LUẬN VĂN:
Xuất khẩu thuỷ sản sang
thị trường Mỹ
chương I
Những vấn đề lý luận cơ bản về
xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường Mỹ
I.
Tầm quan trọng của việc thúc đẩy xuất khẩu thuỷ sản trong nền kinh tế quốc
dân.
1. Vị trí và vai trò của ngành thuỷ sản và xuất khẩu thuỷ sản ở nước ta.
Trong nền kinh tế quốc dân, thuỷ sản là một trong những ngành có nhiều khả năng
và tiềm năng huy động để phát triển, có thể đạt được tốc độ tăng trưởng cao vào những
năm tới và tiến kịp các nước trong khu vực nếu có các chính sách thích hợp và được đầu
tư thoả đáng.
Với bờ biển dài 3260 km cùng 112 cửa sông, lạch, vùng đặc quyền kinh tế khoảng
1 triệu km2 và hơn 4000 hòn đảo lớn nhỏ tạo nên nhiều eo, vịnh và đầm phá, ngư trường…
Có thể nói, tiềm năng nguồn lợi tài nguyên sinh vật biển và vùng nước nội địa Việt Nam là
rất phong phú và có giá trị kinh tế cao, phục vụ cho nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Sự
giàu về tài nguyên, khí hậu, đa dạng về sinh thái đã khiến cho ngành thuỷ sản nước ta có
nhiều ưu thế phát triển quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Trải qua
những bước thăng trầm, ngành thuỷ sản, từ một lĩnh vực kinh tế nhỏ bé thuộc khối nông
nghiệp, đã vươn lên trở thành một ngành kinh tế quan trọng, mũi nhọn của đất nước.
Trong những năm qua, xuất khẩu thuỷ sản đã có những đóng góp hết sức to lớn,
trở thành động lực thúc đẩy kinh tế thuỷ sản phát triển nói riêng và sự tăng trưởng kinh tế
Việt Nam nói chung. Hàng năm, xuất khẩu thuỷ sản đã đem lại nguồn ngoại tệ rất lớn cho
đất nước, từ 285,4 triệu USD năm 1991 đến nay thuỷ sản đã trở thành một trong 4 ngành
dẫn đầu về kim ngạch xuất khẩu cả nước, ước đạt gần 1,76 tỷ USD năm 2001(chỉ đứng
sau dầu thô, dệt may và giày da). Như vậy, cùng với các mặt hàng xuất khẩu khác, xuất
khẩu thuỷ sản đã góp phần rất lớn trong việc tạo ra nguồn vốn cho sự nghiệp công nghiệp
hoá- hiện đại hoá mà chúng ta đang tiến hành.
Bảng 1: Kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản từ 1994-2001
Đơn vị tính: Triệu USD
Năm 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001
KNXK 285 307,5 427,2 551 621.4 697
782
858
971 1475 1760
Nguồn: Bộ Thương mại.
Mặt khác, như chúng ta đã biết, thuỷ sản Việt Nam có những lợi thể cơ bản về điều
kiện tự nhiên, về nguồn lực và yếu tố con người để phát triển đánh bắt, nuôi trồng và chế
biến thuỷ sản xuất khẩu. Tuy nhiên, do điều kiện nền kinh tế còn yếu kém, công nghệ còn
lạc hậu nên chúng ta chưa thể tận dụng hết được những lợi thế đó để thúc đẩy nền kinh tế
phát triển. Do đó, thông qua việc cung ứng các sản phẩm thuỷ sản ra thị trường quốc tế,
chúng ta sẽ có điều kiện đề học hỏi và tiếp thu những kinh nghiệm quản lý tiên tiến cũng
như là có thể nhập khẩu những thiết bị bảo quản chế biến hiện đại, từ đó quay trở lại đầu
tư khai thác có hiệu quả những lợi thế đó.
Hơn nữa, với tiềm năng xuất khẩu lớn, hiện nay ngành thuỷ sản Việt Nam đã thu
hút được trên 30 vạn lao động nhàn rỗi và ít có tay nghề thông qua sản xuất hàng xuất
khẩu, giải quyết tốt công ăn việc làm, góp phần cải thiện đời sống nhân dân, ổn định xã
hội.
Đồng thời, sự phát triển của ngành có thể đem lại cơ hội phát triển cho những
ngành khác có liên quan. Việc đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ sản đã tạo động lực cho một số
ngành khác như sản xuất nuôi trồng, chăn nuôi, hoá chất…có điều kiện phát triển. Không
những thế, ngành còn có khả năng phát triển trên mọi vùng kinh tế trọng điểm của đất
nước, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng lãnh thổ theo hướng hợp lý.
Bên cạnh đó, thông qua việc xuất khẩu, mặt hàng thuỷ sản của Việt Nam đã thâm
nhập thị trường thế giới từ đó mở rộng và thúc đẩy sự phát triển các mối quan hệ kinh tế
đối ngoại giữa Việt Nam và các nước khác. Các nước khác dần biết đến Việt Nam thông
qua các sản phẩm thuỷ sản mà các doanh nghiệp Việt Nam sản xuất. Nhờ đó, các mối
quan hệ khác cũng phát triển theo như du lịch quốc tế, vận tải quốc tế, tín dụng quốc
tế…Sự phát triển của những ngành này cũng tác động ngược trở lại tới hoạt động xuất
khẩu thuỷ sản.
Ngoài ra, do yêu cầu của thị trường thế giới và cũng như do sự cạnh tranh khốc liệt
mà các đơn vị sản xuất hàng thuỷ sản xuất khẩu phải luôn tìm tòi, cải tiến mẫu mã, chất
lượng sản phẩm nhằm đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu của thị trường. Từ đó góp phần
đáp ứng tốt hơn nhu cầu của thị trường nội địa, đóng góp cho sự tăng trưởng GDP của đất
nước.
Như vậy, với ưu thế là sự phù hợp với giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá
đất nước, thu hút nhiều lao động, tạo ra khoản thu ngoại tệ lớn về cho đất nước, xuất khẩu
thuỷ sản đã và đang có vị trí, vai trò rất quan trọng trong hệ thống các mặt hàng xuất khẩu
chủ lực của Việt Nam.
2. Những cơ sở đảm bảo thúc đẩy xuất khẩu thuỷ sản ở nước ta
Bước sang thập kỷ 90, sau thời gian dàI đặc biệt khó khăn trong sản xuất kinh
doanh do ảnh hưởng của sự biến động của Liên Xô và các nước Đông Âu, ngành sản xuất
và chế biến thuỷ sản của Việt Nam bắt đầu bước vào giai đoạn phát triển mới. Hiện nay,
ngành được coi là một trong những ngành xuất khẩu mũi nhọn trong chiến lược phát triển
công nghiệp tổng hợp của nước ta. Dựa trên lý thuyết về lợi thế tương đối (hay lợi thế so
sánh) của David Ricardo, có thể thấy rõ ngành thuỷ sản Việt Nam có nhiều lợi thế có thể
tận dụng nhằm đẩy mạnh xuất khẩu ngành hàng này.
Về nguồn nhân lực.
Hiện nay, Việt Nam là nước có dân số đứng thứ 13 trên thế giới và thứ 2 ASEAN (
sau Indônexia). Dân số cả nước hơn 83 triệu người, trong đó số người trong độ tuổi lao
động là 45 triệu người. Hàng năm có khoảng 1,5 đến 1,7 triệu người bổ sung vào lực
lượng lao động. Với lực lượng lao động đồi dào, nếu sử dụng một cách hợp lý, triệt để và
có hiệu quả sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho ngành sản xuất và xuất khẩu thuỷ sản phát triển.
Việt Nam được đánh giá là nước dân số đông và trẻ trong khu vực và trên thế giới.
Lợi thế của nguồn nhân lực Việt Nam được thể hiện khá rõ qua trình độ văn hoá cao của
lực lượng lao động. Hiện nay, gần 94% dân cư từ 15 tuổi trở lên biết chữ, tất cả các thành
phố, tỉnh trong cả nước đạt chuẩn quốc gia về xoá mù chữ và phổ cập tiểu học. So với các
nước trong khu vực, có tính đến sự khác biệt về điều kiện kinh tế – xã hội thì tỷ lệ biết chữ
và số năm đi học của lực lượng lao động Việt Nam là khá cao.
Tuy nhiên, do chính sách đào tạo của Nhà nước còn quá nhiều bất hợp lý, không
đáp ứng được nhu cầu của thực tiễn nên tình trạnh thừa thầy thiếu thợ diễn ra rất phổ biến
trong nhiều ngành nghề. Trong vòng 8 năm từ 1989-1997, lực lượng chuyên môn có kỹ
thuật chỉ tăng có 2% và tỷ trọng lực lượng lao động không có chuyên môn vẫn chiếm gần
90% lực lượng lao động toàn xã hội.
Thế nhưng, do đặc thù của ngành thuỷ sản là sử dụng nhiều lao động giản đơn,
không đòi hỏi trình độ chuyên môn kỹ thuật cao do đó chúng ta có thể khẳng định cho dù
còn nhiều hạn chế, bất cập cần khắc phụ song nguồn nhân lực Việt Nam rõ ràng là lợi thế cơ
bản và quan trọng trong phát triển ngành thuỷ sản trong thời gian tới. Vấn đề đặt ra là cần có
chính sách sử dụng nguồn nhân lực này một cách hợp lý và có hiệu quả song song với việc
tổ chức các hình thức giáo dục đào tạo nhằm nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ thuật cho
lực lượng lao động.
Về tài nguyên thiên nhiên và nguồn lợi thủy sản.
Ngoài những lợi thế do vùng đặc quyền kinh tế rộng như đã nói ở trên, vùng biển
Việt Nam còn là vùng có năng lực táI tạo sinh học cao của vùng sinh tháI nhiệt đới và môi
trường biển còn tương đối sạch, nguồn lợi ven biển có khả năng phục hồi nhanh, nguồn lợi
xa bờ có thể khai thác thêm khoảng 300-400 ngàn tấn mỗi năm. Do đó, chúng ta có thể
chủ động được nguồn nguyên liệu với số lượng lớn và ổn định cho xuất khẩu, chủ động
kiểm soát được chất lượng vệ sinh của nguyên liệu từ ngành nuôI trồng.
Lợi thế về thời cơ.
Ngành thuỷ sản đang có môi trường thuận lợi để thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước
ngoài, được nhiều nước đặt trong khu vực ưu tiên phát triển hợp tác dàI hạn, cung cấp viện
trợ và các khoản tín dụng có lợi. Một số bạn hàng đã thay đổi tháI độ theo hướng đầu tư
công nghệ chế biến sản phẩm giá trị gia tăng, nhu cầu đối với nhiều loạI thuỷ sản mà Việt
Nam đang có xu hướng tăng mạnh. Đây là thời cơ quan trọng để phát triển xuất khẩu thuỷ
sản trong thập niên đầu thế kỷ 21.
Các chính sách kinh tế vĩ mô đã và đang có những tác động nhất định
đối với ngành sản xuất và xuất khẩu thuỷ sản. Chính phủ Việt Nam xác định rõ ngành thuỷ
sản giữ vị trí là ngành kinh tế trọng đIểm trong nền kinh tế quốc dân. Hiện ngành cũng đã
được sự chú trọng đầu tư của Nhà nước và một loạt các chính sách như hỗ trợ xuất khẩu
và bảo hộ sản xuất trong nước và các chính sách nhằm khuyến khích đầu tư phát triển
ngành…
Ngoài ra, Việt Nam cũng có những lợi thế tác động quan trọng đến sự phát triển
của ngành thuỷ sản như vị trí địa lý thuận lợi; điều kiện chính trị ổn định, công cuộc đổi
mới đang được mở rộng; thị trường trong nước và ngoài nước đang ngày càng mở rộng do
tác động của các chính sách thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh của Đảng và Chính
phủ cũng như những nỗ lực hội nhập kinh tế thế giới của Việt Nam.
Như vậy, mặc dù trước mắt còn rất nhiều khó khăn và thử thách nhưng với những
thuận lợi của mình, chúng ta có thể tin tưởng rằng ngành thuỷ sản Việt Nam sẽ có những
bước tiến có tính chất đột phá, mạnh dạn tiếp cận thị trường khu vực và thế giới. Các
doanh nghiệp thuộc ngành này sẽ tập trung mọi nỗ lực, hướng mạnh vào xuất khẩu, góp
phần đưa ngành thuỷ sản Việt Nam lên một tầm cao mới trong một tương lai không xa.
II. Những thay đổi trong quan hệ thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ và những cơ hội
thách thức đối với hoạt động xuất khẩu của Việt Nam.
1. Quá trình phát triển Quan hệ thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ.
Nhìn lại chặng đường lịch sử trong quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ những năm qua cho
thấy, quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ đã trải qua nhiều biến động và có những bước thăng trầm.
Cuộc chiến tranh giữa hai dân tộc đã lùi xa 25 năm và quan hệ giữa hai nước cũng đã có
không ít thay đổi. Sau nhiều thập kỷ chiến tranh lạnh cùng với lệnh cấm vận về kinh tế, trước
bối cảnh của xu thế hội nhập và toàn cầu hoá, hơn bao giờ hết, Việt Nam và Hoa Kỳ đều thấy
rằng đã đến lúc phải ngồi vào bàn đàm phán và đi đến ký kết Hiệp định thương mại song
phương và đích cuối cùng là trao cho nhau Tối huệ quốc. Bởi đây là chìa khoá mở ra cho cả
hai quốc gia những tiềm năng to lớn trong quan hệ thương mại song phương. Khi đó, Việt
Nam và Hoa Kỳ có thể tiếp cận và bổ sung cho nhau về cơ cấu hàng hoá, dịch vụ…
Hoa Kỳ có thể hướng tới Việt Nam như hướng tới một thị trường đông dân đầy
tiềm năng trong việc tiêu thụ các mặt hàng công nghiệp, đặc biệt là đang còn ở dạng sơ
khai và một thị trường sản xuất hàng nông, thuỷ sản đầy tiềm năng ở khu vực Châu á. Còn
Việt Nam hướng tới Hoa Kỳ – một thị trường tiêu thụ khổng lồ, có nền công nghệ kỹ thuật
hiện đại và có nguồn vốn dồi dào vào bậc nhất trên thế giới.
Để hiểu rõ thêm về mối quan hệ giữa hai quốc gia, cần ngược dòng lịch sử để điểm lại
những nét chính trong tình hình phát triển quan hệ thương mại Việt –Mỹ.
1.1 Giai đoạn trước khi Mỹ huỷ bỏ lệnh cấm vận đối với Việt Nam.
Thời kỳ trước năm 1975, Hoa Kỳ có quan hệ kinh tế thương mại với chính quyền
Sài Gòn cũ. Kim ngạch buôn bán không lớn, chủ yếu là hàng nhập khẩu bằng viện trợ của
Hoa Kỳ để phục vụ cho cuộc chiến tranh xâm lược. Về xuất khẩu sang Hoa Kỳ có một số
mặt hàng như sau: cao su, gỗ, Hải sản, đồ gốm… song kim ngạch không đáng kể.
Từ tháng 5-1964, áp dụng luật buôn bán với kẻ thù, Hoa Kỳ cấm vận chống Miền
Bắc nước ta và đến tháng 4-1975, mở rộng cấm vận ra toàn cõi Việt Nam trong tất cả các
lĩnh vực: thương mại, tài chính, tín dụng, ngân hàng…Đồng thời áp dụng chế tài khống
chế các nước Đồng minh và ngăn cấm tổ chức tiền tê và tài chính quốc tế cho Việt Nam
vay tiền khiến cho quan hệ Việt Nam –Hoa Kỳ đi vào con đường bế tắc.
Tuy nhiên, dù bị Mỹ cấm vận, song thông qua con đường trực tiếp hoặc gián tiếp,
Việt Nam vẫn có quan hệ kinh tế và viện trợ phát triển với nhiều nước, nhiều tổ chức kinh
tế và phi chính phủ, trong đó có Mỹ. Nhiều công ty Mỹ qua con đường gián tiếp cũng có
hàng xuất khẩu vào nước ta. Theo số liệu thống kê của Việt Nam, xuất khẩu thời kỳ 1986-
1989 hầu như không có gì nhưng về nhập khẩu lại đạt giá trị khoảng 5 triệu USD. Về đầu
tư, từ năm 1988 đến 1993, một số công ty Mỹ thông qua chi nhánh hoặc liên doanh đăng
ký tại các nước khác đã có 5 dự án đầu tư vào Việt Nam với tổng vốn đăng ký khoảng 3,3
triệu USD.
Bước sang thập kỷ 90, quan hệ ngoại giao cũng như quan hệ kinh tế thương mại
giữa hai nước Việt Nam và Hoa Kỳ đã có những bước tiến đáng kể, nỗ lực hướng tới các
mối quan hệ hữu nghị, hợp tác, bình đẳng cùng có lợi, vì lợi ích chung của mỗi nước cũng
như vì hoà bình và thịnh vượng chung trong khu vực Châu á- Thái Bình Dương và trên thế
giới.
Để đến được với lộ trình mới này, cả hai phía đã có những nỗ lực vượt qua theo
hướng của “Bản lộ trình” được đưa ra dưới thời cựu Tổng thống G. Bush, trong đó đưa ra
4 bước cho tiến trình bình thường hoá quan hệ Việt- Mỹ mà trọng tâm là vấn đề rút quân
khỏi Campuchia và vấn đề người Mỹ mất tích, tù binh chiến tranh ở Việt Nam
(POW/MIA). Sự hợp tác tích cực và có hiệu quả của Chính phủ và nhân dân Việt Nam
trong việc giải quyết vấn đề người Mỹ mất tích trong chiến tranh được dư luận Mỹ đánh
giá cao, đã làm thay đổi Thái độ của một số bộ phận không nhỏ các lực lượng vốn có Thái
độ tiêu cực ở Mỹ, có lợi cho việc cải thiện dần dần quan hệ Việt Nam –Hoa Kỳ.
Cuối năm 1988, Mỹ cho phép gửi sách báo và văn hoá phẩm từ Mỹ về Việt Nam
với số lượng không hạn chế. Đồng thời Chính phủ Mỹ cho phép Bộ ngoại giao cấp thị
thực vào Mỹ cho những người Việt Nam đến Mỹ với mục đích trao đổi khoa học có thời
hạn theo nguồn tài trợ của các tổ chức chính phủ.
Trong năm 1991, cùng với việc Việt Nam đồng ý cho Mỹ mở văn phòng POW/MIA ở Hà
Nội (8/7) và ký Hiệp định hoà bình Campuchia tại Paris (23/10), phía Mỹ đã có nhiều nới
lỏng như chính thức bỏ hạn chế đi lại trong vòng 25 dặm đối với cán bộ ngoại giao Việt
Nam tại trụ sở Liên hợp quốc ở New york (23/10), chính thức bỏ hạn chế nhóm du lich,
cựu chiến binh, các nhà báo, các nhà kinh doanh trong việc tổ chức đoàn đi Việt Nam
(17/11) và từ ngày 25/4/1991 bắt đầu viện trợ nhân đạo cho Việt Nam.
Với những chuyển biến tích cực này, ngày 21/11/1991, Thứ trưởng Bộ ngoại giao
Lê Mai và trợ lý ngoại trưởng Hoa Kỳ R.Solomon tiến hành đàm phán chính thức đầu tiên
về bình thường hoá quan hệ Việt – Mỹ.
Sang năm 1992, đã có 3 cuộc gặp gỡ cấp Bộ trưởng Bộ ngoại giao và 5 lần Hoa Kỳ
cử đặc phái viên Tổng thống vào Việt Nam để xúc tiến vấn đề POW/MIA, do đó vấn đề
này có những cải thiện rõ rệt và phía Hoa Kỳ một lân nữa thực hiện dỡ bỏ một loạt các hạn
chế trong quan hệ với Việt Nam: cho phép lưu thông bưu chính viễn thông Hoa Kỳ-Việt
Nam (13/4); cho phép xuất sang Việt Nam những mặt hàng phục vụ nhu cầu cơ bản của
con người và bỏ các hạn chế đối với các tổ chức phi chính phủ Hoa Kỳ viện trợ nhân đạo
cho Việt Nam (30/4); đặc biệt là cho phép các công ty Mỹ được lập văn phòng đại diện và
ký hợp đồng kinh tế ở Việt Nam nhưng chỉ được giao dịch kinh doanh sau khi bỏ lệnh cấm
vận (14/12).
Năm 1993, ông B. Clintơn lên nắm chính quyền, đã tán thành và cam kết tiếp tục
“Bản lộ trình” của chính quyền Bush: ngày2/7/1993, Tổng thống B. Clintơn quyết định
không ngăn cản các tổ chức tài chính quốc tế nối lại viền trợ cho Việt Nam; và đặc biệt
ngày 14/9/1993, Tổng thống B. Clintơn đã cho phép các công ty Hoa Kỳ tham gia đấu
thầu các dự án phát triển ở Việt Nam do các tổ chức tài chính quốc tế tài trợ. Như vậy, đây
là nới lỏng thứ 3 trong tiến trình xoá bỏ cấm vận đối với Việt Nam của chính quyền Mỹ
1.2 Giai đoạn sau khi lệnh cấm vấn được huỷ bỏ.
Cuối cùng, ngày3/2/1994, căn cứ vào những kết quả rõ ràng của việc giải quyết vấn
đề POW/MIA và dựa vào cuộc bỏ phiếu tại Quốc hội Mỹ, Tổng thống Hoa Kỳ đã chính
thức tuyên bố bãi bỏ lệnh cấm vận chống Việt Nam. Và ngay sau đó, Bộ thương mại Hoa
Kỳ cũng đã chuyển Việt Nam từ nhóm Z (gồm Bắc Triều Tiên, Cu Ba và Việt Nam) lên
nhóm Y- ít hạn chế về thương mại hơn (gồm Liên Xô cũ, Anbani, Mông Cổ, Lào,
Campuchia và Việt Nam). Đồng thời Bộ vận tải và Bộ thương mại cũng bãi bỏ lệnh câm
tàu biển và máy bay Hoa Kỳ vận chuyển hàng hoá sang Việt Nam, cho phép tàu mang cờ
Việt Nam vào cảng Mỹ.
Tiếp theo các sự kiện trên là chuyến thăm chính thức Việt Nam của ngoại trưởng Mỹ
W.Christopher ngày 5/8/1995. Đây là nhân vật cấp cao nhất trong chính quyền Mỹ thực
hiện chuyến thăm chính thức Việt Nam tính đến thời điểm đó. Chuyến thăm đã mở ra một
trang mới trong quan hệ giữa hai nước. Trong chuyến thăm này, hai bên đã thoả thuận
nâng cấp Văn phòng liên lạc thành Đại sứ quán, đồng thời nhất trí đẩy mạnh quan hệ kinh
tế- thương mại và xúc tiến những biện pháp cụ thể để tiến tới ký Hiệp định thương mại
làm nền tảng cho quan hệ buôn bán song phương.
Năm 1997, đánh dấu những bước tiến quan trọng trong quan hệ giữa hai nước với
việc Việt –Mỹ thoả thuận thiết lập quan hệ song phương về bản quyền để tạo điều kiện
cho các sản phẩm trí tuệ có mặt tại thị trường Việt Nam. Mặt khác, đây cũng là năm các
Bộ trưởng tài chính Việt Nam –Hoa Kỳ thay mặt chính phủ hai nước ký hiệp định về xử lý
khoản nợ 145 triệu USD của chính quyền Sài Gòn cũ. Song, sự kiện đáng chú ý nhất là
việc Đại sứ Mỹ đầu tiên, ngày Peterson, nhậm chức tại nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam vào ngày 9/5/1997. Việc này chứng tỏ bước cải thiện quan trọng trong quan hệ
giữa hai nước, nỗ lực của hai chính phủ là phù hợp với mong muốn và nguyện vọng của
nhân dân hai nước. Nó chứng tỏ rằng hai nước đều có thiện chí khép lại quá khứ nhìn về
tương lai nhằm bình thường hóa về mọi mặt.
Cùng với nỗ lực của chính quyền và giới kinh doanh, các tổ chức phi chính phủ của
Mỹ cũng đã có những đóng góp hết sức lớn lao vào việc tăng cường thúc đẩy quan hệ giữa
hai nước. Đến cuối năm 1995, trong 260 tổ chức phi chính phủ hoạt động tại Việt Nam thì
có hơn 80 tổ chức của Mỹ. Các tổ chức này hướng vào hoạt động trong lĩnh vực giáo dục,
phát triển nông thôn, y tế, môi trường, khắc phục thiên tai, cải cách kinh tế, khoa học và
chuyển giao công nghệ, phúc lợi xã hội…
Và tiếp đến là một loạt các bước tiến khác trong quan hệ Việt – Mỹ để đi đến một
bước ngoặt có ý nghĩa quan trọng trong quan hệ thương mại giữa hai nước. Ngày
13/7/2000, tại Washington, Bộ trưởng thương mại Việt Nam Vũ Khoan và Bà Charleen
Barshefski, Đại diện thương mại thuộc chính phủ Tống thống Hoa Kỳ đã thay mặt Chính
phủ hai nước ký Hiệp định thương mại giữa nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và
Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, khép lại một quá trình đàm phán phức tạp kéo dài 4 năm ròng,
đánh dấu một bước tiến mới trong quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. Có thể
nói, việc Hiệp định thương mại được ký kết và có hiệu lực (ngày 10/12/2001) đã mở ra
một chương mới, một nền móng mới, một tương lai tươi sáng hơn cho quan hệ thương mại
giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, là cơ sở quan trọng cho việc thúc đẩy và phát triển các quan hệ
giữa hai quốc gia.
2. Hiệp định thương mại Việt – Mỹ.
2.1 Nội dung cơ bản của Hiệp định thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ.
Với 7 chương,72 điều và 9 phụ lục, Hiệp định thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ được
coi là một văn bản đồ sộ nhất, đồng bộ nhất trong tất cả các Hiệp định thương mại song
phương mà Việt Nam đã ký kết. Hiệp định không chỉ đề cập tới thương mại hàng hoá mà
còn đề cập tới thương mại dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ…Mặt khác, do đây là Hiệp định
đầu tiên mà ta đàm phán theo tiêu chuẩn WTO, nên trong Hiệp định bao hàm cả những
cam kết và lộ trình thực hiện các cam kết đó. Cụ thể:
Chương I: Thương mại hàng hoá
– Ngay khi Hiệp định được Quốc hội hai nước phê chuẩn, tức là ngay sau khi bắt đầu có
hiệu lực, hai bên Mỹ và Việt Nam phải dành cho nhau quy chế quan hệ thương mại bình
thường (hay quy chế tối huệ quốc) một cách vô điều kiện.
– Trong thương mại hàng hoá, các doanh nghiệp Việt Nam có quyền tham gia ngay lập tức
vào việc phân phối hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ nếu có khả năng. Còn sau một thời
gian nhất định, theo lộ trình cụ thể, Hoa Kỳ mới được quyền tổ chức phân phối hàng hoá
tại Việt Nam.
Ngoài ra, trong chương I còn có sự thoả thuận về lộ trình giảm thuế cho một số mặt
hàng, và do nước ta là nước đang phát triển, lại chưa là thành viên của WTO nên cam kết
số dòng thuế phải giảm thuế suất chưa nhiều so với các nước khác. Đây chính là cơ hội mà
các doanh nghiệp Việt Nam cần triệt để tận dụng để tăng khả năng cạnh tranh của sản
phẩm trên cả thị trường trong nước và thị trường nước ngoài trong những năm đầu khi
Hiệp định mới có hiệu lực.
Chương II: Về quyền sở hữu trí tuệ.
– Về bản quyền, hai bên cam kết thực hiện Hiệp định về sở hữu trí tuệ mà các bên đã ký
trước đó.
– Về tài sản trí tuệ, hai bên thoả thuận thực hiện các công ước đa phương về vấn đề này.
Chương III. Về thương mại dịch vụ
Hai nước sẽ mở cửa cho nhau, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam được
tự do kinh doanh tại Mỹ và các doanh nghiệp Mỹ theo lộ trình được tự do kinh doanh dịch
vụ tại Việt Nam.
Chương IV. Về phát triển quan hệ đầu tư.
Hai bên cam kết dành thuận lợi cho các nhà đầu tư được hoạt động đầu tư kinh
doanh trên thị trường của nhau phù hợp với các thông lệ và quy định của quốc tế.
Chương V: Về Tạo thuận lợi cho kinh doanh:
Để tạo thuận lợi cho kinh doanh, và tuỳ thuộc vào các quy định của các Chương I,
Chương III, Chương IV của hiệp định, mỗi bên sẽ phải tạo điều kiện thuận lợi cho các
công dân và công ty của bên kia những cơ sở vật chất kỹ thuật cần thiết mà không phân
biệt đối xử và theo giá thị trường.
Chương VI. Những quy định liên quan đến tính minh bạch, công khai và quyền
khiếu nại.
Chương này chủ yếu đề cập đến việc khi nào luật pháp có thay đổi mà ảnh hưởng
đến doanh nghiệp thì phải công bố cho các doanh nghiệp biết trước khi có hiệu lực. Phải
cung cấp cho các doanh nghiệp các thông tin kinh tế, cho phép họ góp ý và dự thảo luật
liên quan đến hoạt động của họ. Thực hiện quyền khiếu kiện hợp pháp, thông báo kết quả
khiếu kiện các bên, đảm bảo các thủ tục theo cách thức minh bạch phù hợp với các tiêu
chuẩn của Hiệp định, của WTO về thủ tục cấp giấy phép nhập khẩu.
Tóm lại, thông qua những chương mà Hiệp định đề cập ta có thể nhận thấy là khái
niệm “thương mại” của Mỹ là rất rộng và bao hàm cả nghĩa “kinh tế” trong đó nữa.
Không những thế, Hiệp định hoàn toàn không mang tính chính trị, trong Hiệp định hoàn
toàn không đề cập đến vấn đề “nhân quyền”, “dân chủ”, “tiêu chuẩn lao động” mà Mỹ
thường hay áp đặt. Hiệp định cũng không đề cập đến vấn đề “tư nhân hoá”, hơn nữa còn
ghi nhận quyền thành lập và duy trì “ doanh nghiệp nhà nước”, dành cho các doanh nghiệp
đó sự độc quyền hay đặc quyền nhập khẩu và xuất khẩu một số mặt hàng (điều 8 chương
I). Có thể nói, Hiệp định đã tuân theo nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền và không
can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Đồng thời, việc ký kết Hiệp định thương mại
Việt Nam-Hoa Kỳ đáp ứng được cả lợi ích của cả hai bên, chắc chắn sẽ có tác dụng tích
cực không chỉ đến quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ mà còn tới mối quan hệ đối ngoại
khác trong khu vực và trên thế giới.
Sơ đồ: Nội dung hiệp định thương mại Việt- Mỹ.
2.2 Cơ hội và thách thức đối với hoạt động xuất khẩu của Việt Nam.
Việt Nam đã ký Hiệp định thương mại với trên 100 quốc gia và vùng lãnh thổ khác
nhau, nhưng việc ký Hiệp định thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ, ngày 13/7/2000 được đánh
giá là có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với quá trình tăng trưởng và phát triển của nền
kinh tế Việt Nam.
Hiệp định thương mại Việt Nam- Hoa là một trong những điểm mốc căn bản trong quá trình
hội nhập quốc tế của Việt Nam; là nấc thang cuối cùng trên con đường bình thường hoá
quan hệ kinh tế Việt Nam và Hoa Kỳ, là dấu hiệu tốt cua quá trình hội nhập của Việt Nam
vào hệ thống kinh tế thương mại quốc tế. Hiệp định thương mại Việt – Mỹ sẽ mang đến
nhiều cơ hội kèm theo không ít khó khăn thách thức xét cả về phương diện vĩ mô và vi mô,
đối với cả Nhà nước và từng doanh nghiệp, không chỉ riêng thương mại hoặc người tiêu
dùng mà còn có nhiều tác động đến lĩnh vực đầu tư và thu hút vốn đầu tư nước ngoài của
Việt Nam.
a). Cơ hội
Phát triển
quan hệ đầu
tư (Chương
Thương mại
hàng hoá
(Chương I)
Quyền sở hữu
trí tuệ
(Chương II)
Các quy định
liên quan
tới tình
hình minh
bạch, công
khai và
Hiệp định
Thương mại
Việt – Mỹ
Tạo thuận lợi
cho kinh
doanh
Những điều
khoản chung
(Chương VII)
Thương mại
dịch vụ (
Chương III)
Thứ nhất, Hiệp định thương mại Việt Nam –Hoa Kỳ sẽ tạo điều kiện thuận lợi để
Việt Nam sớm gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO). Mặc dù chúng ta đã ký Hiệp
định thương mại với gần 60 nước và đã thoả thuận quy chế tối huệ quốc với hơn 70 nước
và lãnh thổ thế nhưng đây là lần đầu tiên Việt Nam đàm phán để ký kết Hiệp định thương
mại dựa trên cơ sở các nguyên tắc và chuẩn mực của WTO. Do đó, nếu ta thực hiện được
những cam kết theo Hiệp định thương mại thì có nghĩa là chúng ta cũng sẽ đáp ứng được
những yêu cầu căn bản của WTO và sẽ giảm được đáng kể các khó khăn trong tiến trình
cam kết và thực hiện cam kết để sớm trở thành thành viên của WTO. Vả lại, Mỹ có vai trò
quan trọng trong trong các tổ chức thế giới như WTO, IMF.. Do đó, khi Việt Nam tiến lên
được nấc thang cuối cùng của quá trình bình thường hoá quan hệ kinh tế với Mỹ thì các
quan hệ với các đối tác khác cũng sẽ suôn sẻ hơn, ít nhất cũng không bị Mỹ cản trở.Vì
vậy, có thể nói rằng ký kết Hiệp định thương mại là bước đi có ý nghĩa chiến lược và
không thể thiếu của Việt Nam trong tiến trình trở thành thành viên chính thức của
WTO.
Mặc khác cần phải khẳng định rằng, dù đây là một hiệp định song phương và cả
phía Mỹ cũng như Việt Nam đều đồng ý thực hiện các cam kết chung trên cơ sở những
quy định và chuẩn mực quốc tế và WTO nhưng do trình độ phát triển khá chênh lệch
nhau nên phía Mỹ đã đồng ý thực hiện ngay các điều khoản quy định trong bản hiệp định,
còn phía Việt Nam sẽ có một giai đoạn chuyển tiếp nhất định (theo thoả thuận giữa Việt
Nam và Hoa Kỳ) để thực hiện các cam kết trong bản hiệp định này. Điều này sẽ giúp cho
Việt Nam có thời gian làm quen với những chuẩn mực quốc tế, dần dần hoà nhập với nền
kinh tế thế giới, và đáp ứng được những yêu cầu đặt ra của hiệp định. Ví dụ: về việc cắt
giảm thuế quan, trong khi phía Mỹ cam kết thực hiện ngay những mức cắt giảm thuế quan
theo quy định của WTO, thì phía Việt Nam có thể thực hiện cắt giảm thuế quan dần dần từ
3-5 năm Và cũng tương tự như vậy, đối với các dịch vụ ngân hàng, về nguyên tắc theo văn
bản hiệp định, phía Mỹ cam kết cho phép Việt Nam được thành lập ngân hàng tại Mỹ với
100% vốn Việt Nam ngay khi hiệp định có hiệu lực, trong khi đó, các ngân hàng Hoa Kỳ
chỉ được phép thành lập ngân hàng chi nhánh 100% vốn Hoa Kỳ sau 9 năm kể từ khi Hiệp
định có hiệu lực… Như vậy, khi Hiệp định thương mại Việt –Mỹ có hiệu lực thì hàng hoá
của Việt Nam có quyền thâm nhập ngay vào thị trường Mỹ mà không còn phải chịu thiệt
thòi do phải chịu mức thuế suất cao và do đó sẽ nâng cao được khả năng cạnh tranh trên
thị trường Mỹ.
Tiếp đó, việc Việt Nam ký hiệp định thương mại với Mỹ sẽ tạo cơ hội cho Việt
Nam trong việc mở rộng thị trường tiêu thụ cả về phạm vi địa lý, cả về khối lượng sức mua
cũng như số lượng khách hàng tiềm năng. Khi hai quốc gia mở cửa quan hệ buôn bán với
nhau thì cả hai đều sẽ thu được lợi ích kinh tế tối đa. Đặc biệt là đối với Việt Nam cơ hội
mua bán hàng hóa sẽ nhiều hơn, đa dạng hơn, phong phú hơn. Và điều này sẽ thúc đẩy các
nhà đầu tư chú trọng vào sản xuất những sản phẩm có ưu thế và bỏ ngõ những “trận địa” ít
có ưu thế hơn cho các đối tác của mình. Kết quả là trình độ chuyên môn hoá sản xuất trong
nước sẽ được nâng cao để phù hợp với xu thế toàn cầu hoá và thúc đẩy tích cực tiến trình
hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
Thứ hai, Hiệp định thương mại Việt –Mỹ được ký kết là một sự kiện có tác động rất
lớn đến môi trương đầu tư và môi trường kinh doanh hiện nay của Việt Nam, có thể coi đó
như là một giải pháp nhằm khôi phục lại lòng tin của giới đầu tư vốn lâu nay đang nguội
lạnh. Hiệp định thương mại được ký kết lần này như một lời hứa hẹn chắc chắn với các
nhà đầu tư nước ngoài rằng giờ đây môi trường kinh doanh ở Việt Nam đã thay đổi lành
mạnh hơn, đúng luật chơi hơn, quyền lợi của họ được đảm bảo hơn…và điều đó khiến các
nhà đầu tư yên tâm để vốn vào Việt Nam nhiều hơn, cùng với các doanh nghiệp Việt Nam
khai thác tiềm năng sẵn có để làm hàng xuất khẩu vào thị trường Mỹ. Không những thế,
môi trường làm ăn thuận tiện hơn còn có tác dụng khơi thông cả nguồn vốn trong nước,
người Việt Nam cũng sẽ yên tâm hơn để lập doanh nghiệp, để đầu tư vào sản xuất và kinh
doanh.
Thứ ba, việc thực hiện Hiệp định thương mại cũng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho
các doanh nghiệp Việt Nam tìm kiếm các cơ hội kinh doanh mới trên thị trường Mỹ, mở
rộng thị trường xuất khẩu và phát triển quan hệ với các đối tác Mỹ. Bên cạnh đó, các
doanh nghiệp sẽ có điều kiện để tiếp cận với nền kinh tế phát triển vào bậc nhất thế giới
này, qua đó học hỏi thêm được những kinh nghiệm trong quản lý và kinh doanh. Một điều
dễ nhận thấy là khi Hiệp định thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ có hiệu lực, chắc chắn lượng
hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam vào Mỹ sẽ tăng nhanh do ta được hưởng quy chế quan
hệ thương mại bình thường (NTR), tức là hàng hoá của ta vào thị trường Mỹ cũng sẽ được
hưởng thuế suất thấp như đa số các nước khác. Nếu tính trung bình mức thuế suất các mặt
hàng ta xuất vào Mỹ trước kia khoảng 40% thì nay khi đã được hưởng quy chế tối huệ
quốc, chỉ còn lại khoảng 3%. Mặt khác, theo khoản 2 của điều 1 Hiệp định, nếu Hoa Kỳ
giảm thuế nhập khẩu cho các thành viên của tổ chức thương mại thế giới (WTO) thì cũng
sẽ áp dụng cho Việt Nam dù Việt Nam chưa phải là thành viên WTO. Không những thế,
Hoa Kỳ còn cam kết sẽ xem xét khả năng dành cho Việt Nam chế độ ưu đãi thuế quan phổ
cập (GSP), thuế suất thuế nhập khẩu bằng 0% đối với 4284 mặt hàng. Đây thực sự là
những cơ hội mới cho nhiều chủng loại hàng hoá Việt Nam xuất khẩu vào Mỹ.
Thứ tư, Hiệp định còn tạo điều kiện để Việt Nam tiếp nhận công nghệ và kinh
nghiệm quản lý tiên tiến. Một trong những kênh quan trọng của chuyển giao công nghệ và
kinh nghiệm quản lý là thông qua đầu tư trực tiếp. Thông qua Hiệp định thương mại Việt –
Mỹ, các doanh nghiệp sản xuất trên đất Việt Nam sẽ tiếp cận thị trường Mỹ được dễ dàng
hơn, thu hút được nguồn tư bản dồi dào, nguồn công nghệ hiện đại và kinh nghiệm quản lý
tiên tiến từ các nhà đầu tư Mỹ.
Đặc biệt, Việt Nam có thể mua những máy tính cỡ lớn, chuyên nghiệp để lắp đặt
các hệ thống tự động hoá mà hiện nay, do các giới hạn thương mại ta chưa thể mua được
các thiết bị này.
Tóm lại, những cơ hội mà Hiệp định thương mại mở ra là vô cùng to lớn. Tuy
nhiên, Hiệp định thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ mới chỉ là điều kiện đủ để hàng hoá của
ta có thể thâm nhập vào thị trường Mỹ. Mà điều quan trọng nhất vẫn là làm sao để nâng
cao được khả năng cạnh tranh của Việt Nam ở 3 cấp độ: quốc gia, doanh nghiệp và từng
mặt hàng. Chính điều này đã được Bộ trưởng Bộ thương mại Vũ Khoan khẳng định ngay
sau khi ký hiệp định.
b). Thách thức.
Bên cạnh những cơ hội trên, việc thực hiện Hiệp định thương mại Việt Nam-Hoa
Kỳ cũng sẽ tạo ra những thách thức đối với Việt Nam. Các doanh nghiệp trước đây được
hưởng lợi từ sự bảo hộ của một nền kinh tế đóng thì nay, sẽ gặp khó khăn hơn và các
doanh nghiệp chịu thiệt thòi từ sự bảo hộ trước đây sẽ có cơ hội mở rộng và phát triển.
Những thách thức mà các doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt gồm có:
Thứ nhất, các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh trong nước sẽ phải đối mặt với
sức ép cạnh tranh lớn hơn. Hiệp định thương mại sẽ mở cửa cho hàng hoá của Mỹ vào thị
trường Việt Nam, giá một số hàng hoá nhập khẩu từ Mỹ sẽ trở nên rẻ hơn và khả năng
cạnh tranh của các mặt hàng này sẽ tăng lên so với các sản phẩm nội địa cùng loại. Số
lượng các doanh nghiệp của Mỹ và các nước khác đầu tư vào thị trường Việt Nam sẽ tăng
lên nhằm sản xuất sản phẩm xuất khẩu sang thị trường Mỹ hay khai thác thị trường nội
địa, do đó sẽ gây áp lực lên các doanh nghiệp sản xuất trong nước. Không những trong
lĩnh vực sản xuất mà trong cả lĩnh vực thương mại sức ép cạnh tranh cũng tăng lên. Hoạt
động xuất nhập khẩu một số mặt hàng trước đây chủ yếu do một số doanh nghiệp thực
hiện thì nay các doanh nghiệp có vốn đầu tư của Mỹ hay doanh nghiệp doanh nghiệp tư
nhân sẽ được phép tham gia. Chính vì vậy, nếu không có sự chuẩn bị cần thiết, các doanh
nghiệp này sẽ gặp phải nhiều khó khăn trong cạnh tranh.
Thứ 2, Hệ thống luật pháp của Việt Nam , công cụ quan trong để quản lý nhà nước
trong kinh tế thị trường, còn thiếu nhiều, chưa đồng bộ và có nhiều điểm không phù hợp
với thông lệ quốc tế. Trong khi đó, Mỹ lại là một đối tác quá lớn, qúa hùng mạnh; hệ
thống pháp luật rất phức tạp, ngoài luật liên bang thì mỗi bang lại có thể lệ riêng. Vì vậy,
các doanh nghiệp Việt Nam khi tiến hành xuất khẩu sang thị trường Mỹ, thì không những
phải nắm bắt được luật pháp của nước Hoa Kỳ mà cũng phải hiểu biết về hệ thống luật
pháp của từng bang. Vì mỗi bang của nước Mỹ được phép có những quy định riêng theo
khuôn khổ cho phép, nhiều khi những quy định này trái ngược nhau giữa các bang. Nói
chung trong hệ thống đó bằng các hình thức cụ thể, Mỹ quy định rất rõ ràng mức độ trách
nhiệm cao của người sản xuất hoặc người cung cấp đối với quyền lợi của người tiêu dùng.
Nắm vững điều đó, các thương gia Việt Nam có thể tránh được được các vụ kiện cáo rắc
rối thường kèm theo các khoản phạt rất nặng nề mà đôi khi do sự không hiểu biết về luật
pháp gây ra.
Thứ 3, Các doanh nghiệp Việt Nam, người trực tiếp làm ăn với Mỹ lại chưa hiểu
luật lệ, cung cách kinh doanh của người Mỹ. Chính điều này chẳng những dẫn đến việc bỏ
lỡ cơ hội trong kinh doanh mà đôi khi còn bị thiệt thòi vì những lý do không đáng có. Bên
cạnh đó, với trình độ quản lý còn yếu kém, lại chưa có kinh nghiệm làm ăn theo cơ chế thị
trường cùng với trình độ công nghệ còn lạc hậu, trình độ chuyên môn của người lao động
chưa cao…Tất cả những điều đó đã làm cho sản phẩm của ta còn yếu kém về chất lượng,
xấu về hình thức khó lòng cạnh tranh với biết bao bạn hàng mậu dịch của Mỹ từ các nước:
ASEAN, EU, Nics…
Do đó, để nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu thì ngay từ bây
giờ các doanh nghiệp Việt Nam cần phải đầu tư đổi mới công nghệ, tăng năng suất lao
động, hạ giá thành sản phẩm…nếu không chẳng những ta không khai thác được những lợi
thế, cơ hội của hiệp định mà còn không làm chủ được thị trường nội địa trước sự xâm
nhập của hàng hoá Mỹ, các công ty Mỹ.
Thứ tư, các sản phẩm xuất khẩu mũi nhọn hiện nay của Việt Nam sang Hoa Kỳ là
giày dép, nông hải sản và dệt may. Các sản phẩm này cũng được kỳ vọng là sẽ thúc đẩy
mạnh kim ngạch xuất khẩu. Tuy nhiên, hiện nay, những mặt hàng này lại gặp không ít khó
khăn trong tiếp cận thị trường, đặc biệt là khi phía Hoa Kỳ áp dụng hạn ngạch đối với hàng
dệt may, và duy trì hạn ngạch thuế quan đối với hàng nông sản. Đối với mặt hàng hải sản,
thực ra cơ hội mới không nhiều vì chênh lệch giữa mức thuế MFN (0%) và thuế phổ thông
(1.7%) là không đáng kể.
Mặt khác, các mặt hàng Việt Nam có thể xuất khẩu sang Hoa Kỳ trên thực tế đều
đã được các nước khác xuất khẩu sang Hoa Kỳ với điều kiện ưu đãi. Vì đi sau, nên ta
không thể dễ dàng mở rộng thị phần do các khó khăn về khả năng tiếp thị, tiếp cận mạng
lưới phân phối…Và về mặt tâm lý, để tạo được quan hệ kinh doanh bền vững cũng đòi hỏi
thời gian để các đối tác tin tưởng lẫn nhau, tiến hành giao dịch giá trị lớn.
Không những thế, thị hiếu tiêu dùng của khách hàng vốn quen với sản phẩm của
các nước khác, không dễ gì có thể thay đổi ngay được trong khi hàng Việt Nam không có
chất lượng hay giá cả hấp dẫn một cách vượt trội.
Tóm lại, thực hiện Hiệp định thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ nói riêng và hội nhập
với nền kinh tế thế giới nói chung mang lại cho Việt Nam nhiều cơ hội cũng như nhiều
thách thức. Kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy, trong qúa trình này, nếu biết khai thác
những cơ hội của hội nhập, giải quyết được những khó khăn thách thức thì một quốc gia sẽ
có thể đạt được tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế cao.
Vì vậy, để việc thực hiện Hiệp định, hội nhập vào nền kinh tế thế giới thành công,
trước hết cần phải có sự nhất trí và quyết tâm cao ở cấp lãnh đạo vĩ mô. Đồng thời, cần
khơi dậy ý chí và quyết tâm của các nhà doanh nghiệp Việt Nam vì chính họ là những
người trực tiếp thực hiện và quyết định đến sự thành bại của qúa trình hội nhập.
II. Đặc điểm của thị trường Mỹ đối với hoạt động xuất khẩu thuỷ sản của Việt
Nam.
I.
Đặc điểm về thị trường Mỹ.
Hoa Kỳ là một quốc gia Bắc Mỹ rộng lớn có diện tích 9.327.614 km2 với số dân
280 triệu người. Đây là một thị trường riêng lẻ lớn nhất thế giới, là nước tham gia và giữ
vai trò chi phối hầu hết các tổ chức kinh tế quốc tế quan trọng trên thế giới như Tổ chức
thương mại thế giới (WTO), Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), là đầu
tàu của khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA)… Và ngay cả đối với ASEAN/AFTA,
Hoa Kỳ tuy không phải là thành viên song lại là một bên đối thoại quan trọng nhất của tổ
chức này. Bởi lẽ trừ Brunei và Việt Nam, hiện nay Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu quan
trọng nhất của các thành viên ASEAN. Chính vì vậy, để có thể thâm nhập thành công vào
một thị trường như vậy trước hết cần phải tìm hiểu về môi trường kinh doanh cũng như là
hệ thống luật pháp của Mỹ để từ đó có cách tiếp cận phù hợp. Phần này xin đề cập đến
một số đặc điểm của thị trường Mỹ.
1.1 Đặc điểm về kinh tế.
Nền kinh tế Mỹ là nền kinh tế thị trường, hoạt động theo cơ chế thị trường cạnh
tranh có lịch sử phát triển hàng trăm năm nay. Hiện nay nó được coi là nền kinh tế lớn
nhất thế giới với tổng giá trị sản phẩm quốc nội bình quân hàng năm trên 10.000 tỷ USD,
chiếm trên 20% GDP toàn cầu và thương mại chiếm khoảng 20% tổng kim ngạch thương
mại quốc tế. Với GDP bình quân đầu người hàng năm trên 30000 USD, có thể nói Mỹ là
một thị trường có sức mua lớn nhất thế giới. Đồng USD có vai trò thống trị thế giới với
hơn 24 nước gắn trực tiếp các đồng tiền của họ vào đồng USD, 55 nước neo giá vào đồng
USD, các nước còn lại ở nhiều mức độ khác nhau vẫn sử dụng các hệ thống dựa vào chỉ
tiêu biến động cuả đồng USD để tính toán giá trị đồng tiền của mình. Thị trường chứng
khoán của Mỹ hàng năm chi phối khoảng 8000 tỷ USD, trong khi đó các thị trường chứng
khoán Nhật Bản chỉ vào khoảng 3800 tỷ USD, thị trường EU khoảng 4 tỷ USD. Mọi sự
biến động của đồng USD và hệ thống tài chính Mỹ đều có ảnh hưởng đáng kể đến sự biến
động của nền tài chính quốc tế.
Thị trường Mỹ vừa là nơi thuận lợi cho đầu tư nước ngoài lại vừa là nơi đầu tư ra
nước ngoài hàng đầu thế giới. Năm 1997, Mỹ nhận khoảng 108 tỷ USD đầu tư trực tiếp
nước ngoài đồng thời đầu tư trực tiếp ra nước ngoài 120 tỷ USD.
Không những thế, Mỹ còn là nước đi đầu trong quá trình quốc tế hoá kinh tế toàn cầu
và thúc đẩy tự do hoá thương mại phát triển bởi vì việc mở rộng sản xuất hàng hoá và dịch
vụ để xuất khẩu ra thị trường toàn cầu là một trong những yếu tố cơ bản cho sự tăng trưởng
kinh tế Mỹ. Mức độ phụ thuộc của nền kinh tế Mỹ vào mậu dịch quốc tế ngày càng tăng.
Kim ngạch xuất nhập khẩu đã nâng từ 14% GDP năm 1986 lên 25% năm 1998. Tuy vậy,
Mỹ cũng là nước hay dùng tự do hoá thương mại để yêu cấu các quốc gia khác mở cửa thị
trường của họ cho các công ty của mình nhưng lại tìm cách bảo vệ nền sản xuất trong nước
thông qua hệ thống các tiêu chuẩn kỹ thuật, vệ sinh an toàn thực phẩm và môi trường…
Những năm gần đây, kinh tế Mỹ đạt được sự phục hồi và tăng trưởng vững chắc, đạt đỉnh
cao nhất vào năm 1999 với tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 4,5%. Trong năm 2001 vừa qua,
mặc dù có nhiều biến động lớn xảy ra và có ảnh hưởng không nhỏ đến nền kinh tế – nhất là
sau sự kiện 11/9/2001. Tuy nhiên, có một điều chắc chắn rằng, hiện tại và trong những thập
kỷ đầu của thế kỷ 21 này, Mỹ cũng sẽ vẫn tiếp tục là một nền kinh tế mạnh nhất, có ảnh
hưởng lớn đến kinh tế toàn cầu.
1.2 Đặc điểm về chính trị
Hệ thống chính trị của Mỹ hoạt động theo nguyên tắc tam quyền phân lập. Quyền
lập pháp tối cao ở Mỹ được quốc hội thực hiện thông qua hai viện: Thượng viện và hạ
nghị viện. Chủ tịch hạ nghị viện sẽ do các nghị sĩ bầu ra còn chủ tịch thượng nghị viện sẽ
do phó tổng thống đảm nhiệm mặc dù không tham gia trực tiếp vào các cuộc thảo luận của
cơ quan này. Nhiệm kỳ của Thượng nghị viện là 6 năm và cứ 2 năm thì 1/3 số thượng nghị
sỹ sẽ được bầu lại. Nhiệm kỳ của các hạ nghị sỹ, đồng thời của hạ nghị viện là 2 năm.
Công việc của hai viện phần lớn được tiến hành tại các uỷ ban. Hệ thống uỷ ban của hai
viện được phát triển khá rộng rãi và các uỷ ban này đều chịu sự kiểm soát của Đảng có
nhiều đại biểu hơn tại viện đó. Nói chung quyền lãnh đạo ở cả hai viện đều nằm trong tay
các thành viên thuộc Đảng có ưu thế.
Hệ thống luật pháp của Mỹ được phân chia thành hai cấp chính phủ: các bang và
trung ương. Tuy các bang là những đơn vị hình thành nên một hệ thống quốc gia thống
nhất, nhưng các bang cũng có những quyền khá rộng rãi và đầy đủ. Các bang tự tổ chức
chính phủ bang, chính quyền địa phương của mình và đưa ra các nguyên tắc để hệ thống
này hoạt động. Các bang thực hiện điều chỉnh thương mại của bang, thiết lập và điều chỉnh
hoạt động của các công ty, đưa ra các quy định về thuế, thành lập ngân hàng…cùng với
chính phủ trung ương. Toà án của bang có quyền phán xét các cá nhân và trừng trị tội
phạm.
Trên lãnh thổ mỗi bang tại Mỹ đều có hai chính phủ hoạt động : Chính phủ của
bang với các tổ chức chính quyền và toà án nhằm thực hiện luật pháp của bang và chính
quyền trung ương với các tổ chức chính quyền và toà án thi hành luật pháp của liên bang.
Nhà nước có quyền đặt ra tiêu chuẩn đo lường, cấp chứng nhận bản quyền, bằng phát
minh, điều chỉnh thương mại giữa các bang với các nước…đồng thời cùng với chính
quyền các bang đưa ra các quy định về thuế, thành lập ngân hàng…
Người đứng đầu chính quyền trung ương là tổng thống. Hiến pháp cho phép tổng
thống được quyền bổ nhiệm nhất định, tuy nhiên những quyết định bổ nhiệm vào các vị trí
quan trọng phải được thương nghị viện thông qua. Tổng thống có quyền bổ nhiệm và bãi
nhiệm các quan chức thuộc cơ quan bang chủ yếu thông qua các cơ quan hành pháp, uy tín
và năng lực chính trị của cá nhân tổng thống. Phó tổng thống là người sẽ phụ trách nội các.
Để hiến pháp có hiệu lực, quốc hội đã tạo ra một hệ thống toà án hoàn chỉnh. Chánh
án toà án thuộc hệ thống pháp quyết của Tổng thổng bổ nhiệm . Đứng đầu hệ thống này là
toà án tối cao Mỹ với 9 thẩm phán có trụ sở ở Washington. Để hệ thống toà án liên bang
và toà án bang thực hiện tốt quyền phán quyết trên cùng một lãnh thổ, một hệ thống
nguyên tắc đã được thiết lập. Theo đó, những vấn đề thuộc hiến pháp, luật pháp của liên
bang sẽ được toà án tối cao Mỹ xem xét cuối cùng; việc vi phạm luật lệ của bang sẽ do toà
án của bang xét xử. Hiến pháp của các bang và liên bang nghiêm cấm việc xét xử một
công dân hai lần vì cùng một tội. Tuy nhiên trong trường hợp bên nguyên đưa đơn ra toà
án bang, bên bị đơn chuyển trường hợp đó lên toà án liên bang thì vụ án sẽ do toà án liên
bang xét xử. Quyết định của toà án tối cao có tầm quan trọng hàng đầu đối với hệ thống
luật của Mỹ.
Các đảng phái chính trị của Mỹ có ảnh hưởng lớn trong các cuộc bầu cử ở cơ sở,
bang và toàn quốc. Từ năm 1860 đến nay, hai đảng Cộng hoà và Dân chủ là hai Đảng duy
nhất có khả năng giành thắng lợi trong bầu cử, sự khác biệt giữa các đảng là không lớn
mặc dù các đảng này có những nguyên tắc riêng. Mục đích ban đầu của hoạt động của các
Đảng là giúp cho chính phủ trình bày cho cử tri các vấn đề chính trị nảy sinh. Chức năng
chủ yếu của các Đảng là đề cử và bầu cử Tổng thống. Hội nghị đề cử các ứng viên Tổng
thống là cách thức chính để các Đảng trong cả nước thực hiện chức năng của mình.
Một đặc điểm lớn về chính trị của Mỹ trong chính sách đối ngoại nói chung và
chính sách kinh tế đối ngoại nói riêng là Mỹ thường hay sử dụng chính sách cấm vận và
trừng phạt kinh tế để đạt được mục đích của mình. Theo thống kê thì kể từ sau chiến tranh
thế giới thứ nhất đến năm 1998 Mỹ đã áp đặt 115 lệnh trừng phạt, trong đó hơn một nửa
được ban hành trong 4 năm cuối và 2/3 dân số thế giới đang phải chịu một hình thức
trừng phạt nào đó do Mỹ áp đặt. Các lệnh trừng phạt, cấm vận này đã vi phạm những
nguyên tắc cơ bản về tự do hoá thương mại của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), thúc
đẩy những thách thức có tiềm năng phá hoại tương lai của WTO.
1.3 Đặc điểm về luật pháp.
Mỹ có một hệ thống luật pháp chặt chẽ, chi tiết và phức tạp hàng đầu thế giới. Luật
pháp được xem là một vũ khí thương mại lợi hại của Mỹ. Người ta nói rằng có hiểu biết về
luật pháp xem như bạn đã đặt được một chân vào thị trường Mỹ.
Đứng trên góc độ xâm nhập của các doanh nghiệp vào thị trường Mỹ, hệ thống luật
pháp về kinh doanh của Mỹ có một số đặc điểm đáng chú ý sau đây:
Khung luật cơ bản cho việc xuất khẩu sang Mỹ gồm luật thuế suất năm 1930, luật buôn
bán năm 1974, hiệp định buôn bán 1979, luật tổng hợp về buôn bán và cạnh tranh năm
1988. Các luật này đặt ra nhằm điều tiết hàng hoá nhập khẩu vào Mỹ; bảo vệ người tiêu
dùng và nhà sản xuất khỏi hàng giả, hàng kém chất lượng; định hướng cho các hoạt động
buôn bán; quy định về sự bảo trợ của Chính phủ với các chướng ngại kỹ thuật và các hình
thức bán phá giá, trợ giá, các biện pháp trừng phạt thương mại.
Về luật thuế, đáng chú ý là danh bạ thuế quan thống nhất HTS và chế độ ưu đãi
thuế quan phổ cập GSP. Trong đó GSP rất quan trọng với các quốc gia đang phát triển như
Việt Nam. Nội dung chính của chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập GSP là miễn thuế hoàn
toàn hoặc ưu đãi mức thuế thấp cho những mặt hàng nhập khẩu từ các nước đang phát
triển được Mỹ chấp thuận cho hưởng GSP. Đây là hệ thống ưu đãi về thuế đơn phương,
không ràng buộc điều kiện có đi có lại. Mức thuế ưu đãi của GSP thậm chí còn thấp hơn
mức thuế ưu đãi tối huệ quốc MFN- là chế độ ưu đãi với điều kiện có đi có lại giữa các
nước thành viên WTO, các nước có hiệp định song phương với Mỹ.
Về Hải quan, hàng hoá nhập khẩu vào Mỹ được áp dụng thuế suất theo biểu thuế
quan Mỹ gồm 2 cột: cột 1 quy định thuế suất tối huệ quốc, cột 2 quy định thuế suất đầy đủ
hoặc thuế suất pháp định áp dụng cho các nước không được hưởng quy chế tối huệ quốc.
Sự khác biệt giữa hai cột thuế suất này thông thường là từ 2-5 lần. Cách xác định giá trị
hàng hoá để thu thuế của Hải quan Mỹ hiện nay chủ yếu căn cứ theo hiệp định về cách
tính trị giá tính thuế của Hải quan trong Hiệp định Tokyo của GATT (nay là WTO) và luật
về các hiệp định thương mại năm 1979. Phí thủ tục Hải quan được quy định trong Luật
Hải quan và thương mại năm 1990. Ngoài ra, còn cần phải chú ý các quy định khác của
Hải quan như mác mã phải ghi rõ nước xuất xứ và về chế độ hoàn thuế.
Một vấn đề nữa mà các doanh nghiệp cần lưu ý về môi trường luật pháp của Mỹ là
Luật Thuế bù giá và Luật chống phá giá. Đây là hai đạo luật phổ biến nhất bảo hộ các
ngành công nghiệp Mỹ chống lại hàng nhập khẩu. Cả hai luật này quy định rằng, phần
thuế bổ sung sẽ được ấn định đối với hàng nhập khẩu nếu chúng bị phát hiện là được trao
đổi không công bằng.
Tóm lại, Hiệp định thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ đã đi vào hoạt động, các cơ hội
đã mở ra. Tuy nhiên, ở cuộc chơi này, nếu không am hiểu các hàng rào luật pháp xứ “cờ
hoa”, việc bị “thổi còi phạt đền” được dự báo là chuyện dễ xảy ra; bởi ở ngay Luật thương
mại Mỹ đã bao gồm một số đạo luật quy định về những trường hợp bồi thường cụ thể khi
hàng hoá nước ngoài được hưởng lợi thế không công bằng trên thị trường Mỹ hoặc hàng
xuất khẩu của Mỹ bị phân biệt đối xử trên thị trường nước ngoài.
1.4 Đặc điểm về văn hoá và con người.
Hoa Kỳ có thành phần xã hội đa dạng, gồm nhiều cộng đồng riêng biệt. Hầu hết
người Mỹ có nguồn gốc từ Châu Âu, các dân tộc thiểu số gồm người Mỹ bản xứ, Mỹ gốc
Phi, Mỹ la tinh, Châu á và người từ các đảo Thái Bình Dương. Các dân tộc này đã đem
vào nước Mỹ những phong tục tập quán, ngôn ngữ, đức tin riêng của họ. Điều này tạo nên
một môi trường văn hoá phong phú và đa dạng. Tuy nhiên, nhìn chung văn hoá Mỹ chủ
yếu thừa hưởng một số kinh nghiệm và địa danh của người bản xứ Indian, còn hầu hết các
mặt như ngôn ngữ, thể chế, tôn giáo, văn học, kiến trúc, âm nhạc…đều có xuất xứ từ Châu
âu nói chung và nước Anh, Tây Âu nói riêng.
Có thể nói, chủ nghĩa thực dụng là nét tiêu biểu nhất của văn hoá Mỹ và lối sống
Mỹ. Một số học giả nước ngoài đã nhận xét: “CáI gắn bó người Mỹ với nhau là quyền lợi
chứ không phải là tư tưởng”. Điều này thể hiện trong cách tính toán sòng phẳng đến chi li
trong mọi việc với bất kì ai, từ người thân trong gia đình tới bạn hữu. Người Mỹ trọng sự
chính xác, cách làm việc cẩn thận, tỉ mỉ,khoa học. Họ rất quý trọng thời gian, ở Mỹ có câu
thành ngữ “thời gian là tiền bạc’. Chính vì vậy, họ đánh giá cao hiệu quả và năng suất làm
việc của một người, có chế độ đãi ngộ thích đáng với đóng góp của người nào đó; đồng
thời cũng có thói quen khai thác tối đa những người làm việc với họ. Người Mỹ thường
đánh giá con người qua sự đóng góp vào sản xuất ra của cải vật chất, coi trọng trình độ
chuyên môn và khả năng ra quyết định của cá nhân.
Một đặc điểm lớn của lối sống Mỹ là tính cá nhân chủ nghĩa cao độ. Nó thể hiện ở
chỗ người ta rất coi trọng tự do cá nhân, coi trọng dân chủ. họ chỉ quan tâm đến những gì có
liên quan đến đời sống hàng ngày của họ. Trong kinh doanh, chủ nghĩa tự do cá nhân biểu
hiện ở việc các cá nhân, doanh nghiệp được tự do lựa chọn việc làm, nơi làm việc, chọn loại
hình kinh doanh, loại hình đầu tư.
Tôn giáo chiếm vị trí quan trọng trong đời sống văn hoá tinh thần của người Mỹ. ở
Mỹ có tới 219 tôn giáo lớn nhỏ, song chỉ có 3 trụ cột chính là Kito tân giáo chiếm hơn
40%, Thiên chúa giáo 30%, Do Thái giáo 3.2%. Còn lại là đạo Chính thống Phương Đông,
Đạo Phật, Đạo Hồi… hoặc không đi theo tôn giáo nào. Tuy đa số dân chúng theo đạo
nhưng tín ngưỡng ở Mỹ không được coi trọng bằng chủ nghĩa cá nhân, cho dù theo đạo
nhưng đôi khi họ vẫn tán thành những đức tin trái ngược hoàn toàn với tôn giáo mà họ
đang theo. Đây chính là thuận lợi đối với những doanh nghiệp muốn xâm nhập vào thị
trường Mỹ, bởi vì các doanh nghiệp ít khi (nếu không muốn nói là không) gặp phải trở
ngại nào do yếu tố tín ngưỡng hay tôn giáo như các thị trường khác.
2. Đặc điểm của thị trường thuỷ sản Mỹ.
2.1 Tổng sản lượng thuỷ sản và giá trị.
Mỹ là một trong số ít quốc gia có nguồn lợi hải sản giàu có và phong phú vào bậc
nhất thế giới. Nghề cá được tiến hành ở bờ Đông thuộc Đại Tây Dương, bờ Tây thuộc
Thái Bình Dương và trong các thuỷ vực nội địa rộng lớn. Theo đánh giá của Mỹ, khả năng
có thể cho phép khai thác hằng năm từ 6 – 7 triệu tấn hải sản, nhưng để bảo vệ và duy trì
lâu dài nguồn lợi này, người ta chỉ hạn chế ở mức từ 4,5 – 5 triệu tấn/năm.
Diễn biến tổng sản lượng thuỷ sản của Mỹ trong khoảng hai thập kỷ qua cho thấy
không có sự biến đổi lớn và đột ngột. Cụ thể như sau :
Bảng 2: Sản lượng thuỷ sản của Hoa Kỳ
Năm
Tổng sản lượng, triệu tấn
1981
4
1985
5
1987
6
1990
5,8
1995
5,6
1996
5,4
1997
5,4
1998
5,2
1999
5,1
2000
5,15
2001
5,2
Nguồn: CFA, Hiệp hội cá nheo Mỹ
Xu thế chung của tổng sản lượng thuỷ sản của Mỹ hiện nay là giảm dần sản lượng
khai thác và tăng dần sản lượng nuôi trồng.
Một đặc điểm khác là, nếu như trước đây biển miền Đông có sản lượng lớn thì nay
càng ngày càng giảm đi, trong khi đó sản lượng ở miền Tây tăng lên rất nhanh và hiện nay
đã chiếm tỷ lệ lớn. Như vậy nghề khai thác hải sản của Mỹ hiện nay diễn ra ở vùng biển
phía Tây thuộc Thái Bình Dương mạnh hơn ở bờ phía Đông.
Sau khi đạt được sản lượng kỷ lục 6 triệu tấn năm 1987, nghề cá Mỹ có sự điều
chỉnh lớn và triệt để. Người ta bắt đầu hiện đại hoá hạm tàu cá và điều chỉnh cơ cấu khai
thác sao cho có hiệu quả cao nhất. Vấn đề chất lượng sản lượng được đề cao. Người ta hạn
chế khai thác các đối tượng kém giá trị và tăng cường khai thác các đối tượng có nhu cầu
cao và giá trị cao trên thị trường. Do vậy tổng sản lượng có giảm dần đi và hiện nay chỉ
duy trì ở mức khoảng 5 triệu tấn/năm.
Tuy tổng sản lượng có giảm dần, nhưng giá trị của nó lại tăng lên. Nếu như năm
1988 tổng giá trị sản lượng thuỷ sản của Mỹ được đánh giá là 4,1 tỷ USD thì sang năm 1999
lên 4,3 tỷ USD. Tính bình quân giá trị của tổng sản lượng thuỷ sản Mỹ năm 1999 là 843
USD/tấn. Đây là chỉ số khá cao trên thế giới.
2.2 Sản lượng khai thác – giá trị – cơ cấu
a). Diễn biến sản lượng khai thác
Bảng 3: Sản lượng khai thác thuỷ sản của Hoa Kỳ
Năm
Sản lượng khai thác,triệu tấn
1990
5,5
1991
5,1
1992
51
1993
5,5
1994
5,5
1995
5,2
1996
5,0
1997
4,9
1998
4,7
1999
4,8
2000
4,85
2001
4,7
Nguồn: CFA, Hiệp hội cá nheo Mỹ
Sản lượng khai thác của Mỹ giảm từ 5,5 triệu tấn năm 1990 xuống 4,8 triệu tấn năm
1999 và chiếm 94% tổng sản lượng, đứng hàng thứ hai ở châu Mỹ và thứ tư thế giới. Giá
trị sản lượng khai thác của Mỹ năm 1998 được đánh giá là 3,3 tỷ USD sang năm 1999 là
3,5 tỷ USD.Trong sản lượng khai thác thì hải sản là 4,6 triệu tấn, còn thuỷ sản nội địa chỉ
có 0,2 triệu tấn.
b). Cơ cấu sản lượng và giá trị
Khai thác hải sản của Mỹ mang tính thương mại rất cao nên cơ cấu sản lượng được
phân định rõ ràng và khá đầy đủ về cả khối lượng và giá trị. Như đã nêu ở trên, nguồn lợi
hải sản của Mỹ rất lớn, phong phú và quý giá gồm cả cá đáy, cá nổi, giáp xác, nhuyễn thể,
trong đó có nhiều loài có giá trị thương mại rất cao như tôm he, tôm hùm, cua, cá hồi, cá