BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
HOÀNG THỊ NGUYỆT NGA
GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO LAO ĐỘNG
TẠI THÀNH PHỐ PLEIKU, TỈNH GIA LAI
Chuyên ngành: Kinh tế phát triển
Mã số: 60.31.05
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
Đà Nẵng, 2012
Công trình được hoàn thành tại
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Thị Như Liêm
Phản biện 1 : TS. Nguyễn Thanh Liêm
Phản biện 2 : TS. Hà Ban
Luận văn đã được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn tốt
nghiệp Thạc sĩ Kinh tế, họp tại Đại học Đà Nẵng ngày 02 tháng 03
năm 2013
Có thể tìm hiểu luận văn tại:
–
Trung tâm Thông tin – Học liệu, Đại học Đà Nẵng
–
Thư viện Trường Đại học Kinh tế, Đại học Đà Nẵng.
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết đề tài
Hàng năm, Việt Nam có tới hơn 10 vạn lao động bước vào
tuổi lao động, điều đó gây sức ép lớn giải quyết việc làm cho lao động
và thực trạng vấn đề lao động, việc làm ở nước ta hiện nay vẫn còn có
nhiều bất cập, chưa đáp ứng kịp yêu cầu phát triển của nền kinh tế, đặc
biệt là từ sau khi nước ta gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO.
Không nằm ngoài quy luật đó, thành phố Pleiku là thành phố
trực thuộc tỉnh Gia Lai, mặt dù kinh tế đã có nhiều khởi sắc, tốc độ đô
thị hóa nhanh, nhiều khu công nghiệp được xây dựng và mở rộng quy
mô đã thu hồi nhiều diện tích đất nông nghiệp nhưng những năm gần
đây tệ nạn xã hội trên địa bàn có chiều hướng gia tăng và theo thống kê
số người phạm tội là những người không có việc làm. Bên cạnh đó, số
người bước vào tuổi lao động ngày càng tăng, điều đó cũng đang gây
khó khăn trong công tác giải quyết việc làm trên địa bàn.
Xuất phát từ thực tế địa phương và nhận thức được tầm quan
trọng trong công tác giải quyết việc làm, em xin chọn đề tài: “Giải
quyết việc làm cho lao động tại thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai”
làm đề tài nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ.
2. Mục đích nghiên cứu
– Hệ thống hóa cơ sở lý luận về giải quyết việc làm cho lao
động nhằm góp phần phát triển kinh tế xã hội trên địa thành phố
Pleiku, tỉnh Gia Lai.
– Đánh giá thực trạng giải quyết việc làm cho lao động trên địa
bàn thành phố Pleiku, từ đó nghiên cứu những hạn chế và nguyên nhân
trong giải quyết việc làm.
– Đề xuất một số giải pháp nhằm giải quyết việc làm cho lao
động trên địa bàn thành phố Pleiku.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
– Đối tượng nghiên cứu:Vấn đề giải quyết việc làm cho lao động.
2
– Phạm vi nghiên cứu:
+ Phạm vi không gian: Địa bàn thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai.
+ Phạm vi thời gian: Đề tài tập trung thu thập và nghiên cứu
số liệu thời kỳ 2008 – 2010.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp thu thập thông tin, thống kê
so sánh, phân tích tổng hợp nhằm mô tả thực trạng việc làm và giải
quyết việc làm cho lao động.
Số liệu thu thập từ niên giám thống kê của thành phố Pleiku,
từ các báo cáo của Phòng Tài nguyên – Môi trường, Phòng thống kê,
Phòng Lao động và Thương binh xã hội của thành phố Pleiku có liên
quan đến vấn đề nghiên cứu.
5. Bố cục của đề tài
Nội dung đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về việc làm và giải quyết việc làm
cho lao động
Chương 2: Thực trạng giải quyết việc làm cho lao động tại
thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai
Chương 3: Một số giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết việc
làm cho lao động thành phố Pleiku
6. Tổng quan tài liệu nghiên cứu
3
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VIỆC LÀM VÀ
GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO LAO ĐỘNG
1.1 VIỆC LÀM VÀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO LAO ĐỘNG
1.1.1 Việc làm cho lao động
– Khái niệm về việc làm
Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập, không bị pháp
luật cấm đều được thừa nhận là việc làm. [4]
Việc tạo việc làm cho lao động, điều đó được Nhà nước
khuyến khích nhưng vẫn phải nằm trong quy định pháp luật trong Bộ
lao động về thời gian làm việc, điều kiện làm việc, lương thưởng của
người lao động.
– Khái niệm thất nghiệp: Thất nghiệp chỉ tình trạng không có
việc làm mang lại thu nhập. Bộ luật lao động sữa đổi và bổ sung của
Việt Nam năm 2002 quy định: “Thất nghiệp là những người trong độ
tuổi lao động muốn làm việc nhưng chưa tìm được việc làm”.
1.1.2. Giải quyết việc làm cho lao động
Khái niệm giải quyết việc làm
Theo nghĩa rộng: Giải quyết việc làm là tổng thể những biện
pháp, chính sách kinh tế xã hội của Nhà nước, cộng đồng và bản thân
người lao động tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội tạo điều kiện
thuận lợi để đảm bảo cho mọi người có khả năng lao động và làm việc.
Theo nghĩa hẹp: Giải quyết việc làm là biện pháp chủ yếu
hướng vào đối tượng thất nghiệp, thiếu việc làm nhằm tạo việc làm cho
người lao động, duy trì tỷ lệ thất nghiệp ở mức thấp nhất.[10]
1.2. NỘI DUNG, TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ GIẢI QUYẾT VIỆC
LÀM CHO LAO ĐỘNG
1.2.1. Hướng nghiệp, đào tạo nghề và giới thiệu việc làm
cho lao động
Hướng nghiệp là giúp cho người học chọn những ngành học,
4
trình độ đào tạo phù hợp; chủ động, sáng tạo trong học tập, am hiểu về
ngành, nghề đang học để phát huy được năng lực nghề nghiệp sau khi
tốt nghiệp.
Giúp người học có thông tin về thị trường lao động và tìm
được việc làm phù hợp. Tăng cường sự phối hợp giữa cơ sở giáo dục
với đơn vị sử dụng lao động để đào tạo của nhà trường tiếp cận với
thực tiễn và đáp ứng nhu cầu của xã hội. Tổ chức câu lạc bộ hướng
nghiệp, giao lưu với đơn vị sử dụng lao động, giúp người học bổ sung
kiến thức thực tế và các kỹ năng cần thiết để hoà nhập với môi trường
làm việc sau khi tốt nghiệp[5]. Đào tạo nghề là nhiệm vụ quan trọng
trong sự phát triển nguồn nhân lực, dịch chuyển cơ cấu lao động theo
hướng tiến bộ, đáp ứng nhu cầu về nguồn nhân lực cho thời kỳ CNH-
HĐH.
Hoạt động giới thiệu việc làm: Thực hiện việc tư vấn cho
người lao động về chính sách lao động, cung cấp thông tin về việc làm
cho người lao động và người sử dụng lao động; làm chiếc cầu nối giữa
người lao động và người sử dụng lao động.
1.2.2. Phát triển sản xuất giải quyết việc làm cho lao động
trong nông nghiệp
Phân bố lại dân cư và nguồn lao động giữa các vùng để vừa
tạo thêm việc làm, vừa khai thác được tốt hơn tiềm năng của mỗi vùng.
Việc phát triển kinh tế tại các vùng kinh tế mới có khả năng tiếp nhận
hàng chục vạn người đến xây dựng các vùng kinh tế mới.
– Đẩy mạnh kế hoạch hóa gia đình và đa dạng hóa các hoạt
động kinh tế nông thôn. Việc khẳng định vai trò kinh tế hộ gia đình sẽ
tạo điều kiện sử dụng có hiệu quả hơn lao động nông nghiệp. Nền nông
nghiệp đang chuyển dần từ tự cấp, tự túc thành nông lâm nghiệp hàng
hóa, thâm canh và chuyên canh. Các ngành nghề thủ công truyền
thống, các hoạt động dịch vụ ở nông thôn được khôi phục và phát triển
do đó, lao động thuần nông ngày càng giảm đi. Nước ta đẩy mạnh
5
công nghiệp hóa hóa nông thôn, nhờ vậy vấn đề việc làm ở nông thôn
sẽ được giải quyết vững chắc hơn.
– Phát triển các hoạt động công nghiệp và dịch vụ, trong đó các
hoạt động công nghiệp và dịch vụ có quy mô nhỏ, thu hồi vốn nhanh,
sử dụng kỹ thuật tinh xảo và cần nhiều lao động, có khả năng tạo nhiều
việc làm mới cho lao động.
– Đa dạng hóa sản phẩm, tập trung vào những cây con có giá
trị gia tăng cường lao động, phát triển chăn nuôi, khôi phục những
ngành nghề truyền thống tận dụng lao động và nâng cao thu nhập, lựa
chọn kỹ thuật phù hợp với điều kiện của gia đình; sinh đẻ có kế hoạch;
nâng cao trình độ văn hóa; phân công lao động hợp lý giữa các thành
viên trong gia đình.
1.2.3. Xuất khẩu lao động
Xuất khẩu lao động là việc đưa người lao động trong nước ra
nước ngoài làm việc[5]. Hiện nay, xuất khẩu lao động là hoạt động
kinh tế xã hội phổ biến của mọi địa phương trong cả nước. Nhất là
những vùng nông thôn, đất chật, người đông, nhân khẩu và lao động có
xu hướng gia tăng, vấn đề tạo việc làm, giải quyết tình trạng dư thừa
lao động càng phức tạp. Vì vậy, biện pháp xuất khẩu lao động là hoạt
động cơ bản trong phát triển kinh tế, là giải pháp hữu hiệu nhằm giải
quyết việc làm cho lao động. Xuất khẩu lao động sẽ mang lại nguồn
thu ngoại tệ, góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động ở nông thôn, nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực và xây dựng đội ngũ lao động có tay
nghề cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở địa phương, góp
phần xóa đói giảm nghèo và tạo điều kiện phát triển bền vững sau này.
1.2.4. Chính sách hỗ trợ tín dụng giải quyết việc làm
Chương trình cho vay giải quyết việc làm góp phần tích cực
giải quyết được nhiều việc làm cho xã hội, góp phần khôi phục các
ngành nghề truyền thống, hỗ trợ vốn cho các cơ sở sản xuất kinh doanh
và hộ gia đình để mở rộng sản xuất, thu hút tạo việc làm cho nhiều
6
người lao động đặc biệt là lao động bị chuyển đổi mục đích sử dụng
đất nông nghiệp, lao động nữ, lao động là người tàn tật… góp phần
làm giảm tỷ lệ thất nghiệp, tăng thu nhập, cải thiện đời sống cho người
lao động.[10]
Cho vay giải quyết việc làm góp phần thay đổi cơ cấu kinh tế
theo hướng sản xuất hàng hóa ở nông thôn, làm thay đổi nhận thức của
những hộ sản xuất kinh doanh nhỏ, lẻ chưa bắt kịp với phương thức
sản xuất lớn.
Cùng với sự tham gia quản lý chương trình của các tổ chức
chính trị – xã hội, tổ chức xã hội, thông qua hoạt động cho vay, các tổ
chức này đã có điều kiện đi sâu, đi sát tới từng cơ sở gắn kết hoạt động
kinh tế với nhiệm vụ chính trị của tổ chức mình, đẩy mạnh các phong
trào thi đua làm kinh tế giỏi. Vốn cho vay của Quỹ quốc gia về việc làm
đã tạo ra sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành, các cấp tại địa phương
trong suốt quá trình quản lý cho vay vốn.
1.3. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN GIẢI QUYẾT VIỆC
LÀM CHO LAO ĐỘNG
1.3.1. Điều kiện tự nhiên
1.3.2. Điều kiện kinh tế
1.3.3. Các yếu tố xã hội
1.4. KINH NGHIỆM GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO LAO
ĐỘNG Ở MỘT SỐ ĐỊA PHƯƠNG
1.4.1. Giải quyết việc làm ở huyện Đan Phượng – tỉnh Hà
Tây
1.4.2. Giải quyết việc làm thông qua mô hình kinh tế trang
trại hiệu quả ở thị xã Sơn Tây – tỉnh Hà Tây
7
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO LAO ĐỘNG
TẠI THÀNH PHỐ PLEIKU, TỈNH GIA LAI
2.1. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM VỀ TỰ NHIÊN VÀ KINH TẾ XÃ HỘI
CỦA THÀNH PHỐ PLEIKUẢNH HƯỞNG ĐẾN GIẢI QUYẾT
VIỆC LÀM CHO LAO ĐỘNG
2.1.1. Những đặc điểm về tự nhiên
* Vị trí địa lý: Thành phố Pleiku là đô thị phía bắc Tây
Nguyên, nằm trên trục giao thông giữa quốc lộ 14, quốc lộ 19 nối
thông suốt cả nước, gần ngã ba Đông Dương, nằm trên cung đường Hồ
Chí Minh và trong vùng tam giác tăng trưởng các tỉnh lân cận, cũng
như các quốc gia láng giềng như Campuchia, Lào. Tổng diện tích tự
nhiên là 26.166,36 ha, là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội
của tỉnh Gia Lai. Pleiku nằm trên độ cao trung bình 300m – 500 m; ngã
ba quốc lộ 14 và quốc lộ 19 có độ cao 785 m.
* Phân chia hành chính: Thành phố có 14 phường (trong đó
phường Thắng Lợi, mới được thành lập vào cuối năm 2006, được tách
ra từ một phần địa giới hành chính của xã Chư Á; phường Phù Đổng,
phường Chi Lăng, phường Đống Đa, được thành lập vào đầu năm
2008, được tách ra từ một phần địa giới hành chính của phường Hội
Phú, phường Thống Nhất, xã Ia Kênh, xã ChưHDrông) và 9 xã. Diện
tích đất nội thành là 7.346,11 ha với dân số khoảng 214.718 người (14
phường). Hệ thống giao thông, lưới điện quốc gia, thông tin liên lạc đã
thông suốt từ thành phố đến 23 xã, phường.
2.1.2. Điều kiện về kinh tế
a. Tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
b. Cơ sở hạ tầng
2.1.3. Điều kiện xã hội
a. Đặc điểm dân số
Dân số trung bình 214.710 người (31/12/2010), năm 1971 dân
8
số thị xã là 34.867 người, bao gồm 24 dân tộc đang sinh sống; người
Kinh chiếm đa số (87,9%), còn lại là các dân tộc khác, chủ yếu là các
dân tộc Gia Rai và Ba Na (12,08%). Số người trong độ tuổi lao động
khoảng 115.060 người chiếm 56,6% dân số.[1]
Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên giảm nhanh, đến năm 2008 đạt 1,12%.
Kết quả trên đã góp phần tích cực cho công tác xoá đói giảm nghèo, giải
quyết việc làm, nâng cao chất lượng cuộc sống cho nhân dân.
b. Văn hóa, y tế và giáo dục
Sự nghiệp giáo dục; Hoạt động chăm sóc, bảo vệ sức khỏe
cho nhân dân và công tác dân số – kế hoạch hóa gia đình; Văn hóa,
thông tin, thể dục thể thao; Lao động, việc làm và các chính sách xã
hội; Khoa học – công nghệ; Đời sống đồng bào dân tộc thiểu số.
2.2. TÌNH HÌNH VIỆC LÀM CỦA LAO ĐỘNG THÀNH PHỐ
PLEIKU
2.2.1. Lao động và nhân khẩu của thành phố Pleiku
Trong những năm gần đây tốc độ phát triển dân số của thành
phố không giảm, bình quân dân số giai đoạn 2008 – 2010 tăng 1,58%
được nêu trong Bảng 2.1. Như vậy, dân số thành phố có xu hướng tăng
nhẹ trong thời gian tới, đảm bảo cung cấp nguồn lao động dồi dào cho
thành phố trong phát triển kinh tế.
2.2.2. Lao động phân theo trình độ văn hoá
Lực lượng lao động ở thành phố Pleiku nhìn chung có trình độ học
vấn khá. Dân số đủ 15 tuổi trở lên hoạt động kinh tế thường xuyên chưa
biết chữ và chưa tốt nghiệp tiểu học chiếm tỉ lệ nhỏ trong lực lượng lao
động và giảm dần qua các năm. Năm 2008 số lao động có trình độ học
vấn thấp, chưa biết chữ là 2,2 và chưa tốt nghiệp tiểu học chiếm 4,2 % và
giảm dần đến năm 2010 chưa biết chữ là còn 1,02 % , chưa tốt nghiệp
tiểu học 3,82 % được nêu trong bảng 2.2. Số lượng người lao động đã tốt
nghiệp trung học cơ sở vẫn chiếm số lượng và tỉ trọng cao nhất.
9
2.2.3. Lao động phân theo trình độ chuyên môn kỹ thuật
của thành phố Pleiku
Trong những năm qua cho cho thấy tỉ lệ lao động đã qua đào
tạo của thành phố Pleiku tuy chưa cao nhưng đã tăng lên đáng kể. Năm
2008, tỉ lệ lao động đã qua đào tạo ở trình độ sơ cấp, học nghề trở lên
chỉ chiếm 15,57%, nhưng đến năm 2009 đã tăng lên 17,21% và năm
2010 lên 20,32%, tăng 4,75% so với năm 2008.
2.2.4. Lao động trong các ngành kinh tế
Trong 19 ngành nghiên cứu cho thấy lực lượng lao động chủ
yếu trong ngành công nông – lâm nghiệp – thuỷ sản 30.478 người,
chiếm 29,80% ; tiếp đó là lao động trong ngành thương mại sửa chữa
xe có động cơ, ôtô, xe máy 15.466 người, chiếm 15,13% và công
nghiệp chế biến là 13.854 người chiếm 13,55%; ngành xây dựng
11.858 người, chiếm 11,60%… và mỗi ngành còn lại thì chiếm một tỷ
lệ rất thấp. Lao động hoạt động trong ngành công nghiệp khai thác mỏ
(chiếm 0,45%), lĩnh vực khoa học công nghệ (0,48).
2.3. THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHOLAO ĐỘNG
THÀNH PHỐ PLEIKU
2.3.1. Hoạt động hướng nghiệp, đào tạo nghề cho lao động
và giới thiệu việc làm
Về hoạt động hướng nghiệp cho lao động
Về hoạt động đào tạo nghề cho lao động
Về hoạt động giới thiệu việc làm cho lao động
2.3.2. Phát triển sản xuất thu hút lao động
Trong lĩnh vực nông nghiệp, thực hiện có hiệu quả các dự án
chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi, phát triển kinh tế trang trại, mở
rộng diện tích trồng cà phê, tiêu, cao su, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ
thuật vào sản xuất, triển khai nhiều mô hình khuyến công, khuyến
nông đến hộ như cải tạo vườn tạp, trồng lúa lai, mô hình 3 giảm 3 tăng,
chăn nuôi gia súc, gia cầm.
10
Qua đó, người dân có điều kiện sản xuất, giải phóng diện tích
đất bị bỏ hoang, cải tạo đất xấu, tạo việc làm cho hơn 648 người. Đặc
biệt đến nay có hơn 15.000 lượt người đồng bào dân tộc thiểu số đã tự
trang bị cho mình kiến thức về nông nghiệp và sản xuất có hiệu quả;
gần 1000 hộ có thu nhập khá, gần 4000 hộ có thu nhập trung bình đủ
ăn quanh năm, có từ 1.900 đến 2.300 hộ đã xây dựng được nhà kiên cố
và xe gắn máy.
Trong lĩnh vực Công nghiệp, xây dựng với việc thu hút đầu tư
đạt kết quả khá, một số ngành công nghiệp chủ lực, chủ yếu là công
nghiệp chế biến nông sản cà phê, tiêu, cao su với đặc thù số lượng lao
động đông, công việc tương đối dễ làm góp phần giải quyết việc làm
cho phần lớn lao động phổ thông. Trong đó, một số đơn vị kinh tế
đóng chân trên địa bàn đã thu hút trên 1.200 lao động .
Bên canh việc đơn giản hóa thủ tục hành chính, thành phố
cũng chú trọng đến công tác xây dựng cơ bản, hiện đại hóa hệ thống hạ
tầng giao thông, đặc biệt là các vùng dân tộc thiểu số nhằm thu hút đầu
tư, góp phần giải quyết việc làm. Tính đến nay, thành phố đã đầu tư
xây dựng được 27,4 km đường giao thông nông thôn, riêng trong năm
2010 thành phố đã đầu tư xây dựng 5,7 km với mức đầu tư là
1.980.000.000 đồng, hỗ trợ làm đường giao thông nông thôn, nhà sinh
hoạt cộng đồng năm 2009 gần 650.000.000 đồng, xây dựng 1 công
trình thủy lợi tại làng D, xã Gào với tổng mức đầu tư là 1.500.000.000
tỷ đồng, sửa chữa cầu treo tại làng B, xã Gào với tổng mức đầu tư là
900.000.000 đồng, sửa chữa cầu thôn 6, xã Gào với tổng số tiền
1.250.000.000 đồng. Do đó, tỷ trọng đầu tư vào thành phố Pleiku nói
chung, các làng dân tộc thiểu số nói riêng có những tiến bộ đáng kể
giải quyết nhiều việc làm cho nhân dân địa phương. Bên cạnh đó, các
làng nghề truyền thống của đồng bào dân tộc thiểu số cũng được duy
trì và phát triển. Hiện nay, trên địa bàn thành phố có các làng nghề dệt
thổ cẩm và 1 hợp tác xã nhạc cụ truyền thống Tây Nguyên tại phường
11
Thắng Lợi được đầu tư với số tiền 1 tỷ đồng, hoạt động có hiệu quả,
tạo ra nhiều sản phẩm truyền thống, giải quyết việc làm và mang lại
thu nhập cao cho đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn. Bình quân,
một năm giải quyết việc làm 85 lao động, với mức thu nhập khoảng
2.000.000 đồng/người.
2.3.3. Hoạt động xuất khẩu lao động
Trong những năm qua thành phố Pleiku đã tranh thủ tối đa mọi
thuận lợi, tìm mọi giải pháp phát triển ngành nghề trên địa bàn để tạo
việc làm cho lao động, trong đó công tác xuất khẩu lao động cũng
được chú trọng. Đã xây dựng được phong trào xuất khẩu lao động của
thành phố, đã tạo được hướng mở mới trong công tác giải quyết việc
làm có hiệu quả cho người lao động. Tuy phong trào xuất khẩu lao
động có đi xuống nhưng phần lớn số lao động tham gia xuất khẩu lao
động đều thành công góp phần tạo được việc làm, nâng cao nghề
nghiệp, kiến thức, góp phần cải thiện cuộc sống bản thân và hỗ trợ
được cho gia đình, xã hội .
Tuy nhiên với những nổ lực trên công tác Xuất khẩu lao động
chỉ phát triển được trong năm 2008 và bắt đầu có chiều hướng giảm
dần trong năm 2009, 2010. Số lao động của thành phố tham gia xuất
khẩu chủ yếu là khu vực nông thôn. Trong năm 2010 số lao động xuất
khẩu ra thị trường nước ngoài có xu hướng giảm. Lao động xuất khẩu
đi làm việc chủ yếu tại các nước Hàn Quốc, Malayxia, Đài Loan, Lào,
Camphuchia… với công việc chủ yếu là làm công nhân tại các trang
trại và nhà máy.
Nguyên nhân chính của tình trạng này là hạn chế trong nhận
thức về việc làm của người dân nông thôn, cùng với những bất trắc về
thị trường lao động ở nước ngoài đã làm số lượng lao động xuất khẩu
của hầu hết các vùng tăng chậm sở dĩ số lao động xuất khẩu giảm sút
là do những thị trường truyền thống không còn sức hút với người lao
động. Như Malaysia, tuy có nhu cầu lao động lớn, phù hợp với trình độ
12
lao động của thành phố, nhưng lương mỗi tháng chỉ từ 6.000.000 đồng
đến 7.000.000 đồng, trong khi công việc khá vất vả rủi ro cao.
Những thị trường khác lương cao hơn nhưng đòi hỏi trình độ
lao động kỹ thuật cao. Còn lao động xuất khẩu sang hai nước Lào,
Campuchia có số lao động tham gia luôn tăng năm 2008 là 150 người,
năm 2009 là 197 người, năm 2010 là 282 người nhưng chủ yếu là hợp
đồng giữa các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh đang trồng cao su và làm
thủy điện, chỉ mang tính thời vụ, thiếu bền vững. Lao động tại hai nước
này chủ yếu là người dân tộc thiểu số, không muốn xa nhà, làm việc tự
do nên chỉ một thời gian là bỏ về nước, khiến nhiều doanh nghiệp khó
khăn và không dám sử dụng lâu dài.
2.3.4. Chính sách tín dụng hỗ trợ giải quyết việc làm
Bảng 2.9: Tín dụng hỗ trợ giải quyết việc làm
Năm
Số dự án
Số tiền
(đồng)
Giải quyết việc
làm (người)
2008
8
800.000.000
170
2009
8
800.000.000
171
2010
2
200.000.000
40
Tổng cộng
18
1.800.000.000
382
(Nguồn: Phòng Lao động thành phố Pleiku)
2.4. KẾT QUẢ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO LAO ĐỘNG
TRONG NHỮNG NĂM QUA
Bảng 2.10: Lao động được giải quyết việc làm giai đoạn 2008 – 2010
Năm
Chỉ tiêu
ĐVT
2008
2009
2010
Tổng số lao động
Người
113.809
118.243
124.883
Lao động được giải
quyết việc làm
Người
3.725
3.950
4.250
Tỷ lệ thất nghiệp
%
3,24
3,14
2,88
(Nguồn: Phòng thống kê thành phố Pleiku)
13
2.5. ĐÁNH GIÁ CHUNG
2.5.1. Những thuận lợi trong quá trình giải quyết việc làm
cho lao động thành phố Pleiku
Từ sự phân tích những kết quả đã đạt được trong những năm
qua của thành phố cho thấy, việc tạo công ăn việc làm ở thành phố
Pleiku là có rất nhiều yếu tố thuận lợi.
Một là: Theo quy hoạch của Tỉnh, thành phố sẽ là thành phố
trung tâm của Tỉnh, chính vì lẽ đó mà kinh tế đầu tư vào thành phố sẽ
tăng lên, kèm theo đó là các khu công nghiệp, các khu giải trí, du lịch
sinh thái phát triển, sẽ thu hút được nhiều lao động vào làm việc.
Hai là, cùng với xu thế hội nhập, tỉnh Gia Lai nói chung và
thành phố Pleiku nói riêng sẽ có điều kiện nâng cao điều kiện sản xuất,
giải quyết việc làm thông qua hoạt động xuất khẩu lao động, đưa lao
động đi đào tạo nước ngoài. Điều đó sẽ giúp cho thành phố phát huy và
khai thác những tiềm năng sẵn có của mình để tự chuyển mình thành
một nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng và phát triển vững chắc. Những
thành tựu đó là kết quả của quá trình đổi mới của các cấp, các ngành và
các hội đoàn thể đã chung sức đem sức lực của mình để góp phần xây
dựng đất nước ngày càng giàu đẹp.
2.5.2. Những tồn tại và nguyên nhân của những tồn tại
trong giải quyết việc làm cho lao động của thành phố Pleiku
a Những tồn tại trong giải quyết việc làm cho lao động
b. Nguyên nhân của những tồn tại trong giải quyết việc làm
cho lao động
14
CHƯƠNG 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM GIẢI QUYẾT VIỆC
LÀM CHO LAO ĐỘNG THÀNH PHỐ PLEIKU TRONG THỜI
GIAN ĐẾN
3.1. QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU VÀ PHƯƠNG HƯỚNG GIẢI
QUYẾT VIỆC LÀM CHO LAO ĐỘNG THÀNH PHỐ PLEIKU
ĐẾN NĂM 2015
3.1.1. Quan điểm
Để giải quyết việc làm cho lao động cần phải có sự chuyển
biến thật sự trong quan điểm và nhận thức đúng đắn về việc làm. Phát
huy sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội để giải quyết việc làm.
Vấn đề giải quyết việc làm là công việc của toàn xã hội, là
trách nhiệm và nhiệm vụ của Đảng, Nhà nước, của các ngành, các cấp,
các tổ chức xã hội và của mỗi người lao động.
Giải quyết việc làm phải căn cứ vào hiệu quả kinh tế – xã hội
để lựa chọn các dự án phát triển kinh tế. Giải quyết việc làm phải dựa
trên cơ sở nâng cao chất lượng nguồn lao động.
3.1.2. Mục tiêu giải quyết việc làm
Giải quyết việc làm cho người lao động là một trong những
mục tiêu quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của
tỉnh. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải đồng thời với quá trình
chuyển dịch cơ cấu lao động cho phù hợp với tiến trình đó, đây là một
xu hướng tất yếu và cũng là quy luật của quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nền kinh tế.
Giải quyết tốt mối quan hệ giữa cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao
động tạo ra cơ cấu lao động ngày càng tăng phù hợp với cơ cấu kinh tế
đang trong quá trình chuyển đổi.
Chuyển dịch cơ cấu lao động đóng góp vào sự phân bố lại lao
động hợp lý giữa các vùng, các ngành, các nghề, tạo điều kiện cho
người lao động lựa chọn được nghề nghiệp phù hợp, tăng cơ hội tìm
15
được việc làm, mang lại thu nhập cao hơn. Do đó, chuyển dịch cơ cấu
lao động góp phần làm xích lại khoảng cách giữa cung và cầu về lao
động; và do đó, chuyển dịch cơ cấu lao động được coi là một giải pháp
tích cực tạo việc làm, giảm thiểu thất nghiệp.
3.1.3. Phương hướng giải quyết việc làm
– Thúc đầy quá trình đô thị hoá nông thôn làm cơ sở cho quá
trình đẩy nhanh việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế và phân công lao động
ở khu vực nông thôn, bằng cách xây dựng các công trình cấu trúc hạ
tầng giao thông, thông tin liên lạc, các trung tâm thương mại, dịch vụ
… khuyến khích lao động tự tạo việc làm ngay tại quê hương mình.
– Liên doanh liên kết với các doanh nghiệp trong và ngoài địa
phương để tận dụng lao động tại chỗ nông nhàn. Khuyến khích có ưu
đãi với những doanh nghiệp đầu tư vào thành phố có sử dụng lao động
của thành phố.
– Phát triền ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, thúc đẩy công
nghiệp chế biến nông lâm sản và tăng cường quản lý việc khai thác
nguồn tài nguyên, công nghiệp khai khoáng.
– Nâng cao trình độ lao động ở các cấp học chú trọng đào tạo
công nhân lành nghề, gắn chương trình đào tạo nghề với nhu cầu thực
tiễn đảm bảo cho người lao động học nghề có trình độ tay nghề đáp
ứng nhu cầu tuyển dụng của thị trường. Trên cơ sở đó, xây dựng đầu tư
trang thiết bị trong các trường, nâng cao trình độ cán bộ giảng dạy.
a Định hướng phát triển theo ngành
b. Định hướng phát triển theo vùng
3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM GIẢI QUYẾT VIỆC
LÀM CHO LAO ĐỘNG THÀNH PHỐ PLEIKU
3.2.1. Tăng cường công tác đào tạo nghề cho lao động
Huy động mọi nguồn lực để nâng cấp xây dựng có bản, đổi
mới trang thiết bị đồ dùng, phương tiện dạy học, khuyến khích và động
viên đội ngũ giáo viên tự trang bị thiết bị dạy nghề, phối hợp với các
16
doanh nghiệp, cơ sở sản xuất để sử dụng trang thiết bị, công nghệ kỹ
thuật dạy và thực tập nghề, đưa dần công nghệ thông tin, công nghệ tự
động hoá vào sự trợ giúp giảng dạy của giáo viên và học tập của học
sinh.
Nâng trao trình độ chuyên môn và kỹ năng sư phạm, cập nhật
kiến thức kỹ thuật công nghệ mới cho đội ngũ giáo viên dạy nghề; có
chính sách thu hút người có học vị cao, người có kinh nghiệm, các
nghệ nhân, thợ giỏi về làm giáo viên ở các cơ sở dạy nghề; tổ chức
thường xuyên phong trào luyện tay nghề, thi thợ giỏi, giáo viên giỏi, có
chính sách khen thưởng, động viên chính đáng.
Tăng cường hỗ trợ chính sách cho công tác dạy nghề; ban hành
các chính sách huy động vốn và tín dụng, chính sách đất đai, tạo quan
hệ bình đẳng giữa các cơ sở dạy nghề công lập và ngoài công lập, hỗ
trợ, tạo mọi điều kiện cho người lao động có cơ hội học nghề và tìm
kiếm việc làm.
Phối hợp với các cơ sở dạy nghề của tỉnh, liên kết với các cơ
sở dạy nghề ở địa phương khác mở các lớp đào tạo nghề tại chổ với
từn ngành nghề phù hợp với trình độ văn hoá, điều kiện hoàn cảnh gia
đình và thực tế nguồn lực địa phương, lựa chọn những đơn vị dạy nghề
có kinh nghiệm, am hiểu tận tường nghề đào tạo và yêu cầu của người
lao động, đặc biệt chú trọng khâu thực hành. Để giải quyết vấn đề “đầu
ra” các khoá học nghề:
Công tác đào tạo nghề cần gắn liền với dịch vụ hỗ trợ với
phương châm “vận động lao động đi đôi với hỗ trợ lao động”[3]. Đào
tạo nghề là chìa khoá chuyển đổi ngành nghề hiệu quả, phát triển kinh
tế, từng bước ổn định cuộc sống. Các ngành nghề đào tạo chủ yếu
như: may công nghiệp, sửa chữa máy công nghiệp, chăm nuôi thú y,
bảo vệ thực vật, cơ khí, trồng rau sạch, nữ công gia chánh, thực phẩm,
các ngành dịch vụ… phải đào tạo thường xuyên để đáp ứng được nhu
cầu ngày càng cao của hội viên. Hình thức đào tạo là tổ chức sản suất
17
kinh doanh và giới thiệu việc làm tại chổ cho người lao động, hay có
thể tổ chức dạy nghề lưu động, mang kỹ thuật ngành nghề đến với hội
học viên, kết hợp vừa học vừa thực hành, dạy nghề một cách trực quan
sinh động học viên tận dụng được thời gian lúc nông nhàn, ít tốn kém
chi phí đi lại.
Hỗ trợ tăng cường các hoạt động đào tạo nâng cao nguồn nhân
lực, tranh thủ khoảng thời gia nhàn rỗi. Đặc biệt ưu tiên đào tạo lao
động xuất khẩu, chuẩn bị để đáp ứng tốt hơn nhu cầu lao động quốc tế
sau khủng hoảng (các ngành nghề đào tạo như: công nghệ thông tin,
điện tử viễn thông, tự động hoá…), hỗ trợ dự án đào tạo nghề cho
thanh niên nông thôn, nông dân người nghèo và những người tàn tật
thông qua các gói hỗ trợ dạy nghề và nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực, kéo dài thời gian đào tạo của học viên, sinh viên thông qua chính
sách khuyến khích học viên, sinh viên học bổ sung, mở rộng, nâng cao
kiến thức và tham gia bậc cao hơn sau khi tốt nghiệp.
Đào tạo nghề nâng cao chất lượng lao động để người lao động
có cơ hội chọn lựac ngành nghề, công việc đáp ứng yêu cầu sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá địa phương để giải quyết việc làm tại
chổ tham gia xuất khẩu lao động, coi xuất khẩu lao động là một giải
pháp xoá đói giảm nghèo có hiệu quả. Tăng cường tư vấn, tuyên truyền
phổ biến và tạo điều kiện cho người lao động tích cực tham gia xuất
khẩu lao động, phấn đấu mỗi năm có trên 100 người lao động tham gia
xuất khẩu.
3.2.2. Đẩy mạnh công tác hướng nghiệp và giới thiệu việc
làm
– Tăng cường tổ chức các câu lạc bộ hướng nghiệp, hoạt động
ngoại khoá giao lưu với đơn vị sử dụng lao động, giúp người học bổ
sung kiến thức thực tế và các kỹ năng cần thiết để hoà nhập với môi
trường làm việc sau khi tốt nghiệp đồng thời tạo điều kiện mử rộng cho
các giao dịch trực tìm tiếp giữa người lao động và người sử dụng lao
18
động, đáp ứng nhanh nhu cầu giữa người tìm và việc tìm người.
– Phối hợp với các tổ chức cá nhân, đơn vị sử dụng lao động
trong việc đào tạo đáp ứng nhu cầu của xã hội. Đào tạo theo nhu cầu
của doanh nghiệp, đào tạo theo địa chỉ, theo hợp đồng đảm bảo chất
lượng. Khắc phục tình trạng người lao động đến doanh nghiệp đúng
nghề đào tạo, nhưng không đáp ứng yêu cầu, phải đào tạo lại hoặc đào
tạo không gắn giữa cung và cầu dẫn đến nghề thừa, nghề thiếu.
– Liên lạc, phối hợp với những người đã từng học tập tại
trường, các tổ chức, cá nhân trong các hoạt động thực tập, thực hành,
hướng nghiệp, tư vấn việc làm và các hoạt động khác nhằm hỗ trợ
người học.
– Phối hợp với tổ chức Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí
Minh, Hội Sinh viên, Hội Liên hiệp thanh niên Việt Nam trong các
hoạt động hướng nghiệp, tư vấn việc làm.
– Thường xuyên đào tạo bồi dưỡng cán bộ làm việc tại đơn vị
thực hiện công tác hướng nghiệp, tư vấn và giới thiệu việc làm để có
chuyên môn, nghiệp vụ phù hợp với nhiệm vụ được giao; có kinh
nghiệm, nhiệt tình, năng động, sáng tạo, đáp ứng các yêu cầu mới, tâm
huyết với công việc. Cần có chính sách hợp lý về chế độ tiền lương,
tiền thưởng cho cán bộ làm việc tại đơn vị thực hiện công tác hướng
nghiệp.
– Thực hiện đầu tư cơ sở kỹ thuật, trang thiết bị cần thiết để
thực hiện công tác hướng nghiệp.
– Khuyến khích sự hỗ trợ đầu tư của các tổ chức, các cá nhân
trong và ngoài nước để có nguồn kinh phí thực hiện công tác hướng
nghiệp và giới thiệu việc làm.
– Các cơ quan chức năng của thành phố cần làm tốt việc tham
mưu với chính quyền địa phương chủ động tìm những doanh nghiệp có
những điều kiện thuận lợi về thu nhập, điều kiện làm việc, chế độ
chính sách với người lao động, cũng như việc làm của người lao động
19
để từ đó phối hợp tổ chức các lớp tư vấn, giới thiệu việc làm cho người
lao động. Thông qua hình thức giới thiệu trực tiếp việc làm cho người
lao động, người lao động có thêm điều kiện trong việc nắm bắt thông
tin về việc làm.
– Các trung tâm giới thiệu việc làm cố gắng tiếp tục đổi mới
hoạt động, xây dựng Website, xây dựng và tập hợp các dữ liệu thông
tin về giới thiệu việc làm và nhu cầu nhận lao động ở các doanh nghiệp
để người lao động thuận tiện tiện trong việc liên lạc đăng ký tìm việc
làm. Bằng các hình thức tuyên truyền, cung cấp t ờ rơi, thông qua tổ
chức hội nghị để giới thiệu hoạt động của Trung tâm về những nghề
đào tạo và nhu cầu tuyển dụng lao động của các cơ quan, doanh
nghiệp, tuyên truyền phổ biến tới các cấp công đoàn…
– Tư vấn cho người học một só ký năng khi tìm việc như: làm
hồ sơ, viết đơn xin việc, xử lý tình huống phỏng vấn, giao tiếp với
người tuyển dụng…
3.2.3. Phát triển các ngành sản xuất
Đối với ngành công nghiệp
Đối với ngành nông nghiệp
Đối với ngành thương mại – dịch vụ
3.2.4. Mở rộng, phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ
Khuyến khích các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất tư nhân để
khai thác tối đa tìm năng thế mạnh của địa phương trên lĩnh vực ngành
nghề như xây dựng dân dụng, cơ khí gò hàn, chế biến nông sản, may
mặc, cao su, dịch vụ nhà hàng, khách sạn.
Khuyến khích thu hút mạnh các doanh nghiệp nhỏ và vừa,
kinh tế hộ gia đình trong nông nghiệp bỏ vốn đầu tư. Tăng cường khả
năng tiếp cận các nguồn vốn từ các ngân hàng và các tổ chức tín dụng
cung ứng vốn với lãi suất ưu đãi, đầu tư phát triển sản xuất.
Cần nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ làm công tác khuyến
nông, khuyến công: cử cán bộ đi tập huấn và kiểm tra kết quả tập huấn
20
bằng thực tế. Đồng thời chấn chỉnh bộ máy cơ quan đăng ký kinh
doanh; xây dựng phương án củng cố kiện toàn, nâng cao năng lực để
thống nhất đăng ký kinh doanh tất cả các loại hình doanh nghiệp trên
địa bàn.
Khuyến khích các doanh nghiệp tham gia liên kết ngành ở mọi
cấp và hỗ trợ phát triển các hiệp hội doanh nghiệp để bảo vệ lợi ích của
doanh nghiệp trong hội nhập và cạnh tranh. Phát triển thị trường, xúc
tiến thương mại và đầu tư, phổ biến thông tin kỹ thuật, công nghệ tới
các doanh nghiệp và nâng cao năng lực của các doanh nghiệp trong
việc xác định, lựa chọn và thích ứng với công nghệ.
Hướng dẫn bồi dưỡng kiến thức, năng lực tổ chức quản lý và
phát triển doanh nghiệp cho chủ doanh nghiệp, những người có nguyện
vọng thành lập doanh nghiệp, tạo điều kiện cho các lao động không có
việc làm lập các dự án nhỏ vay vốn ưu đãi để phát triển sản xuất tạo
việc làm. Đồng thời ưu tiên tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tư
nhân, các cơ sở sản xuất có nhiều khả năng tạo được nhiều chổ làm
được vay vốn ưu đãi mở rộng quy mô thu hút lao động trên địa bàn
thành phố.
3.2.5. Thực hiện chính sách sử dụng lao động và xuất khẩu
Khuyến khích phát triển các doanh nghiệp đến đầu tư tại địa
phương có sử dụng nhiều lao động tại chỗ, đặc biệt ưu đẫi về giá thuê
đất cho doanh nghiệp, có chính sách đào tạo nghề cho lao động địa
phương.
Hỗ trợ các doanh nghiệp đang sử dụng và có khả năng sử dụng
nhiều lao động như dệt may, da giày, chế biến … với cam kết giải
quyết việc làm thông qua các gói hỗ trợ tín dụng ưu đãi, giảm thuế, hỗ
trợ xuất khẩu, hỗ trợ quỹ lườn, bảo hiểm …
Thường xuyên cập nhật thị trường lao động, nhu cầu việc làm
và khả năng thu hút của các doanh nghiệp, các ngành nghề trên cơ sở
đó xây dựng kế hoạch giải pháp giải quyết việc làm hàng năm.
21
Phối hợp với các công ty xuất khẩu lao động thường xuyên
tuyên truyền tư vấn cho vay vốn, giáo dục định hướng tạo mọi điều
kiện cho người lao động đi xuất khẩu. Tăng cường công tác tuyên
truyền, tư vấn, giới thiệu việc làm bắng nhiều hình thức, đa dạng hoá
các nội dung tư vấn; tư vấn pháp luật chọn nơi làm việc, lựa chọn
ngành nghề phù hợp … Thiết lập kênh thông tin lao động việc làm
miễn phí thường xuyên phát sóng qua tivi, đài. Thông báo công khai,
cụ thể về thị trường lao động, số lượng, thời gian, tiêu chuẩn tuyển
chọn, điều kiện lao động, pháp luật về lao động của nước có nhu cầu
lao động cũng như các chi phí, mức lương và quyền lợi được hưởng để
người lao động tìm hiểu và có kế hoạch lựa chọn tham gia xuất khẩu
lao động.
Mở rộng thị trường xuất khẩu lao động, một mặc khai thác các
thị trường truyền thống như: Malaixia, Đài Loan, Hàn Quốc … đồng
thời mở rộng xuất khẩu lao động sang thị trường có thu nhập cao và có
nhu cầu lớn về lao động như đưa người lao động đi làm nghề nông ở
Mỹ hay xuất khẩu lao động sang Châu Âu, Trung Đông…
Cần lập quỹ xuất khẩu lao động để có nguồn hỗ trợ kinh phí
cho người nghèo nhất là người lao động thuộc diện chính sách để họ có
đủ điều kiện đi xuất khẩu lao động.
3.2.6. Thực hiện chính sách tín dụng
Mở rộng hơn nữa các chương trình vay vốn đến tận tay người
dân thông qua các tổ chức tín dụng, các ngân hàng, các tổ chức đoàn
thể ở địa phương hội phụ nữ, hội nông dân, đoàn thanh niên. Việc vay
vốn phải xác định đúng đối tượng được vay, số lượng vốn vay phải
đảm bảo cho người đi vay có đủ khả năng tái sản xuất mở rộng, các
phương thức thu hồi vốn phải phù hợp với đặc điểm và chu kỳ sản xuất
nông nghiệp. Vì vậy cần thẩm định kế hoạch dự án, lựa chọn các dự án
có tính khả thi cho vay vốn ưu đãi, đảm bảo các hộ nghèo, khó khăn
được vay vốn, đặc biệt cho vay ưu tiên phát triển các doanh nghiệp nhỏ
22
và vừa hoạt động trên các lĩnh vự công nghiệp, chế biến nông sản, dịch
vụ, phát triển trang trại, chế biến thức ăn gia súc phục vụ chăn nuôi tập
trung, tạo nhiều việc làm cho lao động.
Cùng với việc cho vay vốn thì cần phải làm tốt công tác
khuyến nông. Cần hướng dẫn và tư vấn cho người dân cách thức đầu
tư và sử dụng vốn vay để việc đầu tư mang lại hiệu quả cao và giám sát
việc sử dụng vốn vay thông qua các tổ chức đoàn thể ở địa phương.
Tránh tình trạng sử dụng vốn vay không đúng mục đích và không có
khả năng hoàn trả (thực hiện tốt công tác thông tin hai chiều, duy trì
lịch trực báo để kịp thời sơ kết đúc kết kinh nghiệm).
Hoàn thiện có chế chính sách phù hợp với điều kiện thực tế
của địa phương, tạo ra sự thông thoáng trong việc triển khai thực hiện
ở các cấp, đơn giản thủ tục hành chính, công khai hoá và thực hiện
đúng vai trò của cơ quản lý quản lý nhà nước trong quan hệ với chủ thể
kinh tế, giúp các chủ thể kinh tế được hưởng các chính sách ưu đãi.
Người lao động phải biết phải huy động vốn từ nguồn vốn tự
có của bản thân, của gia đình và quan trọng là xác định kế hoạch sử
dụng và phân bổ vốn vay cho từng khâu của quá trình sản xuất cho hợp
lý và đem lại hiệu quả đồng vốn cao nhất. Tranh thủ tối đa các nguồn
vốn hỗ trợ của ngân hàng với lãi suất thấp, các chương trình dự án tài
trợ trong và ngoài nước.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Việc làm và vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động là
một trong những nhiệm vụ quan trọng của toàn Đảng, toàn dân, của
các cấp, các ngành. Trong những năm qua Đảng và Nhà nước đã có
nhiều biện pháp để giải quyết việc làm cho lao động, thông qua các
chương trình, dự án phát triển kinh tê – xã hội, các chương trình, dự án
23
giải quyết việc làm. Nhờ đó hàng năm chúng ta đã giải quyết hàng
triệu lao động, cơ cấu lao động đã từng bước chuyển dịch theo hướng
tích cực, tỷ lệ thất nghiệp của lao động giảm dần. Tuy nhiên, tốc độ
tăng dân số còn cao, số người cần được giải quyết việc làm còn tồn
đọng khá nhiều. Do đó sức ép về việc làm khá lớn.
Pleiku kinh tế xuất phát điểm của nền kinh tế thấp, mật độ dân
số cao, tài nguyên có hạn, tốc độ phát triển kinh tế chậm, tình trạng
thất còn nghiệp nhiều. Vì vậy, vấn đề giải quyết việc làm, đảm bảo đời
sống của người lao động là rất cần thiết.
Nhận thức được vị trí, vai trò của vấn đề giải quyết việc làm
trong những năm qua, Uỷ ban, hội đồng nhân dân, phòng lao động,
phòng nông nghiệp, Trung tâm xúc tiến việc làm của thành phố… đã
có nhiều chủ trương, chính sách để giải quyết việc làm cho lao động.
Trong những năm qua đã tạo ra việc làm cho hàng nghìn người lao
động. Hệ số sử dụng thời gian lao động ở nông thôn tăng lên, tỷ lệ thất
nghiệp ở đô thị giảm xuống, chất lượng nguồn lao động bước đầu có
tiến bộ, từng bước đáp ứng được yêu cầu của thị trường sức lao động
trong và ngoài tỉnh.
Tuy nhiên, trong giải quyết vấn đề lao động và việc làm của
thành phố còn nhiều tồn tại: Trong những năm qua kinh tế tuy phát triển
nhưng chưa đáp ứng yêu cầu đề ra, chuyển dịch cơ cấu kinh tế bước đầu
có kết quả song còn chậm; lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ có tiềm
năng nhưng do nguồn lực đầu tư còn hạn chế nên chưa được mở rộng,
phát triển. Lao động chưa qua đào tạo còn khá lớn, chất lượng nguồn lao
động thấp, cơ chế chính sách giải quyết việc làm còn thiếu đồng bộ và
chưa đủ mạnh… Vì vậy, sức ép về lao động và việc làm vẫn còn là vấn đề
bức xúc và khó khăn. Để nhanh chóng giảm được sức ép về lao động và
giải quyết việc làm cần thực hiện một số giải pháp:
– Tổ chức công tác đào tạo nâng cao năng lực cho cán bộ thực
hiện chương trình giải quyết việc làm ở các cấp, hướng dẫn các chủ dự án