lợi; giải quyết các bất đồng
tranh chấp bằng thương lượng hoà bình; Làm thất bại mọi âm mưu và hành
động gây sức ép, áp đặt và cường quyền.
-Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy
tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và
định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn
bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường. Nói chủ động hội nhập nghĩa là
độc lập tự chủ, tự quyết định công việc.
-Coi trọng và phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước xã hội
chủ nghĩa và các nước láng giềng, các nước ASEAN.
-Tiếp tục củng cố và mở rộng quan hệ với các nước bạn bè truyền
thông, các nước độc lập dân tộc, các nước trong phong trào Không liên kết.
-Thúc đẩy quan hệ đa dạng với các nước phát triển và tổ chức quốc tế.
-Tích cực tham gia giải quyết các vấn đề toàn cầu.
-Củng cố và tăng cường quan hệ đoàn kết và hợp tác với đảng cộng sản
và công nhân, với các đảng cánh tả, các phong trao giải phóng và độc lập dân
tộc, với các phong trào cách mạngvà tiến bộ trên thế giới.
-Tiếp tục mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền.
-Mở rộng hơn nữa công tác đối ngoại nhân dân, nâng cao hiệu quả hợp
tác với các tổ chức phi chính phủ quốc gia và quốc tế.
-Tăng cường và nâng cao hiệu quả của công tác thông tin đối ngoại và
văn hoá đối ngoại.
-Bồi dưỡng, rèn luyện bản lĩnh chính trị, năng lực, đạo đức, phẩm chất
của đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại.
-Hoàn thiện cơ chế quản lý thống nhất các hoạt động đối ngoại, tạo
thành sức mạnh tổng hợp, nâng cao hiệu quả của công tác đối ngoại.
2.6.Hình thành, tạo lập phát triển đồng bộ các loại Thị trường