9871_Giải pháp hoàn thiện quy trình nhập khẩu thiết bị toàn bộ ở công ty xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kỹ thuật

luận văn tốt nghiệp

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUY TRÌNH NHẬP
KHẨU THIẾT BỊ TOÀN BỘ Ở CÔNG TY
XUẤT NHẬP KHẨU THIẾT BỊ TOÀN BỘ VÀ
KỸ THUẬT
Khoa Th­¬ng m¹i

1

LỜI NÓI ĐẦU

Hoà cùng với xu thế khu vực hoá và toàn cầu hoá về hợp tác kinh tế đang
nổi trội, với sự phát triển mạnh của kinh tế thị trường, với tính phụ thuộc lẫn
nhau về kinh tế và thương mại giữa các quốc gia đang ngày càng sâu sắc, Việt
nam đã và đang không ngừng cố gắng đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước đưa nền kinh tế hoà nhập vào sự năng động của khu vực
Đông Nam Á, hay nói rộng hơn là vành đai Châu Á-Thái Bình Dương. Với xuất
phát điểm từ một nước nông nghiệp nghèo nàn lạc hậu, còn hạn chế về trình độ
khoa học kỹ thuật thì con đường nhanh nhất để tiến hành công nghiệp hoá, hiện
đại hoá nền kinh tế là cần nhanh chóng tiếp cận những công nghệ và kỹ thuật
tiên tiến của nước ngoài để tiến hành nhập khẩu thiết bị hiện đại phục vụ cho sự
nghiệp phát triển kinh tế và xây dựng đất nước. Bối cảnh đó đã đặt cho ngành
Thương mại nói chung và công ty XNK thiết bị toàn bộ nói riêng nhiều những
cơ hội và thử thách lớn lao. Đó là làm thế nào để có được những công nghệ tốt
nhất, hiện đại nhất với thời gian và chi phí ít nhất, cho hiệu quả cao nhất.
Trong một thời gian ngắn thực tập tại phòng XNK-5, công ty XNK thiết bị
toàn bộ và kỹ thuật, trên cơ sở những kiến thức về kinh tế và nghiệp vụ XNK đã
được truyền đạt tại nhà trường và một số kinh nghiệp thực tế thu được, với mục
đích tìm hiểu thêm về qui trình nhập khẩu thiết bị toàn bộ ở công ty XNK thiết
bị toàn bộ và kỹ thuật. Tôi quyết định chọn đề tài nghiên cứu của mình là: Giải
pháp hoàn thiện qui trình nhập khẩu thiết bị toàn bộ ở Công ty XNK thiết bị
toàn bộ và kỹ thuật.Với hy vọng rằng nó sẽ góp một phần nhỏ vào công cuộc
hoàn thiện và đổi mới qui trình nhập khẩu ở nước ta hiện nay.
Trên cơ sở mục đích của đề tài, chuyên đề thực tập gồm những phần chính
sau:

Chương I: Hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ trong cơ chế thị
trường.

Chương II: Phân tích quy trình nhập khẩu thiết bị toàn bộ ở Công ty
xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kỹ thuật.

Chương III: Giải pháp hoàn thiện quy trình nhập khẩu thiết bị toàn
bộ ở Công ty xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kỹ thuật.
Qua đây, tôi xin chân thành cảm ơn PGS.TS. Hoàng Minh Đường-Thầy
trực tiếp hướng dẫn tôi, các thầy cô trong khoa Thương mại, tập thể cán bộ Công
ty Technoimport, các cô chú và anh chị trong phòng XNK-5 đã nhiệt tình giúp
đỡ tôi hoàn thành việc nghiên cứu đề tài này. Do trình độ và thời gian có hạn
nên không tránh khỏi những sai sót rất mong có được sự góp ý của các thầy cô
và các bạn.

Khoa Th­¬ng m¹i

2

Chương I

HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU THIẾT BỊ TOÀN BỘ TRONG CƠ CHẾ
THỊ TRƯỜNG.

I. CÁC KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU
THIẾT BỊ TOÀN BỘ.
1. Thiết bị toàn bộ là gì?
Công trình thiết bị toàn bộ-với tư cách là đối tượng của hợp đồng thương
mại-đã tồn tại từ nhiều năm nhưng cho đến nay vẫn chưa có một định nghĩa đầy
đủ và ngắn gọn nào được tất cả các quốc gia và các tổ chức quốc tế chấp nhận
đối với loại hàng hoá đặc thù này.
Ở Liên xô trước đây và Nga hiện nay, người ta coi công trình thiết bị toàn
bộ là tập hợp thiết bị máy móc, vật tư xây lắp dùng để xây dựng toàn bộ một
công trình theo thiết kế, được vận hành theo một qui trình công nghệ cụ thể và
đạt được những thông số sản xuất đề ra. Theo định nghĩa này, công trình thiết bị
toàn bộ bao gồm các thành phần như:

Khảo sát kỹ thuật và nghiên cứu khoa học kỹ thuật.

Lập luận chứng kinh tế kỹ thuật.

Lập thiết kế kỹ thuật và bản vẽ thi công.

Giao thiết bị toàn bộ và vật liệu.

Xây dựng, lắp ráp và hiệu chỉnh vận hành.

Thực hiện các dịch vụ có liên quan.
Uỷ ban kinh tế của Liên Hợp Quốc trên cơ sở tổng kết các hoạt động
thương mại thực tiễn trong lĩnh vực buôn bán và lắp ráp thiết bị, máy móc đã
soạn thảo ra “Điều kiện chung giao hàng và lắp ráp nhà máy và máy móc xuất
nhập khẩu” số 188A. Điều kiện chung này được đa số các quốc gia và các tổ
chức thương mại quốc tế chấp nhận và áp dụng với các sửa đổi tuỳ theo từng
hoàn cảnh, từng trường hợp cụ thể. Trong bản” Điều kiện chung” này đã đưa ra
một định nghĩa gần với khái niệm công trình thiết bị toàn bộ mà chúng ta vẫn
thường hiểu nhưng khái quát hơn đó là:
“Công trình” có nghĩa là toàn bộ Nhà máy do Người bán (Contractor) giao
và các công việc được người bán tiến hành theo hợp đồng. “Nhà máy” có nghĩa
là toàn bộ máy móc thiết bị, dụng cụ đo đạc, điều khiển, vật liệu và các danh
mục được giao theo hợp đồng.
Đối với Việt Nam, khái niệm”thiết bị toàn bộ” lần đầu tiên được đưa ra
trong Điều 2 “Bản thể lệ tạm thời về việc đặt hàng giữa Bộ ngoại thương và các
Bộ trong cả nước” ban hành kèm thông tư 07/TTg ngày 7/1/1961 của Thủ tướng
Chính phủ:
“Thiết bị toàn bộ là nhà máy, cơ sở sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, cơ sở
khoa học hay thí nghiệm, bệnh viên, trường học, công trình kiến trúc, công trình
thuỷ lợi, giao thông, bưu điện,…nhờ nước ngoài thiết kế hoặc giúp thiết kế, do
Khoa Th­¬ng m¹i

3

nước ngoài cung cấp thiết bị, nguyên liệu sản xuất thử, hướng dẫn xây lắp máy
và sản xuất thử. Ngoài ra căn cứ vào tình hình đặc biệt, có thể có một số thiết bị
tuy không đủ các điều kiện trên nhưng được Uỷ Ban Kế hoạch Nhà nước duyệt
là thiết bị toàn bộ thì cũng được quy định là thiết bị toàn bộ.”
Như vậy, trừ trường hợp đặc biệt, theo định nghĩa này, một hệ thống thiết bị
được coi là thiết bị toàn bộ phải có 3 điều kiện cơ bản:

Đó là các công trình do nước ngoài thiết kế hoặc giúp ta thiết kế.

Do nước ngoài cung cấp thiết bị, nguyên liệu sản xuất thử.

Do nước ngoài hướng dẫn xây lắp và sản xuất thử.
Tuy nhiên, cùng với sự phát triển và thay đổi cơ cấu của nền kinh tế Việt
nam, các khái niệm và định nghĩa này cũng được bổ sung và phát triển. Ngày
13/11/1992 Thủ tướng Chính Phủ đã ra quyết định số 91/TTg ban hành” Quy
định về quản lý nhập khẩu máy móc, thiết bị bằng nguồn vốn ngân sách Nhà
nước”, trong đó đưa ra định nghĩa Thiết bị toàn bộ như sau:
Thiết bị toàn bộ là tập hợp máy móc thiết bị, vật tư dùng riêng cho một dự
án có trang bị công nghệ cụ thể có các thông số kinh tế-kỹ thuật được mô tả và
qui định trong thiết kế của dự án.
Như vậy, nội dung của hàng hoá thiết bị toàn bộ bao gồm:
 Khảo sát kỹ thuật.
 Luận chứng kinh tế- kỹ thuật hoặc nghiên cứu khả thi công việc thiết kế.
 Thiết bị , máy móc, vật tư… cho xây dựng dự án.
 Các công tác xây dựng, lắp ráp, hiệu chỉnh, hướng dẫn vận hành.
 Các dịch vụ khác có liên quan đến dự án như chuyển giao công nghệ,
đào tạo…
Việc nhập khẩu được tiến hành thông qua một hợp đồng(theo hình thức
trọn gói) với toàn bộ nội dung hàng hoá nêu trên, hoặc thực hiện từng phần tuỳ
theo yêu cầu.
Điều đó có nghĩa là khi nhập khẩu một công trình thiết bị toàn bộ như một
nhà máy sản xuất xi măng, thì ngoài các thiết bị lẻ cũng như phạm vi nhập khẩu
của các loại hình này bao gồm hình thức nhập khẩu hàng hoá vật chất và hàng
hoá phi vật chất. Tuy rằng ra đời hơi chậm và còn có những khiếm khuyết nhất
định nhưng có thể nói Quyết định 91/TTg của Thủ tướng Chính Phủ đã đưa ra
định nghĩa rõ ràng và chính xác về thiết bị toàn bộ và thiết bị lẻ cũng như phạm
vi của chúng, góp phần rõ rệt vào việc nâng cao hiệu quả của việc nhập khẩu
máy móc, thiết bị, xác định chức năng nhiệm vụ của các cơ quan quản lý Nhà
nước cũng như phương thức và trình tự để tiến hành việc nhập khẩu thiết bị,
máy móc trong nền kinh tế thị trường phù hợp với xu hướng mở cửa, hội nhập
với nền kinh tế khu vực và thế giới cũng như chủ trương đơn giản hoá các thủ
tục hành chính của Nhà nước.

Khoa Th­¬ng m¹i

4

2. Hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ ở Việt Nam hiện nay.
2.1. Đối tượng được phép nhập khẩu thiết bị toàn bộ.
Kinh doanh nhập khẩu thiết bị toàn bộ là quá trình giao dịch, ký kết thực
hiện hợp đồng nhập khẩu thiết bị(bao gồm thiết bị toàn bộ và thiết bị lẻ) và dịch
vụ có liên quan đến thiết bị trong quan hệ với bạn hàng nước ngoài.
Công trình thiết bị toàn bộ thông thường có tổng vốn đầu tư rất lớn, nguồn
vốn sử dụng để nhập khẩu thiết bị toàn bộ thường là vốn ngân sách nhà nước
hoặc từ các nguồn tài trợ của nước ngoài thông qua Chính Phủ hay các nguồn
vay nước ngoài có sự bảo lãnh của Nhà nước, các Ngân hàng thương mại Việt
Nam, v.v., vì vậy một doanh nghiệp chỉ có thể được phép nhập khẩu thiết bị toàn
bộ sau khi đã thực hiện đầy đủ các thủ tục có liên quan theo qui định cụ thể của
pháp luật.
Trước kia, theo qui định của thông tư 04/TM- ĐT ngày 30/7/1993 của Bộ
thương mại, muốn kinh doanh xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ, doanh nghiệp
phải được Bộ thương mại cấp giấy phép kinh doanh phù hợp với Điều 5 Nghị
định số 144/HĐBT ngày 7/7/1992 trong đó ở phần nhập khẩu có ghi ngành hàng
thiết bị, máy móc. Ngoài ra, doanh nghiệp cần phải đáp ứng các yêu cầu như:
– Doanh nghiệp có bộ máy tổ chức, đội ngũ cán bộ có đủ năng lực chuyên
môn kỹ thuật, nghiệp vụ ngoại thương, giá cả, pháp lý quốc tế trong kinh
doanh xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ.
– Doanh nghiệp đã kinh doanh nhập khẩu ngành hàng máy móc thiết bị lẻ
tối thiểu 5 năm và có mức doanh số nhập khẩu máy móc thiết bị trong năm
không dưới 5 triệu USD.
– Doanh nghiệp có vốn lưu động do nhà nước giao tự bổ sung bằng tiền
Việt nam và tiền nước ngoài tối thiểu tương đương với 500.000USD tại thời
điểm đăng ký kinh doanh nhập khẩu thiết bị.
Do đó, doanh nghiệp cần phải xin đăng ký kinh doanh nhập khẩu thiết bị
toàn bộ với Bộ thương mại bằng cách gửi bộ hồ sơ đăng ký kinh doanh, bao
gồm:
 Đơn xin kinh doanh nhập khẩu thiết bị .
 Giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu.
 Hồ sơ hợp lệ xác nhận vốn lưu động(bao gồm vốn Nhà nước giao và
vốn tự bổ sung).
 Bảng tổng kết tài sản 5 năm cuối cùng(Biểu tổng hợp).
 Sơ đồ tổ chức bộ máy kinh doanh và cán bộ cần thiết để đảm bảo đủ
năng lực kinh doanh thiết bị.
Tuy nhiên, sau này theo nội dung của nghị định 33/CP ngày19/4/1994 về
Quản lý Nhà nước đối với hoạt động xuất nhập khẩu, nhập khẩu và tiếp đó là
Nghị định 57/1998/NĐ-CP ngày 31/7/1998 qui định chi tiết thi hành luật
Thương mại về hoạt động xuất nhập khẩu, gia công, đại lý mua bán hàng hoá
với nước ngoài; để được phép kinh doanh xuất nhập khẩu(kể cả hàng hoá thiết
bị toàn bộ), doanh nghiệp phải được thành lập theo qui định pháp luật, được
Khoa Th­¬ng m¹i

5

phép xuất nhập khẩu hàng hoá theo ngành nghề đã đăng ký kinh doanh, đã đăng
ký mã số kinh doanh với Cục Hải Quan tỉnh, thành và hàng hoá đó không thuộc
danh mục hàng hoá cấm xuất nhập khẩu. Với cơ chế mới, để mở rộng sản xuất,
doanh nghiệp có thể trực tiếp nhập khẩu thiết bị toàn bộ thông qua đấu thầu;
hoặc doanh nghiệp có thể uỷ thác cho doanh nghiệp khác được phép kinh doanh
xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ. Tuy nhiên, điều đáng lưu ý ở đây là đối với một
doanh nghiệp muốn được phép kinh doanh xuất nhập khẩu mặt hàng này thì
trong những văn bản ban hành sau thông tư 04/TM-ĐT như đã kể trên lại chưa
được qui định cụ thể, trong các danh mục ngành hàng mà doanh nghiệp đăng ký
kinh doanh xuất nhập khẩu lại không có tên của ngành hàng” thiết bị toàn bộ”.
Do vậy, trong thực tế, hiện nay các doanh nghiệp muốn kinh doanh xuất nhập
khẩu thiết bị toàn bộ vẫn áp dụng các qui định của thông tư 04/TM-ĐT. Bản
thân giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu của Công ty xuất nhập khẩu thiết bị
toàn bộ và kỹ thuật cũng được cấp dựa theo giấy phép cũ mà Bộ thương mại đã
cấp cho tiền thân là Tổng công ty xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kỹ thuật
trước đó, chứ còn nếu áp dụng theo các qui định của Nghị định 33-CP hay Nghị
định 57/1998/NĐ-CP thì khó có thể cấp giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu
đối với ngành hàng thiết bị toàn bộ cho công ty.
2.2. Các phương thức nhập khẩu thiết bị toàn bộ.
Nếu như thực hiện hợp đồng nhập khẩu thiết bị lẻ không gặp nhiều vướng
mắc và chỉ mất một khoảng thời gian tương đối ngắn thì việc thực hiện hợp
đồng nhập khẩu thiết bị toàn bộ thường kéo dài hơn nhiều với một khối lượng
công việc đồ sộ và phức tạp liên quan tới các công đoạn xây xựng nhà xưởng,
nhập khẩu hàng hoá, lắp đặt, vận hành, đào tạo vận hành… Chính vì vậy mà vấn
đề đặt ra là nên tiến hành nhập khẩu theo phương thức nào là tối ưu nhất đảm
bảo an toàn cho đầu tư trong khi chúng ta chưa đủ khả năng và trình độ để có thể
hoàn toàn an tâm về quyết định nhập khẩu thiết bị toàn bộ và công nghệ của
mình.
Hiện nay, có nhiều cách phân loại các phương thức nhập khẩu thiết bị toàn
bộ, nếu theo cách phân loại của FIDIC (Hiệp hội quốc tế các kỹ sư tư vấn), trên
thế giới có bốn phương thức nhập khẩu thiết bị toàn bộ chủ yếu(ở Việt nam các
phương thức này không được gọi là các phương thức nhập khẩu thiết bị toàn bộ
mà được gọi là các hình thức tổ chức quản lý thực hiện công trình thiết bị toàn
bộ-được định nghĩa trong Quy Chế Quản lý đầu tư và xây dựng ra ngày
(8/7/1999 ) bao gồm:
2.2.1. Phương thức qui ước(Conventional method):
Đây là phương thức được sử dụng rất phổ biến, trong đó đầu tư hay chủ
công trình thông qua một đơn vị tư vấn chịu trách nhiệm lập dự án, thiết kế và
soạn hồ sơ đấu thầu, giúp chủ đầu tư tổ chức việc đấu thầu và giám sát được gọi
là phương thức chủ đầu tư trực tiếp quản lý thực hiện dự án.
2.2.2. Phương thức tự quản( In-house method):
Khoa Th­¬ng m¹i

6

Trong phương thức tự quản, chủ đầu tư không sử dụng đơn vị tư vấn bên
ngoài mà sử dụng lực lượng nội bộ thuộc đơn vị mình để tiến hành mọi việc liên
quan đến việc xây lắp công trình từ khâu lập dự án, thiết kế, thi công đến vận
hành thử và bảo hành…Trên thế giới, người ta áp dụng phương thức này chủ yếu
đối với các công trình chuyên dụng đặc biệt như các công trình thuộc lĩnh vực
dầu khí, năng lượng nguyên tử…
Còn đối với Việt nam, đây chỉ là phương thức tự làm và chỉ áp dụng đối
với các công trình sửa chữa, cải tạo quy mô nhỏ, các công trình chuyên ngành
không đòi hỏi trình độ chuyên môn kỹ thuật cao như xây dựng nông, lâm nghiệp
và các công trình tự đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của các doanh
nghiệp xây dựng…
2.2.3. Phương thức quản lý dự án(Management method):
Trong phương thức này, chủ đầu tư sẽ thuê một công ty tư vấn đứng ra chịu
trách nhiệm hoàn toàn đối với việc giao dịch với các đơn vị thiết kế, cung ứng
vật tư và đơn vị nhận thầu thi công. Công ty tư vấn chịu trách nhiệm giám sát
mọi mặt nhưng không đồng nhất với vai trò tổng thầu xây dựng theo kiểu chìa
khoá trao tay.
Ở Việt nam, phương thức này được gọi là Phương thức chủ nhiệm điều
hành dự án. Đối với phương thức này, sau khi tổ chức tuyển chọn, chủ đầu tư sẽ
trình lên cấp có thẩm quyền để quyết định tổ chức tư vấn đứng ra thay mặt ký
kết các hợp đồng nói trên và chịu trách nhiệm giám sát quản lý toàn bộ quá trình
thực hiện dự án. Theo đó thì phương thức này chỉ áp dụng đối với các dự án có
qui mô lớn, có kỹ thuật phức tạp và thời gian xây dựng dài.
2.2.4. Phương thức chìa khoá trao tay(turn -key method):
Một cách đơn giản, người ta thường quan niệm nhập khẩu máy móc thiết bị
là nhập khẩu công nghệ và kỹ thuật. Nhập khẩu thiết bị toàn bộ hoặc nhà máy
theo hình thức” chìa khoá trao tay” được coi là những hình thức phù hợp để
tranh thủ được công nghệ và kỹ thuật của nước ngoài.
Nếu tiến hành nhập khẩu theo phương thức này, chủ đầu tư chỉ quan hệ với
một người bán, nhà cung cấp hoặc tổng thầu chịu trách nhiệm đối với quá trình
lập dự án, thiết kế thi công, mua sắm vật tư và xây lắp hoàn chỉnh để giao cho
chủ đầu tư vận hành. Chủ đầu tư chỉ đứng ra duyệt thiết kế kỹ thuật, nghiệm thu
và nhận bàn giao khi dự án đã hoàn thành đủ điều kiện đưa vào sử dụng. Người
bán có thể giao thầu lại cho các nhà thầu phụ, nhưng vẫn phải chịu trách nhiệm
trực tiếp và toàn bộ trước chủ đầu tư. Tuỳ theo mức độ dịch vụ mà người bán
cung cấp, phương thức chìa khoá trao tay có thể được phân ra làm một số dạng
như:
2.2.4.1. Chìa khoá trao tay thuần tuý( Light turn –key):
Người bán chịu trách nhiệm toàn bộ quá trình lập dự án, thiết kế thi công,
mua sắm vật tư, xây lắp hoàn chỉnh, sau đó bàn giao công trình và cung cấp cho
người mua một số tài liệu hướng dẫn vận hành.
2.2.4.2. Chìa khoá kỹ thuật trao tay( Heay turn-key):
Khoa Th­¬ng m¹i

7

Người bán giúp người mua về dịch vụ kỹ thuật nhưng không đảm bảo kết
quả vận hành đạt đúng các chỉ tiêu thiết kế của công trình.

Khoa Th­¬ng m¹i

8

2.2.4.3. Sản phẩm trao tay(Product-in-hand turn-key):
Người bán đảm bảo nhận thêm nhiệm vụ đào tạo cho người mua một đội
ngũ công nhân vận hành và cung cấp vật liệu sản xuất thử. Đến khi nào sản
phẩm sản xuất ra đạt tiêu chuẩn về qui cách phẩm chất và các chỉ tiêu thiết kế thì
mới bàn giao công trình cho người mua quản lý.
2.2.4.4. Thị trường trao tay( Market-in hand turn-key):
Sau khi đã hoàn thành công trình, người bán giúp người mua một số hoạt
động marketing và đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý kinh doanh cho người mua.
Ở Việt Nam, phương thức này cũng được gọi là phương thức chìa khoá trao
tay, tuy nhiên không áp dụng phương thức quản lý và triển khai hoàn toàn như
cách phân loại phương thức chìa khoá trao tay ở trên mà áp dụng pha trộn giữa
phương thức chìa khoá kỹ thuật trao tay và sản phẩm trao tay. Điều đó có nghĩa
là khi nhập khẩu công trình thiết bị toàn bộ theo phương thức này, người bán
giúp người mua một số dịch vụ về kỹ thuật, chịu trách nhiệm đào tạo cho người
mua một đội ngũ công nhân đảm bảo vận hành công trình cho đến khi đạt kết
quả vận hành, đạt các chỉ tiêu thiết kế thì mới bàn giao công trình cho người
mua quản lý. Tuy nhiên, người bán không chịu trách nhiệm cung cấp nguyên
liệu sản xuất thử như trách nhiệm quy định của người mua theo phương thức sản
phẩm trao tay.
Nhược điểm của phương thức” Chìa khoá trao tay” về cơ bản chính là ở
chỗ nó không nâng cao trình độ kỹ thuật của bên tiếp nhận nhà máy, vì phương
thức này hầu như không có chuyển giao công nghệ. Người bán(nhà thầu) bàn
giao nhà máy đã xây lắp, kèm theo phần kiến thức kỹ thuật để vận hành và bảo
dưỡng công trình thiết bị toàn bộ đó. Phần thiết kế chế tạo chi tiết và bí quyết kỹ
thuật(know-how) nhà máy không được chuyển giao hoặc chuyển giao không có
hệ thống và đầy đủ. Với kiến thức ít ỏi nhận được, người mua nhiều khi không
đủ khả năng tự mình làm chủ được công nghệ của các nhà máy mới được xây
lắp, vì thế nên thường thấy sự có mặt của các chuyên gia nước ngoài tiếp tục ở
lại sau khi công trình đã bàn giao. Như ở Malaysia, hầu hết các nhà máy công
nghiệp hoá dầu đã được bàn giao cho người mua Malaysia từ đầu những năm
1980, nhưng sau đó nhiều năm vẫn do nhà thầu nước ngoài vận hành và bảo
dưỡng.
Điều đó có nghĩa là, nhập khẩu theo phương thức này, người mua mới chỉ
mua được”Sản phẩm của công nghệ” mà chưa mua được”Công nghệ”, tức là các
kiến thức khoa học kỹ thuật và công nghệ đã sử dụng để tạo ra sản phẩm đó. Có
thể hình dung việc này như một người mua một chiếc Ôtô mới, được người bán
chỉ dẫn chu đáo để điều khiển và lái được một chiếc xe đó, nhưng đến khi nó
hỏng hóc thì lại không hiểu tại sao và lại phải mời kỹ thuật viên đến giúp sửa
chữa.
Ngày nay, ở Việt nam cũng đã xuất hiện nhiều hợp đồng nhập khẩu thiết bị
toàn bộ được ký kết theo phương thức BOT(Build+Operate+Transfer) hoặc
BT(Build+Transfer).
Khoa Th­¬ng m¹i

9

Theo phương thức BOT, chủ đầu tư phải tự bỏ vốn ra xây dựng công trình,
kinh doanh khai thác trong một thời gian và sau chuyển giao không bồi hoàn lại
cho Chính Phủ Việt Nam. Phương thức này thường được áp dụng đối với việc
đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng là một lĩnh vực đang được khuyến khích.
Như vậy, phương thức nhập khẩu thiết bị toàn bộ là hết sức đa dạng, song
việc áp dụng phương thức nào còn tuỳ thuộc điều kiện và khả năng về nhiều mặt
của mỗi quốc gia nói chung và mỗi doanh nghiệp nói riêng. Vấn đề bức thiết đặt
ra là phải nghiên cứu, lựa chọn được phương thức nhập khẩu nào phù hợp, giúp
giảm thiểu thời gian và kinh phí của chủ đầu tư nhưng vẫn đạt được yêu cầu đã
định, có như vậy mới góp phần nâng cao hiệu quả nhập khẩu thiết bị toàn bộ
trong giai đoạn hiện nay.
2.3. Khung pháp lý hiện nay cho hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ ở
Việt Nam.
Từ những đặc điểm đã trình bày ở trên, có thể thấy rõ ràng, không giống
như thực hiện một Hợp đồng mua bán thiết bị lẻ thông thường, công tác nhập
khẩu thiết bị toàn bộ đòi hỏi cả một khoảng thời gian rất dài để có thể hoàn tất
các khâu, từ chuẩn bị nguồn vốn, chuẩn bị dự án, lựa chọn phương thức thực
hiện đến phê duyệt, đàm phán, ký kết, tổ chức thực hiện, và vận hành công trình.
Trong suốt quá trình thực hiện, các khâu này lại chịu sự quản lý chặt chẽ của nhà
nước thông qua hệ thống các văn bản pháp luật, điều chỉnh hoạt động xuất nhập
khẩu nói chung và nhập khẩu thiết bị toàn bộ nói riêng. Yếu tố pháp luật có ý
nghĩa hết sức quan trọng đối với mọi quốc gia trong công cuộc phát triển kinh
tế, xây dựng đất nước. Không chỉ có vậy, trong hoạt động kinh tế đối ngoại ngày
càng phong phú và mở rộng hiện nay, việc xây dựng hệ thống văn bản pháp luật
phù hợp với điều kiện đất nước và không trái ngược với các thông lệ quốc tế sẽ
góp phần quan trọng kích thích sức sản xuất xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho
hoạt động xuất nhập khẩu, tạo đà phát triển kinh tế.
Hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ là một công tác phức tạp, nó không
chỉ đòi hỏi sự hiểu biết về chuyên môn sâu sắc mà còn đòi hỏi sự am hiểu pháp
luật có liên quan ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp tới hiệu quả nhập khẩu thiết
bị, đòi hỏi phải có hệ thống văn bản pháp quy tạo điều kiện cho việc thực hiện
phối hợp nhịp nhàng giữa các ngành, các cấp có liên quan trong các giai đoạn
nhập khẩu công trình, đặc biệt đối với các công trình được nhập khẩu bằng
nguồn vốn vay của nước ngoài.
2.3.1. Quyết định 91/TTg ngày 13/11/1992 của Thủ tướng Chính phủ
Quyết định này ban hành Quy định về quản lý nhập khẩu máy móc thiết bị
bằng nguồn vốn ngân sách Nhà nước, trong đó nêu định nghĩa và xác định rõ
phạm vi hàng hoá Thiết bị toàn bộ và thiết bị lẻ không chỉ bao gồm phần hàng
hoá hữu hình(máy móc, thiết bị, vật liệu…) mà còn bao gồm cả phần hàng hoá
vô hình(thiết kế, giám sát, đào tạo, chuyển giao công nghệ…). Đây cũng là điểm
chi tiết hơn so với”Điều kiện chung giao hàng và lắp ráp nhà máy và máy móc
xuất nhập khẩu” số 188A của Uỷ ban kinh tế Liên Hợp Quốc cũng như định
Khoa Th­¬ng m¹i

10

nghĩa thiết bị toàn bộ trong Thông tư 07/TT ngày7/1/1961 của Thủ tướng Chính
phủ.
Theo quyết định này thì Bộ thương mại giữ vai trò chính thay nhà nước
quản lý việc nhập khẩu, cụ thể trong các mặt sau:
– Quyết định cụ thể doanh nghiệp thực hiện việc nhập khẩu;
– Cùng các ngành quản lý hữu quan và chủ đầu tư xử lý cụ thể khi phải
nhập khẩu thiết bị đã qua sử dụng;
– Quy định cụ thể trình tự và phương thức nhập khẩu máy móc thiết bị;
– Phê duyệt hợp đồng nhập khẩu cỏ trị giá nhỏ hơn 5 triệu USD, là chủ tịch
Hội đồng thẩm định nhà nước phê duyệt dự án có vốn đầu tư từ 5-10 triệu
USD, hoặc đề nghị Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đối với các hợp đồng
nhập khẩu lớn hơn;
– Cấp giấy phép nhập khẩu cho từng chuyến giao hàng.
Việc đưa ra định nghĩa thống nhất và tương đối đầy đủ về thiết bị toàn bộ
và thiết bị lẻ đã góp phần làm nền tảng xây dựng hệ thống các văn bản tiếp sau
đó điều chỉnh việc nhập khẩu máy móc thiết bị, Quyết định 91/TTG ngày
13/11/1992 cùng với Thông tư 04/TM-ĐT ngày 30/7/1993 sau này đã góp phần
thể chế hoá quá trình nhập khẩu và nâng cao hiệu quả nhập khẩu thiết bị toàn bộ.
2.3.2. Nghị định 52/1992/NĐ-CP ngày 8/7/1999 của Chính phủ.
Nghị định ban hành Quy chế Quản lý đầu tư và xây dựng, được ra đời thay
thế cho nghị định 42/CP ngày 16/7/1996 và Nghị định 92/CP ngày 23/8/1997,
với mục đích khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư sản xuất, kinh doanh
phù hợp với chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế xã hội của đất nước trong
từng thời kỳ để chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiêp hoá, hiện
đại hoá, đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân; sử dụng hiệu quả các nguồn vốn huy động được do nhà nước
quản lý; đồng thời đảm bảo quy hoạch xây dựng, áp dụng hiệu quả công nghệ và
kỹ thuật tiên tiến trên thế giới.
Quy chế đã quy định việc phân loại dự án đầu tư theo 3 nhóm A, B, C cùng
với phân cấp trách nhiệm quản lý đầu tư, quản lý vốn, thẩm định dự án đầu tư,
phê duyệt thiết kế kỹ thuật và tổng dự toán của dự án đầu tư, phê duyệt quyết
toán vốn đầu tư… của các Bộ ngành liên quan tương ứng với từng nhóm.
Nhằm đảm bảo tính thống nhất của công tác quản lý đầu tư và xây dựng,
Quy chế đã quy định trách nhiệm quyền hạn của chủ đầu tư, tổ chức tư vấn đầu
tư, nhà thầu xây dựng, trình tự lập dự án đầu tư, nội dung chủ yếu của Báo cáo
nghiên cứu tiền khả thi và Báo cáo nghiên cứu khả thi, nội dung công tác thẩm
định dự án đầu tư và thực hiện đầu tư, nguyên tắc quản lý đấu thầu và chỉ định
thầu trong xây dựng, tư vấn mua sắm thiết bị và xây lắp.
Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng mới này đã được bổ sung đầy đủ hơn,
cố gắng đưa ra các quy định pháp luật cụ thể và chặt chẽ hơn, vì thế có ý nghĩa
quan trọng trong công việc xây dựng đất nước trong giai đoạn hiện nay. Hoạt
động nhập khẩu thiết bị toàn bộ vốn là một hoạt động phức tạp, không chỉ là
Khoa Th­¬ng m¹i

11

nhập khẩu máy móc thiết bị lẻ thông thường mà là cả một phần quan trọng trong
toàn bộ quá trình đầu tư xây dựng cơ bản chịu sự quản lý chặt chẽ của Nhà
nước. Vì vậy, để tạo điều kiện thuận lợi cho công tác nhập khẩu thiết bị toàn bộ
phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước, cần có những quy
định hợp lý nhằm nâng cao hiệu qủa nhập khẩu.
2.3.3. Nghị định 88/1999/ NĐ-CP ngày 4/9/1999 của Chính Phủ.
Nghị định ban hành Quy chế đấu thầu, thay thế cho Quy chế đấu thầu đã
ban hành kèm Nghị định 43/CP ngày 16/7/1996 và Nghị định 93/CP ngày
23/8/1997 của Chính Phủ, nhằm mục đích thống nhất quản lý các hoạt động đấu
thầu tuyển chọn tư vấn, mua sắm hàng hoá, xây lắp và lựa chọn đối tác để thực
hiện dự án hoặc từng phần dự án trên lãnh thổ Việt nam. Quy chế đấu thầu đã
được đưa ra định nghĩa cho các chuyên dùng trong đấu thầu như “đấu thầu”,
“đấu thầu trong nước”, “đấu thầu quốc tế “, “xét thầu”, “dự án”, “bên mời thầu”,
“người có thẩm quyền”, “nhà thầu”, “cấp có thẩm quyền”, “tư vấn”, “xây lắp”…
Quy chế mới ban hành này có nhiều điểm tiến bộ so với Quy chế đã ban
hành trước đó, ví dụ như trong quy định về hình thức lựa chọn nhà thầu không
chỉ bao gồm đấu thầu rộng rãi, đấu thầu hạn chế, chỉ định thầu mà còn đưa thêm
cả hình thức chào hàng cạnh tranh, mua sắm trực tiếp, tự thực hiện, mua sắm
đặc biệt. Thuật ngữ “Phương thức đấu thầu” cũng đã được sử dụng thay thế cho
cụm từ tối nghĩa “Phương thức áp dụng”…
– Những nội dung cơ bản của công tác đấu thầu và tổ chức đấu thầu đã
được bổ sung thêm, đưa ra những quy định cụ thể hơn, hệ thống hơn, đặc
biệt là công tác quản lý nhà nước về đấu thầu trong việc:
– Soạn thảo, ban hành hoặc trình ban hành các văn bản quy định pháp luật
về đấu thầu;
– Tổ chức hướng dẫn thực hiện;
– Tổ chức thẩm định kế hoạch đấu thầu của dự án thẩm định kết quả đấu
thầu;
– Phê duyệt kế hoạch đấu thầu của dự án và kết quả đấu thầu;
– Tổ chức kiểm tra công tác đấu thầu;
– Tổng kết, đánh giá, báo cáo tình hình đấu thầu và thực hiện Quy chế đấu
thầu;
– Giải quyết các vướng mắc, khiếu nại về đấu thầu.
Hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ cho đến nay vẫn luôn gắn liền với
hoạt động đấu thầu do thiết bị toàn bộ được đưa về Việt nam hầu như hoàn toàn
thông qua phương thức đấu thầu.
2.3.4. Thông tư 04/TM-ĐT ngày 30/7/1993 của Bộ Thương mại
Thông tư hướng dẫn thực hiện quy định về quản lý nhập khẩu máy móc
thiết bị bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước. Đồng thời với việc đưa ra các định
nghĩa về “ Thiết bị “, ” Chủ đầu tư”, “Doanh nghiệp kinh doanh nghiệp xuất
nhập khẩu thiết bị”, ” Cơ quan chủ quản”, Thông tư đã quy định rõ các tiêu
Khoa Th­¬ng m¹i

12

chuẩn của doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu thiết bị toàn bộ, thiết bị lẻ và
quyền cấp giấy phép kinh doanh nhập khẩu thiết bị của Bộ Thương mại.
Trong Thông tư đã quy định cụ thể về trình tự nhập khẩu thiết bị toàn bộ,
nêu rõ vai trò và quyền hạn của Bộ Thương mại trong công tác quản lý điều
hành hoạt động xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ, cụ thể như: Bộ Thương mại có
quyền chỉ định doanh nghiệp nhập khẩu thiết bị; Bộ Thương mại quy định hình
thức nhập khẩu thiết bị qua đấu thầu hoặc mua sắm trực tiếp…
Thông tư đã nêu rõ việc chuyển giao công nghệ là một phần của Hợp đồng
nhập khẩu thiết bị toàn bộ, đồng thời đưa ra điều khoản phê duyệt Hợp đồng
nhập khẩu thiết bị của các cơ quan có thẩm quyền; quy định trình tự và văn bản
cần thiết để phê duyệt Hợp đồng nhập khẩu thiết bị toàn bộ.
Cùng với Quyết định 91/TTg của Thủ tướng Chính Phủ, đây có thể coi là
một văn bản pháp quy làm nền cho các quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động
nhập khẩu thiết bị toàn bộ sau này, sẽ góp phần nâng cao hiệu quả nhập khẩu
thiết bị toàn bộ.
2.3.5.Một số văn bản pháp luật của Bộ Khoa học Công nghệ và Môi
trường.
Hệ thống những văn bản của Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường đã ra
đời nhằm góp phần nâng cao hiệu quả nhập khẩu máy móc thiết bị như Thông tư
28/TT-QLKH của cao Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường ngày 22/1/1994
hướng dẫn chuyển giao công nghệ nước ngoài tại Việt nam, Thông tư số
1254/1999/TT-BKHCNMT ngày 12/7/1999 hướng dẫn thực hiện Nghị định số
45/1998/NĐ-CP ngày 1/7/1998 của Chính Phủ quy định chi tiết về chuyển giao
công nghệ, Quyết định số 2578/QĐ-TĐC ngày 28/10/1996 của Bộ Khoa học
Công nghệ và Môi trường ban hành quy định kiểm tra Nhà nước về chất lượng
hàng hoá xuất nhập khẩu, Quyết định 1091/1999/QĐ-BKHCNMT.
2.3.6. Một số văn bản pháp luật về thuế, tài chính và hải quan:
Hệ thống văn bản quản lý về thuế và thủ tục hải quan cũng lần lượt ra đời,
thay đổi theo hoàn cảnh và điều kiện cụ thể, đã góp phần không nhỏ vào việc
điều chỉnh hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ theo quản lý của Nhà nước,
thông qua các văn bản chính như:
– Thông tư số 132/1998/TT-BTC ngày 1/10/1998 quy định và hướng dẫn
việc áp dụng thuế nhập khẩu thiết bị đồng bộ của dây chuyền sản xuất.
– Thông tư số 37/1999/TT-BTC ngày 7/4/1999 hướng dẫn cách phân loại
hàng hoá theo Danh mục biểu thức nhập khẩu năm 1999.
– Nghị định 16/1999/NĐ-CP ngày 27/03/1999 ban hành Quy định về thủ
tục hải quan, giám hải quan và lệ phí hải quan.
– Thông tư 01/1999/TT-TCHQ ngày 10/5/1999 hướng dẫn về thủ tục hải
quan quy định tại Nghị định số16/1999/NĐ-CP ngày 27/3/1999 của Chính
Phủ.
Khoa Th­¬ng m¹i

13

– Quyết định 197/1999/QĐ-TCHQ ngày 3/6/1999 ban hành Quy chế quản
lý hải quan đối với địa điểm làm thủ tục hải quan ngoài cửa khẩu và hàng
hoá xuất nhập khẩu chuyển tiếp…

II. QUY TRÌNH NHẬP KHẨU THIẾT BỊ TOÀN BỘ.

Ngày nay theo quy định ở Việt Nam, hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ
bao gồm các bước cơ bản sau:
– Nghiên cứu thị trường(market study)
– Lập dự án (báo cáo) tiền khả thi (pre-feasbility study)
– Lập dự án (báo cáo) khả thi (feasbility study)
– Thiết kế (engineering) (trong thực tế ở Việt Nam, phần thiết kế thường
không nằm ở các giai đoạn chuẩn bị ký kết hợp đồng mà nằm trong giai
đoạn sau khi ký kết hợp đồng).
– Cung cấp thiết bị và xây lắp công trình (supply equipmnet and erection
installion).
– Chạy thử và nghiệm thu (test run and acceptance).
1. Nghiên cứu thị trường.
Cũng như các loại hàng hoá thông thường khác, trước khi tiến hành nhập
khẩu thiết bị toàn bộ cần thiết phải nghiên cứu thị trường thiết bị toàn bộ. Thực
chất của thị trường thiết bị toàn bộ là thị trường máy móc, thiết bị và nó cũng
luôn luôn theo quy luật cung cầu hàng hoá trên thị trường. Khi nghiên cứu thị
trường này cần chú ý một số đặc điểm sau:
– Cung cầu hàng hoá trong ngắn hạn thay đổi chậm, sức ỷ lớn, không nhạy
bén linh hoạt như những hàng hoá khác.
– Cung hàng hoá mang tính độc quyền kinh tế.
– Thời kỳ mua bán, chuyển giao, lắp đặt… thường phải dài.
– Hiệu quả kinh tế của thiết bị toàn bộ phải trải qua một thời gian dài mới
bộc lộ hết.
Còn nội dung của nghiên cứu thị trường thiết bị toàn bộ cũng giống như nội
dung nghiên cứu thị trường của một số loại hàng hoá nhập khẩu khác.
2. Báo cáo tiền khả thi.
Báo cáo tiền khả thi là cơ sở để các cơ quan có thẩm quyền thẩm định và ra
quyết định đầu tư và cấp giấy phép đầu tư. Theo Nghị định 52/1999/NĐ-CP
ngày 08/07/1999 của Chính Phủ ban hành Quy chế Quản lý Đầu tư và xây dựng
thì nội dung chủ yếu của báo cáo tiền khả thi bao gồm:
– Nghiên cứu sơ bộ về sự cần thiết phải đầu tư, các điều kiện thuận lợi và
khó khăn.
– Dự kiến qui mô đầu tư, hình thức đầu tư.
– Chọn khu vực địa điểm xây dựng và dự kiến nhu cầu diện tích sử dụng đất
trên cơ sở giảm tới mức tối đa việc sử dụng đất và những ảnh hưởng về
môi trường, xã hội và tái định cư(có phân tích, đánh giá cụ thể).
Khoa Th­¬ng m¹i

14

– Phân tích, lựa chọn sơ bộ về công nghệ, kỹ thuật, các điều kiện về cung
cấp vật tư thiết bị, nguyên vật liệu năng lượng, dịch vụ, hạ tầng .
– Phân tích, lựa chọn phương án xây dựng.
– Xác định sơ bộ tổng mức đầu tư, phương án huy động các nguồn vốn, khả
năng hoàn vốn và trả nợ, thu lãi.
– Tính toán sơ bộ hiệu quả đầu tư về mặt kinh tế, xã hội của dự án.
– Xác định tính độc lập khi vận hành, khai thác của các dự án thành phần
hoặc tiểu dự án (nếu có).

3. Báo cáo khả thi.
Sau khi thẩm định báo cáo tiền khả thi, người ta sẽ tiến hành lập luận
chứng kinh tế kỹ thuật(báo cáo khả thi). Về cơ bản, nội dung của báo cáo khả thi
tương tự như báo cáo tiền khả thi nhưng mức độ chi tiết cao hơn nhiều. Đây
thực chất là sự cụ thể hoá báo cáo tiền khả thi. Cũng theo Nghị định
52/1999/NĐ-CP, báo cáo khả thi có các nội dung cơ bản sau:
– Những căn cứ để xác định sự cần thiết phải đầu tư.
– Lựa chọn hình thức đầu tư.
– Chương trình sản xuất và các yếu tố phải đáp ứng.
– Các phương án địa điểm cụ thể (hoặc tuyến công trình).
– Các phương án giải phóng mặt bằng.
– Phân tích lựa chọn phương án kỹ thuật, công nghệ – Phương án kiến trúc,
giải pháp xây dựng, thiết kế sơ bộ.
– Xác định rõ nguồn vốn và phương án hoàn trả vốn đầu tư.
– Phương án tổ chức quản lý khai thác, sử dụng lao động.
– Phân tích hiệu quả đầu tư.
– Các mốc thời gian chính thực hiện đầu tư và kiến nghị hình thức quản lý
thực hiện dự án.
Đối với các dự án thông thường thì chỉ cần lập báo cáo khả thi là đủ. Đối
với các công trình phức tạp và quan trọng thì người ta có thể tiến hành đủ cả hai
bước báo cáo tiền khả thi và báo cáo khả thi. Nếu việc lập báo cáo tiền khả thi
cho thấy việc đầu tư xây dựng công trình này là hoàn toàn hợp lý thì sẽ bắt đầu
lập báo cáo khả thi. Sở dĩ như vậy vì một khi báo cáo khả thi đã được thẩm định
và thông qua thì sẽ bắt đầu tiến hành công việc thiết kế.
Mặc dù có khác nhau về tên gọi và cách phân định các phần cụ thể bên
trong nhưng luật chứng kinh tế kỹ thuật và báo cáo khả thi có thể coi tương tự
như nhau. Đây chỉ là cách gọi khác nhau cho công việc tìm hiểu tính hợp lý và
các giải pháp của việc xây dựng một công trình thiết bị toàn bộ.
4. Thiết kế.
Về cơ bản, công việc thiết kế theo qui định của các nước phát triển phi xã
hội chủ nghĩa cũng giống như qui định của Liên Xô cũ (nhưng không có thiết kế
sơ bộ), nghĩa là công việc engineering được chia làm hai phần: thiết kế công
Khoa Th­¬ng m¹i

15

nghệ (Techno logical engineering) và thiết kế xây dựng (Civil construction
engineering).
Phần thiết kế công nghệ được chia làm 2 bước: Thiết kế kỹ thuật (Technical
engineering) và Thiết kế thi công (Drawing). Nội dung của Thiết kế kỹ thuật,
theo qui định của các nước tư bản cho biết khối lượng xây lắp có liên quan trực
tiếp tới toàn bộ dây chuyền cộng nghệ của công trình và thông qua đó có thể xác
định được giá công trình, còn thiết kế kỹ thuật theo qui định của Liên Xô cũ
chưa nói lên khối lượng xây lắp này, do đó người ta phải dựa vào các thông số
khác để ước lượng giá công trình.
Thiết kế xây dựng ở đây thực chất chỉ là thiết kế cho phần kiến trúc bao che
công trình (External construction), vậy nó có thể có hoặc không tuỳ thuộc vào
yêu cầu bảo vệ và thẩm mỹ đối với từng công trình và khả năng tài chính của
chủ đầu tư.
Công trình chuẩn bị cho mọi dự án dù lớn hay nhỏ cũng đều phải trải qua
những công đoạn đã nói trên. Việc chuẩn bị dự án có thể ví như đặt những viên
gạch đầu tiên xây móng cho một công trình, công trình ấy sẽ đứng vững nếu ít ra
là cái móng chắc và ngược lại. Tuy thế, nhập khẩu thiết bị toàn bộ vốn là một
công việc rất phức tạp, vì thế mà trong khâu chuẩn bị cho dự án, chủ đầu tư gặp
không ít khó khăn vướng mắc, nhất là trong hoàn cảnh đất nước hiện nay.
5. Cung cấp thiết bị và xây lắp công trình.
Đây là giai đoạn cực kỳ khó khăn và quan trọng đối với bất kỳ một công
trình nào. Trên cơ sở những tính toán về trình tự, tiến bộ, thời hạn thi công, lắp
ráp máy móc thiết bị, đại diện của hai bên mua và bán thiết bị toàn bộ phải thảo
luật thống nhất về loại và thời hạn cung cấp thiết bị toàn bộ. Trong giai đoạn này
bất cứ sự trục trặc nào về sự cung ứng thiết bị toàn bộ đều ảnh hưởng đến thời
hạn và tiến độ thi công của công trình.
Để giải quyết vấn đề này(là vấn đề thường xảy ra trên công trình) người ta
thường thành lập một bộ phận trên thi trường. Bộ phận này có nhiệm vụ bảo
đảm:
– Hoàn thành thi công đúng thời gian quy định với chất lượng kỹ thuật tốt
và vốn sử dụng trong phạm vi đã được phê duyệt.
– Phản ánh kịp thời để bàn bạc giải quyết những trục trặc đã xảy ra.
– Có phương án thi công linh hoạt trong trường hợp máy móc thiết bị giao
chậm hoặc không đồng bộ.
– …
6. Chạy thử và nghiệm thu.
Công trình sau khi đã được xây lắp cần được nghiệm thu và chạy thử.
Nhiệm vụ của từng giai đoạn này là kiểm tra sự hoạt động của từng máy móc
thiết bị, từng công đoạn và cuối cùng là toàn bộ dây chuyền sản xuất bằng cách
chạy không tải rồi có tải. Giai đoạn này thường bộc lộ những trục trặc nếu có
của thiết bị toàn bộ vì thế trong khi chạy thử cần cho chạy thử hết tính năng thiết
kế cho phép trong thời gian nhất định.
Khoa Th­¬ng m¹i

16

Giai đoạn này là thời kỳ tốt nhất cho việc thực tập của cán bộ công nhân
vận hành dưới sự hướng dẫn của chuyên gia ở các hãng bán thiết bị toàn bộ và
các chuyên gia đào tạo.
Sau giai đoạn chạy thử là giai đoạn nghiệm thu. Giai đoạn này thiết bị toàn
bộ được đưa vào sản xuất nên cần theo dõi chặt chẽ hoạt động của thiết bị toàn
bộ để kịp thời phát hiện hỏng hóc và sửa chữa hiệu chỉnh. Thông thường giai
đoạn đầu của vận hành sản xuất cần tranh thủ kinh nghiệm của các chuyên gia.
Cuối giai đoạn này người ta tiến hành kiểm tra, kiểm kê và đánh giá các
thiết bị máy móc đã được cung cấp. Các quy trình sản xuất cũng được hoàn tất
trong giai này.

III. CÁC CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ NHẬP KHẨU THIẾT BỊ TOÀN BỘ VÀ
NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU THIẾT
BỊ TOÀN BỘ Ở VIỆT NAM.
1. Các chỉ tiêu đánh giá nhập khẩu thiết bị toàn bộ.
1.1. Chỉ tiêu hiệu quả tổng hợp.

H =XxkFxk+ nnkc

H: Hiệu quả tổng hợp của một doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu.
Xxk: Chỉ tiêu hiệu quả xuất khẩu.
Fxk: Chỉ tiêu đầy đủ trong nước đối với xuất khẩu(quy ra ngoại tệ).
C: Chi phí bằng ngoại tệ để nhập khẩu hàng hoá.
Một doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu hai chiều có thể không có lãi
ở xuất khẩu nhưng lại có lãi ở nhập khẩu hoặc ngược lại, miễn sao H>0 là kinh
doanh có lãi.
1.2. Chỉ tiêu hiệu quả tương đối của nhập khẩu.

100
x
N
C
xC
F
nk
nk

Nnk: Chỉ tiêu hiệu quả nhập khẩu.
Fnk: Chi phí sản xuất hàng hóa tương tự hàng hoá nhập khẩu quy ra ngoại
tệ.
C: Chi phí và ngoại tệ để nhập khẩu hàng hóa.
Chỉ tiêu này phản ánh % lợi nhuận trên vốn ngoại tệ bỏ ra để nhập khẩu lô
hàng.
1.2.1. Tỷ suất ngoai tệ đối với hàng hóa nhập khẩu:

n
T
Q
P
nk
K
.

Là lượng nội tệ thu được khi phải chi ra một đơn vị ngoại tệ.
Knk: Tỷ suất ngoại tệ đối với hàng hoá nhập khẩu.
Q: Khối lượng lô hàng nhập khẩu.
P: Giá cả hàng hoá ở trong nước tính bằng nội tệ.
Khoa Th­¬ng m¹i

17

Tn:Số ngoại tệ phải chi ra để nhập khẩu lô hàng.
Hoạt động nhập khẩu đạt hiệu quả khi:

R
nk
K
P

R: Tỷ giá hối đoái giữa ngoại tệ với nội tệ.
1.2.2. Số vòng quay của vốn lưu động.
Doanh thu bán hàng( trừ thuế doanh thu)
H3=
Vốn lưu động bình quân

Số ngày của một lần luân chuyển:
DT
VL
T
H
T
N
.
3 

H3: Biểu thị mỗi đơn vị vốn lưu động bỏ vào kinh doanh có khả năng mang
lại bao nhiêu vốn doanh thu.
1.2.3. Mức doanh lợi của vốn lưu động:

P

Lợi nhuận hoặc lãi thực hiện

H4 =
=

VL Vốn lưu động bình quân

Mức doanh lợi của vốn lưu động biểu thị mỗi đơn vị vốn lưu động bỏ vào
kinh doanh mang lại bao nhiêu lợi nhuận.
2. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ.

Trên thực tế, việc xác định được chính xác và đầy đủ tất cả các nhân tố ảnh
hưởng đến hoạt động nào đó trong nền kinh tế sẽ tạo ra những thuận lợi nhất
định trong việc đem lại hiệu quả cho hoạt động đó. Tuy nhiên, việc xác định này
phức tạp và chỉ thực hiện được bằng cách chọn lọc ra những nhân tố cơ bản để
nghiên cứu. Trong phạm vi bài luận này, tôi cũng chỉ đưa ra một số những nhân
tố cơ bản ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ như sau:
2.1. Trình độ khoa học- công nghệ của Việt nam.
Trong thời đại khoa học kỹ thuật cao, trong dòng thác lớn kinh tế toàn cầu
hoá, khoa học kỹ thuật công nghệ đã trở thành thước đo và nguồn gốc đánh giá
hiện trạng phát triển của mỗi quốc gia. Bất kỳ một chế độ kinh tế nào trước hết
đều do sự phát triển khoa học kỹ thuật, quy mô, phạm vi và hiệu quả của thành
tựu khoa học kỹ thuật vận dụng vào hoạt động kinh tế quyết định.
Ưu thế cạnh tranh của một nước là dựa trên giá trị tăng thêm của lao động
nước đó, khai thác nguồn sức người là biện quan trọng nâng cao sức cạnh tranh.
Tiến bộ khoa học kỹ thuật, kinh tế tăng trưởng và xã hội phát triển hay không
Khoa Th­¬ng m¹i

18

cuối cùng là do chất lượng tài nguyên sức người của mỗi quốc gia quyết định.
Chỉ bằng con đường đẩy nhanh tốc độ tăng thêm tri thức và kỹ năng của người
lao động thì mới tăng nhanh việc khai thác và tận dụng hiệu quả thành quả khoa
học kỹ thuật.
Việt nam hiện nay đang cố gắng khắc phục một số tình trạng là rất nhiều
các công trình thiết bị toàn bộ nhập khẩu về chỉ đạt từ 30-35% công suất, một số
công trình không sử dụng được, nhiều liên doanh đã bị biến thành một nơi tiêu
thụ hàng hoá tồn kho ứ đọng của các máy móc thiết bị cũ đã qua sử dụng hoặc
đã lạc hậu của phía nước ngoài. Hàm lượng công nghệ của nhiều nhà máy thể
hiện trong giá trị gia tăng của sản phẩm chế biến còn thấp khoảng 20%, ngược
lại chi phí vật tư nguyên vật liệu nhập ngoại còn cao hơn 70%. Đó là trong khi
xây dựng nhà máy, nhiều nhà đầu tư do trình độ kém, không hiểu biết và quan
tâm tới lợi ích xã hội nên đã cố tình cắt giảm nhiều hạng mục xử lý chất thải,
máy móc thiết bị bảo vệ người lao động và môi trường. Các yếu tố có hại trong
môi trường lao động không chỉ gây ô nhiễm tại nơi làm việc mà còn ảnh hưởng
xấu đến cả môi trường sống của dân cư xung quanh. Theo thống kê chưa đầy đủ,
hiện có 1,69% tổng số người lao động phải làm việc với máy móc thiết bị có
yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn, vệ sinh lao động nhưng chưa được cấp giấy
phép hoặc giấy phép đã hết sử dụng cần phải được đăng kiểm lại; 7,33% tổng số
người lao động phải làm việc với máy móc thiết bị mà bộ phận che chắn các yếu
tố nguy hiểm không có hoặc không đảm bảo; 2,35% máy móc thiết bị đang ở
trong tình trạng cũ, hỏng, rò rỉ các chất độc hại ra môi trường.
Rõ ràng là hiệu quả của những công trình thiết bị toàn bộ ở Việt nam đã
không đạt được như ý muốn, chưa phát huy được hết vai trò to lớn của mình
trong nền kinh tế quốc dân. Một trong những nguyên nhân quan trọng của tình
trạng yếu kém về phát triển kinh tế, với những nhà máy, công trình thiết bị toàn
bộ nhập khẩu về chất lượng không cao, chất lượng sản phẩm chưa thực sự đáp
ứng yêu cầu của thị trường thế giới, hiệu quả kinh tế xã hội thấp… chính là do
chất lượng ” Tài nguyên sức người” của Việt nam không cao. Tài nguyên sức
người là một khái niệm hoàn chỉnh, bao gồm người lao động trí óc, người lao
động chân tay, là tổng hoà toàn thể cán bộ nhân viên các ngành, các nghề, các
tầng lớp, các loại hình trong xã hội. Việc nhập khẩu một công trình thiết bị toàn
bộ không chỉ do một doanh nghiệp, một nhóm người nào đó đứng ra quyết định
mà đòi hỏi có sự phê duyệt của các cơ quan có thẩm quyền của Chính Phủ,
những cơ quan này, thường không có đủ cán bộ chuyên môn để thẩm định một
dự án đầu tư, một dự án xin vay vốn, thẩm định công nghệ của một công trình
cũng như tính toán đầy đủ hiệu quả kinh tế-xã hội mà công trình đó có khả năng
mang lại… Theo như “Báo cáo đánh giá Chính sách công nghệ và đổi mới của
Việt nam” của nhóm chuyên gia quốc tế IDRC thì cơ sở hạ tầng công nghệ của
Việt nam còn thiếu hiệu quả, tuy rằng con người Việt nam vốn cần cù chịu khó
và ham học hỏi, nhưng hệ thống nghiên cứu và triển khai(Research and
Khoa Th­¬ng m¹i

19

Deverlopmemt-R&D) của Việt nam còn chưa phù hợp, nếu không phát huy
được thế mạnh về tri thức khoa học.
Nhập khẩu công nghệ nói chung và máy móc thiết bị nói riêng là lợi thế
của nước công nghiệp hoá muộn trong việc tận dụng thành tựu khoa học công
nghệ của nước nhà trong việc tiếp nhận và quản lý công nghệ thì lợi thế sẽ trở
thành yếu thế, thậm chí biến đất nước thành bãi rác thải công nghệ của các nước
phát triển.
2.2. Hệ thống chính sách và khung pháp lý của Việt nam.
Hoàn cảnh đất nước trong từng giai đoạn cụ thể là yếu tố quyết định các
chính sách phù hợp tương ứng về xây dựng phát triển kinh tế nói chung và nhập
khẩu máy móc công nghệ nói riêng. Những chính sách này có thể có tác dụng
thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển kinh tế. Trong thời kỳ bao cấp, khi nền
kinh tế Việt nam còn quá thiếu thốn, thường xuyên xảy ra tình trạng nhập khẩu ồ
ạt và tràn lan, quá lạm dụng nguồn vốn vay ưu đãi và viện trợ không hoàn lại mà
các nước bạn dành cho, để thực hiện cho mục tiêu xây dựng một nền công
nghiệp nặng phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Nguồn vốn vay nước ngoài có thể đã đạt được tận dụng hiệu quả hơn nếu có
chính sách nhập khẩu đúng đắn và phù hợp cùng với chính sách xây dựng phát
triển kinh tế đúng hướng. Hậu quả là đã để lại cho công cuộc hiện đại hoá đất
nước cho đến cả những năm sau này nhiều “vết thương”, gây cản trở cho công
cuộc đẩy mạnh phát triển kinh tế.
Kể từ sau khi tiến hành đổi mới và mở cửa, Chính Phủ Việt nam đã rất cố
gắng đưa ra những chính sách vĩ mô có tác dụng tích cực trong định hướng và
điều tiết nền kinh tế nói chung, cũng như xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý
phù hợp với bối cảnh trong nước và thông lệ quốc tế nhằm tạo điều kiện thuận
lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu, thu hút đầu tư, phát triển kinh tế và đặc biệt là
tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá… Không thể phủ nhận những thành tựu
của những chính sách này trong công cuộc cải tổ lại nền kinh tế, chuyển dịch cơ
cấu kinh tế quan liêu bao cấp trước kia sang nền kinh tế với cơ chế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước, đưa Việt nam lên
một vị thế mới trên trường quốc tế, được tôn trọng và được quan tâm hơn.
Việt nam đã tránh khỏi sự sụp đổ hoàn toàn về thể chế như đã xảy ra ở Liên
Xô và nhiều nước Đông Âu trước đây, điều này cho phép nền kinh tế Việt nam
phản ứng nhanh hơn trước những biến đổi về chính sách được áp dụng vào cuối
thập kỷ 1980 như loại bỏ kiểm soát giá cả, thực hiện khoán trong sản xuất nông
nghiệp, củng cố lại nhiều xí nghiệp quốc doanh…Tuy nhiên, sự song song tồn tại
của những chính sách theo hướng thị trường và những tổ chức thể chế kế hoạch
hoá tập trung(các xí nghiệp quốc doanh) đã tạo khuôn khổ cho sự thiếu nhất
quán về chính sách, dẫn đến tính khả thi thấp và chính sách hay thay đổi, kèm
theo mất mát lớn về cơ hội. Điều này ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động nhập
khẩu thiết bị toàn bộ vốn là một hoạt động hết sức phức tạp.
Khoa Th­¬ng m¹i

20

Theo thống kê chưa đầy đủ, hiện nay có tới gần 4500 quy định riêng biệt
dưới nhiều hình thức có liên quan tới việc đầu tư, tiếp cận công nghệ, nhập khẩu
máy móc thiết bị, chuyển giao và áp dụng công nghệ. Các đối tác nước ngoài đã
phải nhận xét rằng: “Các quy định đó làm cho không thể cạnh tranh được và hậu
quả của nó là sự lúng túng, mâu thuẫn và hối lộ”. Theo lời của Tham tán Đại Sứ
quán Nhật Bản tại Việt Nam phát biểu trên truyền hình Việt Nam ngày
15/10/1999: “Trong qúa trình theo dõi công tác đầu tư và xúc tiến thương mại tại
Việt nam, còn một số hạn chế gây khó khăn cho chúng tôi như: thủ tục còn
rườm rà; chưa có hướng dẫn chi tiết và thống nhất về thực hiện thuế VAT đối
với hàng hoá nhập khẩu; quy định của Quy chế đấu thầu còn nhiều điều chưa
minh bạch, mà điều này sẽ dẫn tới tính cạnh tranh không lành mạnh, không công
bằng và tham nhũng; thêm vào đó, trình độ tiếp nhận và quản lý dự án của Việt
nam còn kém, công tác di dân, đền bù và giải phóng mặt bằng cho công trình
còn quá khó khăn…”.
Thật vậy, ngay các chính sách nhập khẩu máy móc thiết bị và khoa học
công nghệ trực tiếp của Việt nam đã được xây dựng nhằm khuyến khích và hỗ
trợ mua công nghệ mới, song chính luật thuế và hệ thống thu thuế lại đã đặt ra
hạn chế cho quá trình mua công nghệ đối với các nhà máy. Thủ tục nhập khẩu
khó khăn do sự thiếu đồng bộ và nhất quán trong các văn bản pháp quy cũng
như những quy định chồng chéo về nhập khẩu thậm chí đối với tư liệu sản xuất,
dịch vụ công nghệ đã làm hạn chế bớt việc tiếp cận kịp thời để có thể làm chủ
các nguồn công nghệ cao của nước ngoài nhằm tạo điều kiện cho một số ngành
công nghiệp hoạt động thuận lợi, gây mất lòng tin của đối tác nước ngoài cũng
như giảm khả năng thu hút đầu tư nước ngoài.
Điều rõ ràng là Việt nam đã đặt ra những ưu tiên chung cho đổi mới công
nghệ của mình tương tự như ở các nước láng giềng lớn(giống như hầu hết các
quốc gia công nghiệp). Tầm nhìn của Việt nam về chương trình công nghệ cao
nhấn mạnh tới các phương thức tiếp cận và thu nhận công nghệ cao từ nước
ngoài, về cách thức làm thế nào để ứng dụng và thích nghi các công nghệ đó
trong các doanh nghiệp và các tổ chức trên phạm vi toàn quốc. Còn việc tự tạo
công nghệ cao ở Việt Nam thì rất ít được nhấn mạnh tới, ít nhất trong bước đi
ban đầu, mặc dù việc triển khai thử nghiệm đối với công nghệ cao đang được
khuyến khích.
Vấn đề đặt ra ở đây có lẽ là cần đến một sự rõ ràng và thống nhất hơn giữa
các công cụ chính sách khác nhau và quan trọng nhất là áp dụng nhất quán các
công cụ chính sách đó.
Ngoài ra, không thể phủ nhận một điều rằng, việc nhập khẩu thiết bị toàn
bộ sẽ không thể thực hiện nếu thiếu vốn, mà một phần của nguồn vốn đó không
từ đâu khác mà chính là từ lợi nhuận thu từ xuất khẩu. Mối quan hệ giữa xuất
khẩu và nhập khẩu là mối quan hệ hữu cơ không thể tách rời. Xuất khẩu để tạo
vốn cho nhập khẩu và nhập khẩu nhằm góp phần nâng cao trình độ của lực
lượng sản xuất, hỗ trợ và đẩy mạnh cho xuất khẩu. Vì thế, nếu thiết bị toàn bộ
Khoa Th­¬ng m¹i

21

được nhập khẩu về không được đánh giá đúng và sử dụng một cách có hiệu quả
thì sẽ kìm hãm sự phát triển và gây lãng phí cho nền kinh tế. Do vậy, việc có
những chính sách đồng bộ và đúng đắn để giải quyết vấn đề nâng cao hiệu quả
xuất khẩu cũng là yếu tố rất quan trọng có ảnh hưởng tích cực tới nhập khẩu nói
chung và nhập khẩu thiết bị toàn bộ nói riêng, sao cho trong một tương lai
không xa, Việt nam sẽ không cần phải vay vốn nước ngoài cũng như trông vào
viện trợ nước ngoài để nhập khâủ thiết bị và công nghệ trên thị trường quốc tế.
2.3. Chính sách xuất khẩu của nước người bán.
Xu thế toàn cầu hoá tạo ra tính phụ thuộc lẫn nhau ngày càng sâu sắc, do đó
hình thành sự đan xen lợi ích cũng như đan xen mâu thuẫn giữa các khu vực, các
trung tâm kinh tế, các quốc gia, đan xen cạnh tranh với hợp tác theo xu thế cạnh
tranh ngày càng gay gắt và hợp tác ngày càng sâu rộng hơn. Toàn cầu hoá và
khu vực hoá đã trở thành xu thế tất yếu thúc đẩy hầu hết các quốc gia mở rộng
thị trường bằng cách giảm bớt, thậm chí xoá bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế
quan; chuyển dịch một cách thông thoáng hàng hoá, vốn đầu tư, tiền tệ, dịch vụ,
lao động giữa các quốc gia với quy mô ngày càng lớn; hình thành vô số tổ chức
kinh tế tài chính mang tính toàn cầu và khu vực; ký kết hàng vạn Hiệp định song
phương và đa phương…Những đặc điểm này không nhiều thì ít ảnh hưởng tới
toàn bộ hệ thống chính sách kinh tế đối ngoại, xuất nhập khẩu nói chung và
nhập khẩu thiết bị toàn bộ của Việt nam nói riêng.
Thật vậy, nếu Việt Nam có cơ hội và khả năng xuất khẩu nhiều mặt hàng
với kim ngạch cao sang các nước bạn, sản phẩm của Việt nam được ưa chuộng
trên thị trường thế giới, điều đó cũng đồng nghĩa với việc Việt nam có thể giải
quyết được một phần vốn cho nhập khẩu thiết bị và công nghệ tiên tiến để đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đât nước, tăng cường cho xuất khẩu. Việc
xuất khẩu được nhiều hàng nhằm thu ngoại tệ để tạo vốn cho nhập khẩu, tất
nhiên, không chỉ phụ thuộc vào chính sách của Việt nam mà còn phụ thuộc rất
nhiều vào chính sách xuất nhập khẩu của các nước bạn, phụ thuộc vào nhu cầu
tiêu dùng trên thị trường thế giới.
Nếu xét đến mối quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam và một trong
những bạn hàng lớn nhất là Nhật Bản, có thể thấy rằng triển vọng tăng trưởng
quan hệ xuất nhập khẩu giữa Nhật Bản và Việt nam phụ thuộc rất nhiều vào
chính sách đầu tư nước ngoài, chính sách công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Việt
nam và chính sách xuất nhập khẩu của Nhật Bản. Điều này cũng sẽ quyết định
lượng đầu tư của Nhật Bản vào Việt nam cũng như tạo điều kiện chuyển giao kỹ
thuật, thu ngoại tệ, nhập khẩu máy móc thiết bị nhằm tiến hành nhanh quá trình
công nghiệp hoá ở Việt nam. Theo như chính sách Nhật Bản đặt ra đối với thị
trường Việt nam, trước hết, Việt nam phải sử dụng các trang thiết bị máy móc
kỹ thuật đã có từ trước mà hiện nay vẫn còn được thế giới chấp nhận để sản xuất
các mặt hàng xuất khẩu và thay thế dần nhập khẩu. Nhật Bản sẽ giúp Việt nam
tiêu thụ ở mức tối đa các loại hàng xuất khẩu này trên thị trường Nhật. Nhờ vào
nguồn ngoại tệ thu được từ hàng xuất khẩu, kết hợp với các nguồn vốn khác,
Khoa Th­¬ng m¹i

22

Việt nam cần cố gắng nâng cao sản lượng, mở rộng quy mô sản xuất, tiến hành
công nghiệp hoá ngành xuất khẩu bằng máy móc thiết bị kỹ thuật lỗi thời của
nước ngoài, nắm vững các thiết bị máy móc và công nghệ đã nhập, cố gắng tự
mình khai phá kỹ thuật mới trong nước để có thể tiếp tục tiến hành hiện đại hoá.
Về phía Hoa Kỳ, một quốc gia mạnh nhất thế giới hiện nay cả về tiềm lực
kinh tế và quân sự, rõ ràng qua chính sách kinh tế chính trị đối ngoại, Hoa Kỳ đã
hạn chế tốc độ phát triển kinh tế của Việt nam và một số nước khác, ngăn chặt
sự giao lưu thành tựu khoa học kỹ thuật mới tới những quốc gia này thông qua
lệnh cấm vận, mà đã được áp dụng với Việt nam kể từ năm 1964 đối với mọi
lĩnh vực Thương mại, Tài chính, Tín dụng Ngân hàng…Chính vì vậy mà đã hạn
chế rất nhiều quá trình Việt nam tiếp cận khoa học công nghệ tiên tiến trên thế
giới từ các nước phát triển trong một thời gian dài. Tuy nhiên, từ tháng 4/1992,
Hoa Kỳ bãi bỏ lệnh cấm vận với Việt nam bằng việc cho phép xuất khẩu sang
Việt nam hàng hoá đáp ứng nhu cầu thiết yếu, sau đó cho phép các công ty Hoa
Kỳ mở văn phòng đại diện ở Việt nam, tiến hành nghiên cứu khả thi và cho phép
các hãng của Hoa Kỳ tham gia đấu thầu các công trình tại Việt nam. Kể từ khi
Hoa Kỳ tuyên bố không can thiệp vào các tổ chức tài chính quốc tế, thì trước hết
là quỹ tiền tệ quốc tế-IMF, Ngân hàng thế giới-WB, Ngân hàng Phát triển Châu
Á-ADB đã nối lại quan hệ với Việt nam. Tất cả những sự kiện quan trọng diễn
ra sau khi Hoa Kỳ tuyên bố bình thường hoá quan hệ với Việt Nam năm 1995 đã
tạo điều kiện thuận lợi hơn cho Việt Nam trên con đường đa phương hoá hoạt
động chính trị- kinh tế đối ngoại, thúc đẩy thương mại, tiếp cận thành tựu khoa
học kỹ thuật mới trên thế giới, đồng thời xúc tiến phát triển hợp tác kinh tế
thương mại với Hoa Kỳ. Việc nhập khẩu thiết bị toàn bộ nhằm phục vụ công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước của Việt nam có thêm nhiều triển vọng tốt
đẹp, do máy móc thiết bị của Hoa Kỳ sản xuất có trình độ công nghệ cao, rất có
lợi cho việc phát triển sản xuất trong nước.
Từ những điều nêu trên, cần nhận thức rõ rằng, trong nỗ lực nhằm nâng cao
hiệu quả nhập khẩu thiết bị toàn bộ, không chỉ đơn thuần phải giải quyết vấn đề
vốn cho nhập khẩu mà vấn đề nhập khẩu cái gì và từ đâu cũng là những vấn đề
hết sức quan trọng không phải chỉ do người nhập khẩu tự quyền quyết định. Một
khi đã bỏ ra một khoản vốn lớn và nhiều công sức để nhập khẩu công nghệ và
máy móc, người nhập khẩu luôn mong muốn được nhập về những công nghệ
hiện đại nhất, những máy móc thiết bị tiên tiến nhất phục vụ cho nền sản xuất
nước nhà. Song vấn đề nằm ở chỗ liệu họ có thể tìm được nhà xuất khẩu nào
đồng ý cung cấp những công nghệ và thiết bị như mong muốn, và có được
chuyển giao toàn bộ công nghệ đó về tay mình hay không. Nhật Bản và Hoa Kỳ
có thể được coi là hai nước có nền khoa học công nghệ phát triển bậc nhất trên
thế giới, tuy nhiên, Chính Phủ hai nước đều không cho phép xuất khẩu những
công nghệ và máy móc hiện đại mới tạo ra, đặc biệt là những công nghệ mà mới
chỉ một mình họ nắm giữ. Thiết bị máy móc và công nghệ được Nhật Bản và
Hoa Kỳ xuất khẩu chẳng qua là những máy móc thiết bị và công nghệ đã sử
Khoa Th­¬ng m¹i

23

dụng ở trong nước họ từ trước đó nhiều năm, thậm chí hàng chục năm, và khi
được bán ra chúng vẫn có thể coi là hoàn toàn mới đối với nhiều quốc gia…Rõ
ràng trong nhiều trường hợp, người nhập khẩu thiết bị toàn bộ vẫn rơi vào tình
thế “lực bất tòng tâm”, dù có sẵn sàng bỏ nhiều tiền ra để mua công nghệ cũng
không được mua, và vì thế thực hiện được mục tiêu của mình đã đặt ra mà
phải”xuống thang” theo những yêu cầu từ phía người nhập khẩu.
2.4. Tỷ giá hối đoái:
Đối với các doanh nghiệp tham gia hoạt động thương mại quốc tế, sự thay
đổi của tỷ giá hối đoái tác động trực tiếp tới chi phí và kết quả hoạt động xuất
nhập khẩu.
Trong trường hợp tỷ giá hối đoái giảm đồng nội tệ bị mất giá so với đồng
ngoại tệ, hàng hoá nhập khẩu trở nên đắt hơn vì người nhập khẩu phải dùng
nhiều đơn vị đồng tiền nội tệ hơn để mua cùng một số lượng hàng nhập khẩu.
Điều này, kích thích sự tăng giá cả trong nước, làm hạn chế nhập khẩu hàng hoá
hoặc kích thích sự phát triển sản xuất các hàng hoá thay thế nhập khẩu ở trong
nước. Tỷ giá hối đoái giảm tác động trực tiếp tới hiệu quả hoạt động nhập khẩu.
Việc tăng chi phí đồng tiền dân tộc để mua hàng hoá từ nước ngoài các nhà nhập
khẩu đã phải tăng chi phí sản xuất kinh doanh của mình. Đây là một nhân tố cơ
bản làm giảm hiệu quả kinh doanh của hoạt động nhập khẩu. Việc tăng chi phí
sẽ dẫn tới tăng giá thành sản xuất, do đó sẽ làm giảm cầu trên thị trường nội địa
về sản phẩm nhập khẩu. Mặt khác do giá cả tăng lên người tiêu dùng nội địa sẽ
sử dụng hàng hoá thay thế khác. Điều này, làm giảm kết quả của hoạt động nhập
khẩu dẫn tới giảm hiệu quả của các doanh nghiệp tham gia hoạt động nhập khẩu.
Như vậy, Nếu tỷ giá giảm sẽ làm giảm hiệu quả nhập khẩu theo hai hướng
tăng chi phí và giảm kết quả. Nhưng xét về hiệu quả kinh tế – xã hội khi tỷ giá
hối đoái giảm sẽ khuyến khích xuất khẩu, sản xuất, tăng tiềm năng sản xuất
trong nước tạo việc làm và cải thiện cán cân thanh toán.
Khi tỷ giá hối đoái tăng lên, đồng nội tệ tăng giá so với đồng ngoại tệ, nếu
như không có các yếu tố khác ảnh hưởng thì sẽ tác động khuyến khích nhập
khẩu vì hàng hoá nhập khẩu trở nên rẻ hơn so với giá cả chung trong nước. Chi
phí kinh doanh giảm xuống, làm cho kết quả kinh doanh.

Khoa Th­¬ng m¹i

24

Đánh giá post

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *