BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM
Ngành: Luật Kinh tế
NGUYỄN THỊ NHẠN
Hà Nội-2019
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp ở Việt Nam
Ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8380107
Họ và tên học viên: Nguyễn Thị Nhạn
Người hướng dẫn: PGS-TS Bùi Ngọc Sơn
Hà Nội-2019
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu độc lập của riêng tôi dưới sự
hướng dẫn của PGS.TS Bùi Ngọc Sơn.
Các số liệu, kết quả trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố
trong bất kỳ công trình nào.
Hà Nội, ngày 11 tháng 02 năm 2019
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Nhạn
ii
LỜI CẢM ƠN
Tác giả xin trân trọng cảm ơn các thầy, cô giáo Trường Đại học Ngoại thương,
nhất là các cán bộ, giảng viên khoa sau đại học đã giúp đỡ và tạo điều kiện cho tác
giả hoàn thành bản luận văn này. Đặc biệt, tác giả xin trân trọng cảm ơn thầy giáo
hướng dẫn PGS.TS Bùi Ngọc Sơn đã hết lòng ủng hộ và hướng dẫn tác giả hoàn
thành luận văn.
Xin cảm ơn bạn bè, đồng nghiệp và gia đình đã giúp đỡ, chia sẻ khó khăn và
động viên tác giả trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu để hoàn thành luận văn
này.
Xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày 11 tháng 02 năm 2019
Học viên
Nguyễn Thị Nhạn
iii
TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU LUẬN VĂN
Luận văn đã tập trung nghiên cứu các nội dung chủ yếu sau:
– Làm rõ những vấn đề lý luận về doanh nghiệp và pháp luật doanh nghiệp;
nội dung chủ yếu của pháp luật về doanh nghiệp; các yếu tố ảnh hưởng đến việc
hoàn thiện pháp luật doanh nghiệp và kinh nghiệm của một số nước về pháp luật
doanh nghiệp.
– Làm rõ quá trình hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp tại Việt Nam thông
qua Luật Công ty năm 1990, Luật doanh nghiệp năm 1999, Luật doanh nghiệp 2005
và Luật doanh nghiệp 2014.
– Trên cơ sở những vấn đề lý luận và phân tích quá trình hoàn thiện pháp luật
doanh nghiệp, luận văn đưa ra các giải pháp và kiến nghị nhằm tiếp tục hoàn thiện
pháp luật về doanh nghiệp tại Việt Nam trong thời gian tới.
iv
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN …………………………………………………………………………………………. i
LỜI CẢM ƠN ……………………………………………………………………………………………… ii
TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU LUẬN VĂN
……………………………………….. iii
LỜI MỞ ĐẦU ……………………………………………………………………………………………….
1
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHÁP LUẬT DOANH NGHIỆP …………
6
1.1. Khái niệm chung về doanh nghiệp và pháp luật doanh nghiệp ……………….
6
1.1.1. Khái niệm chung về doanh nghiệp
……………………………………………..
6
1.1.2. Khái niệm chung về pháp luật doanh nghiệp
……………………………..
13
1.2. Những nội dung cơ bản của pháp luật về doanh nghiệp ……………………….
15
1.2.1. Quy định về điều kiện, thủ tục thành lập, đăng ký kinh doanh của
doanh nghiệp ……………………………………………………………………………………………….
15
1.2.2. Quy định về cơ cấu tổ chức quản lý của doanh nghiệp ………………..
15
1.2.3. Quy định về các loại vốn và cơ cấu về vốn của doanh nghiệp ……..
16
1.2.4. Quy định chế độ pháp lý về thành viên của doanh nghiệp …………..
16
1.2.5. Quy định về điều kiện và thủ tục giải thể doanh nghiệp
………………
16
1.2.6. Quy định về các quyền và nghĩa vụ cơ bản của doanh nghiệp với tư
cách là một chủ thể kinh doanh
………………………………………………………………………
17
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc hoàn thiện pháp luật doanh nghiệp
……….
18
1.3.1. Quan điểm đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước
…………………………………………………………………………………………………………………..
18
1.3.2. Trình độ phát triển kinh tế
……………………………………………………….
18
1.3.3. Trình độ, kỹ thuật lập pháp ……………………………………………………..
18
1.3.4. Quan điểm lập pháp ……………………………………………………………….
18
1.3.5. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
……………………………………………
19
1.4.1. Kinh nghiệm của Singapore
…………………………………………………….
19
v
1.4.2. Kinh nghiệm của Malaysia ……………………………………………………..
23
1.4.3. Kinh nghiệm của Hàn Quốc
…………………………………………………….
25
1.4.4. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
………………………………………….
26
CHƯƠNG 2: QUÁ TRÌNH HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP Ở
VIỆT NAM …………………………………………………………………………………………………
28
2.1. Giai đoạn từ năm 1975 đến năm 1990 ……………………………………………….
28
2.2. Giai đoạn từ năm 1990 đến 1999 ………………………………………………………
29
2.2.1. Quy định về điều kiện, thủ tục thành lập, đăng ký kinh doanh của
doanh nghiệp ……………………………………………………………………………………………….
29
2.2.2. Quy định về cơ cấu tổ chức quản lý của doanh nghiệp ……………….
30
2.2.3. Quy định về các loại vốn và cơ cấu về vốn của doanh nghiệp ……..
31
2.2.4. Quy định chế độ pháp lý về thành viên của doanh nghiệp …………..
32
2.2.5. Quy định về điều kiện và thủ tục giải thể doanh nghiệp
………………
32
2.2.6. Quy định về các quyền và nghĩa vụ cơ bản của doanh nghiệp với tư
cách là một chủ thể kinh doanh
………………………………………………………………………
33
2.3. Giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2005 ……………………………………………….
34
2.3.1. Quy định về điều kiện, thủ tục thành lập, đăng ký kinh doanh của
doanh nghiệp ……………………………………………………………………………………………….
34
2.3.2. Quy định về cơ cấu tổ chức quản lý của doanh nghiệp ……………….
35
2.3.3. Quy định về các loại vốn và cơ cấu về vốn của doanh nghiệp ……..
37
2.3.4. Quy định chế độ pháp lý về thành viên của doanh nghiệp …………..
37
2.3.5. Quy định về điều kiện và thủ tục giải thể doanh nghiệp
………………
38
2.3.6. Quy định về các quyền và nghĩa vụ cơ bản của doanh nghiệp với tư
cách là một chủ thể kinh doanh
………………………………………………………………………
38
2.4. Giai đoạn từ 2005 đến năm 2014 ………………………………………………………
39
2.4.1. Quy định về điều kiện, thủ tục thành lập, đăng ký kinh doanh của
doanh nghiệp ……………………………………………………………………………………………….
39
vi
2.4.2. Quy định về cơ cấu tổ chức quản lý của doanh nghiệp ……………….
40
2.4.3. Quy định về các loại vốn và cơ cấu về vốn của doanh nghiệp ……..
41
2.4.4. Quy định chế độ pháp lý về thành viên của doanh nghiệp …………..
41
2.4.5. Quy định về điều kiện và thủ tục giải thể doanh nghiệp
………………
41
2.4.6. Quy định về các quyền và nghĩa vụ cơ bản của doanh nghiệp với tư
cách là một chủ thể kinh doanh
………………………………………………………………………
42
2.5. Giai đoạn từ 2014 đến 2018 ……………………………………………………………..
43
2.5.1. Quy định về điều kiện, thủ tục thành lập, đăng ký kinh doanh của
doanh nghiệp ……………………………………………………………………………………………….
43
2.5.2. Quy định về cơ cấu tổ chức quản lý của doanh nghiệp ……………….
43
2.5.3. Quy định về các loại vốn và cơ cấu về vốn của doanh nghiệp ……..
45
2.5.4. Quy định chế độ pháp lý về thành viên của doanh nghiệp …………..
46
2.5.5. Quy định về điều kiện và thủ tục giải thể doanh nghiệp
………………
46
2.5.6. Quy định về các quyền và nghĩa vụ cơ bản của doanh nghiệp với tư
cách là một chủ thể kinh doanh
………………………………………………………………………
47
2.6. Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình hoàn thiện pháp luật doanh
nghiệp ở Việt Nam ……………………………………………………………………………………….
47
2.6.1. Quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước
…………..
47
2.6.2. Trình độ phát triển kinh tế của Việt Nam ………………………………….
49
2.6.3 Trình độ, kỹ thuật lập pháp ………………………………………………………
50
2.6.4. Quan điểm lập pháp ……………………………………………………………….
51
2.6.5. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
……………………….
52
2.7. Đánh giá thực trạng pháp luật về doanh nghiệp ở Việt Nam
…………………
53
2.7.1. Những mặt tích cực ………………………………………………………………..
53
2.7.2. Các mặt hạn chế …………………………………………………………………….
56
2.7.3. Nguyên nhân của các hạn chế ………………………………………………….
60
vii
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NHẰM TIẾP TỤC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM ………………………………………………………………….
62
3.1. Định hướng chung nhằm tiếp tục hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp tại
Việt Nam trong những năm tới ………………………………………………………………………
62
3.1.1. Xu hướng hoàn thiện
………………………………………………………………
62
3.1.2. Định hướng, quan điểm của Đảng ……………………………………………
63
3.2. Các giải pháp nhằm tiếp tục hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp ở Việt
Nam những năm tới
………………………………………………………………………………………
69
3.2.1. Đảm bảo quyền tự do kinh doanh …………………………………………….
69
3.2.2. Đảm bảo môi trường kinh doanh lành mạnh và bình đẳng
…………..
72
3.2.3. Đảm bảo tính phù hợp các cam kết từ điều ước quốc tế và các hiệp
định thương mại song phương và đa phương …………………………………………………..
74
3.2.4. Tăng cường hoạt động lập pháp, xây dựng luật đảm bảo tính khả thi
…………………………………………………………………………………………………………………..
76
3.2.5. Hoàn thiện các quy định của Luật doanh nghiệp 2014 về thành lập
doanh nghiệp ……………………………………………………………………………………………….
78
3.2.6. Hoàn thiện quy định của pháp luật về bổ sung về người có liên quan
của doanh nghiệp trong việc kiểm soát các giao dịch có nguy cơ tư lợi trong công ty
…………………………………………………………………………………………………………………..
80
3.2.7. Hoàn thiện pháp luật về số lượng thành viên tối thiểu trong công ty
cổ phần ……………………………………………………………………………………………………….
81
3.2.8. Hoàn thiện quy định về vấn đề góp vốn vào doanh nghiệp ………….
82
3.2.9. Hoàn thiện quy định về trách nhiệm tài sản của thành viên góp vốn
trong công ty hợp danh
………………………………………………………………………………….
84
3.2.10. Nâng cao vai trò nhận thức của các chủ thể tham gia hoạt động
kinh doanh …………………………………………………………………………………………………..
84
3.2.11. Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục về vị trí, vai trò của
pháp luật doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường …………………………………………
86
3.3. Kiến nghị cụ thể ……………………………………………………………………………..
87
viii
3.3.1. Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam ……………………………………………
87
3.3.2. Đối với Chính phủ
………………………………………………………………….
87
3.3.3. Đối với Quốc hội
……………………………………………………………………
88
3.3.4. Đối với doanh nghiệp, Hiệp hội doanh nghiệp …………………………..
88
KẾT LUẬN …………………………………………………………………………………………………
89
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO …………………………………………………………
90
1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong sự nghiệp xây dựng và phát triển của đất nước, đặc biệt là trong thời kỳ
đổi mới, mở cửa và hội nhập quốc tế, doanh nghiệp Việt Nam đã có vai trò rất quan
trọng. Doanh nghiệp có vị trí đặc biệt của nền kinh tế, là bộ phận chủ yếu tạo ra
tổng sản phẩm trong nước (GDP). Việt Nam là nước có nền kinh tế mới nổi, doanh
nghiệp là bộ phận đóng góp quyết định đến tăng trưởng và phát triển kinh tế đất
nước. Những năm gần đây, hoạt động của doanh nghiệp đã có bước phát triển mạnh
mẽ, góp phần giải phóng và phát triển sức sản xuất, huy động và phát huy nội lực
vào phát triển kinh tế xã hội, góp phần quyết định vào phục hồi và tăng trưởng kinh
tế, tăng kim ngạch xuất khẩu, tăng thu ngân sách và tham gia giải quyết có hiệu quả
các vấn đề xã hội như: tạo việc làm, xoá đói, giảm nghèo…
Thời gian qua, nước ta đã ký kết và thực thi các hiệp định thương mại quan
trọng, trong đó tiêu biểu là Hiệp định thương mại song phương Việt Nam – Hoa Kỳ
(năm 2000), gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) (năm 2007), tham gia
đàm phán và ký kết các Hiệp định thương mại tự do (FTA) quan trọng khác như:
Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định thương mại tự do
Việt Nam – Liên minh châu Âu (EU) (EVFTA), Hiệp định thương mại tự do Việt
Nam – Hàn Quốc; thành viên của Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC).
Việc tham gia vào các hiệp định FTA mở ra con đường hội nhập thuận lợi hơn
cho các doanh nghiệp Việt Nam cũng như toàn bộ nền kinh tế với các đối tác
thương mại lớn. Đồng thời, thông qua việc thực thi các cam kết trong đó môi trường
đầu tư, kinh doanh của Việt Nam cũng được cải thiện mạnh mẽ, tạo điều kiện để
doanh nghiệp tự do sáng tạo, kinh doanh, làm giàu cho mình và cho đất nước. Tính
đến 20/4/2017, cả nước có khoảng 612.000 doanh nghiệp đang hoạt động (Thành
Đạt, Cả nước có 612.000 doanh nghiệp đang hoạt động, Báo điện tử chính phủ).
Các doanh nghiệp Việt Nam đã thực hiện tính năng động, linh hoạt thích ứng
với điều kiện hội nhập, sự tự tin và ý chí kinh doanh cao… và kết quả hoạt động là
tích cực rất đáng khích lệ. Trong đó, một số doanh nghiệp đã khẳng định được uy
2
tín, chất lượng, hiệu quả và thương hiệu của mình trên thị trường trong nước và
quốc tế. Hoàn toàn có cơ sở khẳng định rằng, các doanh nghiệp Việt Nam đang và
sẽ trở thành đội quân chủ lực trong sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội và hội nhập
kinh tế quốc tế của đất nước.
Từ khi thực hiện công cuộc đổi mới, Đảng ta đã thực hiện đường lối phát triển
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo hướng hội nhập. Pháp luật doanh
nghiệp Việt Nam cũng đã được đổi mới với việc ban hành mới hoặc sửa đổi, bổ
sung nhiều đạo luật quan trọng về đầu tư, kinh doanh và doanh nghiệp.
Trong thời kỳ đầu của quá trình đổi mới cơ chế kinh tế, pháp luật kinh tế nói
chung và pháp luật về các hình thức tổ chức kinh doanh nói riêng, được xây dựng
trên nền tảng những đặc thù về chính trị, kinh tế – xã hội, có tính chất giải pháp tình
thế, nhằm giải quyết những vấn đề bức xúc do thực tiễn kinh doanh đặt ra. Các văn
bản pháp luật về doanh nghiệp ngày càng được gia tăng nhanh chóng cả về số lượng
và hình thức văn bản. Tuy nhiên, chất lượng của các văn bản này nhiều khi còn
khác nhau.
Kinh tế tư nhân lần đầu tiên được thừa nhận vào năm 1988 khi Chính phủ ban
hành Nghị định số 27-HĐBT cho phép người dân được mở xí nghiệp tư doanh và
cho phép chuyển hợp tác xã thành xí nghiệp tư nhân. Luật Công ty và Luật Doanh
nghiệp tư nhân được ban hành năm 1990, đánh dấu thời điểm chính thức thừa nhận
về mặt pháp lý đối với kinh tế tư nhân. Kể từ đó đến nay, Luật Doanh nghiệp đã qua
ba lần sửa đổi, bổ sung vào các năm 1999, 2005 và gần đây nhất là năm 2014. Khác
với luật công ty của nhiều nước, ngoài nội dung cơ bản về quản trị doanh nghiệp,
Luật Doanh nghiệp của nước ta chứa đựng trong đó những cải cách quan trọng, đột
phá về quyền kinh doanh cho người dân, doanh nghiệp.
Với quan điểm xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường, định hướng xã
hội chủ nghĩa, những năm gần đây Nhà nước ta rất quan tâm xây dựng và hoàn
thiện pháp luật về doanh nghiệp. Việc ban hành Luật Doanh nghiệp 2014 được xem
như một bước phát triển quan trọng, với những tư duy pháp lý mới trong xây dựng
pháp luật về doanh nghiệp ở Việt Nam. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật hiện hành về
3
doanh nghiệp vẫn chưa đạt được mức độ hoàn thiện cần thiết, chưa đáp ứng được
tốt các yêu cầu mà thực tiễn kinh doanh đang đặt ra. Những vấn đề pháp lý về tổ
chức doanh nghiệp được quy định trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau. Nội
dung của các văn bản pháp luật này bộc lộ nhiều bất cập cả về nội dung pháp lý và
kỹ thuật lập pháp. Tính phức tạp, mâu thuẫn, chồng chéo là những biểu hiện không
hiếm thấy trong pháp luật hiện hành về doanh nghiệp. Thực tế này là nguyên nhân
không nhỏ dẫn đến kìm hãm sự pháp triển của hoạt động kinh doanh; tạo ra sự phân
bổ các nguồn lực không hợp lý, tác động tiêu cực đến sản xuất kinh doanh và tính
công bằng trong môi trường kinh doanh. Vì thế, việc nghiên cứu đề tài “Hoàn thiện
pháp luật về doanh nghiệp ở Việt Nam” có ý nghĩa lý luận và thực tiễn trong việc
hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp nhằm đưa ra giải pháp, kiến nghị để hoàn
thiện.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Pháp luật về doanh nghiệp là một nội dung quan trọng của pháp luật kinh
doanh trong nền kinh tế thị trường, đang được nhiều nhà khoa học thuộc các lĩnh
vực khác nhau quan tâm nghiên cứu. Ở phạm vi và mức độ khác nhau, có một số
công trình khoa học đã được công bố, đề cập đến một vài khía cạnh của pháp luật
về doanh nghiệp. Có thể kể đến một số tác giả đã nghiên cứu như: Trương Nhật
Quang, 2016, Pháp luật về doanh nghiệp-Các vấn đề pháp lý cơ bản; Thực trạng
pháp luật kinh tế ở nước ta và các quan điểm đổi mới đưa pháp luật kinh tế vào cuộc
sống của PGS.TS Nguyễn Niên; Pháp luật kinh tế nước ta trong bước chuyển sang
kinh tế thị trường của TS. Nguyễn Như Phát; Hoàn thiện Luật kinh tế ở Việt Nam
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Luận án Phó tiến sĩ của
Nguyễn Am Hiếu; Đổi mới và hoàn thiện khung pháp luật kinh tế trong điều kiện
kinh tế thị trường Việt Nam, Luận án Phó tiến sĩ của Nguyễn Minh Mẫn…Nhìn
chung, các bài viết, công trình nghiên cứu trên đã đề cập đến nhiều khía cạnh của
việc hoàn thiện pháp luật doanh nghiệp. Với mục đích đi sâu nghiên cứu một cách
cơ bản, toàn diện và có hệ thống các vấn đề lý luận và thực tiễn về doanh nghiệp và
pháp luật về doanh nghiệp nói chung, để trên cơ sở đó chỉ ra cơ sở khoa học của
4
việc hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay, tôi chọn đề tài này
mong muốn tìm hiểu sâu thêm về vấn đề này ở nước ta.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là đề xuất một số giải pháp nhằm tiếp tục
hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp tại Việt Nam trong những năm sắp tới. Để đạt
được mục đích đó, đề tài đã giải quyết các mục tiêu:
– Làm rõ những vấn đề lý luận về doanh nghiệp và pháp luật doanh nghiệp;
nội dung chủ yếu của pháp luật về doanh nghiệp; các yếu tố ảnh hưởng đến việc
hoàn thiện pháp luật doanh nghiệp và kinh nghiệm của một số nước về pháp luật
doanh nghiệp.
– Làm rõ quá trình hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp tại Việt Nam thông
qua phân tích, so sánh qua Luật Công ty năm 1990, Luật doanh nghiệp năm 1999,
Luật doanh nghiệp 2005 và Luật doanh nghiệp 2014.
– Trên cơ sở những vấn đề lý luận và phân tích quá trình hoàn thiện pháp luật
doanh nghiệp, luận văn đưa ra các giải pháp và kiến nghị nhằm tiếp tục hoàn thiện
pháp luật về doanh nghiệp tại Việt Nam trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chủ yếu của luận văn là các vấn đề liên quan đến pháp
luật doanh nghiệp và việc hoàn thiện pháp luật doanh nghiệp ở Việt Nam. Kinh
nghiệm hoàn thiện pháp luật doanh nghiệp ở một số nước trên thế giới cũng là đối
tượng nghiên cứu của luận văn.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
– Về thời gian: Luận văn chủ yếu nghiên cứu quá trình hoàn thiện pháp luật
doanh nghiệp của Việt Nam từ năm 1990 trở lại đây, thời gian Luật Công ty năm
1990 chính thức ra đời.
5
– Về không gian: Luận văn nghiên cứu quá trình hoàn thiện pháp luật về doanh
nghiệp ở Việt Nam, bên cạnh đó cũng nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước
trên thế giới.
– Về nội dung, luận văn nghiên cứu các nội dung chủ yếu trong Luật Công ty
năm 1990, Luật doanh nghiệp năm 1999, Luật doanh nghiệp năm 2005 và Luật
doanh nghiệp năm 2014 và một số văn bản pháp luật có liên quan.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu, đề tài đã sử dụng các phương pháp
nghiên cứu cơ bản sau: Phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết; phương pháp
hệ thống hóa; phương pháp diễn giải và quy nạp, phương pháp so sánh luật học.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung
của luận văn gồm ba chương:
Chương I. Khái quát chung về pháp luật doanh nghiệp
Chương II. Quá trình hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp ở Việt Nam
Chương III. Giải pháp nhằm tiếp tục hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp ở
Việt Nam.
6
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHÁP LUẬT DOANH NGHIỆP
1.1. Khái niệm chung về doanh nghiệp và pháp luật doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm chung về doanh nghiệp
1.1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp
Trong quá trình hình thành và phát triển kinh tế ở bất kì quốc gia nào, doanh
nghiệp cũng là đơn vị cơ sở, một tế bào của nền kinh tế tạo ra của cải vật chất cho
xã hội, trực tiếp phối hợp các yếu tố sản xuất một cách hợp lý nhằm tạo ra những
sản phẩm hoặc dịch vụ một cách có hiệu quả nhất.
Cùng với quá trình phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật và công nghệ
thông tin các hình thức tổ chức doanh nghiệp cũng ngày càng đa dạng và các loại
hình sở hữu của doanh nghiệp cũng ngày càng phong phú hơn. Do đó, nếu đứng
trên quan điểm khác nhau chúng ta có thể định nghĩa về doanh nghiệp cũng khác
nhau.
Pháp luật hiện hành Việt Nam đưa ra định nghĩa pháp lý về doanh nghiệp.
Luật công ty (1990) mà sau đó được thay thế bằng Luật Doanh nghiệp (1999), Luật
Doanh nghiệp (2005) và mới đây nhất là Luật Doanh nghiệp 2014 là các văn bản
đưa ra định nghĩa chính thức về doanh nghiệp trong điều kiện kinh tế thị trường ở
Việt Nam. Để thống nhất cách hiểu về doanh nghiệp, chúng ta cần xem xét khái
niệm doanh nghiệp từ hai góc độ: kinh tế – xã hội và pháp lý, gắn với những yếu tố
của kinh tế thị trường.
* Từ góc độ kinh tế – xã hội, các doanh nghiệp được coi là thành tố cơ bản của
hệ thống kinh tế – xã hội. Bản chất của doanh nghiệp là những thực thể xã hội, sinh
ra với chức năng chủ yếu là hoạt động sản xuất kinh doanh. Với chức năng kinh
doanh, doanh nghiệp sử dụng các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất để tạo ra sản
phẩm, hàng hóa và dịch vụ đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế cũng như toàn xã hội.
Sự tồn tại của doanh nghiệp luôn được đặt trong môi trường kinh tế – xã hội xác
định. Các yếu tố của môi trường kinh tế – xã hội (cơ chế kinh tế, trình độ phát triển
kinh tế, hệ thống pháp luật, trình độ dân trí, văn hóa kinh doanh…) đều có tác động
đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp ở những phương diện và mức độ khác
7
nhau. Như vậy, trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp giữ vai trò trung tâm
trong các hoạt động kinh tế.
* Từ góc độ pháp lý, doanh nghiệp được hiểu là một loại chủ thể pháp luật (có
tư cách chủ thể pháp lý độc lập) và có ngành nghề kinh doanh. Trong điều kiện kinh
tế thị trường, doanh nghiệp trở thành đối tượng trung tâm chịu sự điều chỉnh của hệ
thống pháp luật kinh doanh.
Từ các định nghĩa nêu trên chúng ta có thể đưa ra một khái niệm toàn diện hơn
về doanh nghiệp như sau:
Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn
định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực
hiện các hoạt động kinh doanh. (Luật doanh nghiệp năm 2014).
Trong cơ chế thị trường, doanh nghiệp có những đặc điểm pháp lý cơ bản sau:
Thứ nhất, doanh nghiệp là một loại chủ thể pháp luật. Với tư cách là một loại
chủ thể pháp luật, doanh nghiệp có năng lực chủ thể để tham gia vào các quan hệ
pháp luật, trong đó trước hết và chủ yếu là các quan hệ kinh doanh. Tính chất chủ
thể pháp lý độc lập của doanh nghiệp cho phép doanh nghiệp có quyền tự chủ, đồng
thời phải tự chịu trách nhiệm trong việc tổ chưc hoạt động. Trách nhiệm pháp lý cơ
bản của doanh nghiệp về hoạt động kinh doanh thể hiện ở chỗ doanh nghiệp phải
chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình, thậm chí vượt ra khỏi phạm vi
những tài sản đó về những cam kết tài chính, nợ nần trong kinh doanh…
Thứ hai, doanh nghiệp được xác lập tư cách (thành lập và đăng ký kinh doanh)
theo thủ tục do pháp luật quy định. Việc thành lập và đăng ký kinh doanh là cơ sở
để xác định tính chất chủ thể pháp lý độc lập của doanh nghiệp, gắn với những đặc
điểm của hoạt động kinh doanh. Đặc điểm này xuất phát từ yêu cầu của quản lý Nhà
nước đối với hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế thị trường.
Thứ ba, doanh nghiệp phải có ngành nghề kinh doanh. Đặc điểm này biểu hiện
ở chỗ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được thực hiện có hệ thống, một cách
độc lập, trên danh nghĩa và trách nhiệm của doanh nghiệp với mục đích sinh lời và
8
trong điều kiện pháp luật quy định. Tính chất hoạt động kinh doanh có hệ thống là
một dấu hiệu cơ bản để xác định nghề nghiệp kinh doanh của doanh nghiệp. Ngoài
ra, bản thân nghề nghiệp kinh doanh cũng đã quy định mục đích thu lợi nhuận trong
các hoạt động của doanh nghiệp.
1.1.1.2. Phân loại doanh nghiệp
Việc phân loại doanh nghiệp nhằm các mục đích khác nhau và được dựa trên
các tiêu chí khác nhau. Từ góc độ nghiên cứu và lập pháp, việc phân loại doanh
nghiệp có ý nghĩa quan trọng cho việc lựa chọn cơ chế điều chỉnh pháp luật thích
hợp đối với doanh nghiệp, cả về quản lý Nhà nước và quản trị doanh nghiệp. Có
nhiều căn cứ để phân loại doanh nghiệp như căn cứ vào tính chất sở hữu và mục
đích hoạt động của doanh nghiệp; phân loại theo cơ cấu nhà đầu tư và phương thức
góp vốn vào doanh nghiệp; phân loại theo tư cách pháp lý của doanh nghiệp…
Ở hệ thống pháp luật của các quốc gia khác nhau thì có sự phân chia các loại
hình doanh nghiệp khác nhau. Ở Việt Nam, do những điều kiện lịch sử, xã hội đặc
thù, doanh nghiệp và pháp luật về doanh nghiệp hiện nay vẫn còn nhiều điểm khác
biệt lớn so với xu hướng phổ biến trên thế giới, một trong những khác biệt đó là vấn
đề loại hình doanh nghiệp.
Ở Việt Nam hiện nay, việc phân loại các doanh nghiệp được thực hiện trên
nhiều tiêu chí. Các tiêu chí thường được sử dụng là hình thức sở hữu vốn, hình thức
pháp lý của doanh nghiệp và lĩnh vực kinh doanh.
Theo hình thức pháp lý của doanh nghiệp có thể phân chia thành các doanh
nghiệp như sau:
* Doanh nghiệp tư nhân: là một tổ chức kinh tế được đăng ký kinh doanh theo
quy định và thực hiện các hoạt động kinh doanh. Doanh nghiệp tư nhân do một cá
nhân làm chủ, có tài sản, có trụ sở giao dịch. Chủ doanh nghiệp tư nhân là đại diện
theo pháp luật, có toàn quyền quyết định đối với tất cả hoạt động kinh doanh của
công ty. Thông thường, chủ doanh nghiệp tư nhân sẽ trực tiếp quản lý và điều hành
mọi hoạt động của công ty, tuy nhiên người chủ này vẫn có thể thuê người khác để
9
thay mình làm công việc này. Doanh nghiệp tư nhân là công ty trách nhiệm vô hạn
và không có tư cách pháp nhân.
* Công ty trách nhiệm hữu hạn: là loại hình doanh nghiệp có tư cách pháp
nhân được pháp luật thừa nhận. Chủ sở hữu công ty và công ty là hai thực thể pháp
lý riêng biệt. Trước pháp luật, công ty có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp
giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, chủ sở hữu công ty là thể nhân với các quyền
và nghĩa vụ tương ứng với quyền sở hữu công ty.
* Công ty cổ phần: là loại hình công ty trong đó vốn điều lệ được chia thành
nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần, được thành lập và tồn tại độc lập. Công ty cổ
phần có quyền phát hành chứng khoán ra ngoài theo quy định của pháp luật về
chứng khoán.
* Công ty hợp danh: là công ty trong đó phải có ít nhất hai thành viên hợp
danh là chủ sở hữu chung của công ty, ngoài các thành viên công ty hợp danh có thể
có thành viên góp vốn.
Căn cứ vào tính chất sở hữu tài sản trong doanh nghiệp: Theo tiêu chí này
doanh nghiệp được phân thành các loại: doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp dân
doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài:
* Doanh nghiệp Nhà nước: Là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn. Nhà
nước – người đại diện toàn dân – tổ chức thực hiện chức năng quản lý trên mọi mặt
hoạt động sản xuất kinh doanh kể từ khi thành lập cho đến khi giải thể. Doanh
nghiệp nhà nước có tư cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự trong phạm
vi số vốn do doanh nghiệp quản lý.
* Doanh nghiệp dân doanh được hiểu là các loại hình kinh doanh trong nước
không do”nhà nước tổ chức và quản lý.
* Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là các doanh nghiệp có vốn đầu tư
trực tiếp của nước ngoài, không phân biệt tỷ lệ vốn của bên nước ngoài góp. Khu
vực có vốn đầu tư nước ngoài gồm doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài và doanh
nghiệp liên doanh giữa nước ngoài với các đối tác trong nước.
10
Dựa vào nguồn gốc vốn có thể phân chia thành các doanh nghiệp có vốn đầu
tư trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
* Doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước là những doanh nghiệp do các tổ
chức, cá nhân Việt Nam, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài
thường trú ở Việt Nam dùng vốn bằng tiền mặt, hiện vật hoặc quyền về tài sản để
sản xuất, kinh doanh dưới hình thức thành lập mới doanh nghiệp hoặc mở rộng quy
mô một cơ sở sản xuất kinh doanh hoặc mua cổ phần của các doanh nghiệp, góp
vốn vào doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế.
* Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là một loại hình doanh nghiệp bắt
đầu phát triển tại nước ta từ thời kỳ cải cách mở cửa và phát triển cho đến ngày nay.
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là những doanh nghiệp được các công ty
nước ngoài thành lập để đầu tư phát triển kinh doanh tại thị trường Việt Nam hoặc
là các doanh nghiệp trong nước được mua lại và sát nhập vào các công ty nước
ngoài.
1.1.1.3. Vai trò của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường
Qua hơn 30 năm chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu,
bao cấp sang kinh tế thị trường, đã diễn ra quá trình thay đổi to lớn trong việc phát
triển doanh nghiệp ở Việt Nam.
Từ chỗ nền kinh tế dựa chủ yếu vào doanh nghiệp nhà nước và hợp tác xã
nông nghiệp, hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp, hợp tác xã mua bán, hiện nay nước ta
đã có trên 620.000 doanh nghiệp tư nhân, hơn 20.000 doanh nghiệp có vốn đầu
tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Phần lớn doanh nghiệp nhà nước đã được cổ phần
hóa, số doanh nghiệp 100% vốn nhà nước chủ yếu là những tập đoàn lớn (Nguyễn
Mại-Báo đầu tư).
Nghị quyết lần thứ IV của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa XII) nhận
định: “Môi trường đầu tư, kinh doanh được cải thiện và thông thoáng hơn; quyền tự
do kinh doanh và cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần
kinh tế được bảo đảm hơn”.
11
Nhà nước đã có định hướng và chính sách phát triển đối với từng loại hình
doanh nghiệp như doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp ngoài nhà nước và doanh
nghiệp FDI. Việc thực hiện cổ phần hóa và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà
nước đã được triển khai trong hơn hai thập niên, đang ở vào giai đoạn cuối để định
hình khu vực kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường.
Với doanh nghiệp tư nhân, Nghị quyết IV, Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(Khóa XII) đã khẳng định: “Kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng để phát
triển kinh tế. Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể cùng với kinh tế tư nhân là nòng cốt
để phát triển nền kinh tế độc lập, tự chủ”. Nghị quyết đã đề ra hệ thống quan điểm
và giải pháp phát triển kinh tế tư nhân nhằm mục tiêu đến năm 2030, nước ta có
khoảng 2 triệu doanh nghiệp tư nhân, đóng góp 60 – 65% GDP (Nghị quyết số 10-
NQ/TW ngày 03/6/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa).
Với doanh nghiệp FDI là động lực tăng trưởng mạnh mẽ của nước ta, hiện
đang chiếm 20% tổng vốn đầu tư xã hội, đóng góp 20% GDP. Năm 2017, khu vực
FDI chiếm tới 72% tổng giá trị xuất khẩu; đồng thời, còn tạo công ăn việc làm cho
nền kinh tế, góp phần ổn định tình hình xã hội. Khu vực FDI tạo ra khoảng 3,5 triệu
việc làm trực tiếp và gần 5 triệu việc làm gián tiếp…(Thúy Hiền/BNEWS/TTXVN).
Vai trò của doanh nghiệp thể hiện ở các nội dung chủ yếu sau:
(1) Giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống của người lao
động
Trong những năm gần đây, số doanh nghiệp tăng nhanh đã giải quyết được
nhiều việc làm với thu nhập cao hơn cho người lao động. Thu nhập cao và tăng
nhanh của lao động khối doanh nghiệp góp phần cải thiện và nâng cao mức sống
chung của toàn xã hội và tham gia vào quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động từ
nông nghiệp sang các ngành phi nông nghiệp.
(2) Doanh nghiệp tăng trưởng và phát triển là yếu tố quyết định đến tăng
trưởng cao và ổn định của nền kinh tế những năm qua
12
Lợi ích cao hơn mà tăng trưởng doanh nghiệp đem lại là tạo ra khối lượng
hàng hoá và dịch vụ lớn hơn, phong phú hơn, chất lượng tốt hơn, thay thế được
nhiều mặt hàng phải nhập khẩu, góp phần quan trọng cải thiện và nâng cao mức tiêu
dùng trong nước và tăng xuất khẩu, đó cũng là yếu tố giữ cho nền kinh tế ổn định và
phát triển những năm qua.
(3) Doanh nghiệp phát triển tác động đến chuyển dịch cơ cấu trong nền kinh tế
quốc dân và trong nội bộ mỗi ngành
– Các loại hình kinh tế trong doanh nghiệp phát triển đa dạng gồm nhiều thành
phần, trong đó doanh nghiệp nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm
tỷ trọng lớn, các loại hình doanh nghiệp tư nhân tuy còn nhỏ nhưng phát triển nhanh
và rộng khắp ở các ngành và các địa phương trong cả nước, loại hình kinh tế tập thể
đang được khôi phục và có bước phát triển mới.
– Doanh nghiệp phát triển nhanh trong tất cả các ngành và ở khắp các địa
phương đã tạo ra cơ hội phân công lại lao động giữa các khu vực nông lâm nghiệp,
thủy sản và sản xuất kinh doanh nhỏ của hộ gia đình là khu vực lao động có năng
suất thấp, thu nhập không cao, chiếm số đông, thiếu việc làm sang khu vực doanh
nghiệp, nhất là công nghiệp và dịch vụ có năng suất cao và thu nhập khá hơn.
(4) Phát triển doanh nghiệp tác động đến giải quyết tốt hơn các vấn đề xã hội
Những năm gần đây, sản phẩm hàng hoá và dịch vụ do khối doanh nghiệp tạo
ra ngày càng phong phú, đa dạng về chủng loại mặt hàng, chất lượng hàng hoá, dịch
vụ được nâng lên, do đó đã giải quyết cơ bản nhu cầu tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ
ngày càng cao của toàn xã hội, góp phần nâng cao mức sống vật chất của dân cư và
tăng nhanh lượng hàng hoá xuất khẩu.
Doanh nghiệp là khu vực chủ yếu tạo ra nguồn thu cho ngân sách Nhà nước,
nguồn thu này tăng nhanh trong những năm qua là điều kiện để đầu tư phát triển cơ
sở hạ tầng, phát triển các hoạt động xã hội công (y tế, giáo dục, xoá đói giảm
nghèo…).
13
1.1.2. Khái niệm chung về pháp luật doanh nghiệp
1.1.2.1. Khái niệm pháp luật về doanh nghiệp theo luật pháp các nước
Trên thế giới, quá trình công nghiệp hoá ở các nước châu Âu và Bắc Mỹ từ thế
kỷ 18, 19 cùng với nhu cầu tích tụ vốn để đầu tư của các nhà tư bản. Chính nhu cầu
huy động vốn này đã làm cho các nhà kinh doanh phải liên kết với nhau, hình thành
các công ty, các tổ chức kinh doanh. Chính từ nhu cầu khách quan phát triển kinh
tế – xã hội cần có sự liên kết hùn vốn, đồng thời về mặt chủ quan, các nhà đầu tư
muốn chia sẻ những gánh nặng rủi ro trong kinh doanh và tìm kiếm lợi nhuận cao
hơn đã dẫn đến sự ra đời của các công ty. Sự đa dạng của các loại hình công ty cũng
như các vấn đề liên quan đến sự ra đời, tồn tại, phát triển, quyền, nghĩa vụ của thành
viên công ty ngày càng trở nên phức tạp đòi hỏi cần phải có sự điều chỉnh của pháp
luật. Để đảm bảo cho sự tồn tại và hoạt động đúng mục đích của các công ty, Nhà
nước phải ban hành những quy định cụ thể để điều chỉnh các vấn đề liên quan, và
do vậy pháp luật về công ty tất yếu ra đời.
Như vậy pháp luật công ty là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các
quan hệ phát sinh trực tiếp trong quá trình thành lập, tổ chức, hoạt động, phát triển
và kết thúc hoạt động của công ty. (Bùi Ngọc Sơn, Giáo trình Pháp luật về doanh
nghiệp, 2011, trang 41).
1.1.2.2. Khái niệm pháp luật về doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam
Sự phát triển của pháp luật về doanh nghiệp Việt Nam đã trải qua nhiều thời
kỳ tương ứng với mỗi thời kỳ phát triển của cách mạng Việt Nam, Nhà nước Việt
Nam. Trong mỗi thời kỳ đó, sự phát triển của pháp luật doanh nghiệp bị chi phối
bởi nhiều yếu tố khách quan và chủ quan như hoàn cảnh kinh tế – xã hội, sự nhận
thức của Đảng và Nhà nước về vai trò của pháp luật, sự hiện diện của một đội ngũ
chuyên gia pháp luật, nhu cầu hội nhập và hợp tác quốc tế… pháp luật là công cụ
không thể thiếu để quản lý xã hội và vai trò của pháp luật trong đời sống ngày càng
phải được đề cao.
Giai đoạn Pháp thuộc thời kỳ đầu, người Pháp đã áp dụng Bộ luật thương mại
của Pháp vào thực tiễn của Việt Nam. Đến năm 1931, do những khác biệt trong điều
14
kiện kinh tế-xã hội giữa nước Pháp và Việt Nam nên chính quyền thực dân đã ban
hành Bộ Dân luật thi hành tại các Tòa án Nam Kỳ áp dụng tại Việt Nam. Trong đạo
luật này có các quy định về công ty, hội buôn với 2 loại: Hội thành lập theo người
và Hội thành lập theo vốn. Ở Việt Nam lúc này vẫn chưa xuất hiện công ty trách
nhiệm hữu hạn.
Đến năm 1944, chính quyền Bảo Đại ban hành Đạo luật thương mại Trung
phần nhưng thực chất chỉ là sự sao chép lại nội dung của Bộ luật thương mại Pháp.
Sau khi hòa bình lập lại năm 1954, miền Bắc bước lên xây dựng chủ nghĩa xã
hội, chủ yếu chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam nên không có các quy định riêng
về pháp luật các loại hình doanh nghiệp.
Trong khi đó, ở miền Nam là thuộc địa của Mỹ, có đường lối phát triển kinh tế
thị trường theo kiểu Mỹ. Đến năm 1972, chính quyền Nguyễn Văn Thiệu ban hành
Bộ luật thương mại Việt Nam Cộng hòa áp dụng tại miền Nam Việt Nam với 3 loại
hình doanh nghiệp là: Hội hợp danh, Hội hợp tư đơn thường, Hội trách nhiệm hữu
hạn (Bùi Ngọc Sơn, Giáo trình Pháp luật về doanh nghiệp, 2011, trang 52).
Khi đất nước thống nhất đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, từ sau Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ VI (năm 1986), Việt Nam bắt đầu thực hiện công cuộc đổi
mới, với mục tiêu xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị
trường, chấp nhận và tôn trọng các qui luật của nền sản xuất hàng hóa, chấp nhận tự
do kinh doanh. Đồng thời, hệ thống pháp luật về doanh nghiệp và công ty và doanh
nghiệp tại Việt Nam cũng chính thức hình thành. Sau rất nhiều lần sửa đổi ngày
26/11/2014, Quốc hội ban hành Luật doanh nghiệp năm 2014 quy định về việc
thành lập, tổ chức quản lý, tổ chức lại, giải thể và hoạt động có liên quan của doanh
nghiệp, bao gồm công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh
và doanh nghiệp tư nhân; quy định về nhóm công ty.
Như vậy pháp luật doanh nghiệp là những quy định bảo đảm nhu cầu quản lý
nhà nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong quá trình hoạt
động của doanh nghiệp cũng như sự phát triển của nền kinh tế – xã hội.
15
1.2. Những nội dung cơ bản của pháp luật về doanh nghiệp
Nội dung của pháp luật về doanh nghiệp chủ yếu là những quy phạm ghi nhận
và đảm bảo quyền, đồng thời xác định trách nhiệm của nhà đầu tư trong việc tổ
chức, vận hành doanh nghiệp. Các nhóm quy phạm của pháp luật Việt Nam về
doanh nghiệp bao gồm:
1.2.1. Quy định về điều kiện, thủ tục thành lập, đăng ký kinh doanh của doanh
nghiệp
Thành lập doanh nghiệp có ý nghĩa xác lập tư cách pháp lý cho doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế thị trường, với yêu cầu của nguyên tắc tự do kinh doanh, thành
lập doanh nghiệp được coi là quyền cơ bản của nhà đầu tư. Tuy nhiên, sự hiện diện
của doanh nghiệp trên thương trường luôn tiềm ẩn nguy cơ ảnh hưởng đến những
lợi ích của các chủ thể có liên quan, vì vậy việc thành lập doanh nghiệp phải được
thực hiện trên khuôn khổ pháp luật. Chế định thành lập doanh nghiệp thường bao
gồm những nội dung cơ bản là những trường hợp được thành lập doanh nghiệp hoặc
bị cấm thành lập doanh nghiệp; các thủ tục để xin phép thành lập doanh nghiệp; cơ
quan có thẩm quyền đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp; Trình tự, thủ tục cần
thiết các giấy tờ nộp cho cơ quan có thẩm quyền để đăng ký kinh doanh cho doanh
nghiệp.
1.2.2. Quy định về cơ cấu tổ chức quản lý của doanh nghiệp
Với yêu cầu của nguyên tắc tự do kinh doanh, việc tổ chức quản lý (nội bộ)
doanh nghiệp trước hết và chủ yếu thuộc quyền quyết định của chủ sở hữu các
doanh nghiệp. Pháp luật chỉ quy định ràng buộc những vấn đề cơ bản, mang tính
nguyên tắc, xác lập khung pháp lý cho việc tổ chức quản lý doanh nghiệp.
Nội dung này gồm các quy định về các loại hình doanh nghiệp được phép
thành lập; cơ cấu tổ chức của mỗi loại hình doanh nghiệp phải bao gồm những cơ
quan tối thiểu nào; những loại hình doanh nghiệp nào thì bắt buộc phải có cơ quan
kiểm soát; điều kiện để các thành viên doanh nghiệp có thể tham gia vào các cơ
quan của doanh nghiệp như hội đồng thành viên, hội đồng quản trị, ban kiểm
soát…; chủ tịch hội đồng quản trị hoặc chủ tịch hội đồng thành viên có đồng thời