11193_Thực trạng và giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu nông sản Việt Nam sang thị trường các nước ASEAN của công ty xuất nhập khẩu INTIMEX

luận văn tốt nghiệp

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH
XUẤT KHẨU NÔNG SẢN VIỆT NAM SANG
THỊ TRƯỜNG CÁC NƯỚC ASEAN CỦA
CÔNG TY XUẤT NHẬP KHẨU INTIMEX
Chuyên đề thực tập Nguyễn Thị Huyền – TMQT 42
MỞ ĐẦU

Việt Nam nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, là một nước nông
nghiệp trên 70% lực lượng lao động hoạt động trong ngành nông nghiệp, vì
thế Đảng và Nhà nước ta đã xác định nông sản là mặt hàng xuất khẩu chiến
lược nhằm sử dụng lực lượng lao động rất lớn trong nông nghiệp, phân công
lại lực lượng lao động và tạo nguồn ban đầu cần thiết cho sự nghiệp công
nghiệp hoá – hiện đại hoá. Một trong những sự kiện quan trọng đó là Việt
Nam gia nhập ASEAN vào 28/7/1995, một mốc son trong quá trình hội nhập
kinh tế và hiện nay Việt Nam đã gia nhập vào AFTA. Các nước ASEAN đều
có điểm tương đồng về văn hoá và gần gũi nhau về mặt địa lý . Nằm giữa
Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, là đầu mối cửa ngõ giao thông quan
trọng, các nước ASEAN có điều kiện để phát triển. Nhận thức được lợi thế to
lớn của hàng nông sản nước ta và mối quan hệ thương mại giữa nước ta và
các nước ASEAN, công ty INTIMEX thấy rõ được thị trường ASEAN là một
thị trường đầy tiềm năng mà lại không khó tính và ngày nay nó đã trở thành một
thị trường xuất khẩu chính của công ty.
Bên cạnh những thành công to lớn, vẫn còn tồn tại một số hạn chế nhất
định ở thị trường ASEAN mà công ty cần giải quyết để nâng cao hiệu quả
kinh doanh xuất khẩu nông sản, vì vậy em chọn đề tài: “Thực trạng và giải
pháp đẩy mạnh xuất khẩu nông sản Việt Nam sang thị trường các nước
ASEAN của công ty xuất nhập khẩu INTIMEX”.
Kết cấu chuyên đề gồm 3 chương:
Chương 1: Thị trường ASEAN và khả năng xuất khẩu nông sản Việt
Nam sang thị trường ASEAN.
Chương 2: Thực trạng xuất khẩu nông sản sang thị trường ASEAN của
công ty xuất nhập khẩu INTIMEX.
Chương 3: Một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu nông sản của công ty
xuất nhập khẩu INTIMEX sang thị trường ASEAN.
Chuyên đề thực tập Nguyễn Thị Huyền – TMQT 42

CHƯƠNG 1. THỊ TRƯỜNG ASEAN VÀ KHẢ NĂNG
XUẤT KHẨU NÔNG SẢN VIỆT NAM SANG
THỊ TRƯỜNG ASEAN

1.1. ĐẶC TRƯNG CỦA THỊ TRƯỜNG ASEAN VỀ HÀNG NÔNG SẢN
1.1.1. Đặc trưng của thị trường ASEAN
* Về văn hoá
Các nước ASEAN đều có những điểm tương đồng về văn hoá. Đặc biệt
các nước ASEAN đều có nền văn hoá truyền thống đậm đà bản sắc văn hoá
dân tộc,có lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước.Văn hoá là di sản được kế
thừa từ cha ông qua cả quá trình lịch sử,là tổng thể những hiểu biết về phong
tục tập quán ,về trí tuệ và vật chất.Văn hoá trong ASEAN có những đặc trưng
sau :
_Đánh giá cao tính kiên nhẫn, lòng kính trọng với địa vị, thân thế (tuổi
tác, danh vọng…), năng lực chuyên môn.
_Rất tự hào về dân tộc mình và kính trọng truyền thống dân tộc :mỗi
một nước đều có một nghi thức, tập tục truyền thống khác nhau nhưng tất cả
họ đều tự hào và kính trọng truyền thống dân tộc của họ.
_Văn hoá kinh doanh mang tính cạnh tranh cao và có đạo đức kinh
doanh.
_Đều có xuất phát điểm là nền văn minh lúa nước, con người cần cù
chịu khó,có tinh thần trách nhiệm, uy tín ,thân thiện…
_Mỗi quốc gia đều có rất nhiều dân tộc anh em sinh sống, mỗi dân tộc
sử dụng một ngôn ngữ riêng,tạo nên sự đa dạng trong ngôn ngữ.
* Về địa lý sinh thái.
Nằm giữa Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, là đầu mối cửa ngõ giao
thông quan trọng, các nước ASEAN có điều kiện để phát triển mở rộng hợp
Chuyên đề thực tập Nguyễn Thị Huyền – TMQT 42
tác giao lưu, văn hoá, kinh tế, chính trị, xã hội với nhau và các nước trên thế
giới. Chính vì vậy, việc đi lại trao đổi mua bán rất thuận lợi trở thành một
trong những sợi dây liên kết khu vực Đông Nam Á.
* Về kinh tế.
Các nước thành viên ASEAN đã có chương trình về hợp tác kinh tế.
Thực tế cho thấy về mặt kinh tế, tổ chức kinh tế khu vực có tác dụng thúc đẩy
sự hợp tác kinh tế, buôn bán và phân công lao động. Kinh tế các nước
ASEAN thuộc loại đang phát triển trừ có Singapore. Thu nhập bình quân đầu
người giữa các nước chênh lệch khá lớn. Đối với các nước như Malaysia,
Thái Lan, Singapore, Brunei là những nước phát triển nhất trong khối có thu
nhập bình quân đầu người trên 3000 USD. Hai nước Philipin, Inđônêxia có
thu nhập bình quân đầu người trên 1000 USD. Sáu nước này có thu nhập bình
quân đầu người cao hơn rất nhiều so với các nước còn lại như Việt Nam, Lào,
Campuchia, Mianma.
Trong những năm qua, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN)
đã không ngừng đẩy mạnh hợp tác giữa các nước thành viên. Tháng 1 năm
1992, các nước ASEAN đã đi đến quyết định thành lập khu mậu dịch tự do
ASEAN (AFTA) thông qua việc ký kết hiệp định về chương trình ưu đãi thuế
quan có hiệu lực chung (CEPT) nhằm đưa nền kinh tế khu vực này thành một
cơ sở sản xuất thống nhất với một thị trường rộng lớn trên 500 triệu dân, tỷ lệ
tăng dân số trung bình 2,05% thì đây thực sự là một thị trường tiêu thụ rất lớn.
Mặc dù, AFTA chưa có hiệu lực trước 2003, song thuế quan nhập khẩu
giữa các nước thành viên ASEAN đã được giảm dần từ năm 1997. Tính đến
năm 2001, thuế quan của 92,8 số sản phẩm trong danh mục cắt giảm ngay của
6 nước thành viên ban đầu gồm Inđônêxia, Malaysia, Philipin, Singapore,
Thái Lan, Brunei được giảm xuống mức 0 – 5%. Việt Nam đã chính thức
tham gia vào AFTA năm 2003 và hoàn thành cắt giảm thuế quan vào năm
2006. Đối với các thành viên Lào và Mianma sẽ bắt đầu thực hiện hiệp định
CEPT từ 1- 1- 1998 và kết thúc vào ngày 1- 1- 2008. Campuchia bắt đầu thực
Chuyên đề thực tập Nguyễn Thị Huyền – TMQT 42
hiện CEPT từ 1-1- 2000 và kết thúc vào ngày 1- 1- 2010. Việc thực hiện
CEPT đã làm cho xuất khẩu nội khu vực ASEAN tăng từ 43 tỷ USD năm
1993 lên 84 tỷ năm 2001, tăng hơn 90% trong vòng 8 năm. Thị trường
ASEAN đã trở nên ngày càng quan trọng hơn đối với các nước thành viên
ASEAN. Do vậy, AFTA sẽ tiếp tục thúc đẩy các hoạt động thương mại khu
vực.
Khi thực hiện hiệp định CEPT các hàng rào phi thuế quan như hạn chế
số lượng, hạn ngạch giá trị xuất nhập khẩu, giấy phép nhập khẩu có tác dụng
hạn chế định lượng… cũng bị loại bỏ trong vòng 5 năm sau khi một sản phẩm
được hưởng ưu đãi thuế quan.
Việc xoá bỏ các hàng rào thuế quan và phi thuế quan sẽ thúc đẩy
thương mại và cải thiện phúc lợi của các nước tham gia, tạo ra môi trường
cạnh tranh hơn, nhưng nó cũng làm tăng năng suất lao động, đa dạng hoá các
sản phẩm và giảm giá hàng hoá. Các hoạt động thương mại ngày càng tăng
cũng thúc đẩy các hoạt động kinh tế các nước này, việc làm được tạo ra và
các nền kinh tế có thể tăng trưởng nhanh hơn.
* Về chính trị.
Về chính trị nó có tác dụng củng cố tinh thần đoàn kết, giúp đỡ các nước
vừa và nhỏ có tiếng nói mạnh mẽ và vai trò trong giải quyết vấn đề quốc tế,
xã hội của các nước thành viên. Phần lớn các nước trong khối ASEAN thực
hiện theo chế độ đa Đảng. Nhưng nhìn chung chính trị trong khu vực SAEAN
là khá ổn định, rất thuận lợi cho hoạt động trao đổi buôn bán với các nước với
nhau và với thế giới.
Tóm lại, thị trường ASEAN có đặc điểm tương đồng về văn hoá và gần
gũi nhau về địa lý, chính trị trong khối tương đối ổn định.ASEAN là một thị
trường đầy tiềm năng với trên 500 triệu dân và yêu cầu về chất lượng hàng
hoá không phải là cao. Hầu hết các nước ASEAN có xuất phát điểm là nền
văn minh nông nghiệp lúa nước, đi lên từ nông nghiệp và lấy nông nghiệp là
điều kiện phát triển kinh tế. Do vậy, sự cạnh tranh về các sản phẩm đồng loại
Chuyên đề thực tập Nguyễn Thị Huyền – TMQT 42
là rất khốc liệt, bên cạnh đó có sự tự do hoá thương mại theo cả hướng đa
phương và song phương nên sự cạnh tranh trong một thị trường như vậy càng
mãnh liệt hơn.
1.1.2. Nhu cầu của thị trường ASEAN về nông sản Việt Nam.
Với một thị trường hơn 500 triệu dân, ngoài các nhu cầu về mặc, ở, đi
lại… thì nhu cầu về ăn uống là rất lớn.Và so với các nước Singapo, Thái Lan,
Philippin, Malaysia, Inđônêsia thì Việt Nam có nền kinh tế kém phát triển hơn
rất nhiều.Do đó, ngoài nhu cầu nhập khẩu nông sản Việt Nam về bổ sung cho
nhu cầu ăn uống. Các nước Singapo, Thái Lan, Philippin, Malaysia, Inđônêsia
còn có nhu cầu nhập khẩu nông sản Việt Nam về chế biến và tái xuất. Cùng
sự phát triển mạnh mẽ, các nước ASEAN đang được coi là khu vực hấp dẫn,
sôi động nhất thế giới. Tăng trưởng buôn bán giữa Việt Nam và các nước
ASEAN đạt 20 – 25%/năm. Hàng năm, ASEAN nhập khẩu một lượng khá
lớn nông sản Việt Nam, kim ngạch trung bình mỗi năm đạt khoảng 3.678
triệu USD. Hầu hết các nước ASEAN đều chú trọng đến phát triển nông
nghiệp. Các nước Inđônêxia, Thái Lan, Malaysia, Philipin là các nước có nền
nông nghiệp khá phát triển thế mà hàng năm Inđônêxia phải nhập khẩu về từ
1,8 – 2 triệu tấn gạo của Việt Nam. Philipin, Malaysia, Thái Lan cũng nhập
khẩu một lượng khá lớn nông sản Việt Nam. Trung bình tỷ trọng thị trường
ASEAN trong tổng kim ngạch xuất khẩu nông sản của Việt Nam chiếm
khoảng 18%, với các mặt hàng chủ yếu như : gạo, hạt điều, lạc nhân, cao su,
long nhãn, hành, sắn, tỏi… Trong tổng kim ngạch xuất khẩu nông sản của
Việt Nam sang ASEAN thì có tới 60 – 70% được xuất sang Singapore. Đây là
thị trường tái xuất điển hình trong ASEAN. Năm 2000, Việt Nam có 21 thị
trường xuất khẩu nông sản (có kim ngạch xuất khẩu nông sản khoảng 100
triệu USD) thì có 3 nước là Singapore đạt 886,7 triệu USD, Philipin đạt 477
triệu USD, Malaysia đạt 413,5 triệu USD. Ngoài ra, còn Inđônêxia và
Campuchia cũng là thị trường nhập khẩu nông sản lớn của Việt Nam.
Chuyên đề thực tập Nguyễn Thị Huyền – TMQT 42
Tóm lại, nhu cầu của thị trường ASEAN về hàng nông sản Việt Nam là
rất lớn. Ngoài nhu cầu về hàng nông sản phục vụ cho tiêu dùng hàng ngày,
các nước ASEAN còn nhập khẩu nông sản của Việt Nam cho sản xuất chế
biến trong nước rồi tái xuất sang nước khác.
1.2. ĐẶC TRƯNG CỦA NÔNG SẢN VIỆT NAM
Nước ta nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới có 2 mùa nắng mưa rõ rệt.
Việt Nam được coi là nước có đIều kiện khí hậu thuận lợi cho việc trồng các
cây nông sản. Do điều kiện khí hậu 2 mùa rõ rệt nên đã tạo nên ngành nông
nghiệp Việt Nam 2 mùa thu hoạch: vụ mùa và vụ chiêm. Do nông sản có tính
thời vụ vì vậy quá trình sản xuất, buôn bán nông sản Việt Nam cũng mang
tính thời vụ. Từ đó tạo nên sự cung theo mùa có nghĩa là khi chính vụ thì
hàng nông sản dồi dào, chủng loại đa dạng, chất lượng tốt, giá bán rẻ (cung
>cầu) nhưng khi trái vụ nông sản lại trở nên khan hiếm, số lượng ít, chất
lượng không cao, giá lại cao (cung

Đánh giá post

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *