VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ VÂN ANH
PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ VIÊN CHỨC KHOA HỌC TẠI
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI
TRONG BỐI CẢNH HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ KINH TẾ
HÀ NỘI 2018
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ VÂN ANH
PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ VIÊN CHỨC KHOA HỌC TẠI
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI
TRONG BỐI CẢNH HIỆN NAY
Ngành: Quản lý kinh tế
Mã số: 8340410
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRẦN THỊ MINH NGỌC
HÀ NỘI 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
ghi trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa
từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Nguyễn Thị Vân Anh
DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT
STT
Ký hiệu
Nguyên nghĩa
1
KHXH
Khoa học xã hội
2
NNL
Nguồn nhân lực
3
KH&CN
Khoa học và công nghệ
4
VASS
Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam
5
KH
Khoa học
6
NCKC
Nghiên cứu khoa học
7
VTVL
Vị trí việc làm
8
KT-XH
Kinh tế – xã hội
9
CNH – HĐH
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
10
KHCN
Khoa học công nghệ
11
NNLKH
Nguồn nhân lực khoa học
12
CNXH
Chủ nghĩa xã hội
13
BHCN
Bảo hiểm con người
14
BHXH
Bảo hiểm xã hội
15
BHYT
Bảo hiểm y tế
16
BHTN
Bảo hiểm thất nghiệp
17
KPCĐ
Kinh phí công đoàn
18
KHXH&NV
Khoa học Xã hội & Nhân văn
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ……………………………………………………………………………………… 1
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN ĐỘI
NGŨ VIÊN CHỨC KHOA HỌC …………………………………………………….. 7
1.1. Một số khái niệm …………………………………………………………………….. 7
1.2. Nội dung phát triển đội ngũ viên chức khoa học ……………………………… 14
1.3. Hình thức, biện pháp phát triển đội ngũ viên chức khoa học
……………….. 19
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển đội ngũ viên chức khoa học…………. 26
1.5. Kinh nghiệm phát triển đội ngũ viên chức khoa học
…………………………. 30
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ VIÊN CHỨC
KHOA HỌC TẠI VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM 35
2.1. Khái quát chung về Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam………………………… 35
2.2. Thực trạng phát triển đội ngũ viên chức khoa học Viện Hàn lâm khoa học xã
hội Việt Nam……………………………………………………………………………… 41
2.3. Đánh giá thực trạng phát triển đội ngũ viên chức khoa học của Viện Hàn lâm
KHXH Việt Nam ………………………………………………………………………… 59
CHƯƠNG 3.ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ
VIÊN CHỨC KHOA HỌC TẠI VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI
VIỆT NAM…………………………………………………………………………………. 64
3.1. Quan điểm, mục tiêu và phương hướng phát triển nguồn nhân lực của VASS
……………………………………………………………………………………………… 64
3.2. Một số giải pháp phát triển đội ngũ viên chức khoa học của VASS
………….. 67
3.3. Mối quan hệ giữa các giải pháp ……………………………………………………… 76
3.4. Một số khuyến nghị đối với nhà nước ………………………………………….. 76
KẾT LUẬN ………………………………………………………………………………… 78
TÀI LIỆU THAM KHẢO …………………………………………………………….. 79
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong các nguồn lực để phát triển kinh tế – xã hội của một quốc gia, dân tộc,
nguồn lực con người là yếu tố quan trọng nhất, là yếu tố cơ bản quyết định các
nguồn lực khác. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế sâu rộng như hiện
nay, phát triển nguồn nhân lực khoa học nhận được sự quan tâm đặc biệt của các
nhà hoạch định chính sách cũng như chính phủ các nước.
Thực tiễn ở Việt Nam cho thấy, việc hoàn thiện cơ chế, chính sách, đổi mới
công tác nhân sự, trong đó tăng cường quản lý và phát triển nguồn nhân lực khoa
học ở các Bộ, ngành Trung ương và địa phương là một trong những nhiệm vụ được
đề ra trong nhiều Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc như Đại hội lần thứ IX của
Đảng đã định hướng cho phát triển nguồn nhân lực Việt Nam là: “Người lao động
có trí tuệ cao, có tay nghề thành thạo, có phẩm chất tốt đẹp, được đào tạo vào bồi
dưỡng và phát triển bởi một nền giáo dục tiên tiến gắn liền với nền khoa học, công
nghệ hiện đại” [12, tr.88]. Đại hội XI của Đảng cũng khẳng định: “Phát triển khoa
học và công nghệ thực sự là động lực then chốt của quá trình phát triển nhanh và
bền vững. Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đặc biệt coi trọng
phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý giỏi, đội ngũ chuyên gia, quản trị doanh
nghiệp giỏi, lao động lành nghề và cán bộ khoa học và công nghệ đầu đàn. Đào tạo
nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế tri thức. Xây dựng đồng bộ chính sách đào
tạo, thu hút, trọng dụng, đãi ngỗ nhân tài. Thực hành dân chủ, tôn trọng và phát
huy tự do tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo của tri thức vì sự phát
triển của đất nước” [13].
Tuy nhiên, so với mục tiêu và nhiệm vụ đề ra, khoa học và công nghệ
(KH&CN) nước ta chưa phát triển tương xứng với tiềm năng, chưa thực sự trở
thành động lực phát triển kinh tế – xã hội, giúp nâng cao năng suất, chất lượng tăng
trưởng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế và vẫn còn tụt hậu so với khu
vực và thế giới. Đội ngũ nhân lực KH&CN và mạng lưới tổ chức KH&CN tuy gia
tăng về số lượng nhưng chất lượng còn thấp, thiếu các chuyên gia đầu ngành và
nhân lực trình độ cao trong nhiều lĩnh vực KH&CN, thiếu những nhóm nghiên cứu
mạnh và thiếu những tổ chức KH&CN mạnh có đủ khả năng giải quyết những vấn
đề KH&CN lớn của quốc gia và hội nhập quốc tế.
2
Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam (VASS) là nơi tập trung các
nhà khoa học xã hội đầu ngành, với trên 2000 người, trong đó hơn 1300 cán bộ có
học hàm giáo sư, phó giáo sư, học vị tiến sĩ khoa học, tiến sĩ, thạc sĩ thuộc các lĩnh
vực khoa học xã hội, làm việc trong 05 đơn vị giúp việc Chủ tịch Viện, 34 đơn
vị nghiên cứu khoa học, 5 đơn vị sự nghiệp khác.
Để thực hiện yêu cầu, nhiệm vụ trên, một trong số mục tiêu chiến lược mà
VASS phải thực hiện là xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ khoa học của Viện cả
về số lượng và chất lượng, xây dựng đội ngũ chuyên gia có trình độ cao, các nhà
khoa học kế cận có triển vọng, có khả năng giải quyết các nhiệm vụ khoa học quan
trọng, tham gia có hiệu quả vào hợp tác và hội nhập quốc tế. Tuy vậy, công tác này
trong những năm qua bên cạnh những thuận lợi và thành tựu đạt được cũng còn
những khó khăn, hạn chế, bất cập nhất định cần phải nghiên cứu làm rõ để xây dựng
chiến lược, kế hoạch, giải pháp phù hợp.
Xuất phát từ mục tiêu trên, cùng với những kiến thức lý luận được đào tạo và
kinh nghiệm thưc tế trong quá trình học tập, nghiên cứu và công tác, tôi chọn vấn đề:
“Phát triển đội ngũ viên chức khoa học tại Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt
Nam trong bối cảnh hiện nay” để làm đề tài nghiên cứu cho luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề nguồn nhân lực (NNL) và phát triển NNL nói chung đã được rất nhiều
nhà khoa học quốc tế quan tâm nghiên cứu trong nhiều công trình khác nhau. Trước
hết, là các công trình của một số nhà khoa học thế giới đã có những đóng góp quan
trọng về mặt lý luận và phương pháp luận về NNL và vốn nhân lực như: Milton
Freidman, Simon Kuznet và Gary Becker, một số nhà khoa học như L. Nadler và Z.
Nadler (1990), M. Marquardt và D. Engel (1993), D. Beg, S. Fisher và R. Donbush
(1997), Stivastava (1997),…
Ở Việt Nam cũng có nhiều công trình nghiên cứu về NNL và phát triển NNL,
đặc biệt là NNL khoa học và công nghệ. Các tác giả nhấn mạnh và đề cao vai trò của
đội ngũ nhân lực KH&CN trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH, tiếp cận và phát
triển nền kinh tế tri thức ở Việt Nam.
Nhiều tác giả cũng đã khẳng định đội ngũ nhân lực KH&CN cùng với đội ngũ
nhân lực lãnh đạo, quản lý và đội ngũ doanh nhân là ba lực lượng trụ cột, tiên phong
của NNL Việt Nam. Bởi vậy, muốn phát triển NNL Việt Nam thì trước hết phải chú
3
trọng phát triển đội ngũ nhân lực tiên phong, có vai trò dẫn đường, khâu đột phá – đó
chính là NNL chất lượng cao mà trong đó bao gồm cả đội ngũ nhân lực KH&CN.
Cuốn sách “Thực trạng NNL, nhân tài của đất nước hiện nay. Những vấn
đề đặt ra – giải pháp” (2010) do GS.TS. Nguyễn Ngọc Phú chủ biên là cuốn sách
tập hợp rất nhiều nghiên cứu của các tác giả khác nhau về NNL chất lượng cao.
Các tác giả đã khẳng định: NNL là nhân tố quyết định việc sử dụng các nguồn
lực khác như nguồn tài nguyên thiên nhiên, nguồn vốn, thành tựu khoa học công
nghệ; đồng thời nêu những đặc trưng cơ bản của NNL chất lượng cao trong quá
trình CNH, HĐH và hội nhập quốc tế [1].
Tác giả Tô Huy Rứa với bài viết “Một số vấn đề về phát triển nguồn nhân
lực chất lượng cao ở nước ta hiện nay” (2014) đã cho thấy vai trò của NNL chất
lượng cao như là một yếu tố quyết định sự thành công trong cạnh tranh, hội nhập
và phát triển. Bằng cách dẫn chứng sự phát triển thần kỳ của các quốc gia như
Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapo và Malaixia, tác giả khẳng định: nguồn lực con
người, vốn con người là hết sức quan trọng trong chiến lược và chính sách phát
triển của mọi quốc gia” và NNL chất lượng cao là những người lao động có kỹ
năng, các nhà kinh doanh năng động và tài ba, các nhà quản lý giỏi, các nhà khoa
học và công nghệ xuất sắc, các nhà lãnh đạo có tầm nhìn chiến lược và tư duy
đổi mới vượt trội… Trong bài viết này tác giả Tô Huy Rứa cũng nêu ra một số
luận điểm mới về phát triển NNL chất lượng cao và xây dựng đội ngũ cán bộ cấp
chiến lược trong điều kiện mới. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất một số định hướng
giải pháp thực hiện như phải phát huy vai trò của cả hệ thống chính trị trong xây
dựng và phát triển con người Việt Nam; đột phá về NNL chất lượng cao phải đi
cùng với hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN và xây dựng hệ
thống kết cấu hạ tầng đồng bộ; phát triển NNL chất lượng cao phải phù hợp với
từng điều kiện cụ thể của bộ, ngành, địa phương, gắn chặt với yêu cầu hợp tác và
hội nhập quốc tế [2].
Một số bài viết của các tác giả Đỗ Thị Bích Loan, Nguyễn Thế Thắng,
Đặng Ngọc Dinh trong kỷ yếu Hội thảo khoa học (2013): “Phát triển nguồn nhân
lực khoa học và công nghệ phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện
dân số vàng ở Việt Nam” [3]. Các nghiên cứu về vấn đề này cũng chỉ ra hạn chế lớn
nhất của đội ngũ nhân lực khoa học và công nghệ nước ta chính là kỹ năng của đội
ngũ không đáp ứng được yêu cầu hội nhập, dù tiềm năng của đội ngũ thì lại được
4
đánh giá cao. Mâu thuẫn nội tại này đòi hỏi hoạt động đào tạo và sử dụng nguồn nhân
lực KH&CN cần có sự chuyển mình, bộc lộ, hiện thực hóa tiềm năng để có thể đạt
được trạng thái cân bằng và khẳng định, phát huy tốt năng lực trong thực tiễn, góp
phần quan trọng vào sự nghiệp hội nhập quốc tế của đất nước nhanh thành công. Các
tác giả cũng đã tập trung bàn tới các chính sách đào tạo cũng như hoạt động đào tạo
đội ngũ nhân lực khoa học và công nghệ ở Việt Nam, thông qua đó đưa ra những
nhận xét khái quát về hoạt động đào tạo như: Quy mô, tốc độ đào tạo tăng nhanh;
chất lượng đào tạo còn tồn tại nhiều hạn chế về nội dung; chương trình đào tạo chưa
theo sát yêu cầu thực tiễn, chưa bắt nhịp được với chuẩn mực, yêu cầu của đào tạo
nhân lực KH&CN nên chất lượng và hiệu quả đào tạo đội ngũ này còn thấp.
Ngoài ra còn một số nghiên cứu khác của Đặng Bá Lâm, Trần Khánh Đức (2002),
“Phát triển nhân lực công nghệ ưu tiên ở nước ta trong thời kỳ công nghiệp hóa –
hiện đại hóa”, Nxb Giáo dục, Hà Nội; Phạm Minh Hạc (2007), “Phát triển văn hóa
con người và nguồn nhân lực thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước”, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Lê Thị Hồng Điệp (2012), “Phát triển nguồn nhân lực
chất lượng cao đáp ứng yêu cầu xây dựng nền kinh tế tri thức ở Việt Nam”, NXB
Đại học Quốc gia, Hà Nội; Đặng Hữu (2009), “Phát triển nền kinh tế tri thức gắn
với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam”, Nxb Khoa học xã hội;
Nguyễn Giao Long (2006), “Đổi mới quản lý nhân lực Khoa học và Công nghệ”,
Nxb Khoa học xã hội; Phạm Tiến Huy (2004), “Tổ chức khoa học và công nghệ”,
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội; Nguyễn Thị Anh Thu (2004), “Phát triển nguồn nhân
lực khoa học và công nghệ”, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội; Trần Xuân Định (2000),
“Đổi mới chính sách sử dụng nhân lực khoa học và công nghệ trong cơ quan nghiên
cứu – phát triển”, Nxb Khoa học xã hội; Phạm Minh Nghĩa (2013), ‘‘Kinh nghiệm
của Nhật Bản và Singgapore trong phát triển nguồn nhân lực”,Tạp chí kinh tế và dự
báo số 24 trang 94-96… cùng với nhiều tài liệu đề cập đến kinh nghiệm phát triển
nhân lực KHCN của các quốc gia trên thế giới, xem xét các chính sách cụ thể nhằm
nâng cao chất lượng và đãi ngộ nhân lực khoa học và công nghệ. Những tài liệu này
cũng được đưa vào tham khảo trong quá trình nghiên cứu của đề tài.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
– Mục đích: Đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ viên chức
khoa học, phù hợp với chiến lược phát triển của Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay.
5
– Nhiệm vụ: Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về nâng cao chất lượng đội
ngũ viên chức khoa học, nghiên cứu những kinh nghiệm của một số đơn vị trong và
ngoài nước để nâng cao chất lượng đội ngũ viên chức khoa học từ đó phân tích thực
trạng phát triển đội ngũ viên chức khoa học tại Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam; đánh
giá làm rõ những thuận lợi và khó khăn thành tựu và hạn chế; xác định những nguyên
nhân của những thành công và hạn chế; Dự báo xu hướng phát triển, đề xuất phương
hướng, mục tiêu và giải pháp cụ thể để phát triển đội ngũ viên chức khoa học của Viện.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Đội ngũ viên chức khoa học VASS.
Phạm vi nghiên cứu:
Về nội dung nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu nội dung phát triển đội ngũ
viên chức khoa học của VASS toàn diện về quy mô, chất lượng, cơ cấu và các
hình thức, biện pháp để phát triển đội ngũ viên chức khoa học (quy hoạch, tuyển
chọn; đào tạo, bố trí sử dụng và tạo động lực thúc đẩy).
Về thời gian: Luận văn phân tích, đánh giá thực trạng phát triển đội ngũ viên
chức khoa học ở VASS giai đoạn 2015-2017.
Về không gian: Nghiên cứu ở VASS
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận:
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu lý thuyết và nghiên cứu thực tế
với cách tiếp cận liên ngành, đa ngành về khoa học xã hội với hoạch định phát triển
đội ngũ viên chức.
Luận văn tham khảo một số đề tài khoa học đã công bố, một số luận văn, luận
án của các tác giả có liên quan đến đề tài luận văn của các tác giả để so sánh, đối chiếu.
Phương pháp nghiên cứu:
Tác giả sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:
– Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng ở cả 3 chương của luận văn
nhằm hệ thống hóa cơ sở lý luận, khái quát, đánh giá thực trạng và đề xuất phương
hướng, giải pháp phát triển đội ngũ viên chức khoa học của VASS.
– Phương pháp thống kê, so sánh được sử dụng ở chương 2 nhằm đánh giá quá
trình phát triển đội ngũ viên chức khoa học của VASS.
6
– Phương pháp logic được sử dụng trong việc xác định định hướng, giải pháp
phát triển đội ngũ viên chức khoa học của VASS. Sự phát triển đội ngũ viên chức khoa
học của VASS phải được đặt trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực.
– Phương pháp nghiên cứu tài liệu thứ cấp: Trên cơ sở các tài liệu lưu trữ, các
văn kiện, nghị quyết của Đảng, nghị định, thông tư của Nhà nước, Bộ ngành ở
Trung ương, tạp chí, báo cáo khoa học, số liệu thống kê,… học viên nghiên cứu,
phân tích và tổng hợp các tài liệu để làm cơ sở nghiên cứu.
– Phương pháp xử lý thông tin: Thông tin được thu thập sẽ tổng hợp, xử lý và
phân tích thống kê đơn giản, nhằm cung cấp các luận cứ trong những tích của luận
văn. Việc xử lý thông tin thống kê sẽ phải kết hợp với các thao tác duy nhằm đưa ra
những kết luận định tính về mức độ, xu hướng, tính chất, mối quan hệ của các biến
đổi nói lên bản chất của vấn đề cần nghiên cứu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về mặt lí luận góp phần khái quát và phát triển những nội dung lý thuyết về
phát triển NNL nói chung cũng như đội ngũ viên chức khoa học nói riêng.
Về mặt thực tiễn, luận văn nghiên cứu, tìm hiểu và tổng hợp các kinh nghiệm
thực tiễn có giá trị của một số viện trong và ngoài nước về phát triển đội ngũ viên
chức khoa học. Qua khảo sát và phân tích, đánh giá thực trạng, luận văn đã chỉ ra
những ưu, khuyết điểm và nguyên nhân then chốt của vấn đề phát triển đội ngũ viên
chức khoa học của VASS. Từ đó đề xuất những giải pháp phát triển đội ngũ viên
chức khoa học của VASS trong thời gian tới.
Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể là tài liệu tham khảo cho các nhà quản
lý, các nhà hoạch định chính sách về phát triển đội ngũ viên chức khoa học phù hợp
với điều kiện thực tế của VASS.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn dự kiến có 3 chương với nội dung
chính như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển đội ngũ viên chức khoa học
Chương 2: Thực trạng phát triển đội ngũ viên chức khoa học tại Viện Hàn lâm
Khoa học xã hội Việt Nam
Chương 3: Định hướng và giải pháp phát triển đội ngũ viên chức khoa học tại Viện
Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam
7
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ
VIÊN CHỨC KHOA HỌC
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Nguồn nhân lực
Khái niệm “Nguồn lực con người” hay “nguồn nhân lực”, được hình thành
trong quá trình nghiên cứu, xem xét con người với tư cách là một nguồn lực, là động
lực của sự phát triển. Các công trình nghiên cứu trên thế giới và trong nước gần đây
đề cập đến khái niệm NNL với các góc độ khác nhau và từ đó sẽ hình thành các
phương thức khác nhau trong việc phát triển NNL cho quốc gia hay cho một tổ chức.
Theo thuyết về vốn con người (Human Capital), con người được coi là yếu tố
quan trọng nhất của quá trình sản xuất, là phương tiện để phát triển kinh tế – xã hội.
NNL quyết định việc sử dụng các nguồn lực khác (như vốn, công nghệ, tài nguyên
thiên nhiên, đất đai…), vì vậy cần phải được đầu tư để phát triển. Trên thực tế, đầu
tư cho con người có tỷ lệ thu hồi vốn cao và mang lại nguồn lợi lớn hơn so với đầu
tư vật chất.
Theo cách tiếp cận của Liên hiệp quốc (UN) thì: NNL là tất cả những kiến
thức, kỹ năng, kinh nghiệm, năng lực và tính sáng tạo của con người có quan hệ tới
sự phát triển của mỗi cá nhân và của đất nước [8]. Cách tiếp cận về NNL theo
hướng này thiên về chất lượng NNL, xem xét vai trò, sức mạnh của NNL đối với sự
phát triển xã hội.
Theo Ngân hàng thế giới (WB): NNL là toàn bộ vốn con người bao gồm thể
lực, trí lực, kỹ năng nghề nghiệp… mà mỗi cá nhân sở hữu. Đầu tư cho con người là
đầu tư quan trọng nhất trong các loại đầu tư và được coi là cơ sở vững chắc cho sự
phát triển bền vững.
Phạm Thành Nghị và Vũ Hoàng Ngân (2005) xác định nguồn nhân lực là
tổng thể các tiềm năng lao động của một tổ chức, một địa phương, một quốc gia
trong thể thống nhất hữu cơ năng lực xã hội (thể lực, trí lực, nhân cách) và tính năng
động xã hội của con người, nhóm người, tổ chức, địa phương, vùng, quốc gia. Tính
thống nhất đó được thể hiện ở quá trình biến nguồn lực con người thành vốn con
người đáp ứng yêu cầu phát triển [11].
8
Phạm Minh Hạc (2007) quan niệm nguồn nhân lực là tổng thể tiềm năng lao
động của một đất nước, một cộng đồng, bao gồm cả dân số trong độ tuổi lao động
và ngoài độ tuổi lao động. Vì thế nguồn nhân lực cần được quản lý, chăm sóc và
phát triển từ khi là thai nhi, tuổi ấu thơ, tuổi vị thành niên, đến tuổi lao động và cả
thời kỳ sau tuổi lao động [5].
Theo Tổng Cục Thống kê Việt Nam: NNL gồm những người đủ 15 tuổi trở
lên có việc làm và những người trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động nhưng
chưa có việc làm (do thất nghiệp, làm nội trợ); và nguồn lao động dự trữ (những
người đang được đào tạo tại các trường đại học, cao đẳng, trung cấp và dạy nghề…).
Từ những quan điểm nêu trên và gắn với góc độ nghiên cứu của luận văn có
thể hiểu: Nguồn nhân lực là toàn bộ lực lượng lao động của xã hội với thể lực, trí
lực, kỹ năng nghề nghiệp… đang và sẽ tham gia vào quá trình lao động, tạo ra mọi
của cải vật chất, thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
Nguồn nhân lực được đặc trưng bởi ba yếu tố cơ bản: số lượng, chất lượng
và cơ cấu NNL. Về mặt số lượng, đó là toàn bộ những người lao động đang có khả
năng và là những người sẽ tham gia vào các quá trình phát triển kinh tế – xã hội. Về chất
lượng: NNL được thể hiện ở năng lực thể chất, tinh thần, trình độ tri thức, năng lực thực
tế, kỹ năng nghề nghiệp. Cơ cấu nhân lực gồm các cơ cấu chủ yếu: cơ cấu ngành nghề
được đào tạo, cơ cấu chất lượng nhân lực, cơ cấu giới tính, cơ cấu độ tuổi…
Nhân lực khoa học công nghệ
Nhân lực KH&CN là một bộ phận nhân lực quan trọng trong tổng thể NNL
của xã hội. Đây là NNL chất lượng cao đóng vai trò quyết định đến sứ mạng phát
triển KH&CN của một quốc gia, từ đó tạo ra sự phát triển bền vững của nền kinh tế.
Trên thế giới có một số quan niệm khác nhau về nhân lực KH&CN:
Theo nghĩa rộng, nhân lực KH&CN bao gồm những người đáp ứng được
một trong những điều kiện sau đây: (i) đã tốt nghiệp đại học và cao đẳng và làm
việc trong một ngành KH&CN; (ii) đã tốt nghiệp đại học và cao đẳng, nhưng không
làm việc trong một ngành KH&CN nào; (iii) chưa tốt nghiệp đại học và cao đẳng,
nhưng làm một công việc trong một lĩnh vực KH&CN đòi hỏi trình độ tương
đương. Tuy nhiên, có thể thấy rằng khái niệm này dường như quá rộng để thể hiện
NNL hoạt động khoa học và công nghệ của một quốc gia, và do đó, rất khó cho việc
thống kê, phân tích nhân lực KH&CN. Để khắc phục khó khăn này, hầu hết các
9
nước thường sử dụng khái niệm nhân lực nghiên cứu phát triển – R&D (research
and development), để thể hiện nhân lực KH&CN của mình [9].
Ở Việt Nam, khái niệm về nhân lực KH&CN được vận dụng dựa trên Luật
Khoa học và Công nghệ năm 2013, gồm các đối tượng “Đã tốt nghiệp đại học, cao
đẳng và làm việc trong một ngành khoa học và công nghệ; đã tốt nghiệp đại học,
cao đẳng, nhưng không làm việc trong một ngành khoa học và công nghệ nào; chưa
tốt nghiệp đại học, cao đẳng, nhưng làm một công việc trong một lĩnh vực khoa học
và công nghệ đòi hỏi trình độ tương đương” [39].
Hiện nay, theo quan niệm phổ biến, NNL tham gia hoạt động KH&CN nước
ta gồm 5 thành phần chủ yếu sau đây:
– Viên chức làm công tác nghiên cứu khoa học (giữ các chức danh khoa học
như trợ lý nghiên cứu, nghiên cứu viên, nghiên cứu viên chính, nghiên cứu viên cao
cấp), làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công lập (học viện, viện nghiên cứu,
trường đại học…);
– Viên chức giữ các chức danh công nghệ (kỹ thuật viên, kỹ sư, kỹ sư chính,
kỹ sư cao cấp) làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công lập, các doanh nghiệp khoa
học và công nghệ;
– Cán bộ, công chức làm công tác quản lý nhà nước về khoa học và công
nghệ ở cấp Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện;
– Trí thức người Việt Nam ở nước ngoài và các chuyên gia nước ngoài làm
việc trong lĩnh vực khoa học và công nghệ tại Việt Nam;
– Các cá nhân thuộc mọi tầng lớp xã hội yêu thích khoa học kỹ thuật, có sáng
kiến cải tiến, ứng dụng khoa học kỹ thuật vào đời sống
Trong luận văn, đối tượng nghiên cứu là đội ngũ viên chức khoa học của
VASS, một bộ phận trong NNL KH&CN của Việt Nam.
1.1.2. Phát triển nguồn nhân lực
Thuật ngữ phát triển NNL gắn liền với sự hoàn thiện, nâng cao chất lượng
NNL, được thể hiện ở việc nâng cao trình độ giáo dục quốc dân, trình độ kỹ thuật,
chuyên môn, sức khoẻ và thể lực cũng như ý thức, đạo đức của NNL. NNL tự thân
nó bao gồm những con người có các hoạt động sáng tạo, là nguồn lực có thể tự thay
đổi để thích ứng với môi trường hoạt động, và là nguồn lực có thể tự phát triển hoặc
phát triển nhờ các hoạt động của quốc gia, của tổ chức.
10
Phát triển NNL chính là quá trình biến đổi NNL nhằm phát huy, khơi dậy
những tiềm năng con người. Đó là quá trình phát triển cả năng lực vật chất và năng
lực tinh thần, tạo dựng và ngày càng nâng cao, hoàn thiện cả về đạo đức và tay
nghề, cả về tâm hồn, hành vi, từ trình độ chất lượng này lên trình độ chất lượng
khác cao hơn và toàn diện hơn. Để đạt được điều này cần tạo điều kiện cho con
người được tiếp cận với các dịch vụ xã hội cần thiết như giáo dục – đào tạo, chăm
sóc y tế, có môi trường cuộc sống phong phú, lành mạnh và an toàn.
Các nhà nghiên cứu của UNDP cho rằng: Phát triển NNL chịu sự tác động
của năm nhân tố: giáo dục – đào tạo, sức khỏe và dinh dưỡng, môi trường, việc làm
và sự giải phóng con người. Trong quá trình tác động đến sự phát triển NNL, những
nhân tố này luôn gắn bó, hỗ trợ và phụ thuộc lẫn nhau, trong đó, giáo dục – đào tạo
là nhân tố nền tảng, là cơ sở của tất cả các nhân tố khác. Nhân tố sức khỏe và dinh
dưỡng, môi trường, việc làm và giải phóng con người là những nhân tố thiết yếu,
nhằm duy trì và đáp ứng sự phát triển bền vững NNL. Nền sản xuất càng phát triển,
thì phần đóng góp của trí tuệ thông qua giáo dục – đào tạo ngày càng chiếm tỷ trọng
lớn so với đóng góp của các yếu tố khác trong cơ cấu giá trị sản phẩm của lao động
[UNDP, 2013].
Còn theo Tổ chức Lao động Thế giới (ILO), phát triển NNL bao hàm phạm
vi rộng hơn, không chỉ là sự chiếm lĩnh trình độ lành nghề hoặc vấn đề đào tạo nói
chung,mà còn là sự phát triển năng lực và sử dụng năng lực đó vào việc làm có hiệu
quả, cũng như thỏa mãn nghề nghiệp và cuộc sống cá nhân. [International Labour
Organization (ILO), 2010]
Theo Bùi Văn Nhơn: Phát triển NNL là tổng thể các hình thức, phương pháp,
chính sách và biện pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao chất lượng cho NNL (trí tuệ,
thể chất, và phẩm chất tâm lý xã hội) nhằm đáp ứng đòi hỏi về NNL cho sự phát
triển kinh tế xã hội trong từng giai đoạn phát triển [10].
Theo Trần Xuân Cầu và Mai Quốc Chánh: Phát triển NNL là quá trình phát
triển thể lực, trí lực, khả năng nhận thức và tiếp thu kiến thức tay nghề, tính năng
động xã hội và sức sáng tạo của con người; nền văn hoá; truyền thống lịch sử…. Với
cách tiếp cận phát triển từ góc độ xã hội, phát triển NNL là quá trình tăng lên về
mặt số lượng (quy mô) NNL và nâng cao về mặt chất lượng NNL, tạo ra cơ cấu
NNL ngày càng hợp lý. Với cách tiếp cận phát triển từ góc độ cá nhân, phát triển
11
NNL là quá trình làm cho con người trưởng thành, có năng lực xã hội (thể lực, trí
lực, nhân cách) và tính năng động xã hội cao [7]. Theo đó, phát triển NNL là nhằm
cung cấp NNL có chất lượng thông qua sự biến đổi tăng lên về lượng và chất, và
đòi hỏi có sự bố trí hợp lý trong sử dụng NNL.
Có thể thấy, mặc dù có sự diễn đạt khác nhau song có một điểm chung nhất
là phát triển NNL là quá trình nâng cao năng lực của con người về mọi mặt để tham
gia một cách hiệu quả vào quá trình phát triển quốc gia. Phát triển NNL, do vậy,
luôn là động lực thúc đẩy sự tiến bộ và tác động đến mọi mặt của đời sống kinh tế –
xã hội. Kinh nghiệm của nhiều nước CNH trước đây cho thấy phần lớn thành quả
phát triển không phải nhờ tăng vốn sản xuất mà là hoàn thiện trong năng lực con
người, sự tinh thông, kinh nghiệm, bí quyết nghề nghiệp và kỹ năng quản lý. Khác
với đầu tư cho nguồn vốn vật chất, đầu tư cho phát triển con người là vấn đề liên
ngành, đa lĩnh vực và tác động đến đời sống của các cá nhân, gia đình, cộng đồng
của họ và đến toàn bộ xã hội nói chung.
Như vậy, phát triển NNL khoa học là quá trình tạo ra số lượng, chất lượng
và cơ cấu đội ngũ cán bộ khoa học với việc nâng cao hiệu quả sử dụng nhằm đáp
ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước, vùng lãnh thổ
và tổ chức.
Phát triển NNL khoa học là việc nâng cao vai trò của đội ngũ viên chức khoa
học trong sự phát triển kinh tế xã hội, là sự vận động theo chiều đi lên của đội ngũ
viên chức khoa học trên các phương diện về số lượng, chất lượng, cơ cấu tổ chức
nhằm hoàn thiện, nâng cao phục vụ nhu cầu trên lĩnh vực khoa học và công nghệ của
xã hội. Chất lượng của đội ngũ viên chức khoa học cần phải được đánh giá một cách
toàn diện cả về thể lực, trí tuệ, đạo đức, nhân cách, phẩm chất… của con người.
1.1.3. Khái niệm viên chức, đặc điểm của đội ngũ viên chức khoa học
* Khái niệm viên chức:
Theo Điều 2, Luật Viên chức năm 2010, “Viên chức là công dân Việt Nam
được tuyển dụng theo vị trí việc làm, làm việc tại đơn vị sự nghiệp công lập theo
chế độ đồng làm việc, hưởng lương từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập
theo quy định của pháp luật”.
12
Đơn vị sự nghiệp công lập là tổ chức do cơ quan có thẩm quyền của Nhà
nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội thành lập theo quy định của pháp
luật, có tư cách pháp nhân, cung cấp dịch vụ công, phục vụ quản lý Nhà nước.
* Đặc điểm của đội ngũ viên chức khoa học: Đội ngũ viên chức khoa học
mang tính đặc thù, khác biệt so với lao động sản xuất thông thường. Đặc thù của
nghiên cứu khoa học là một ngành sản xuất vật chất đặc biệt mang tính sáng tạo, tạo
ra sản phẩm “hàng hóa đặc biệt” là những công trình nghiên cứu khoa học, các ấn
phẩm sách báo, … nên đội ngũ viên chức khoa học có một số đặc điểm sau:
– Viên chức nghiên cứu khoa học là người có kỹ năng, trình độ chuyên môn
cao và phương pháp làm việc khoa học.
– Khả năng nghiên cứu và phương pháp tư duy khoa học: Tư duy khoa học là
giai đoạn cao, trình độ cao của quá trình nhận thức được thực hiện thông qua một hệ
thống các thao tác tư duy nhất định trong đầu óc của các nhà khoa học (hoặc những
người đang sử dụng các tri thức khoa học và vận dụng đúng đắn những yêu cầu của
tư duy khoa học) với sự giúp đỡ của một hệ thống “công cụ” tư duy khoa học (như
ngôn ngữ và hình thức của tư duy khoa học) nhằm nhào nặn các tri thức tiền đề, xây
dựng thành những tri thức khoa học mới dưới dạng khái niệm, phán đoán, suy luận
hoặc giả thuyết, lý luận khoa học, phản ánh các khách thể nhận thức một cách chính
xác, đầy đủ, sâu sắc, chân thực hơn.
– Khả năng phát hiện vấn đề và nhìn nhận vấn đề để nghiên cứu: là kĩ năng
cần có của người nghiên cứu khoa học. Trước khi nghiên cứu một vấn đề, người
nghiên cứu cần xác định vấn đề đó có cần thiết, cấp thiết cần phải nghiên cứu hay
không? Điều này giúp cho các vấn đề nghiên cứu sát với thực tiễn và có tính ứng
dụng cao.
– Khả năng thu thập và phân tích, xử lý số liệu: thu thập số liệu bằng phương
pháp gì, cách thức thu thập, phân tích, lựa chọn và sàng lọc dữ liệu, biết sử dụng các
công cụ hiện có để xử lý các dữ liệu đó.
– Khả năng trình bày vấn đề khoa học: khi hoàn thành một nghiên cứu, việc
ứng dụng nghiên cứu đó vào thực tiễn yêu cầu khả năng trình bày, diễn giải nghiên
cứu đó sao cho dễ hiểu, logic nhằm mục đích thuyết phục người nghe chấp nhận các
nghiên cứu của mình.
13
– Có kế hoạch làm việc khoa học, tiết kiệm thời gian và kinh tế: khả năng lập
kế hoạch là khả năng liệt kê các công việc cần phải làm, các mục tiêu cần hướng tới
theo một trình tự, nhất định và được thực hiện trong một khoảng thời gian nhất
định, cụ thể. Việc này giúp cho quá trình nghiên cứu tiết kiệm được chi phí và thời
gian đáp ứng kịp thời các nhiệm vụ nghiên cứu đã đặt ra.
Ngoài ra, viên chức nghiên cứu khoa học cần phải có các đức tính của một
nhà khoa học chân chính: có sự say mê nghiên cứu, nhạy bén với những vấn đề
khoa học, kiên trì, cẩn thận, tỉ mỉ trong quá trình thực hiện, trung thực với kết quả
nghiên cứu khoa học của mình.
1.1.4. Vai trò của đội ngũ viên chức khoa học trong bối cảnh phát triển hiện nay
– Đội ngũ viên chức khoa học và nhân lực KH&CN đóng vai trò hết sức quan
trọng, là nhân tố quyết định nhất đối với sự phát triển của các quốc gia. Trong các kì
Đại hội Đảng, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương 6 khóa XI đã khẳng định “Nhân
lực khoa học và công nghệ là tài nguyên vô giá của đất nước; tri thức KH&CN là
nguồn lực đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế tri thức”; “Đầu tư cho nhân
lực khoa học công nghệ là đầu tư cho phát triển bền vững, trực tiếp nâng tầm trí tuệ
và sức mạnh của dân tộc” [18].
– Đội ngũ viên chức khoa học là lực lượng xung kích trong việc lựa chọn,
tiếp thu và ứng dụng những tiến bộ khoa học mới trên thế giới và phát triển các
ngành kinh tế quốc dân của Việt Nam; biến khoa học thành lực lượng sản xuất trực
tiếp. Sự gắn kết chặt chẽ giữa khoa học với kỹ thuật và công nghệ là một xu thế tất
yếu của phát triển lực lượng sản xuất hiện đại bởi khoa học muốn phát triển nhanh
cần phải có sự trợ giúp của công nghệ hiện đại; đồng thời, muốn sản xuất ra công
nghệ mới đòi hỏi con người phải dựa trên những phát minh khoa học mới. Trong
thời đại ngày nay, khoa học đã được thẩm thấu vào tất cả các khâu của quá trình sản
xuất, góp phần cải tiến công cụ lao động, tạo ra những đối tượng lao động mới,
những phương tiện sản xuất tiên tiến, góp phần nâng cao kỹ năng, tay nghề, trình độ
cho người lao động; từ đó góp phần nâng cao năng suất lao động, chất lượng và
hiệu quả sản xuất.
– Đội ngũ viên chức khoa học là yếu tố quyết định đẩy mạnh phát triển và
ứng dụng khoa học – công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng
trưởng và lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, đảm bảo cho phát triển nhanh, hiệu
14
quả và bền vững. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay với sự phát triển của nền kinh
tế tri thức – nền kinh tế chủ yếu dựa vào tri thức, trên cơ sở phát triển khoa học và
công nghệ cao, tri thức đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, trở thành vốn nhân
lực. Chính vì vậy, nhân lực KH&CN sẽ quyết định năng lực cạnh tranh của nền
kinh tế, là nhân tố quyết định việc khai thác, sử dụng, ứng dụng khoa học – công
nghệ và tái tạo các nguồn lực khác.
– Nguồn nhân lực KH&CN là điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Toàn cầu
hóa kinh tế tiếp tục phát triển ngày càng lớn về quy mô, mức độ và hình thức biểu
hiện với những tác động tích cực và tiêu cực, cơ hội và thách thức đan xen phức tạp.
Sự tùy thuộc lẫn nhau, hội nhập, cạnh tranh và hợp tác giữa các nước ngày càng trở
thành phổ biến. Kinh tế tri thức phát triển mạnh, do đó NNL KH&CN càng trở
thành nhân tố quyết định sự phát triển của mỗi quốc gia. Đảng ta chủ trương phát
triển NNL chất lượng cao, đặc biệt coi trọng phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý giỏi, đội ngũ chuyên gia, quản trị doanh nghiệp giỏi, lao động lành nghề và
khoa học – công nghệ đầu đàn; coi đây là điều kiện cần thiết để hội nhập và cạnh
tranh trong khu vực và quốc tế, cũng như khẳng định vị thế của tri thức và trí tuệ
Việt Nam trong sân chơi toàn cầu.
1.2. Nội dung phát triển đội ngũ viên chức khoa học
1.2.1. Phát triển về số lượng
Là sự gia tăng về số lượng và thay đổi cơ cấu của đội ngũ nhân lực theo
hướng phù hợp với môi trường và điều kiện hoạt động mới. Sự thay đổi về cơ cấu
nhân lực của mỗi quốc gia diễn ra theo độ tuổi, giới tính, ngành nghề và khu vực
phân bố nhân lực.
Số lượng đội ngũ viên chức khoa học là biểu hiện về mặt định lượng của đội
ngũ này, nó phản ánh quy mô của đội ngũ viên chức khoa học, tương xứng với quy
mô của mỗi cơ quan. Số lượng đội ngũ viên chức khoa học phụ thuộc vào sự phân
chia, sắp xếp tổ chức trong các cơ quan nghiên cứu.
Số lượng đội ngũ viên chức khoa học của mỗi đơn vị nghiên cứu phụ thuộc
vào quy mô phát triển của đơn vị nghiên cứu, nhu cầu và định hướng nghiên cứu
cũng như những yếu tố khách quan: chỉ tiêu biên chế, chế độ chính sách đối với đội
ngũ viên chức khoa học. Tuy nhiên, trong điều kiện nào, muốn đảm bảo chất lượng
các hoạt động của viên chức khoa học thì người quản lý cũng cần quan tâm đến việc
15
giữ vững sự cân bằng động về số lượng đội ngũ với nhu cầu và quy mô phát triển
của đơn vị nghiên cứu.
Trong xu thế hội nhập hiện nay, việc NCKH ngày càng được đẩy mạnh, lĩnh
vực then chốt của việc phát triển con người thì nhu cầu nghiên cứu cơ bản và ứng
dụng ngày càng đòi hỏi cao hơn, thiết thực hơn, điều này cần một đội ngũ đông đảo
các nhà nghiên cứu cùng hợp sức thực hiện. Tóm lại, phát triển số lượng viên chức
khoa học là một nội dung quan trọng cần được quan tâm. Phát triển số lượng đội ngũ
viên chức khoa học cần chú ý đến cơ cấu của số lượng, cơ cấu của độ tuổi, cơ cấu về
thâm niên nghề nghiệp, cơ cấu về giới, cơ cấu về trình độ chuyên môn, đào tạo.
1.2.2. Phát triển về chất lượng
Phát triển chất lượng là sự gia tăng về trình độ học vấn, trình độ chuyên môn
kỹ thuật và phẩm chất của các thành viên trong xã hội hoặc trong tổ chức. Chất
lượng NNL là một chỉ tiêu tổng hợp và phụ thuộc vào nhiều yếu tố cơ bản gắn liền
với người lao động như: thể lực, trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn kỹ thuật và
kỹ năng lao động. Ngoài ra, còn các phẩm chất khác của NNL như kỹ năng mềm:
đạo đức, khả năng sáng tạo, tác phong làm việc và ý thức kỷ luật v.v.
Thực tế chỉ ra rằng: Trong bất kỳ đơn vị nghiên cứu nào thì đội ngũ viên
chức khoa học là chủ thể của quá trình nghiên cứu, là nhân tố quan trọng quyết định
đến việc đảm bảo chất lượng của các công trình, đề tài nghiên cứu khoa học. Chất
lượng của công trình, đề tài nghiên cứu có khả thi hay không, có đạt được mục tiêu
nghiên cứu hay không đều phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, nhiều vấn đề, nhưng
quan trọng nhất là yếu tố chất lượng của đội ngũ viên chức khoa học – là một trong
những yếu tố có vai trò quyết định. Phát triển chất lượng đội ngũ viên chức khoa
học là phát triển về các mặt: thể lực, trí lực (trình độ chuyên môn và năng lực) và
phẩm chất.
Thể lực nguồn nhân lực: Sức khỏe là mục tiêu của sự phát triển đồng thời
cũng là điều kiện của sự phát triển. Sức khỏe cơ thể là sự dẻo dai cường tráng, là
khả năng lao động bằng chân tay và cơ bắp. Sức khỏe tinh thần là khả năng vận
dụng trí tuệ, sự sáng tạo vào công việc, là khả năng chịu áp lực công việc của con
người. Đặc biệt trong môi trường làm việc hiện đại với sức ép lớn của công việc thì
càng đòi hỏi co người có khả năng chịu được áp lực tốt. Để đánh giá thể lực người
16
ta thường dùng dùng chỉ số MBI để đo lường chiều cao và cân nặng trung bình của
người lao động.
Trí lực của nguồn nhân lực: Trí lực của NNL được đánh giá và xem xét trên
hai giác độ đó là trình độ văn hóa và chuyên môn, năng lực lao động thực hành của
nhân lực.
Đối với đội ngũ viên chức khoa học cần xem xét các tiêu chí sau:
– Trình độ văn hóa là trình độ tri thức, khả năng nhận thức của người lao
động về kiến thức chuyên môn. Trình độ văn hóa được người lao động tiếp thu qua
hệ thống giáo dục pháp quy, quá trình học tập và nghiên cứu.
– Trình độ chuyên môn: Trình độ chuyên môn là mức độ đạt được về một
ngành, một nghề nào đó. Đây là tiêu chí cơ bản nhất để đánh giá chất lượng nhân
lực khoa học. Trình độ là yếu tố phản ánh khả năng trí tuệ của đội ngũ viên chức
khoa học, là điều kiện cần thiết để thực hiện hoạt động nghiên cứu khoa học. Trình
độ thể hiện ở trình độ đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ và khả năng nghiên cứu.
Trình độ chuyên môn đối với đội ngũ cán bộ khoa học được ghi theo chứng chỉ đào
tạo viên chức: nghiên cứu viên, nghiên cứu viên chính, nghiên cứu viên cao cấp.
Trình độ của đội ngũ viên chức khoa học được thể hiện ở khả năng tiếp cận
và cập nhật với những thành tựu mới của thế giới, những tri thức KH – CN hiện đại,
những đổi mới trong thực tiễn công tác để vận dụng trực tiếp vào hoạt động NCKH.
Trình độ của đội ngũ viên chức khoa học còn thể hiện ở chương trình họ được đào
tạo, ở khả năng lĩnh hội khối lượng tri thức trong quá trình học tập và làm việc. Do
đặc thù của hoạt động NCKH là hoạt động tìm kiếm, xem xét, điều tra, hoặc thử
nghiệm, dựa trên những số liệu, tài liệu, kiến thức,… đạt được từ NCKH để phát
hiện ra những cái mới về bản chất sự vật, về thế giới tự nhiên và xã hội, để sáng tạo
phương pháp và phương tiện kỹ thuật mới cao hơn, có giá trị hơn. Viên chức khoa
học muốn thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học phải rèn luyện cách làm việc tự chủ,
có phương pháp khoa học. Từ đó, giúp cho người viên chức có được sự trưởng
thành hơn trong tư duy, phương pháp làm việc, kiến thức chuyên môn… bổ trợ
không nhỏ cho quá trình công tác.
Hơn nữa, NCKH là công việc sáng tạo nên ngoài những kiến thức, những tri
thức được tích lũy, để đáp ứng được chất lượng của công việc đội ngũ viên chức
khoa học còn phải có khả năng nghiên cứu, khả năng tiếp cận vấn đề theo nhiều
17
hướng. Khả năng đó là thiết kế mẫu khảo sát nghiên cứu, là kỹ năng phỏng vấn sâu,
thảo luận nhóm để thu thập thông tin và xử lý – phân tích số liệu… vì thế viên chức
khoa học phải linh hoạt, phải có trình độ về nhiều lĩnh vực thì mới có thể đáp ứng
yêu cầu của công việc này.
Mặt khác trong xu thế phát triển của xã hội hiện đại, ngoại ngữ và tin học là
những công cụ hết sức quan trọng giúp cho đội ngũ này tiếp cận với tri thức khoa
học tiến tiến của thế giới, tăng cường hợp tác và giao lưu quốc tế để nâng cao trình
độ, năng lực NCKH. Hiện nay trình độ về ngoại ngữ và tin học của đội ngũ cán bộ
NCKH đã và đang dần được nâng cao, do chính sách đào tạo của cơ quan nghiên
cứu, đồng thời tinh thần học hỏi, tự nâng cao kiến thức cũng là yếu tố nâng cao hơn
nữa trình độ chuyên môn cho đội ngũ viên chức khoa học.
– Năng lực: Năng lực là khả năng, điều kiện chủ quan hay tự nhiên sẵn có để
thực hiện một hoạt động hoặc phẩm chất tâm lý, sinh lý tạo cho con người khả năng
hoàn thành một loại hoạt động nào đó.
Đối với đội ngũ NCKH, năng lực được hiểu là trên cơ sở hệ thống những tri
thức mà người NCKH được trang bị, họ phải hình thành và nắm vững hệ thống các
kỹ năng để tiến hành hoạt động nghiên cứu có hiệu quả. Kỹ năng của người NCKH
được hiểu là “khả năng vận dụng những kiến thức thu được vào hoạt động NCKH”
và biến nó thành sản phẩm nghiên cứu. Sản phẩm của NCKH là kỹ năng đạt tới mức
độ nghiên cứu thuần thục và hiệu quả. Viên chức khoa học phải có trình độ và năng lực
tốt mới giải quyết được các vấn đề đặt ra. Việc đánh giá chất lượng và năng lực NCKH
của đội ngũ này không chỉ căn cứ vào số lượng các công trình nghiên cứu mà chủ yếu
căn cứ vào giá trị và hiệu quả của các công trình nghiên cứu đó.
– Phẩm chất của đội ngũ viên chức khoa học không chỉ tạo nên phẩm chất
chung mà còn là yếu tố quan trọng quyết định đến chất lượng của đội ngũ viên chức
khoa học.
Phẩm chất của đội ngũ viên chức khoa học còn được biểu hiện ở phẩm chất
chính trị. Phẩm chất chính trị tốt là yếu tố quan trọng giúp cho viên chức khoa học
có bản lĩnh vững vàng trước những biến động của xã hội. Trên cơ sở đó thực hiện
hoạt động nghiên cứu giáo dục toàn diện, định hướng cho việc thực hiện các hoạt
động, các mục tiêu nghiên cứu phù hợp và có hiệu quả. Bản lĩnh chính trị rõ ràng,
giúp viên chức khoa học có niềm tin vào tương lai của đất nước và khả năng xử lý
18
những tình huống chính trị nảy sinh trong hoạt động nghiên cứu khoa học. Sự nhạy
cảm cũng như đặc tính luôn thích ứng, hướng tới cái mới của đội ngũ viên chức
khoa học rất cần cho việc định hướng để nghiên cứu các đề tài, chương trình, dự án.
Việc không ngừng nâng cao tính tích cực chính trị cho đội ngũ viên chức khoa học
là rất cần thiết, bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa của khoa học, kết hợp
giữa tính dân tộc và tính quốc tế, truyền thống và hiện đại trong đào tạo, đáp ứng
yêu cầu phát triển của nền khoa học Việt Nam.
Phẩm chất đạo đức mẫu mực cũng là một trong những tiêu chuẩn hàng đầu
của đội ngũ viên chức khoa học. Không phải ngẫu nhiên mà Chủ tịch Hồ Chí Minh
nói: “Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù có tài giỏi đến
mấy cũng không thể lãnh đạo nhân dân”.
1.2.3. Phát triển về cơ cấu
Cơ cấu NNL phản ánh mối quan hệ giữa các bộ phận trong tổng thể NNL
bao hàm cả về chất lượng và số lượng của tổ chức ở một thời điểm nhất định. Cơ
cấu quan trọng phản ánh chất lượng tổng thể của NNL ở một tổ chức là cơ cấu theo
ngành nghề, lĩnh vực hoạt động, trình độ đào tạo và năng lực theo vị trí công tác của
NNL. Việc xác định cơ cấu NNL có vai trò rất quan trọng vì nhiệm vụ, mục tiêu
chiến lược của tổ chức đặt ra chỉ có thể hoàn thành khi cơ cấu NNL được xác định
một cách đúng đắn.
Như vậy, cơ cấu đội ngũ viên chức khoa học là một hệ thống nhất, gồm các
cơ cấu và thành phần sau:
– Về chuyên môn: Đảm bảo được tỉ lệ giữa viên chức khoa học trong tổ chức
phù hợp với quy mô và nhiệm vụ nghiên cứu của từng lĩnh vực trong cơ quan. Phải
nắm vững về cơ cấu của tổ chức, các ngành chuyên môn hiện đang được đầu tư số
lượng các nhà khoa học có hợp lý hay chưa, cần bổ sung hay dịch chuyển cơ cấu
hay không. Một cơ cấu trình độ chuyên môn hợp lý là sự phù hợp giữa chức
năng, nhiệm vụ do loại viên chức đó đảm nhiệm và trình độ chuyên môn của loại
viên chức đó.
– Về trình độ đào tạo: Đối với các cơ quan nghiên cứu thì số lượng Tiến sỹ,
Thạc sỹ,… những người có trình độ cao luôn rất cần thiết, họ là nòng cốt của lực
lượng nghiên cứu, giúp các đề tài nghiên cứu có chất lượng, đảm bảo cho uy tín và
chất lượng của các công trình nghiên cứu.
19
– Về thâm niên: Là thời gian làm việc của cán bộ có kinh nghiệm. Đội ngũ
viên chức nghiên cứu có thâm niên giàu kinh nghiệm có khả năng giúp đào tạo, dìu
dắt các viên chức nghiên cứu trẻ, mới và chưa có nhiều kinh nghiệm.
– Về lứa tuổi: Đảm bảo sự cân đối giữa các thế hệ trong cơ quan nghiên cứu,
tránh tình trạng già hóa trong đội ngũ nghiên cứu khoa học; tránh sự hụt hẫng về đội
ngũ nghiên cứu trẻ kế cận; cần có thời gian nhất định thực hiện chuyển giao, bổ
nhiệm giữa các thế hệ. Trong phát triển nhân lực khoa học cơ cấu này rất quan
trọng, cần được quan tâm nhằm đảm bảo lực lượng kế cận có đủ để bù đắp và phát
triển quy hoạch bố trí sử dụng hợp lý.
– Về giới tính: Đảm bảo được tỉ lệ thích hợp giữa cán bộ nghiên cứu khoa
học nam và nữ trong từng bộ phận, phòng ban, trung tâm nghiên cứu. Cơ cấu theo
giới tính nhằm đảm bảo sự phát triển nguồn nhân lực hài hòa và bố trí sử dụng hợp
lý đội ngũ nghiên cứu.
1.3. Hình thức, biện pháp phát triển đội ngũ viên chức khoa học
1.3.1. Quy hoạch, tuyển chọn
– Quy hoạch: Quy hoạch phát triển đội ngũ viên chức khoa học là quy hoạch
của ngành, là một bộ phận của kinh tế xã hội nói chung. Trên cơ sở lý luận chung,
thì quy hoạch phát triển đội ngũ viên chức khoa học là một bản luận chứng khoa
học dựa trên cơ sở đánh giá, phân tích thực trạng giáo dục hiện tại, dự đoán, nắm
bắt những cơ hội, tiên đoán những xu hướng nghiên cứu của đất nước, quy hoạch
của địa phương để xác định quan điểm, phương hướng, mục tiêu nghiên cứu của
đơn vị, từ đó đề ra những giải pháp phát triển và phân bổ đề tài nghiên cứu gắn với
từng đơn vị và phát triển đội ngũ viên chức khoa học.
Để phát huy tính tích cực và hoạt động lao động sáng tạo của nhân lực khoa
học phải làm tốt công tác quy hoạch. Trong công tác quy hoạch, cần xác định trước
những dự báo chiến lược về nhu cầu nhân lực khoa học, trên cơ sở đó có sự đầu tư
đúng mức, hợp lý cho từng loại nhân lực cần quy hoạch nhằm phát triển nhân lực
khoa học một cách hợp lý, phù hợp với yêu cầu phát triển của tổ chức, của đất nước.
– Tuyển chọn viên chức khoa học là quá trình thực hiện những hình thức,
biện pháp thu hút người có khả năng từ nhiều nguồn khác nhau đến đăng ký trở
thành ứng viên và lựa chọn từ nguồn ứng viên này những người có đủ tiêu chuẩn
vào vị trí công việc mà cơ quan/ tổ chức sử dụng nhân lực cần đến. Quá trình tuyển
20
chọn có ý nghĩa rất quan trọng đối với đơn vị, vì quá trình tuyển chọn tốt sẽ cung
cấp cho đơn vị NNL có năng lực, phẩm chất và đặc biệt là phù hợp với yêu cầu
công việc. Tuyển chọn tốt sẽ giúp cho đơn vị giảm được chi phí tuyển dụng, đào tạo
lại và cũng tránh được rủi ro chậm tiến độ công việc do viên chức kém chất lượng.
Quá trình tuyển chọn phải đáp ứng được các yêu cầu sau:
+ Tuyển chọn phải xuất phát từ quy hoạch của cơ quan, đơn vị.
+ Tuyển chọn được những người có chuyên môn cần thiết cho công việc để
đạt được hiệu quả công tác tốt nhất.
+ Tuyển chọn được những người có phẩm chất tốt, yêu nghề, gắn bó với
công việc và am hiểu đặc thù của đơn vị.
Cơ quan quản lý có thể tuyển chọn những người phù hợp từ nhiều nguồn:
+ Nguồn nội bộ: Là những viên chức đang làm việc tại đơn vị để thuyên
chuyển, điều động vào những vị trí cần thiết, phù hợp và phát huy được năng lực sở
trường của viên chức đó.
+ Nguồn bên ngoài: Các Viện nghiên cứu bên ngoài, trong hệ thống của Viện
Hàn lâm qua đơn xin việc của người có nhu cầu việc làm …
Việc tuyển chọn không chỉ là đủ số lượng thuần túy mà còn cần tuyển được
NNL có đầy đủ thể lực, tâm lực và trí lực để công việc đạt được hiểu quả cao nhất.
1.3.2. Đào tạo, bồi dưỡng
Lý luận và thực tiễn đều đã chứng minh giáo dục và đào tạo là tiền đề của sự
hình thành và phát triển NNL. Giáo dục và đào tạo có vai trò quan trọng và thúc đẩy
sự phát triển NNL, là những nhân tố cơ bản nhất tạo nên chất lượng NNL. Giáo dục,
đào tạo và nâng cao chất lượng NNL gắn bó chặt chẽ với nhau: giáo dục, đào tạo là
một trong những biện pháp cơ bản nhất để tạo chất lượng NNL, đồng thời chất lượng
NNL cũng trở thành mục tiêu hàng đầu của giáo dục, đào tạo. Không thể có một
NNL chất lượng tốt nếu không thông qua giáo dục, đào tạo và cũng không thể có sự
nghiệp giáo dục, đào tạo mà lại không nhằm vào phẩm chất đạo đức, trình độ học
vấn, chuyên môn nghiệp vụ và kỹ năng ứng dụng tri thức vào hoạt động thực tiễn.
Nghị định số 29/2012/NĐ-CP ngày 12 tháng 4 năm 2012 của Chính phủ về
việc tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức đã nêu rõ mục tiêu đào tạo, bồi
dưỡng viên chức là cập nhật kiến thức, bồi dưỡng nâng cao kỹ năng và phương
pháp thực hiện nhiệm vụ được giao; đào tạo góp phần xây dựng đội ngũ viên chức