VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
HOÀNG THỊ HUẾ
XỬ LÝ TÀI SẢN THẾ CHẤP LÀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
ĐỂ BẢO ĐẢM TIỀN VAY NGÂN HÀNG TỪ THỰC TIỄN
XÉT XỬ TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
HÀ NỘI -2017
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
HOÀNG THỊ HUẾ
XỬ LÝ TÀI SẢN THẾ CHẤP LÀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
ĐỂ BẢO ĐẢM TIỀN VAY NGÂN HÀNG TỪ THỰC TIỄN
XÉT XỬ TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số: 60.38.01.07
LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. GVCC. DOÃN HỒNG NHUNG
HÀ NỘI – 2017
1
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ………………………………………………………………………………………………….
3
CHƢƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG CHO
VAY VÀ BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM TIỀN VAY BẰNG THẾ CHẤP QUYỀN SỬ
DỤNG ĐẤT TẠI NGÂN HÀNG Ở VIỆT NAM. ………………………………………………
7
1.1. Hoạt động cho vay của Ngân hàng và nghĩa vụ trả nợ tiền vay tại Ngân hàng
ở Việt Nam. ……………………………………………………………………………………………………..
7
1.2. Quyền sử dụng đất và pháp luật về thế chấp quyền sử dụng đất để bảo đảm
tiền vay tại Ngân hàng ở Việt Nam …………………………………………………………………
11
1.3.Xử lý tài sản thế chấp và xử lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất
……………………………………………………………………………………………………………………..18
CHƢƠNG 2 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ TÀI SẢN THẾ CHẤP
LÀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT ĐỂ BẢO ĐẢM TIỀN VAY CỦA NGÂN HÀNG
TẠI VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
…………………………………………………………………………………..
23
2.1.Thực trạng pháp luật về thế chấp quyền sử dụng đất ………………………………..
23
2.2 Pháp luật về xử lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất để bảo đảm tiền vay
của Ngân hàng. ………………………………………………………………………………………………
25
2.3.Áp dụng pháp luật trong việc xử lý tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất để
bảo đảm tiền vay trong các hợp đồng tín dụng của Ngân hàng từ thực tiễn xét xử
tại Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội. ………………………………………………………….
46
CHƢƠNG 3 HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ TÀI SẢN BẢO ĐẢM LÀ
QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT ĐỂ ĐẢM BẢO TIỀN VAY NGÂN HÀNG TẠI VIỆT
NAM VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ XỬ LÝ TÀI SẢN THẾ CHẤP …………………
60
3.1.Cơ sở để hoàn thiện pháp luật xử lý tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất để
bảo đảm tiền vay tại Ngân hàng ……………………………………………………………………..
60
2
3.2.Hoàn thiện pháp luật xử lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất để bảo đảm
tiền vay tại Ngân hàng và nâng cao hiệu quả xử lý tài sản thế chấp
…………………
63
KẾT LUẬN ……………………………………………………………………………………………………
72
DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO ……………………………………………………
75
3
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Với sự phát triển của nền kinh tế thị trường cũng như sự thông thoáng của cơ
chế cho vay trong thị trường tài chính thì việc cho vay của các tổ chức tín dụng đã
góp phần tạo ra cơ hội cho các doanh nghiệp và cá nhân phát triển kinh tế. Do đó,
hoạt động vay vốn ngân hàng đã và đang diễn ra sôi động, ngày càng trở nên quan
trọng và không thể thiếu trong bối cảnh nền kinh tế thị trường. Đi kèm với nó là
việc bảo đảm cho khoản vay tại các tổ chức tín dụng mà đặc trưng nhất là thế chấp
tài sản.
Trong số các tài sản được sử dụng để thế chấp bảo đảm khoản vay ngân hàng
thì quyền sử dụng đất (QSDĐ) là tài sản được sử dụng phổ biến và được bên nhận
thế chấp ưa chuộng hơn so với tài sản khác.Tuy nhiên, trong tình hình kinh tế nước
ta hiện nay rơi vào khủng hoảng, các doanh nghiệp đầu tư làm ăn thua lỗ kéo theo
nợ xấu ở các ngân hàng tăng lên. Khi khách hàng không còn khả năng trả nợ thì các
tổ chức tín dụng muốn thu hồi vốn đã cho vay chỉ còn cách xử lý tài sản bảo đảm.
Tuy nhiên hiện nay việc xử lý tài sản đảm bảo là quyền sử dụng đất không hề dễ
dàng mà phát sinh rất nhiều các vấn đề liên quan.Có nguyên nhân khách quan từ thị
trường bất động sản, nhưng cũng có nguyên nhân chủ quan chính các tổ chức tín
dụng. Bên cạnh đó từ thực tế giải quyết mới thấy pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm
là quyền sử dụng đất còn nhiều vấn đề vướng mắc do pháp luật hiện hành quy định
việc xử lý tài sản là quyền sử đụng đất để bảo đảm tiền vay còn chưa rõ ràng, chưa
cụ thể cũng như còn một số điểm bất hợp lý.
Việc nghiên cứu và áp dụng pháp luật để giải quyết các vụ án tranh chấp về
hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất để bảo đảm tiền vay là hết sức cần thiết, có ý
nghĩa thiết thực, từ đó đề ra được những phương hướng để hoàn thiện pháp luật. Do
đó, học viên đã chọn đề tài “Xử lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất để bảo
đảm tiền vay Ngân hàng từ thực tiễn xét xử tại Tòa án nhân dân thành phố Hà
Nội” làm luận văn tốt nghiệp của mình.
4
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong thời gian qua cũng có rất nhiều chuyên gia nghiên cứu các vấn đề có
liên quan thuộc phạm vi của luận văn, có thể kể đến các công trình nghiên cứu tiêu
biểu sau đây; Lê Thị Thu Thủy (2006) “Các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài
sản của các tổ chức tín dụng”; Nguyễn Thị Nga (2009)“Pháp luật về thế chấp
QSDĐ ở Việt Nam”;Vũ Thị Hồng Yến (2013) “Tài sản thế chấp và xử lý tài sản thế
chấp theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam hiện hành”; Nguyễn Quỳnh Hoa
(2015) “Xử lý tài sản thế chấp là QSDĐ theo pháp luật Việt Nam”;Lê Thị Thúy
Bình (2016) “Thực hiện pháp luật thế chấp quyền sử dụng đất ở Việt Nam”; các bài
viết có nội dung liên quan đến vấn đề xử lý tài sản thế chấp là QSDĐ trên các tạp
chí luật học chuyên ngành. Xét trong mối quan hệ với các nội dung thuộc phạm vi
nghiên cứu của đề tài luận văn thì các công trình khoa học nêu trên mới chỉ đề cập
đến những vấn đề về xử lý tài sản thế chấp của tất cả các loại tài sản hoặc chỉ tập
trung vào việc xác lập, đăng ký giao dịch thế chấp tài sản và xử lý tài sản thế chấp
là QSDĐ theo các phương thức quy định trong pháp luật về giao dịch bảo đảm. Dựa
trên các vấn đề lý luận đã có, luận văn được xem như là một công trình nghiên cứu
độc lập và có tính hệ thống về xử lý tài sản thế chấp là QSDĐ theo quy định của
pháp luật Việt Nam hiện hành và việc áp dụng pháp luật để xử lý trực tiếp thực tế
giải quyết tại Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ về mặt lý luận,
cơ sở pháp lý và thực trạng của các quy định pháp luật về xử lý tài sản thế chấp là
QSDĐ được áp dụng xét xử tại Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội để trên cơ sở đó
đề xuất các giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật liên quan đến các quy định
của pháp luật về xử lý tài sản đảm bảo là quyền sử dụng đất để đảm bảo tiền vay của
Ngân hàng.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
5
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là quy định của pháp luật áp dụng để giải
quyết các tranh chấp về xử lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất để bảo đảm tiền
vay Ngân hàng từ thực tiễn giải quyết tại Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.
Phạm vi nghiên cứu dựa trên các vấn đề lý luận để đánh giá quy trình giải
quyết tại TAND thành phố Hà Nội, từ đó xác định được các vấn đề pháp lý có thể
phát sinh từ thực tiễn áp dụng pháp luật. Từ đó ta nhận xét được việc áp dụng pháp
luật vào thực tế có những thuận lợi, khó khăn gì, tác động ảnh hưởng đến các vấn đề
kinh tế – xã hội như thế nào.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Để đạt được mục đích và hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu, luận văn sử dụng
phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác –
Lênin; chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước ta về hoàn thiện thể chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh đó, luận văn còn sử dụng một số
phương pháp nghiên cứu khoa học cơ bản như: Phương pháp phân tích, tổng hợp,
khái quát hóa, so sánh pháp luật… để làm sáng tỏ mục tiêu và nội dung nghiên cứu
của đềtài.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Từ những phân tích, đánh giá của luận văn đã làm sang tỏ các vấn đề pháp luật
liên quan đến đề tài, có ứng dụng trong thực tiễn, cụ thể như sau:
-Thứ nhất, dựa trên những vấn đề lý luận về biện pháp thế chấp, luận văn tập
trung nghiên cứu các khía cạnh pháp lý và thực tiễn của xử lý tài sản thế chấp là
QSDĐ.
-Thứ hai, luận văn chú trọng đến thực tiễn áp dụng các quy định về xử lý tài
sản thế chấp là QSDĐ tại Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội để đưa ra những đánh
giá, nhận định về hệ thống pháp luật hiện hành.
-Thứ ba, luận văn tìm hiểu thực trạng xử lý tài sản thế chấp là QSDĐ từ đó
đưa ra hướng giải quyết phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của Việt
Nam và thông lệ quốc tế.
6
-Thứ tư, luận văn đề xuất các giải pháp để hoàn thiện hệ thống pháp luật và
nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định pháp luật về xử lý tài sản thế chấp là
QSDĐ.
7. Cơ cấu của luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận
văn gồm 03 chương;
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động cho vay và biện pháp
bảo đảm tiền vay là quyền sử dụng đất tại Ngân hàng ở Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng áp dụng pháp luật xử lý tài sản thế chấp là quyền sử
dụng đất để bảo đảm tiền vay của Ngân hàng từ thực tiễn xét xửtại Tòa án nhân dân
thành phố Hà Nội.
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật về xử lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất để
đảm bảo tiền vay ngân hàng tại Việt Nam và nâng cao hiệu quả xử lý tài sản thế chấp.
7
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY VÀ
BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM TIỀN VAY BẰNG THẾ CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG
ĐẤT TẠI NGÂN HÀNG Ở VIỆT NAM.
1.1. Hoạt động cho vay của Ngân hàng và nghĩa vụ trả nợ tiền vay tại
Ngân hàng ở Việt Nam.
1.1.1.
Khái niệm về hoạt động cho vay của Ngân hàng
Theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc
Ngân hàng nhà nước Việt Nam về việc ban hành quy chế cho vay của các tổ chức
tín dụng đối với khách hàng thì “Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó
ngân hàng cho vay giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và
thời gian nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi”. Trong
đó “Thời hạn cho vay là khoảng thời gian được tính từ khi khách hàng bắt đầu nhận
vốn vay cho đến thời điểm trả hết nợ gốc và lãi vốn vay đã được thoả thuận trong
hợp đồng tín dụng giữa tổ chức tín dụng và khách hàng” và “Kỳ hạn trả nợ là các
khoảng thời gian trong thời hạn cho vay đã được thoả thuận giữa tổ chức tín dụng
và khách hàng mà tại cuối mỗi khoảng thời gian đó khách hàng phải trả một phần
hoặc toàn bộ vốn vay cho tổ chức tín dụng”.
Hoạt động cho vay của ngân hàng là một khái niệm mang tính kinh tế hơn là
pháp lý. Các hành vi cho vay của ngân hàng có cùng một logíc kinh tế, hứng chịu
rủi ro cho một người mà ngân hàng tin tưởng ứng vốn cho vay, nhưng nó không chỉ
gồm một giao dịch pháp lý mà nhiều loại (cho vay, bảo lãnh, cầm cố…).
Cho vay có thể diễn ra dưới các hình thức là cho vay có bảo đảm và cho vay
không có bảo đảm.Trong đó, cho vay có bảo đảm là việc tổ chức tín dụng cho vay
vốn mà nghĩa vụ trả nợ của bên vay được cam kết bảo đảm thực hiện bằng tài sản
cầm cố, thế chấp, hoặc bảo lãnh của người thứ ba.Còn cho vay không bảo đảm là
loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba,
mà việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách hàng. Đối với những khách
hàng tốt, trung thực trong kinh doanh, có khả năng tài chính lành mạnh, quản trị có
8
hiệu suất và phương án kinh doanh hiệu quả thì ngân hàng có thể cấp tín dụng dựa
vào uy tín của bản thân khách hàng mà không cần một nguồn thu nợ thứ hai bổ sung
là tài sản bảo đảm.
1.2.2.
Nghĩa vụ trả nợ tiền vay tại Ngân hàng ở Việt Nam
1.2.2.1.
Khái niệm
Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao
tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản
cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc
pháp luật có quy định. Hợp đồng vay tài sản được xác lập trên nguyên tắc tự
nguyện, trung thực, không trái pháp luật, phù hợp với đạo đức xã hội.
Khi giao kết hợp đồng vay, bên vay có nghĩa vụ trả nợ theo quy định tại Điều
466 Bộ luật dân sự năm 2015:
– Nếu tài sản là tiền thì phải trả đủ tiền khi đến hạn; nếu tài sản là vật thì phải
trả vật cùng loại đúng số lượng, chất lượng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
-Trường hợp bên vay không thể trả vật thì có thể trả bằng tiền theo trị giá của
vật đã vay tại địa điểm và thời điểm trả nợ, nếu được bên cho vay đồng ý.
– Địa điểm trả nợ là nơi cư trú hoặc nơi đặt trụ sở của bên cho vay, trừ trường
hợp các bên có thỏa thuận khác.
– Trường hợp cho vay không có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả nợ hoặc
trả không đầy đủ thì bên cho vay có quyền yêu cầu trả tiền lãi với mức lãi suất theo
quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật luật dân sự năm 2015 trên số tiền chậm
trả tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp
luật có quy định khác.
– Trường hợp cho vay có tính lãi mà khi đến hạn bên vay không trả hoặc trả
không đầy đủ thì bên vay phải trả lãi. Theo đó, lãi tính trên nợ gốc theo lãi suất thỏa
thuận trong hợp đồng tương ứng với thời hạn vay mà đến hạn chưa trả; trường hợp
chậm trả thì còn phải trả lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468;
Trường hợp khoản vay bị quá hạn thì bên vay phải chịu lãi quá hạn tính bằng 150%
9
lãi suất vay theo hợp đồng tín dụng tính trên nợ gốc quá hạn tương ứng với thời
gian chậm trả, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.[22, Điều 468]
Như vậy nghĩa vụ trả nợ tiền vay chính là việc bên vay phải trả lại tài sản như
đã thỏa thuận, việc trả tiền và cách tính lãi suất được hai bên thỏa thuận trong hợp
đồng tín dụng.
1.2.2.2.
Các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản
Trong các biện pháp bảo đảm tiền vay thì biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài
sản là biện pháp có tính phổ biến nhất bởi khi bảo đảm bằng tài sản bên cho vay sẽ
có được độ an toàn cao hơn, tránh được rủi ro bị thất thoát khoản vay.
Thứ nhất: Bảo đảm tiền vay bằng tài sản thế chấp
Theo điều 317 Bộ luật dân sự 2015 thì “thế chấp tài sản là việc một bên (sau
đây gọi là bên thế chấp) dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ và không giao tài sản cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận thế chấp)”. Như
vậy, thế chấp tài sản là một trong những biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ do
hai bên thỏa thuận hoặc do pháp luật quy định.
Thế chấp tài sản là hình thức theo đó bên đi vay phải chuyển các giấy tờ chứng
nhận quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng các tài sản bảo đảm cho bên cho vay nắm
giữ trong thời gian thỏa thuận để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ đối với bên cho vay.
Tuy nhiên không phải tất cả các loại tài sản đều có thể đem đi thế chấp mà nó phải
thỏa mãn một số điều kiện nhất định, tùy thuộc vào quy định của pháp luật. Tài sản
là động sản, bất động sản, quyền sử dụng đất có thể thế chấp để bảo đảm tiền vay
theo quy định tại Điều 318 Bộ luật dân sự năm 2015 [22, Điều 318]
Thứ hai: Bảo đảm tiền vay bằng tài sản cầm cố
Theo điều 309 Bộ luật dân sự 2015 quy định “Cầm cố tài sản là việc một bên
(sau đây gọi là bên cầm cố) giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên kia
(sau đây gọi là bên nhận cầm cố) để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ”.Như vậy, bản chất
của cầm cố là một biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Theo đó bên có
nghĩa vụ giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên có quyền để đảm bảo
10
thực hiện nghĩa vụ; nếu tài sản cầm cố có đăng ký quyền sở hữu thì các bên có thể
thỏa thuận bên cầm cố vẫn giữ tài sản hoặc giao cho bên thứ ba giữ.
Trong quan hệ tín dụng ngân hàng, cầm cố tài sản được hiểu là việc khách
hàng (bên vay vốn) dùng tài sản thuộc sở hữu của mình giao cho tổ chức tín dụng
(bên cho vay) để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ.[22]
Thứ ba: Bảo đảm tiền vay bằng tài sản của người thứ ba
Bảo đảm bằng tài sản của bên thứ ba là biện pháp bảo đảm trong đó bên thứ ba
sử dụng tài sản thuộc sở hữu của mình thế chấp hoặc cầm cố cho Ngân hàng để bảo
đảm việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ của bên vay.
Bản chất của bảo đảm bằng tài sản của người thứ ba cũng chính là biện pháp
bằng thế chấp hoặc cầm cố tài sản nhưng chủ thể đưa tài sản vào thế chấp hoặc cầm
cố không phải là bên vay vốn mà là người khác.
Thứ tư: Bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành trong tương lai
Thế chấp tài sản hình thành trong tương lai là một biện pháp bảo đảm phổ biến
áp dụng trong hoạt động kinh doanh dự án bất động sản, theo đó tài sản hình thành
trong tương lại được thế chấp cho Ngân hàng để vay vốn thực hiện dự án. Do đó,
pháp luật quy định quyền huy động vốn của chủ đầu tư phải đáp ứng một số quy
định tại Điều 147 Luật nhà ở 2014 [31, Điều 147], theo đó Tổ chức, cá nhân xây
dựng nhà ở hình thành trong tương lai trên thửa đất ở hợp pháp của mình; tổ chức,
cá nhân mua nhà ở hình thành trong tương lai trong dự án đầu tư xây dựng nhà ở
của chủ đầu tư được thế chấp nhà ở này tại tổ chức tín dụng đang hoạt động tại Việt
Nam để vay vốn phục vụ cho xây dựng nhà ở hoặc để mua chính nhà ở đó.
Việc thế chấp dự án đầu tư xây dựng nhà ở và thế chấp nhà ở hình thành trong
tương lai chỉ được thực hiện theo quy định tại Luật này; các trường hợp thế chấp tài
sản là dự án đầu tư xây dựng nhà ở hoặc nhà ở hình thành trong tương lai không
đúng với quy định tại Luật này thì không có giá trị pháp lý [31, Điều 148].
Tài sản hình thành trong tương lai có thể hiểu là loại tài sản tồn tại hoặc chưa
tồn tại ở tại thời điểm giao dịch.Tuy nhiên, nó được đảm bảo thuộc quyền sở hữu
của cá nhân hoặc tổ chức nhất định trong giao dịch về tài sản đó.Có nghĩa là tài sản
11
hình thành trong tương lai gồm cả tài sản chưa hình thành hoặc đã hình thành nhưng
việc chuyển giao quyền sở hữu cho bên bảo đảm chưa được hoàn thành.
1.2 . Quyền sử dụng đất và pháp luật về thế chấp quyền sử dụng đất để
bảo đảm tiền vay tại Ngân hàng ở Việt Nam
1.2.1 .Khái niệm quyền sử dụng đất
Đất đai là một tài nguyên thiên nhiên quý giá của mỗi quốc gia và nó cũng là
yếu tố mang tính quyết định sự tồn tại và phát triển của con người và các sinh vật
khác trên trái đất. Đất đai có tính cố định vị trí, không thể di chuyển được, tính cố
định vị trí quyết định tính giới hạn về quy mô theo không gian và chịu sự chi phối
của các yếu tố môi trường nơi có đất. Mặt khác, đất đai không giống các hàng hóa
khác có thể sản sinh qua quá trình sản xuất do đó, đất đai là có hạn.
Theo lý thuyết truyền thống của pháp luật dân sự, đất đai là một tài sản nên
chủ sở hữu đất đai có ba quyền đó là quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền
định đoạt. Đây là ba quyền năng cơ bản của chủ sở hữu đối với tài sản. Ở Việt Nam,
pháp luật không thừa nhận sở hữu tư nhân đối với đất đai, mà Điều 53 Hiến pháp
năm 2013 đã khẳng định “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ
sở hữu và thống nhất quản lý” do vậy Nhà nước mới là chủ thể có đầy đủ ba quyền
năng đối với đất đai. Theo đó, để thực hiện quyền năng của chủ sở hữu, Nhà nước
“Trao QSDĐ cho người sử dụng đất đối với người đang sử dụng đất ổn định; quy
định quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất”. Trên cơ sở Hiến pháp, sau đó ngày
29/11/2013, Quốc hội cũng đã thông qua Luật đất đai mới thay thế Luật đất đai năm
2003, Điều 4 Luật đất đai năm 2013 đã thể chế hóa rất rõ Điều 53 của Hiến pháp
năm 2013: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và
thống nhất quản lý. Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất theo
quy định của luật này”
Nhà nước công nhận QSDĐ cho người sử dụng đất (cá nhân, tổ chức, hộ gia
đình, cơ sở tôn giáo) thông qua quyết định giao đất của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền hoặc hợp đồng cho thuê đất giữa Nhà nước với bên có nhu cầu sử dụng hoặc
công nhận QSDĐ đối với người đang sử dụng đất ổn định lâu dài.
12
QSDĐ ở nước ta được hình thành trên cơ sở quy định chung của pháp luật,
được điều chỉnh các giao dịch liên quan theo hệ thống pháp luật nước ta. Căn cứ
vào điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội và sự phân chia giới hạn kiểm soát đất đai
giữa Nhà nước với người sử dụng đất theo quy định của pháp luật đã tạo ra một loại
tài sản mới đó là QSDĐ. Người sử dụng đất chỉ được chuyển QSDĐ (chuyển đổi,
chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp, gópvốn…).
Từ sự phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm về QSDĐ như sau: “QSDĐ là
quyền của các chủ thể sử dụng đất bao gồm quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho
thuê, cho thuê lại, thừa kế, thế chấp, góp vốn, tặng cho QSDĐ; quyền được khai
thác các thuộc tính, công dụng của đất, quyền được hưởng những thành quả lao
động kết quả đầu tư trên đất và các quyền khác theo quy định của phápluật”.
1.2.2
Thế chấp quyền sử dụng đất để bảo đảm tiền vay trong Hợp đồng tín
dụng của Ngân hàng tại Việt Nam
1.2.2.1 Khái niệm
Các giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất được quy định cụ thể trong
pháp luật đất đai và pháp luật dân sự. Cơ sở pháp lý tiền đề cho các giao dịch về
QSDĐ nói chung và thế chấp QSDĐ nói riêng vận hành trong nền kinh tế thị trường
được đánh dấu bằng sự ghi nhận trong đạo luật gốc – Điều 18 Hiến pháp năm 1992:
“Nhà nước giao đất cho các hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất ổn định, lâu dài và
được chuyển QSDĐ theo quy định pháp luật”. Hay quy định tại Khoản 2 Điều 54
Hiến pháp năm 2013: “Tổ chức, cá nhân được Nhà nước giao đất, cho thuê đất,
công nhận QSDĐ. Người sử dụng đất được chuyển QSDĐ, thực hiện các quyền và
nghĩa vụ theo quy định của luật. QSDĐ được pháp luật bảo hộ”.
Vì vậy, tài sản thế chấp trong các giao dịch bảo đảm chỉ là QSDĐ mà không
phải là quyền sở hữu đất đai. Do vậy, thực hiện pháp luật TCQSDĐ là đặc trưng của
pháp luật Việt Nam.
Cụ thể hóa Hiến pháp, các quy định của Luật Đất đai năm 2003 đến Luật đất
đai năm 2013 đã nối tiếp ghi nhận và ngày càng mở rộng, phát triển một nhóm các
quyền cụ thể đối với người sử dụng đất bao gồm: quyền chuyển đổi, quyền chuyển
13
nhượng, quyền cho thuê, quyền cho thuê lại, quyền thừa kế, quyền tặng cho, quyền
góp vốn, quyền thế chấp và quyền bảo lãnh QSDĐ. Với các quyền nêu trên của
người sử dụng đất cho thấy, đất đai (QSDĐ) không còn là thứ tài nguyên thuần túy
được thiên nhiên ban tặng và được Nhà nước cấp phát như trước đây, mà nó đã trở
thành tài sản được định giá bằng tiền và giá đó được thể hiện thông qua các giao
dịch về QSDĐ trên thị trường, trong đó có giao dịch thế chấp QSDĐ.
Trong nền kinh tế thị trường cho thấy, thế chấp QSDĐ là một lĩnh vực có nội
hàm vừa mang tính chất rộng, chịu sự tác động và điều chỉnh của lĩnh vực pháp luật
chung (Pháp luật dân sự) khi xem xét các quan hệ thế chấp QSDĐ với ý nghĩa là
một biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự bằng tài sản. Song thế chấp
QSDĐ vừa là lĩnh vực có nội hàm hẹp, bị giới hạn, chi phối và ràng buộc bởi lĩnh
vực pháp luật chuyên ngành, điều chỉnh những nội dung mang tính chất đặc thù của
tài sản và QSDĐ. Vì vậy, quan hệ thế chấp QSDĐ còn được điều chỉnh ở cả lĩnh
vực pháp luật đất đai, pháp luật tín dụng ngân hàng và các lĩnh vực pháp luật khác
có liên quan.[14]
Sự điều chỉnh này hướng đến việc hướng dẫn các quy trình và cách thức cụ thể
trong việc xác lập, thực hiện giao dịch thế chấp, cũng như những phương thức giải
quyết các trường hợp phát sinh trong thực tế khi thực hiện quyền và nghĩa vụ của
các bên tham gia quan hệ thế chấp QSDĐ. Tuy nhiên, xuyên suốt toàn bộ các văn
bản pháp luật trong các lĩnh vực nêu trên cho thấy, pháp luật quy định khá cụ thể,
chi tiết các điều kiện về chủ thể, về đối tượng, cũng như các trình tự, thủ tục về việc
xác lập, thực hiện và chấm dứt quan hệ thế chấp QSDĐ, song lại không thấy bất kỳ
một khái niệm hay một định nghĩa nào về thế chấp QSDĐ. Vì vậy, việc đưa ra một
khái niệm cụ thể, độc lập về thế chấp QSDĐ có ý nghĩa quan trọng nhằm định
hướng cho các bên trong quá trình kể từ khi có ý định xác lập quan hệ thế chấp, cho
đến khi giao dịch được xác lập, thực hiện và chấm dứt. Trên cơ sở khái niệm đó,
chúng ta có thể rút ra được bản chất và những đặc trưng riêng biệt của thế chấp
QSDĐ. Từ đó, mỗi chủ thể tham gia trực tiếp vào quan hệ thế chấp và các chủ thể
khác có liên quan sẽ ý thức và hiểu hơn vị thế, vai trò cũng như nghĩa vụ và trách
14
nhiệm của mình thông qua những quy phạm pháp luật cụ thể ở cả lĩnh vực pháp luật
chung và pháp luật chuyên ngành[14].
Việc TCQSDĐ chính là sự thỏa thuận giữa các bên tuân theo các điều kiện, nội
dung, hình thức chuyển QSDĐ được BLDS và pháp luật đất đai quy định, theo đó bên
sử dụng đất dùng QSDĐ của mình để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ dân sự. Đây là
một trong những quyền quan trọng của người sử dụng đất.Các quy định về thế chấp tài
sản là QSDĐ là những chuẩn mực pháp lý cụ thể của Nhà nước, cũng như trách nhiệm
pháp lý mà các chủ thể khi thiết lập quan hệ thế chấp tài sản phải tuân theo. Điều chỉnh
pháp luật về thế chấp tài sản là việc Nhà nước thông qua pháp luật tạo ra những chuẩn
mực, hành lang pháp lý để tác động, điều chỉnh các hành vi của các chủ thể tham gia
các quan hệ xã hội với mục đích trước hết là duy trì trật tự chung của xã hội. Bên cạnh
đó, tùy thuộc từng tính chất của những quan hệ về QSDĐ có tác dụng làm cân bằng và
hài hòa quyền và lợi ích của các bên tham gia quan hệ bảo đảm.[14]
Nhìn một cách tổng thể quan hệ thế chấp QSDĐ ở cả phương diện pháp lý và
thực tế, có thể hiểu khái niệm thế chấp QSDĐ như sau:
Thế chấp QSDĐ là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên có QSDĐ (gọi là
bên thế chấp) dùng QSDĐ của mình để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ dân sự –
kinh tế với bên kia (gọi là bên nhận thế chấp); bên thế chấp được tiếp tục sử dụng
đất trong thời hạn thế chấp.
1.2.2.2 Đặc điểm của thế chấp quyền sử dụng đất.
Với vị trí, vai trò đặc biệt đối với kinh tế – xã hội và với đặc điểm QSDĐ bị
chi phối bởi chế độ sở hữu toàn dân về đất đai nên việc thế chấp QSDĐ có những
đặc thù như sau:
Thứ nhất, đối tượng thế chấp là một tài sản đặc biệt được biểu hiện dưới dạng
quyền và không thuộc quyền sở hữu của người thế chấp
BLDS năm 2005 và cả BLDS năm 2015 thay thế sau đó, mặc dù không đưa ra
khái niệm cụ thể về thế chấp bất động sản nhưng bằng cách gián tiếp quy định về
thế chấp tài sản (Điều 317) và khái niệm về bất động sản, động sản (Điều 107) cho
chúng ta nhận định được rõ ràng phạm vi của thế chấp đối với tài sản là bất động
15
sản bao gồm những tài sản gì. Đối với bất động sản là đất đai, để trở thành tài sản
bảo đảm trong quan hệ thế chấp, Luật đất đai năm 2013 quy định khá cụ thể điều
kiện của từng chủ thể và từng loại đối tượng được phép tham gia [19, Điều 188].
Qua các chế định cụ thể nêu trên cho thấy, đối tượng tài sản trong quan hệ thế chấp
là QSDĐ được chỉ định bởi pháp luật chứ không phải bản thân đất đai hay QSDĐ
nói chung. QSDĐ của chủ thể thế chấp có được trên cơ sở được chủ sở hữu đại diện
là Nhà nước xác lập và cho phép giao dịch. Vì vậy, QSDĐ là đối tượng trong giao
dịch thế chấp bị ràng buộc, chi phối và phụ thuộc bởi ý chí của Nhà nước với tư
cách là đại diện chủ sở hữu. Đây cũng chính là điểm khác biệt cơ bản khi xem xét
về đối tượng thế chấp bất động sản ở các quốc gia duy trì hình thức sở hữu tư nhân
với các quốc gia duy trì hình thức sở hữu Nhà nước hay sở hữu đại diện của Nhà
nước về đất đai [46].
Như vậy, QSDĐ không phải là tài sản thuộc quyền sở hữu của người mang đi
thế chấp mà thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước làm đại diện chủ sở hữu. Do bị chi
phối bởi hình thức sở hữu đại diện của nhà nước về đất đai nên các quy định về thế
chấp QSDĐ bị ràng buộc một cách chặt chẽ bởi các quy định của Nhà nước. Với
quan hệ thế chấp QSDĐ thì không phải QSDĐ nào của người sử dụng đất cũng
đương nhiên là đối tượng trong giao dịch thế chấp mà chỉ có những QSDĐ được
Nhà nước cho phép, được pháp luật chỉ định mới trở thành đối tượng của các giao
dịch đó.
Thứ hai, xét về nguồn gốc và bản chất của thế chấp tài sản thì thế chấp QSDĐ
không phải là hình thức chuyển QSDĐ
Thế chấp QSDĐ là một trong những quyền của người sử dụng đất được pháp
luật đất đai hiện hành quy định trong nhóm quyền chuyển QSDĐ bao gồm: chuyển
đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, góp vốn, tặng cho và thế chấp QSDĐ. Tuy
nhiên, thế chấp QSDĐ là một hình thức chuyển QSDĐ có điều kiện hoặc đây là
hình thức chuyển QSDĐ không trọn vẹn, không đầy đủ. Tính không trọn vẹn,
không đầy đủ thể hiện ở chỗ, khi ký kết hợp đồng thế chấp QSDĐ, bên có tài sản
thế chấp chỉ chuyển giao chứng thư pháp lý xác nhận về nguồn gốc hợp pháp đối
16
với QSDĐ thế chấp đó, mà không chuyển giao QSDĐ về mặt thực tế để bên nhận
thế chấp chiếm hữu và nắm giữ, cũng như khai thác giá trị của chúng, mà quyền đó
vẫn thuộc về bên thế chấp. Tính có điều kiện thể hiện ở chỗ, bên thế chấp QSDĐ có
thể nhận lại, khôi phục lại hoàn toàn QSDĐ về phương diện pháp lý khi nghĩa vụ trả
nợ đã được thực hiện đầy đủ theo đúng thời gian và những cam kết, thỏa thuận giữa
hai bên. Hoặc QSDĐ cũng có thể bị chấm dứt một cách tuyệt đối và xác lập quyền
cho phía bên kia (bên nhận thế chấp) nếu bên thế chấp không thực hiện hoặc thực
hiện không đúng nghĩa vụ khi đến hạn.[14]
Mục đích của bên thế chấp luôn luôn hướng tới việc có được một nguồn vốn
để đầu tư, khai thác một cách có hiệu quả trên mảnh đất hợp pháp của mình. Bên
thế chấp mong muốn được khai thác, sử dụng, duy trì và tồn tại tài sản là QSDĐ của
mình mãi mãi chứ không hướng tới việc chuyển hẳn QSDĐ của mình để lấy một
khoản tiền từ phía bên kia, rồi phải chấm dứt QSDĐ hợp pháp của mình. Việc chấm
dứt và từ bỏ QSDĐ của bên thế chấp để xác lập cho bên nhận thế chấp chỉ là giải
pháp cuối cùng và trong trường hợp bên thế chấp không còn con đường lựa chọn
nào khác để thực hiện nghĩa vụ trả nợ của mình. Hay nói cách khác, việc chuyển
giao giấy tờ pháp lý đối với QSDĐ cho bên nhận thế chấp nắm giữ chỉ là cách thức
mà các bên tiến hành để làm cơ sở pháp lý để ràng buộc trách nhiệm lẫn nhau trong
quá trình thực hiện giao dịch, chứ không nhằm mục đích chuyển QSDĐ cho bên
nhận thế chấp sau khi đã thỏa mãn nhu cầu về vốn. Việc chuyển giao QSDĐ chỉ xảy
ra khi đến hạn mà bên thế chấp không trả được nợ.Tuy nhiên, việc chuyển giao
QSDĐ trong trường hợp này không phải bản thân của thế chấp tạo ra mà phải thông
qua hình thức chuyển nhượng hoặc đấu giá hoặc có được bởi một phán quyết có
hiệu lực của Tòa án [14].
Thứ ba, trình tự thủ tục thế chấp QSDĐ được quy định chặt chẽ hơn nhiều so
với các trình tự, thủ tục thực hiện các giao dịch bảo đảm bằng các tài sản khác
Do tính chất đặc biệt của tài sản là QSDĐ, các giao dịch về QSDĐ nói chung
và đặc biệt là giao dịch về thế chấp QSDĐ nói riêng được pháp luật quy định khá
chặt chẽ và nghiêm ngặt. Các bên trong quan hệ thế chấp QSDĐ có quyền tự do
17
thỏa thuận và định đoạt nhằm thỏa mãn các lợi ích mà các bên hướng tới, miễn sao
không ảnh hưởng hay xâm hại đến lợi ích của người khác, của Nhà nước. Đối với
các giao dịch thế chấp QSDĐ, phápluật quy định chặt chẽ và nghiêm ngặt không chỉ
điều kiện về chủ thể và đối tượng QSDĐ tham gia quan hệ thế chấp như đã nêu
trên, mà còn thể hiện sự chặt chẽ cả về quy trình thiết lập và thực hiện giao dịch.
Điều đó có thể nhận thấy qua hàng loạt các quy định của pháp luật thể hiện sự ràng
buộc đối với các chủ thể tham gia quan hệ thế chấp QSDĐ. Chẳng hạn, về hình thức
hợp đồng thế chấp QSDĐ, khi thiết lập quan hệ thế chấp QSDĐ, bên thế chấp và
bên nhận thế chấp bắt buộc phải tuân thủ quy định pháp luật về hình thức của hợp
đồng: cả BLDS lẫn Luật đất đai đều quy định hợp đồng thế chấp QSDĐ phải được
lập thành văn bản mà không được quyền lựa chọn các hình thức pháp lý khác. Bên
cạnh đó, để thuận lợi cho việc quản lý Nhà nước đối với đất đai và đề phòng rủi ro
pháp lý đối với những giao dịch liên quan đến QSDĐ, pháp luật hiện hành còn quy
định hai hệ thống cơ quan có thẩm quyền – cơ quan công chứng và cơ quan đăng ký
cùng tham gia trong việc kiểm tra, giám sát giao dịch thế chấp của các bên cho thấy
tính chặt chẽ của pháp luật đối với lĩnh vực này. Ngoài ra, trình tự, thủ tục thế chấp
QSDĐ và quy trình xử lý QSDĐ cũng được pháp luật quy định chặt chẽ và nghiêm
ngặt. Mặc dù QSDĐ được thỏa thuận là tài sản bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ, nhưng
điều đó không có nghĩa là QSDĐ đương nhiên thuộc quyền chủ động xử lý của bên
nhận thế chấp khi bên thế chấp không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ. Ví dụ như,
khi bên có nghĩa vụ không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ thì các bên sẽ thỏa thuận
về phương thức xử lý QSDĐ, nếu không thỏa thuận được thì QSDĐ được xử lý
thông qua bán đấu giá, nếu có tranh chấp xảy ra thì các bên có thể khởi kiện tại Tòa
án. Trong trường hợp xử lý QSDĐ thông qua hình thức đấu giá thì trình tự, thủ tục
đấu giá cũng phải đảm bảo đầy đủ các yêu cầu của pháp luật về đấu giá, phải đảm
bảo sự có mặt đầy đủ của các cơ quan chức năng như tổ chức định giá hay hội đồng
định giá do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thành lập, đại diện của các sở ban
ngành có liên quan như cán bộ chuyên ngành quản lý đất đai, tài chính, thanh tra,…
Ngoài ra, pháp luật cũng quy định bắt buộc phải đăng ký đối với các giao dịch thế
18
chấp QSDĐ. Như vậy, đối với các giao dịch liên quan đến QSDĐ, đặc biệt là thế
chấp QSDĐ, pháp luật quy định hết sức chặt chẽ và nghiêm ngặt về các điều kiện,
yêu cầu và thủ tục pháp lý cần thiết có liên quan đến quá trình ký kết, thực hiện và
chấm dứt giao dịch thế chấp QSDĐ.[14]
1.3
. Xử lý tài sản thế chấp và xử lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất
1.3.1 . Khái niệm về xử lý tài sản thế chấp
Trong hoạt động tín dụng, việc thực hiện các biện pháp đối với tài sản bảo
đảm tiền vay của khách hàng để thu hồi nợ được gọi chung là xử lý tài sản bảo đảm.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 và Điều 58
Nghị định số 163/2006/NĐ-CP có thể hiểu xử lý tài sản bảo đảm tiền vay là một
giai đoạn của bảo đảm tiền vay bằng tài sản, giai đoạn thực hiện các biện pháp đối
với tài sản bảo đảm nhằm thu hồi khoản nợ mà tổ chức tín dụng đã cho vay khi có
sự vi phạm nghĩa vụ của khách hàng vay, bên bảo lãnh theo những cam kết tại hợp
đồng tín dụng, hợp đồng bảo đảm tiền vay.
1.3.2
Đặc điểm xử lý tài sản bảo đảm tiền vay
Xử lý tài sản bảo đảm tiền vay nhằm thu hồi khoản nợ của TCTD đã cho
khách hàng vay khi khách hàng vi phạm nghĩa vụ trả nợ. Hoạt động cho vay của
TCTD không chỉ phục vụ mục tiêu kinh doanh mà còn bảo đảm mục tiêu hoạt động
an toàn, ổn định và phát triển của hệ thống ngân hàng và của nền kinh tế. Khả năng
thu hồi vốn vay của các TCTD phụ thuộc vào việc thực hiện nghiêm chỉnh nghĩa vụ
trả nợ của khách hàng. Do đó việc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay để thu hồi nợ cho
các TCTD là biện pháp khắc phục rủi ro đối với khoản tín dụng và là nguồn thu nợ
thứ hai của TCTD.
Thời điểm xử lý tài sản bảo đảm tiền vay sẽ phát sinh khi có sự vi phạm nghĩa
vụ. Trong quan hệ tín dụng ngân hàng, nghĩa vụ được bảo đảm bao gồm nghĩa vụ
trả nợ vay khi đến hạn, nghĩa vụ sử dụng vốn vay đúng mục đích của khách hàng,
nghĩa vụ cung cấp thông tin về việc sử dụng vốn của khách hàng và nghĩa vụ thực
hiện các cam kết khác. Vì vậy, trong bảo đảm tiền vay thì thời điểm phát sinh xử lý
tài sản bảo đảm sẽ xảy ra khi đến hạn trả nợ hoặc khi khách hàng vay vi phạm nghĩa
19
vụ trả nợ hoặc khi khách hàng vay vi phạm các cam kết khác về việc sử dụng vốn
với TCTD thì việc xử lý tài sản không cần phải đợi đến thời điểm khoản nợ đến hạn
trả nợ.
Việc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay dựa trên nguyên tắc: thỏa thuận, công
khai, khách quan, kịp thời, tôn trọng và bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các
bên. Nguyên tắc thoả thuận là nguyên tắc cơ bản và xuyên suốt trong toàn bộ quá
trình xử lý tài sản bảo đảm tiền vay; nguyên tắc đảm bảo công khai, khách quan
trong xử lý tài sản bảo đảm vừa bảo vệ lợi ích của bên bảo đảm có tài sản bị đưa ra
xử lý đồng thời bảo đảm sự cân bằng giữa quyền của TCTD và bên bảo đảm;
nguyên tắc tôn trọng và bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của các bên tham gia giao
dịch bảo đảm tiền vay là mục tiêu mà pháp luật hướng tới. Và cuối cùng là nguyên
tắc việc xử lý tài sản bảo đảm phải kịp thời, nhanh chóng; đây là nguyên tắc rất cần
thiết trong việc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay, nếu được tuân thủ sẽ hạn chế được
thiệt hại trong trường hợp tài sản bảo đảm xuống cấp, mất giá…
1.3.3. Xử lý tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất
Đối với tài sản thế chấp là QSDĐ, kết quả của việc xử lý tài sản sẽ không
những ảnh hưởng đến lợi ích của các bên trong quan hệ thế chấp QSDĐ mà còn có
thể ảnh hưởng đến lợi ích của những chủ thể khác có liên quan đến tài sản thế chấp
(Ví dụ như đối tượng thuê lại quyền sử dụng đất,…). Do vậy, việc xử lý tài sản thế
chấp là QSDĐ cần phải được tiến hành theo những quy định cụ thể và chặt chẽ của
pháp luật.
Theo đó, việc nghiên cứu tìm hiểu về xử lý tài sản thế chấp là QSDĐ được
tiếp cận dưới các góc độ kinh tế và góc độ pháp lý về thế chấp:
Dưới góc độ kinh tế, xử lý tài sản thế chấp là QSDĐ được hiểu là việc sử dụng
một phương thức nào đó (bán đấu giá QSDĐ cho một bên thứ ba, bên nhận thế chấp
nhận chuyển nhượng QSDĐ,…) nhằm thu giữ lại những lợi ích (trong phạm vi giá
trị QSDĐ thế chấp) thuộc về bên nhận thế chấp một cách nhanh chóng và chủ động.
Xử lý tài sản thế chấp QSDĐ là sự hiện thực hóa quyền của bên nhận thế chấp khi
quyền lợi đó đã không được bảo đảm theo một quan hệ trái quyền đã được thiết lập
20
như thông thường. QSDĐ được sử dụng để bảo đảm thông qua xử lý sẽ được quy
đổi thành tiền nhằm bù đắp cho những lợi ích của bên nhận thế chấp. Như vậy, xử
lý tài sản thế chấp là QSDĐ là một khâu vô cùng quan trọng để bảo đảm an toàn
cho quyền lợi của các chủ thể, thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế.
Dưới góc độ học thuyết pháp lý, xử lý tài sản thế chấp là QSDĐ cần phải được
coi là một “quá trình” để thực thi quyền của bên nhận thế chấp thông qua các biện
pháp tác động đến QSDĐ thế chấp. Bởi các lý do sau:
Thứ nhất, mục đích của xử lý tài sản thế chấp QSDĐ là bảo đảm quyền cho
bên nhận thế chấp.Quyền này cần được bảo vệ một cách trực tiếp và ngay tức khắc
khi nghĩa vụ trả nợ không được thi hành. Như vậy, bên nhận thế chấp cần phải
chứng minh các điều kiện cần và đủ để thực thi quyền lợi của mình trên QSDĐ thế
chấp, đó là: có sự vi phạm nghĩa vụ được bảo đảm, hợp đồng thế chấp QSDĐ là hợp
pháp. Nếu không có hợp đồng thế chấp QSDĐ hoặc chúng không hợp pháp thì bên
nhận thế chấp không có quyền xử lý QSDĐ đó.
Thứ hai, việc xử lý tài sản thế chấp QSDĐ là việc tiến hành các thủ tục để
định đoạt QSDĐ đó. Do vậy, cần phải có sự chuyển giao quyền quản lý QSDĐ từ
bên thế chấp sang cho bên nhận thế chấp khi xử lý tài sản đó. Các biện pháp xử lý
mà bên nhận thế chấp sẽ tiến hành được thực hiện theo sự thỏa thuận ghi trong hợp
đồng thế chấp QSDĐ, nếu không có thỏa thuận thì bên nhận thế chấp có quyền yêu
cầu Tòa án xử lý hoặc yêu cầu một cơ quan, tổ chức bán đấu giá QSDĐ hoặc
chuyển nhượng QSDĐ để thu hồi nợ. Như vậy, xử lý tài sản thế chấp QSDĐ chính
là việc tiến hành các biện pháp định đoạt QSDĐ để thu hồi số tiền tương đương với
nghĩa vụ được bảo đảm, bảo vệ quyền lợi của bên nhận thếchấp.
Thứ ba, xử lý tài sản thế chấp QSDĐ là bảo đảm lợi ích của các chủ thể có
quyền trên QSDĐ đó trên nguyên tắc “ai công bố quyền trước sẽ được ưu tiên thanh
toán trước”. Tính chất vật quyền của thế chấp QSDĐ là căn cứ hợp pháp cho việc
xác định thứ tự ưu tiên thanh toán trong trường hợp trên. Số tiền thu được từ thực
thi các biện pháp định đoạt tài sản thế chấp phải giải quyết được tổng thể các lợi ích
có liên quan trên tài sản thế chấp theo một nguyên tắc ưu tiên được xác định rõ ràng
21
và cụ thể.[12]
Trên cơ sở những phân tích nêu trên, chúng ta có thể đưa ra khái niệm về xử lý
tài sản thế chấp QSDĐ như sau: đây là quá trình thực thi quyền của bên nhận thế
chấp thông qua việc tiến hành các thủ tục định đoạt QSDĐ qua các phương thức
đặc thù và số tiền thu được sẽ thanh toán cho bên nhận thế chấp và các chủ thể
khác cùng có quyền lợi trên QSDĐ theo thứ tự ưu tiên do các bên thỏa thuận hoặc
pháp luật quy định.
Kết luận chƣơng 1
Đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất
quản lý. Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất theo quy định của
luật này. Nhà nước công nhận QSDĐ cho người sử dụng đất (cá nhân, tổ chức, hộ
gia đình, cơ sở tôn giáo) thông qua quyết định giao đất của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền hoặc hợp đồng cho thuê đất giữa Nhà nước với bên có nhu cầu sử dụng
hoặc công nhận QSDĐ đối với người đang sử dụng đất ổn định lâudài.Khi người
chủ sở hữu đất có nhu cầu vay vốn tại Ngân hàng hoặc có thể dùng tài sản là quyền
sử dụng đất của mình để bảo đảm cho người khác vay vốn tại Ngân hàng, thì chủ sở
hữu đất có quyền thế chấp tài sản là quyền sử dụng đất để bảo đảm cho khoản vay
đó. Thế chấp QSDĐ là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên có QSDĐ (gọi là
bên thế chấp) dùng QSDĐ của mình để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ dân sự –
kinh tế với bên kia (gọi là bên nhận thế chấp); bên thế chấp được tiếp tục sử dụng
đất trong thời hạn thế chấp. Xử lý tài sản thế chấp QSDĐ là quá trình thực thi quyền
của bên nhận thế chấp thông qua việc tiến hành các thủ tục định đoạt QSDĐ qua
các phương thức đặc thù và số tiền thu được sẽ thanh toán cho bên nhận thế chấp và
các chủ thể khác cùng có quyền lợi trên QSDĐ theo thứ tự ưu tiên do các bên thỏa
thuận hoặc pháp luật quyđịnh.
Pháp luật về xử lý tài sản thế chấp là hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật
quy định về việc ngân hàng và các TCTD thực hiện các biện pháp đối với tài sản thế
chấp bảo đảm tiền vay của khách hàng để thu hồi nợ. Việc áp dụng xử lý tài sản thế
chấp tuân theo các quy định chung của pháp luật. Từ đó vận dụng các quy định của
22
pháp luật điều chỉnh đối với trường hợp xử lý tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất
để bảo đảm tiền vay ngân hàng phù hợp với thực tế và quy chung của pháp luật.
23
CHƢƠNG 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ TÀI SẢN THẾ CHẤP LÀ
QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT ĐỂ BẢO ĐẢM TIỀN VAY CỦA NGÂN HÀNG TẠI
VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH
PHỐ HÀ NỘI
2.1.
Thực trạng pháp luật về thế chấp quyền sử dụng đất
2.1.1
Điều kiện của thế chấp quyền sử dụng đất
Thế chấp quyền sử dụng đất để vay vốn ngân hàng là một trong những quyền
cơ bản của người sử dụng đất. Hộ gia đình sử dụng đất được hiểu là những người có
quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật về hôn
nhân và gia đình, đang sống chung và có quyền sử dụng đất chung tại thời điểm
được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng dụng đất, nhận
chuyển quyền sử dụng đất.
Các điều kiện để thực hiện quyền thế chấp quyền sử dụng đất: Có Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất; đất không có tranh chấp; quyền sử dụng đất không bị kê
biên để bảo đảm thi hành án; trong thời hạn sử dụng đất [19, khoản 1 điều 188]
Ngoài ra, theo quy định của pháp luật dân sự về chế độ sở hữu, thì đối với tài
sản chung của hộ gia đình, mọi quyết định liên quan đến việc định đoạt tài sản
chung cần có sự đồng ý của các thành viên đã thành niên trong gia đình; việc chiếm
hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung của các thành viên được thực hiện theo
phương thức thỏa thuận. Tài sản chung của hộ gia đình theo điều 212 Bộ luật dân sự
năm 2015: “Tài sản của các thành viên gia đình cùng sống chung gồm tài sản do
các thành viên đóng góp, cùng nhau tạo lập nên và những tài sản khác được xác lập
quyền sở hữu theo quy định của Bộ luật này và luật khác có liên quan.”. Trường
hợp định đoạt tài sản là bất động sản phải có sự thỏa thuận của tất cả các thành viên
gia đình là người thành niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ.
2.1.2
Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất
Chủ thể trong quan hệ thế chấp QSDĐ
Quan hệ bảo đảm bằng TCQSDĐ khi được xác lập sẽ hình thành một quan hệ