10613_Nét tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia

luận văn tốt nghiệp

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM
PHÒNG QUẢN LÝ ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

Đề tài số 2 :
“ NÉT TƢƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT
GIỮA NHO GIA VÀ ĐẠO GIA”

GVHD : TS. Bùi Văn Mƣa

SVTH : Nguyễn Chất Phát

STT : 51

Nhóm : 6

Lớp : Cao học Ngày 4 – k22

Thành phố Hồ Chí Minh, Tháng 12 Năm 2012
Nét tƣơng đồng và khác biệt giữa Nho Gia & Đạo Gia

2
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ……………………………………………………………………………………. 4
CHƢƠNG I: LỊCH SỬ HÌNH THÀNH , NỘI DUNG , ĐẶC ĐIỂM CỦA NHO
GIA VA
̀ ĐẠO GIA ……………………………………………………………………………. 5
1.1. Khái quát về Nho Gia
………………………………………………………………….. 5
1.1.1 Lịch sử hình thành ………………………………………………………………………. 5
1.1.2 Nội dung cơ bản của Triết học Nho Gia
…………………………………………. 6
1.1.3 Các tác phẩm tiêu biểu của Nho Gia ……………………………………………… 6
1.2. Khái quát về Đạo Gia ………………………………………………………………….. 6
1.2.1 Lịch sử hình thành ………………………………………………………………………. 6
1.2.2 Nội dung cơ bản của Triết học Đa ̣
o Gia …………………………………………. 7
1.2.3 Các tác phẩm nổi tiếng của Đa ̣
o Gia ……………………………………………… 8
CHƢƠNG II: SƢ̣ TƢƠNG ĐÔ
̀ NG VA
̀ KHA
́ C BIỆT GIƢ
̃ A NHO GIA VA
̀ ĐẠO
GIA …………………………………………………………………………………………………… 9
1. Sƣ̣ tƣơng đồng và khác biê ̣
t về li ̣
ch sƣ
̉ hình thành ……………………………….. 9
2. Sƣ̣ tƣơng đồng và khác biê ̣
t giƣ̃a Nho Gia và Đa ̣
o Gia về quan điểm …….. 10
2.1. Khởi nguyên vũ trụ
……………………………………………………………………….. 10
2.2. Thế giới quan – Nhân sinh quan……………………………………………………… 11
2.3. Những tƣ tƣởng biện chứng …………………………………………………………… 14
2.4. Quan điểm chính trị xã hội
…………………………………………………………….. 16
2.5. Về phƣơng châm xử thế ………………………………………………………………… 18

CHƢƠNG III : KẾ T LUẬN
…………………………………………………………………. 20

TÀI LIỆU KHAM THẢO ……………………………………………………………………. 21

Nét tƣơng đồng và khác biệt giữa Nho Gia & Đạo Gia

3

NHẬN XE
́ T CU
̉ A GIA
́ O VIÊN

……………………………………………………………………………………………………….

……………………………………………………………………………………………………….

……………………………………………………………………………………………………….

……………………………………………………………………………………………………….

……………………………………………………………………………………………………….

……………………………………………………………………………………………………….

……………………………………………………………………………………………………….

……………………………………………………………………………………………………….

……………………………………………………………………………………………………….

……………………………………………………………………………………………………….

……………………………………………………………………………………………………….

……………………………………………………………………………………………………….

……………………………………………………………………………………………………….

……………………………………………………………………………………………………….

……………………………………………………………………………………………………….

……………………………………………………………………………………………………….

……………………………………………………………………………………………………….

Nét tƣơng đồng và khác biệt giữa Nho Gia & Đạo Gia

4
LỜI MỞ ĐẦU

Lý do chọn đề tài : Trong bối cảnh xã hội Trung Hoa đầy biến động giai đoạn
Xuân thu, Chiến quốc, nhiều hệ thống triết học đã ra đời và phát triển nhằm đƣa ra
những phƣơng cách giải quyết khác nhau cho những vấn đề thực tiễn chính trị – đạo
đức – xã hội mà thời đại đặt ra. Tiêu biểu là hai trƣờng phái Nho gia và Đạo gia. Hai
trƣờng phái triết học này có ảnh hƣởng rất lớn đến thế giới quan của Triết học sau này,
không những của ngƣời Trung Hoa mà cả những nƣớc chịu ảnh hƣởng của nền Triết
học Trung Hoa, trong đó có Việt Nam. Do đó, việc nghiên cứu về hai trƣờng phái triết
học này là rất cần thiết.

Mục tiêu của đề tài : Quá trình tìm hiểu tƣ tƣởng Triết học của Nho gia – Đạo
gia góp phần đƣa ra những nhận định về những tƣ tƣởng chủ đạo của hai hệ thống học
thuyết này, qua đó đánh giá đƣợc những ảnh hƣởng của của nó đến đặc trƣng tƣ tƣởng
của Triết học Phƣơng Đông và phần nào hiểu biết thêm về sự phát triển tƣ tƣởng của
Việt Nam dƣới ảnh hƣởng của tƣ tƣởng triết học Trung Hoa.

Phạm vi nghiên cứu : Nét tƣơng đồng – khác biệt giữa hai trƣờng phái Nho gia
– Đạo gia và sự ảnh hƣởng của hai trƣờng phái này tới xã hội Việt Nam.

Phƣơng Pháp Nghiên Cứu:
o Cơ sở phương pháp luận: Đề tài đƣợc triển khai dựa trên nội dung của triết học
Nho gia và Đạo gia.
o Các phương pháp cụ thể: Trong quá trình nghiên cứu và trình bày đề tài, các
phƣơng pháp nghiên cứu đã đƣợc sử dụng nhƣ: phƣơng pháp lịch sử, phƣơng
pháp phân tích tổng hợp,…
 Bố cục đề tài:
Chƣơng 1: Lịch sử hình thành, nội dung đă ̣
c điểm của Nho Gia và Đa ̣
o Gia
Chƣơng 2: Sự tƣơng đồng và khác biê ̣
t giƣ̃a Nho Gia và Đa ̣
o Gia
Chƣơng 3: Kết luâ ̣
n.
Nét tƣơng đồng và khác biệt giữa Nho Gia & Đạo Gia

5
CHƢƠNG I: LỊCH SỬ HÌNH THÀNH, NỘI DUNG, ĐẶC ĐIỂM CỦA NHO
GIA VÀ ĐẠO GIA
1.1. Khái quát về Nho Gia
1.1.1 Lịch sử hình thành
Nho Gia xuất hiện vào khoảng thế kỷ VI trƣớc công nguyên, dƣới thời Xuân Thu,
ngƣời sáng lập là Khổng Tử (551- 479 TCN). Đến thời Chiến Quốc, Nho gia đã đƣợc
Mạnh Tử và Tuân Tử hoàn thiện và phát triển theo hai xu hƣớng khác nhau: duy tâm
và duy vật trong đó dòng Nho gia Khổng- Mạnh còn đƣợc gọi là Nho gia nguyên thủy
[1,55] có ảnh hƣởng rộng và lâu dài nhất trong lịch sử Trung Hoa và một số nƣớc
phƣơng Đông lân cận.
Sang thời Tây Hán, Đổng Trọng Thƣ (179 – 104 TCN) đã dựa trên lợi ích giai
cấp phong kiến thống trị đã hoàn chỉnh thêm Nho Gia trong việc giải thích vạn vật, con
ngƣời và xã hội. Ông hệ thống hóa Tứ thƣ, Ngũ kinh đồng thời đƣa ra quan niệm tam
cƣơng, ngũ thƣờng, tam tòng, tứ đức và đã nhanh chóng trở thành tiêu chuẩn đạo đức
và nền tảng tƣ tƣởng xã hội, trở thành hệ tƣ tƣởng của giai cấp phong kiến Trung Quốc.
Nho gia từ đây không dừng lại với tƣ cách là một trƣờng phái triết học vƣơn lên thành
hệ tƣ tƣởng xã hội mà còn đƣợc mở rộng thành một hệ thống niềm tin, tín ngƣỡng-
nghi thức đƣợc phổ biến trong toàn xã hội [1,56], tức là Nho Gia đã trở thành Nho
Giáo.
Kế tiếp để trở thành tƣ tƣởng chính thống, Nho giáo đã đƣợc bổ sung và hoàn
thiện qua nhiều giai đoạn lịch sử trung Đại sau thời Tây Hán của Đổng Trọng Thƣ nhƣ
các nhà: Đƣờng, Tống, Minh, Thanh. Tiêu biểu hơn cả là dƣới triều nhà Tống, gắn liền
với tên tuổi của các bậc danh Nho nhƣ Chu Đôn Di, Trƣơng Tải, Trình Hạo, Trình Di.
Nho giáo chi phối đời sống tƣ tƣởng xã hội Trung Quốc qua nhiều thời kỳ tiếp
theo, nhƣng nhìn chung trong thời kỳ Minh-Thanh không có sự phát triển nổi bật mà
ngày càng khắt khe, bảo thủ. Điều này tạo ra sự trì trệ và lạc hậu kéo dài của Trung
Nét tƣơng đồng và khác biệt giữa Nho Gia & Đạo Gia

6
Quốc khi bƣớc sang thế kỷ XIX, làm cho Trung Quốc không bắt kịp trào lƣu văn minh
thế giới [1,57].
1.1.2 Nô ̣
i dung cơ bản củ a Triết ho ̣
c Nho Gia:
Nho Gia nguyên thủy mà cốt lõi là tƣ tƣởng Nho gia là triết lý của Khổng Tử,
Mạnh Tử về đạo làm ngƣời quân tử và cách thức trở thành ngƣời quân tử, cách cai trị
đất nƣớc [1, 57]. Nhƣ vậy Nho gia là một học thuyết chính trị nhằm tổ chức xã hội. Để
tổ chức xã hội có hiệu quả, điều quan trọng nhất là phải đào tạo cho đƣợc ngƣời cai trị
kiểu mẫu – ngƣời lý tƣởng này gọi là quân tử. Để trở thành ngƣời quân tử, con ngƣời ta
trƣớc hết phải “tự đào tạo”, phải “tu thân”. Sau khi tu thân xong, ngƣời quân tử phải có
bổn phận phải “hành đạo”.
Qua hệ thống kinh điển có thể thấy hầu hết là các kinh, các sách viết về xã hội,
chính trị- đạo đức là những tƣ tƣởng cốt lõi của Nho giáo.
1.1.3 Các tác phẩm tiêu biểu của Nho Gia:
Kinh điển của Nho gia thƣờng kể tới bộ Tứ thƣ và Ngũ kinh. Tứ thƣ có Trung
dung, Đại học, Luận ngữ, Mạnh Tử. Ngũ kinh có: Thi, Thƣ, Lễ, Dịch, Xuân Thu. Hệ
thống kinh điển đó hầu hết viết về xã hội, về những kinh nghiệm lịch sử Trung Hoa, ít
viết về tự nhiên. Điều này cho thấy rõ xu hƣớng biện luận về xã hội, về chính trị đạo
đức là những tƣ tƣởng cốt lõi của Nho gia. Những ngƣời sáng lập Nho gia nói về vũ trụ
và tự nhiên không nhiều.
1.2. Khái quát về Đạo Gia
1.2.1 Lịch sử hình thành:
Đạo Gia là một nhánh triết học và tôn giáo Trung Quốc, đƣợc xem là tôn giáo đặc
hữu chính thống của xứ này. Đa ̣
o Gia đƣợc Lão Tƣ
̉ sáng lâ ̣
p ra vào khoảng thế kỉ thứ
VI trƣớc CN, khi tác phẩm Đạo Đức kinh xuất hiện và sau đó đƣợc Trang Tử phát triển
thêm vào thời Chiến Quốc . Các tên gọi khác là Đạo Lão, Đạo Hoàng Lão , hay Đạo
Giáo.
Nét tƣơng đồng và khác biệt giữa Nho Gia & Đạo Gia

7
Đạo Gia thâu nạp nhiều tƣ tƣởng đã phổ biến từ thời nhà Chu (1040-256 trƣớc
CN). Thuộc về những tƣ tƣởng này là vũ trụ luận về thiên địa, ngũ hành, thuyết về
năng lƣợng, chân khí, thuyết âm dƣơng và Kinh dịch. Nhƣng ngoài chúng ra, những
truyền thống tu luyện thân tâm nhƣ điều hoà hơi thở, Thái cực quyền, Khí công, Thiền
định, thiết tƣởng linh ảnh, thuật luyện kim và những huyền thuật cũng đƣợc hấp thụ
với mục đích đạt trƣờng sinh bất tử.
Lão Tử đƣợc coi là ngƣời viết Đạo Đức Kinh – cuốn sách của Đạo giáo có ảnh
hƣởng lớn, và ông đƣợc công nhận là Khai tổ của Đạo giáo. Đến thờ i Trang Tử
(khoảng 369 – 286 tr.CN), học thuyết của Lão Tử mới lại đƣợc ngƣời đời chú ý.
Đạo giáo thờ “Đạo” và tôn Lão Tử làm giáo chủ, gọi là “Thái Thƣợng Lão
Quân”, coi ông là hóa thân của “Đạo” giáng sinh xuống cõi trần. Nếu mục đích của
việc tu theo Phật giáo là thoát khổ thì mục đích của việc tu theo Đạo giáo là sống lâu.
Đạo giáo có hai phái: Đạo giáo phù thủy dùng các pháp thuật trừ tà trị bệnh, chủ yếu
giúp cho dân thƣờng khỏe mạnh; Đạo giáo thần tiên dạy tu luyện, luyện đan, dành cho
các quý tộc cầu trƣờng sinh bất tử. Kinh điển của Đạo giáo gọi là Đạo tạng kinh; ngoài
sách về nghi lễ, giáo lý, Đạo tạng còn bao gồm cả các sách thuốc, dƣỡng sinh bói toán,
tƣớng số, coi đất, thơ văn, bút ký… tổng cộng lên đến trên 50 vạn quyển.
1.2.2 Nô ̣
i dung cơ bản củ a Triết ho ̣
c Đa ̣
o Gia:
Lão Tử đã phát triển khái niệm “Đạo”, với nghĩa là “Con đƣờng”, và mở rộng
nghĩa của nó thành quy luật hay nguyên lý của vũ trụ tuần hoàn và tác động lên vạn
vật: “đạo là cách thức của thiên nhiên”. Ông nhấn mạnh khái niệm vô vi, “hành động
thông qua không hành động”, “hành động thuận theo tự nhiên không có mục đích phi
tự nhiên”. Điều này không có nghĩa là ngƣời ta chỉ nên ngồi một chỗ và không làm gì
cả, mà là hành động thuận theo tự nhiên, hành động theo nguyên lý vũ trụ, không bị
ràng buộc vào mục đích cá nhân mạnh mẽ, vào dục vọng để đạt đƣợc một cái gì đó cụ
thể. Theo Ông, con ngƣời cần sống hòa hợp với thiên nhiên và tạo hóa, tuân theo quy
Nét tƣơng đồng và khác biệt giữa Nho Gia & Đạo Gia

8
luật của thiên nhiên, tu luyện để sống lâu và gần với Đạo. Những hành động đƣợc thực
hành theo Đạo rất dễ dàng và có hiệu quả hơn mọi cố gắng để chống lại nó. Ngƣời ta
hành động thuận theo tự nhiên khi thông qua tu luyện để hiểu về nguyên lý của vũ trụ,
tự nhiên, và cải biến bản thân mình thành sinh mệnh cao cấp hơn. Lão Tử tin rằng cần
phải tránh bạo lực khi có thể, và rằng một chiến thắng quân sự nên là dịp để đau buồn
thay vì ăn mừng chiến thắng.Lão Tử chỉ ra rằng các luật lệ để chuẩn hóa và cai trị chỉ
dẫn tới một xã hội khó kiểm soát hơn.
Kế thừa truyền thống của triết học cổ Trung Quốc, nguyên tắc trình bày quan
điểm triết học của Trang Tử là “có lời vì ý, đƣợc ý quên lời”. Vì vậy, tƣ tƣởng triết học
của ông đƣợc biểu hiện một cách đơn sơ lại huyền hoặc, nửa sáng, nửa tối, cảm nhận
đƣợc nhƣng không thể diễn đạt bằng lời. “Nó giống nhƣ một bức tranh mộc mạc,
đƣờng nét đơn sơ, nhƣng lại chứa đựng tất cả vì tất cả đang biến động, biến hóa nhƣ
rồng uốn lƣợn, cuộn mình tan lẫn trong mây”. Trang Tử – mặc dù rất có công trong
việc mài dũa viên ngọc “đạo” của Lão Tử nhƣng hết sức đề cao sự thực hành bằng
chính bản thân cuộc sống theo “đạo” (nguồn sống, đạo sống) hơn là việc suy ngẫm
nhƣng triết lý thâm trầm về đạo. Gần nhƣ đối lập với đạo Khổng mang bản thể trần tục,
ƣa thực tế, trọng thực nghiệm và đặc biệt tôn trọng chủ nghĩa nhân văn, Trang Tử kế
tiếp truyền thống tƣ tƣởng của Lão Tử, phát triển thành một hệ phái mà sau này ngƣời
ta thƣờng gọi một cách vắn tắt là Lão-Trang.
1.2.3 Các tác phẩm nổi tiếng của Đa ̣
o Gia
 Đạo Đức Kinh: là quyển sách do triết gia Lão Tử viết ra vào khoảng năm 600
TCN. Do đó, Đạo Đức Kinh còn đƣợc gọi là sách Lão Tử.
Đạo Đức Kinh gồm có 81 chƣơng với khoảng 5000 chữ Hán, chia làm 2 phần:
Thƣợng Kinh và Hạ Kinh.
 Thƣợng Kinh gồm 37 chƣơng, bắt đầu bằng câu: “Đạo khả Đạo phi thƣờng
Đạo”. Thƣợng Kinh luận về chữ Đạo nên đƣợc gọi là Đạo Kinh.
Nét tƣơng đồng và khác biệt giữa Nho Gia & Đạo Gia

9
 Hạ Kinh gồm 44 chƣơng, bắt đầu bằng câu: “Thƣợng Đức bất Đức thị dĩ hữu
Đức”. Hạ Kinh luận về chữ Đức nên đƣợc gọi là Đức Kinh.
Nam Hoa kinh : hay còn gọi Trang tử , Nam Hoa chân kinh là cuốn sách triết
học nổi tiếng thƣờng đƣợc cho là của Trang Châu thời Chiến Quốc viết. Cuốn sách
ngoài giá trị triết lý còn có giá trị nghệ thuật rất cao, đƣợc Kim Thánh Thán liệt vào
hạng nhất trong lục tài tử thƣ của Trung Quốc.
CHƢƠNG II: SƢ̣ TƢƠNG ĐÔ
̀ NG VÀ KHA
́ C BIỆT GIƢ̃ A NHO GIA VÀ
ĐẠO GIA
1. Sƣ̣ tƣơng đồng và khác biê ̣
t về li ̣
ch sƣ
̉ hình thành:
Nho gia và Đạo gia là hai trƣờng phái triết học lớn, đƣợc hình thành và phát triển
trong thời Xuân thu, Chiến quốc. Ra đời trên cơ sở kinh tế xã hội Đông Chu, so sánh
với Triết học phƣơng Tây và Ấn Độ cùng thời. Triết học Nho gia và Đạo gia có các đặc
điểm chung nổi bật nhƣ sau: nhấn mạnh tinh thần nhân văn, chú trọng đến chính trị đạo
đức, nhấn mạnh đến sự hài hòa và thống nhất giữa tự nhiên và xã hội, tƣ duy trực giác.
Về không gian, Nho gia và Đạo gia là hai trƣờng phái triết học lớn ra đời và phát
triển gắn liền với sự những thay đổi của đất nƣớc Trung Hoa rộng lớn. Chính sự đa
dạng về dân tộc, văn hóa, lối sống, ngôn ngữ, tâm linh,…ở các vùng miền khác nhau
đã dẫn đến những cuộc tranh chấp, xung đột kéo dài triền miên. Nhƣng cũng chính xã
hội đầy biến động ấy đã tạo nên một nền văn hóa Trung Hoa rực rỡ với sự phát triển
nhanh của chữ viết, sự ra đời của hàng loạt các tác phẩm tiểu thuyết, thơ ca, sử ký,…
Một xã hội với nhiều biến động và một nền văn hóa phát triển lừng lẫy là những
tiền đề rất lớn thúc đẩy các nhà tƣ tƣởng của các trƣờng phái, đặc biệt là hai trƣờng
phái Nho Gia và Đạo Gia ra đời.
Về thời gian, Nho Gia và Đạo Gia đƣợc hình thành và phát triển trong thời Đông
Chu. Chế độ sở hữu tƣ nhân về ruộng đất đƣợc hình thành thay thế cho chế độ ruộng
đất tĩnh điền trƣớc đó đã làm nảy sinh một loạt những thế lực chính trị mới. Đó là tầng
Nét tƣơng đồng và khác biệt giữa Nho Gia & Đạo Gia

10
lớp địa chủ mới đang lấn át và xung đột gay gắt với tầng lớp quý tộc cũ. Chính sự tranh
giành quyền lực, địa vị xã hội của các thế lực chính trị đã đẩy xã hội Trung Hoa cổ đại
vào tình trạng chiến tranh khốc liệt.
Do đó có thể nói, xã hội loạn lạc đã tạo ra một thời kỳ phát triển rực rỡ nhất của
nhiều học thuyết. Trong những học thuyết ấy, tƣ tƣởng triết học có tính hệ thống là
Nho gia và Đạo gia do đó đã ra đời cùng nhằm đƣa ra những phƣơng cách giải quyết
khác nhau cho những vấn đề thực tiễn chính trị- đạo đức- xã hội mà thời đại đặt ra.
Điểm kha
́ c biệt là khi học thuyết Khổng Tử mới xuất hiê ̣
n không trở thành tƣ
tƣởng chủ yếu ngay mà mãi đến thế kỷ thứ 2 trƣớc công nguyên, Trung Quốc lúc đó đã
là một nhà nƣớc theo thế độ tâ ̣
p quyền trung ƣơng lớn mạnh và thống nhất
. Trải qua
nhiều nỗ lực của giai cấp thống trị và các đại sĩ phu thời Hán, Khổng Tử và tƣ tƣởng
Nho gia của ông mới trở thành tƣ tƣởng chính thống. Còn Đạo Gia ra đời và phát triển
rực rỡ từ cuối thời Xuân Thu đến cuối thời Chiến Quốc. Trong cảnh loạn li cuối thời
Đông Hán (thế kỷ II TCN), tƣ tƣởng của Lão Tử cộng với chất duy tâm mà Trang Tử
đƣa vào đã trở thành cơ sở cho việc thần bí hóa đạo gia thành Đạo giáo. Chủ trƣơng vô
vi cùng với thái độ phản ứng của Lão – Trang đối với chính sách áp bức bóc lột của
tầng lớp thống trị khiến cho Đạo giáo rất thích hợp để dùng vũ khí tinh thần tập hợp
nông dân khởi nghĩa.
2. Sƣ̣ tƣơng đồng và khác biê ̣
t giƣ̃a Nho Gia và Đa ̣
o Gia về quan điểm.
2.1 Khởi nguyên vũ trụ:
 Quan niệm về đạo:
Cả hai trường phái đều đề cập đến khởi nguyên vũ trụ bắt nguồn từ Đạo. Đạo để
chỉ cái nguyên lí tuyệt đối của vũ trụ đã có từ trƣớc khi khai thiên lập địa, không sinh,
không diệt, không tăng, không giảm. Đạo có thể quan niệm dƣới hai phƣơng diện: vô
và hữu. Vô, thì Đạo là nguyên lí của trời đất, nguyên lí vô hình. Hữu, thì Đạo là
Nét tƣơng đồng và khác biệt giữa Nho Gia & Đạo Gia

11
nguyên lí hữu hình, là mẹ sinh ra vạn vật “Vô danh thiên địa chi thủy, hữu danh vạn
vật chi mẫu”.
Tuy nhiên, Lão tử cho rằng Đạo sinh ra vạn vật, Đức nuôi nấng, bảo tồn vạn vật .
Vạn vật nhờ Đạo mà đƣợc sinh ra , nhờ Đức mà thể hiện và khi mất đi là lúc vạn vật
quay trở về với đạo còn theo Khổng tử thì đạo đức là nền tảng của xã hội , là công cụ để
giữ gìn trật tự xã hội và hoàn thiện nhân cách cá nhân cho con ngƣời.
 Quan niệm về âm dương:
Nho Gia va
̀ Đạo Gia đều đề cập đến khởi nguyên vũ trụ bắt nguồn từ âm dương .
Âm và dƣơng theo khái niệm cổ sơ không phải là vật chất cụ thể, không gian cụ thể mà
là thuộc tính của mọi hiện tƣợng, mọi sự vật trong toàn vũ trụ cũng nhƣ trong từng tế
bào, từng chi tiết. Âm và dƣơng là hai mặt đối lập, mâu thuẫn nhƣng thống nhất, trong
Âm có Dƣơng và trong Dƣơng có Âm. Ngƣời ta còn nhận xét thấy rằng cơ cấu của sự
biến hoá không ngừng đó là ức chế lẫn nhau, giúp đỡ, ảnh hƣởng lẫn nhau, nƣơng tựa
lẫn nhau và thúc đẩy lẫn nhau.
Điểm khác biệt là Nho gia thì quan niệm Âm dƣơng sinh ra ngũ hành (Kim, Mộc,
Thủy, Hỏa, Thổ), từ đó sinh ra mọi biến đổi trong tự nhiên và xã hội; còn Đạo gia thì
quan niệm Âm dƣơng sinh ra 3 lực (Thiên, Địa, Nhân), từ đó sinh ra vạn vật.
2.2 Thế giới quan – Nhân sinh quan:
Nho Gia và Đa ̣
o Gia cho rằng
bản tính nhân loại đều có một tính gốc, đối với
Nho Gia tính gốc là tính thiện hay tính ác và với Đ ạo Gia thì tính gốc là khuynh hƣớng
“vô vi” hay “hữu vi”. “Vô vi” là khuynh hƣớng trở về nguồn gốc để sống với tự nhiên,
tức hợp thể với đạo.
Về đạo đức Nho Gia và Đa ̣
o Gia đều cho rằng “Đạo” liên quan đến sự phát triển,
tiến hoá của trời đất muôn vật : Đạo là quy luật biến chuyển, tiến hoá của vạn vật trời
đất (Nho Gia), Đạo là bản nguyên của vũ trụ, sáng tạo ra vạn vật , là phép tắc của vạn
vật, quy luật biến hóa tự thân của vạn vật(Đa ̣
o Gia).
Nét tƣơng đồng và khác biệt giữa Nho Gia & Đạo Gia

12
Cả hai cùng công nhận mối liên hệ chặt chẽ giữa Đạo va
̀ Đư
́ c . Nho Gia cho rằng
đƣờng đi lối lại đúng đắn phải theo để xây dựng quan hệ lành mạnh , tốt đẹp là đạo; noi
theo đạo một cách nghiêm chỉnh, đúng đắn trong cuộc sống thì có đƣợc đức trong sáng
quý báu ở trong tâm còn với Đạo Gia thì Đạo là quy luật biến hóa tự thân của vạn vật,
quy luật ấy gọi là Đức.
Trong quan điểm về con ngƣời cả hai trường phái tập trung chủ yếu vào xã hội
và con người, coi trọng hành vi cá nhân, hướng tới sự thống nhất, hài hòa giữa con
người và xã hội. Coi con ngƣời là chủ thể của đối tƣợng nghiên cứu: hƣớng vào nội
tâm – luôn cố gắng tìm tòi về bản thân con ngƣời và mối quan hệ giữa con ngƣời và xã
hội xung quanh và ít quan tâm đến khoa học tự nhiên. Đây chính là nguyên nhân dẫn
đến sự kém phát triển về nhận thức luận, là nguyên nhân sâu xa của sự kém phát triển
kinh tế, khoa học so với văn minh Phƣơng Tây (hƣớng ngoại).
Ta có thể tóm tắt tƣ tƣởng của hai trƣờng phái vào hai đặc điểm cá biệt: hòa hợp
và trọng truyền thống. Trong cả Nho học lẫn Ðạo học, ta đều thấy ý tƣởng về hòa hợp
tự nhiên cùng tính tƣơng liên của mọi sự vật, và minh triết đến từ sự thừa nhận trạng
thái đó, đồng thời sống hòa hợp dƣới ánh sáng khôn ngoan của nó. Nhìn từ viễn cảnh
hiện đại, Nho giáo lẫn Ðạo giáo đều có vẻ là tôn giáo, tuy thế, xét theo nguyên ngữ, cả
hai chỉ đƣợc đề cập tới một cách đơn giản là “giáo” với ý nghĩa giáo hóa, dạy bảo cách
sống sao phải đạo làm ngƣời.
Tư tưởng thực chứng luận, Khổng Tử và Nho gia nói chung ít quan tâm đến vấn
đề lý giải thế giới , nguồn gốc của vũ trụ. Tuy nhiên để tìm chổ dựa vững chắc cho lý
luận đạo đức của mình , Khổng Tử cho rằng vạn vật không ngừng biến hóa theo một
trật tự không gì cƣỡng lại đƣợc . Chúng ta cũng có thể bắt gặp tƣ tƣởng này trong Đạo
gia với quan niệm của Lão Tử về đạo: Đạo vừa mang tính khách quan (vô vi), vừa
mang tính phổ biến.
Nét tƣơng đồng và khác biệt giữa Nho Gia & Đạo Gia

13
Đều theo chủ nghĩa duy tâm, thể hiê ̣
n qua viê ̣
c Mạnh Tử hệ thống hóa triết học
duy tâm của Nho Gia trên phƣơng diện thế giới quan và nhận thức luận. Tƣ tƣởng triết
học của Tuân tử thuộc chủ nghĩa duy vật thô sơ
. Đạo Gia cũng đề cao tƣ duy trừu
tƣợng, coi khinh nghiên cứu sự vật cụ thể. Lão tử cho rằng “Không cần ra cửa mà biết
thiên hạ, không cần nhòm qua khe cửa mà biết đạo trời”.
Sự kha
́ c biệt rõ ra
̀ ng nhất trong thế giơ
́ i quan – nhân sinh quan giữa Nho Gia va
̀
Đạo Gia chính la
̀ tư tưởng nhập thế va
̀ xuất thế.
Nhập thế (Nho Gia ): Sống và hành động không theo tự nhiên, là áp đặt ý chí của
mình vào sự vật, .. con ngƣời sống và làm theo chuẩn mực cho mọi sinh hoạt chính trị
và an sinh xã hội (tam cƣơng, ngũ thƣờng, tam tòng, tứ đức…). Để trở thành ngƣời
quân tử, con ngƣời ta trƣớc hết phải “tự đào tạo”, phải “tu thân”. Có sự dao động trong
tƣ tƣởng của Ông giữa lập trƣờng duy vật và lập trƣờng duy tâm vì có khi tin có mệnh
trời: “Tử sinh có mệnh” (sống chết tại ở trời, không cãi đƣợc mệnh trời). Nhƣng có khi
lại không tin có mệnh trời: cho rằng trời là lực lƣợng tự nhiên không có ý chí, không
can thiệp vào công việc của con ngƣời.
Theo quan niệm của Nho giáo, con ngƣời không chỉ là con ngƣời xã hội mà còn
là con ngƣời siêu xuất xã hội, gọi là Thánh Nhân – là những con ngƣời vƣợt ra khỏi
đồng loại, siêu xuất trên xã hội ngƣời đời, và là kẻ siêu quần bạt tụy, là ngƣời đạt Đạo,
là Trời đƣợc nhân cách hóa (tức là đã Phối Thiên).
Quan niệm về con người xã hội: Trong xã hội, có những hạng ngƣời sống thuần
bằng bản năng nhƣ loài cầm thú, gọi là “tiểu nhân” còn ngƣợc lại “quân tử” là ngƣời
tiến hóa, biết khắc phục bản thân, hiểu mệnh trời, hiểu đạo lý và biết định mệnh con
ngƣời là gì. Quân tử và tiểu nhân có những mặt trái ngƣợc nhƣng không phải là hai mặt
đối lập nhau, mà quân tử là giai đoạn tiến hóa của tiểu nhân. Không có tiểu nhân, thì
không có quân tử. Trong họ đều có cái Thiên Tính trong ngƣời. Nho gia từng nói:
Nét tƣơng đồng và khác biệt giữa Nho Gia & Đạo Gia

14
“Ngƣời ta ai cũng giống nhau vì có bản tính lành, nhƣng do tập nhiễm thói xấu
nên họ mới khác xa nhau”.
Xuất thế (Đạo Gia): Sống, hoạt động theo lẽ tự nhiên, thuần phác, không làm trái
với tự nhiên, không giả tạo, không gò ép trái với bản tính của mình và ngƣợc với bản
tính của tự nhiên, không can thiệp vào trật tự của tự nhiên, chỉ làm cho dân no bụng,
xƣơng cốt mạnh mà lòng hƣ tĩnh, khiến cho dân không biết, không muốn. Lão Tử đã
rút ra nghệ thuật sống dành cho con ngƣời là: từ ái, cần kiệm, khiêm nhƣờng, khoan
dung.
Vô vi: Làm mà nhƣ không làm, nhƣ thế có đặng không. Ông cũng viết rằng nƣớc
tuy mềm mại uyển chuyển nhƣng có thể chảy đến bất cứ nơi nào, và với một khối
lƣợng lớn thì có thể làm lở cả đất đá. Nhƣ vậy vô vi có thể ví von với cách hành xử của
nƣớc, thuận theo tự nhiên.(Đạo đức kinh).
Quan niệm biện chứng về thế giới gắn với quan niệm về đạo – đức. Nhờ đức mà
đạo nằm trong vạn vật luôn biến hóa. Đạo là nhiều tài khéo vật xảo càng thêm, pháp
luật càng tăng trộm cƣớp càng nhiều” (Đạo đức kinh). Cái vô sinh ra cái hữu. Cái hữu
sinh ra vạn vật. “Mất đạo rồi mới có đức, mất đức rồi sinh nhân, mất nhân sinh nghĩa,
mất nghĩa sinh lễ…” (Đạo đức kinh). Nó ẩn chứa lý lẽ sống chƣa hiển lộ.
2.3 Những tƣ tƣởng biện chứng:
Cả hai trường phái Nho gia và Đạo gia đều không có sự phân biệt rạch ròi giữa
chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, không có đấu tranh biện chứng giữa các học
thuyết triết học. Điều này tạo nên đặc điểm tính thiếu triệt để, tính thiếu nhất quán.
Chẳng hạn, trong phái Nho gia, thế giới quan của Khổng Tử dao động, giữa chủ
nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, giữa chủ nghĩa vô thần và chủ nghĩa hữu thần.
Một mặt ông xem trời (thiên) là giới tự nhiên, có sự vận hành của tự nhiên, ông nói
“Trời nói lên tất cả? Bốn mùa vận hành, trăm vật sinh ra”. Nhƣng mặt khác, ông lại
cho rằng trời một lực lƣợng vô hình chi phối vận mệnh của xã hội và con ngƣời, “sống
Nét tƣơng đồng và khác biệt giữa Nho Gia & Đạo Gia

15
chết có mệnh, giàu sang tại trời”. Ông chủ trƣơng thờ phụng quỷ thần, kính trọng quỷ
thần, nhƣng lại xa lánh quỉ thần “quỉ thần thì đáng kính, nhƣng có chớ gần”.
Còn Đạo gia thì thể hiện quan điểm biện chứng của mình trong tƣ tƣởng về Đạo,
nơi cội nguồn của mối liên hệ phổ biến và sự vận động biến đổi của vũ trụ vạn vật, mà
nguồn gốc là do các mối liên hệ, tác động, chuyển hóa giữa các mặt đối lập; cách thức
là khi phát triển đến tột đỉnh rồi sẽ trở thành cái đối lập, tƣơng phản với chính nó;
khuynh hƣớng của sự vận động biến đổi là sự trở về với Đạo. Tuy nhiên vẫn có yếu tố
duy tâm trong tƣ tƣởng Đa ̣
o Gia , thể hiện ở chỗ đề cao tƣ duy trừu tƣợng, coi khinh
nghiên cứu sự vật cụ thể. Lão tử cho rằng “Không cần ra cửa mà biết thiên hạ, không
cần nhòm qua khe cửa mà biết đạo trời”.
Điểm kha
́ c nhau trong quan điểm biện chư
́ ng của Nho Gia va
̀ Đạo Gia
đƣợc thể
hiện trong quan điểm biện chư
́ ng của Nho Gia coi sự biến đổi của Trời là một qui luật,
là trật tự của vạn vật. Những tƣ tƣởng triết học bản thể luận và những tƣ tƣởng biến
dịch của vũ trụ có thể xem Khổng Tử đứng trên quan điểm triết học của Kinh Dịch.
Theo tƣ tƣởng của kinh này thì uyên nguyên của vũ trụ, của vạn vật là thái cực. Thái
cực chứa đựng một năng lực nội tại mà phân thành lƣỡng nghi. Sự tƣơng tác giữa hai
thế lực âm- dƣơng mà sinh ra tứ tƣợng. Tứ tƣợng tƣơng thôi sinh ra bát quái và bát
quái sinh ra vạn vật. Vậy là sự biến đổi có gốc rễ ở sự biến đổi âm -dƣơng.
Khác với Nho Gia , quan điểm biện chứng của Đạo gia đƣợc thể hiện ngay trong
tƣ tƣởng về Đạo, nơi cội nguồn của mối liên hệ phổ biến và sự vận động biến đổi của
vũ trụ vạn vật, mà nguồn gốc là do các mối liên hệ, tác động, chuyển hóa giữa các mặt
đối lập; cách thức là khi phát triển đến tột đỉnh rồi sẽ trở thành cái đối lập, tƣơng phản
với chính nó; khuynh hƣớng của sự vận động biến đổi là sự trở về với Đạo.
Đặc biệt, thông qua tƣ tƣởng biện chứng đó, Đạo gia đã khái quát thành hai quy
luật căn bản chi phối toàn bộ vũ trụ vạn vật, đó là luật quân bình và luật phản phục.

Nét tƣơng đồng và khác biệt giữa Nho Gia & Đạo Gia

16
2.4 Quan điểm chính trị xã hội:
Có một số nét tương đồng nhỏ về phong cách sống giƣ̃a Nho Gia và Đa ̣
o gia , đó
là Đạo gia khuyên con ngƣời sống không giả tạo, từ bỏ tính tham lam, vị kỷ để không
làm mất đức. Trong khi đó Nho gia cũng khuyên con ngƣời sống phải chừng mực, điều
gì mà mình không muốn cũng đừng nên áp dụng cho ngƣời khác.
Các học thuyết đƣa ra cũng đều nhằm hƣớng đến tập trung giải quyết
những vấn đề thực tiễn xã hội mà thời đại đặt ra, giải quyết những mâu thuẫn do xã
hội đƣa ra và đƣa con ngƣời đến một lối giải thoát theo các cách khác nhau.
Ngƣời trị vì thiên hạ đƣợc đề cập đến trong cả hai học thuyết đều là những ngƣời
có phẩm chất tốt đẹp và đáng quý.
Tuy nhiên, thực sự thì quan điểm chính trị và xã hội của Đạo gia và Nho gia hoàn
toàn khác xa nhau. Trong khi Đạo gia khuyên con người phải sống theo lẽ tự nhiên thì
Nho gia khuyên con người phải sống theo lễ và mệnh trời.
Trong thơ
̀ i loạn theo phƣơng thức của nhà Nho, đứng đầu là Khổng Tử, gồm cả
Mạnh Tử sau này, thì một mặt mong muốn trở lại với quy phạm hành vi nguyên thủy,
nhƣ duy trì quy tắc tôn pháp dƣới chế độ phong kiến nhà Chu; đồng thời mặt khác,sáng
tạo nấc thang giá trị mới. Mong đƣợc xã hội công nhận, nhƣ cổ súy, đề cao đức tính
Nhân Ái luân lý Trung Hiếu còn phƣơng thức của Đạo Gia là bài bác, chống phá trật tự
xã hội hiện hữu bằng hành vi tích cực, hoặc tự đặt mình ra ngoài vòng xã hội đó, bằng
hành vi tiêu cực (đi ẩn náu, mai danh lánh nạn…) Lão Tử nói rằng: “Giai binh giả bất
tƣờng chi khí”. (Quân lực mạnh, là thứ chẳng lành), và rằng: “Dĩ Đạo tá nhân chủ giả,
bất dĩ binh cƣỡng thiên hạ”. (Kẻ biết dùng Đạo mà phò chúa, thì chẳng lấy chiến tranh
làm phƣơng tiện, để cƣỡng bức thiên hạ).
Trong công cuộc xây dựng đất nươ
́ c Nho Gia chủ trƣơng xây dựng Nƣớc Lớn ,
ngƣời quân tử phải hành đạo, tức là phải làm quan, làm chính trị. Nội dung của công
việc này đƣợc công thức hóa thành “tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Tức là phải hoàn
Nét tƣơng đồng và khác biệt giữa Nho Gia & Đạo Gia

17
thành những việc nhỏ – gia đình, cho đến lớn – trị quốc, và đạt đến mức cuối cùng là
bình thiên hạ (thống nhất thiên hạ). Ông luôn lấy sự học là cái đi đầu. Mă ̣
t khác, Đa ̣
o
Gia la ̣
i mong muốn về một nƣớc nhỏ dân ít , Lão Tử chủ trƣơng “Tiểu quốc quả dân” .
Ngƣời cho rằng, với nƣớc nhỏ dân thƣa, thì ít có tranh chấp và dễ trị. Nhà nƣớc chẳng
phải nhọc lòng làm gì mà dân vẫn tự sống an lành.“Dù khí cụ gấp trăm gấp chục sức
ngƣời cũng không dùng đến. Ai nấy đều coi sự chết là hệ trọng nên không đi đâu xa.
Có xe thuyền mà không ai ngồi. Có gƣơm giáo mà không bao giờ dùng. Bỏ văn tự, bắt
ngƣời ta trở lại dùng lối thắt dây ghi dấu thời thƣợng cổ. Ai nấy đều chăm chú vào việc
ăn no, mặc ấm, ở yên, vui với phong tục của mình. (Đạo đức kinh). Đạo của Lão Tử
chẳng có liên hệ gì tới trí thức. Ông viết: “Tuyệt học vô tƣ. (Có bỏ học mới hết ƣu
phiền); “Vi học nhật ích, vi Đạo nhật tổn”. (Càng có học cho lắm, càng có hại cho việc
tu Đạo); “Tri giả bất ngôn, ngôn giả bất tri”. (Ngƣời có học vấn chẳng bao giờ nói, kẻ
hay nói mới là ngƣời không hiểu biết).Thánh vƣơng không làm cho dân sáng mà làm
cho dân ngu. Chữ ngu ở đây có nghĩa đặc biệt nhƣ: Đại trí nhƣợc ngu. Cái ngu của bực
Thánh nhân là đại trí; cái ngu của dân ở đây là không tham vọng, sống giản dị tự nhiên.
Đối với việc trị quốc, Nho Gia cho rằng cần sƣ
̉ dụng phƣơng pháp Hữu vi: áp đặt
ý chí của mình vào sự vật, trị quốc áp đặt theo “đức trị” hay “nhân trị”.
 “Đức trị” : Coi trọng giáo dục, phản đối bạo lực và chiến tranh, cho rằng XH là
tổng hợp các mối quan hệ giữa ngƣời với ngƣời, đó là Ngũ luân và Tam cƣơng.
 Các phạm trù cơ bản trong học thuyết của Khổng Tử là Nhân-Nghĩa-Lễ-Chính
danh. Đƣờng lối nhân trị của Khổng Tử có tính chất điều hòa mâu thuẫn giai cấp, phản
đối đấu tranh.
Ông coi việc oán trách cảnh nghèo hèn, ƣa dùng bạo lực là mầm mống của loạn.
Tuy nhiên những kế sách chính trị của ông chỉ dừng lại ở tính chất cải lƣơng và duy
tâm chứ không phải phải bằng cách mạng hiện thực. Khía cạnh xã hội của con ngƣời bị
hiểu một cách hạn chế và duy tâm.
Nét tƣơng đồng và khác biệt giữa Nho Gia & Đạo Gia

18
Trái ngược hoàn toàn với Nho Gia , Đạo Gia cho rằng thích hợp nhất la
̀ phương
pháp vô vi : Không dùng luật pháp, không cần giáo dục nhân, lễ, nghĩa, trí. Chính phủ
yên tĩnh vô vi thì dân sẽ biến thành chất phác, chính phủ tích cực làm việc thì dân đầy
tai họa. (Đạo đức kinh). Nghĩa là sống và hoạt động theo lẽ tự nhiên, thuần phác,
không làm trái với tự nhiên, không can thiệp vào trật tự của tự nhiên, chỉ làm cho dân
no bụng, xƣơng cốt mạnh mà lòng hƣ tĩnh, khiến cho dân không biết, không muốn.
Nhấn mạnh bản tính tự nhiên của con ngƣời.
Xét đến quan điểm về giai cấp , Nho Gia đề cao sƣ̣ Chính Danh , Chính danh là
mỗi sự vật phải đƣợc gọi đúng tên của nó, mỗi ngƣời phải làm đúng chức phận của
mình. “Danh không chính thì lời không thuận, lời không thuận tất việc không thành”
(sách Luận ngữ). Quan niệm về giai cấp rõ ràng, đạo nhân chỉ là đạo của ngƣời quân tử
là của giai cấp thống trị. Quan niệm hữu vi: Phải có sự tác động của giai cấp thống trị
thì xã hội mới trật tự, kỷ cƣơng. Đề cao chính danh, phải có danh vị.
Đa ̣
o Gia lại cho rằng mọi thứ cần tuân theo tự nhiên (vô vi). Không đặt nặng vấn
đề giai cấp, để mọi thứ thuận theo lẽ tự nhiên. Quan niệm vô vi: vua ít can thiệp vào
việc của dân, để dân thuận theo tự nhiên mà sống. Đề cao lẽ tự nhiên, không ham
muốn, không tham vọng.
2.5 Về phƣơng châm xử thế:
Con ngƣời sống và hành động dựa trên các nguyên tắc cơ bản, hợp với lòng
ngƣời theo một quan niệm nhân sinh vững chắc. Cả hai trƣờng phái đều hƣớng con
ngƣời đến cái thiện, khuyên con ngƣời sống tốt để có gia đình hạnh phúc và góp phần
cho 1 xã hội ổn định.
Nho gia nguyên thủy cho rằng Nền tảng của gia đình – xã hội là những quan hệ
đạo đức – chính trị, đặc biệt là quan hệ vua – tôi, cha – con, chồng – vợ. Các quan hệ
này đƣợc nho gia gọi là đạo. khi các quan hệ này chính danh thì xã hội ổn định, gia
đình yên vui và ngƣợc lại. Con ngƣời cần thực hiện chuẩn mực: Trung, Hiếu, Nghĩa,
Nét tƣơng đồng và khác biệt giữa Nho Gia & Đạo Gia

19
Trí, Dũng. Có khuynh hƣớng về đạo nhập thế, dạy ta biết cách xử kỷ tiếp vật khiến cho
ta ăn ở phải đạo làm ngƣời. Những ngƣời Nho học thì chuyên về mặt thực tế, ít chú
trọng
về mặt lý tƣởng .Nho giáo nguyên thủy là triết lý của Khổng Tử và Mạnh tử về
đạo làm ngƣời quân tử và cách thức trở thành ngƣời quân tử, cách cai trị đất nƣớc
Đạo gia thì giáo huấn con ngƣời theo thuyết vô vi: sống và hành động theo lẽ tự
nhiên, không giả tạo, không gò ép trái với bản tính của mình và ngƣợc với bản tính của
tự nhiên, là từ bỏ tính tham lam, vị kỷ để không làm mất đức. Xây dựng xã hội bình
đẳng, không phân biệt ngƣời với ta, không làm thiệt hại ai. Những ngƣời tu theo Đạo
giáo, chỉ biết xuất thế lo tu độc thiện kỳ thân. Có khuynh hƣớng về đạo xuất thế, lấy
đạo làm chủ thể cả vũ trụ dạy ta nên lấy thanh tĩnh vô vi nơi yên lặng. Nghệ thuật sống
dành cho con ngƣời là từ ái, cần kiệm, khiêm nhƣờng, khoan dung.

Nét tƣơng đồng và khác biệt giữa Nho Gia & Đạo Gia

20
CHƢƠNG III : KÊ
́ T LUẬN
Trung Quốc là một trong những chiếc nôi văn minh lớn của nhân loại, qua quá
trình phát triển đã tạo dựng đƣợc một nền tảng vật chất đồ sộ và hun đúc nên những giá
trị tinh thần to lớn trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là sự phát triển mạnh mẽ và rực rỡ nhất
của nền tƣ tƣởng – văn hoá Trung Quốc cổ đại, với sự xuất hiện của hàng trăm học
thuyết, nhà tƣ tƣởng lớn trên nhiều lĩnh vực của hình thái ý thức xã hội. Tiêu biểu trong
giai đoạn xã hội Trung Hoa có nhiều biến động nhất là giai đoạn Xuân Thu – Chiến
Quốc với sự suy tàn của chế độ chiếm hữu nộ lệ và quá độ sang chế độ phong kiến, trật
tự xã hội rối loạn…là sự hình thành và phát triển hai hệ tƣ tƣởng lớn – trƣờng phái Nho
gia và Đạo gia – có ảnh hƣởng rất lớn đến xã hội thời kỳ này và sự phát triển của hệ tƣ
tƣởng triết học Trung Hoa và phƣơng Đông sau này.

Mặc dù quan điểm của hai trƣờng phái triết học này có những nét khác biệt
nhƣng đều tƣơng đồng ở mục đích hƣớng đến là “Nhân”. Nho gia và Đạo gia đều là
những tƣ tƣởng đặt con ngƣời làm yếu tố chủ đạo và đƣa ra những quan điểm về tạo
dựng cuộc sống hạnh phúc cho nhân loại.

Hấp thu và phát huy những tƣ tƣởng đó, các nhà làm chính trị xã hội không
riêng ở Trung Hoa mà các nƣớc phƣơng Đông, đặc biệt là Việt Nam đã áp dụng vào hệ
tƣ tƣởng của nƣớc mình. Chính vì vậy mà cho đến ngày nay, văn hóa – tƣ tƣởng của
Việt Nam vẫn còn chịu nhiều ảnh hƣởng và mang đậm tƣ tƣởng văn hóa triết học của
Trung Hoa. Tuy nhiên mỗi trƣờng phái lại có sự chi phối khác nhau đến quan điểm của
từng cá nhân khi lĩnh hội.

Nói tóm lại, sự hình thành và phát triển của hai trƣờng phái triết học Nho gia và
Đạo gia đã mang đến cho hệ tƣ tƣởng loài ngƣời những tƣ tƣởng vĩ đại, chính vì thế nó
có sức ảnh hƣởng rất lớn, chi phối đến đặc điểm tƣ tƣởng văn hóa của các quốc gia
phƣơng Đông nói chung và Việt Nam nói riêng từ giai đoạn mới đƣợc hình thành cho
đến xã hội văn minh hiện nay.
Nét tƣơng đồng và khác biệt giữa Nho Gia & Đạo Gia

21
TÀI LIỆU KHAM THẢO
Sách:
1. TS. Bùi Văn Mƣa (chủ biên), Giáo trình đại cƣơng Lịch sử triết học, Trƣờng đại học
kinh tế Tp.HCM, 2010.
2. Giản Chi – Nguyễn Hiến Lê , Đại cƣơng triết học Trung Quốc, Nxb Thanh niên, 2004.
3. PGS.TS Doãn Chính (chủ biên), Đại cƣơng lịch sử triết học Trung Quốc, Nxb Lý luận
chính trị, Hà Nội, 2008.
4. Phùng Hữu Lan (Nguyễn Văn Dƣơng dịch), Đại cƣơng triết học sử Trung Quốc, Nxb
Thanh niên, Hà Nội, 2008.
5. Nguyễn Đăng Duy, Đạo giáo với văn hóa Việt Nam, Nhà xuất bản Hà Nội,
2001.
6. Hàn Sinh Tuyên & Lê Anh Minh (dịch), Tƣ tƣởng Đạo gia, Nhà xuất bản Tam
giáo đồng nguyên, 2008.
7. Thu Giang- Nguyễn Duy Cần, Đạo Đức Kinh, Hà Nội 8/2007.
Tài liệu điện tử:
1. Nho giáo – http://vi.wikipedia.org (tiếng Việt)
2. http://chungta.com/ (Chúng ta)
3. http://www.vientriethoc.com.vn/ (Tạp chí Triết học)
4. Hỏi về lý luận triết học – www.ngoinhachung.net
5. Nho giáo Việt Nam ở thế kỷ XV – đầu thế kỷ XVI – www.dongtac.net
6. Đạo giáo – http://cuocsongviet.com.vn/index.asp?act=detail&mabv=1844&/Dao-giao.csv
7. Lão Tử và Đạo học (Phần 1) http://dienchan.com/?cid=3,4&txtid=406
8. Tƣ tƣởng Đạo học:
http://www.vinhanonline.com/index.php?option=com_content&view=category&layout=blog
&id=44&Itemid=162

Đánh giá post

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *