KHOA LUẬT KINH DOANH
TIỂU LUẬN MÔN PHÁP LUẬT ĐẠI CƯ
Ơ
NG
Chủ đề: Giải quyết tranh chấp trong kinh doanh thương mại
2
I. Khái quát về giải quyết tranh chấp kinh tế
1. Khái niệm
–
Tranh chấp trong kinh doanh là một dạng tranh chấp kinh tế được hiểu là sự bất
đồng chính kiến hay xung đột về quyền, nghĩa vụ giữa các nhà đầu tư, các doanh
nghiệp với tư cách là chủ thể kinh doanh.
–
Là những phát sinh trong các khâu từ đầu tư, sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc
thực hiện dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi Phát sinh trong cả
quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội
–
Đặc trưng: gắn liền với hoạt động kinh doanh và chủ thể tham gia chủ yếu là các
nhà doanh nghiệp
–
Bản chất: phản ánh những xung đột về lợi ích kinh tế giữa các bên.
2. Các yêu cầu trong giải quyết tranh chấp kinh tế
–
Giải quyết tranh chấp trong kinh doanh là cách thức, phương pháp cũng như các
hoạt động để khắc phục và loại trừ các tranh chấp đã phát sinh nhằm bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của các chủ thể kinh doanh, bảo vệ trật tự, kỷ cương xã hội.
Các yêu cầu trong giải quyết tranh chấp trong kinh doanh:
–
Nhanh chóng, thuận lợi, không hạn chế, cản trở hoạt động kinh doanh;
–
Khôi phục và duy trì các quan hệ hợp tác, tín nhiệm giữa các bên trong kinh doanh
–
Giữ bí mật kinh doanh và uy tín của các bên trên thương trường;
–
Chi phí ít tốn kém nhất
–
Phán quyết phải chính xác và có khả năng thi hành cao
3. Ý nghĩa của việc giải quyết tranh chấp trong kinh doanh
–
Giải toả các mâu thuẫn, bất đồng, xung đột lợi ích giữa các bên, tạo lập lại sự cân
bằng về mặt lợi ích mà các bên có thể chấp nhận được.
–
Đảm bảo về mặt lợi ích giữa các chủ thể trong kinh doanh, giữa các công nhân
trước pháp luật, góp phần thiết lập sự cân bằng, giữ gìn trật tự kỉ cương, pháp luật.
3
–
Giải quyết nhanh chóng, thuận tiện là điều kiện để tạo dựng môi trường kinh
doanh lành mạnh, đảm bảo quyền tự do của công dân.
–
Ngoài ra thông qua việc giải quyết tranh chấp còn đánh giá được việc áp dụng
pháp luật trong thực tiễn kinh doanh, chỉ ra những bất cập, tạo định hướng cho
việc hoàn thiện pháp luật về hoạt động kinh doanh, tạo hành lang pháp lý cho hoạt
động kinh tế phát triển.
II. Các hình thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh thương mại
–
Giải quyết tranh chấp được quy định trong Luật tố tụng dân sự năm 2004, và hình
thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh thương mại được quy định tại mục 2
chương VII Luật thương mại năm 2005
–
Điều 317, mục 2, chương VII Luật thương mại 2005. Hình thức giải
quyết tranh chấp:
1. Thương lượng giữa các bên.
2. Hoà giải giữa các bên do một cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân được các bên thỏa
thuận chọn làm trung gian hoà giải.
3. Giải quyết tại Trọng tài hoặc Toà án.
Thủ tục giải quyết tranh chấp trong thương mại tại Trọng tài, Toà án được tiến
hành theo các thủ tục tố tụng của Trọng tài, Toà án do pháp luật quy định.
1. Thương lượng
Khái niệm: Thương lượng là hình thức giải quyết tranh chấp không cần đến vai trò
tác động của bên thứ ba.
Đặc điểm:
–
Các bên cùng nhau bàn bạc, thoả thuận để tự giải quyết các bất đồng mà không
có sự can dự của bất cứ bên thứ 3 nào, các bên tự bàn bạc, thoả hiệp và đi đến
chấm dứt xung đột.
–
Là hình thức mang tính tự phát không bị ràng buộc bởi các thủ tục pháp lý.
Ưu điểm
4
–
Tiết kiệm chi phí và thời gian, tiền bạc
–
Giữ bí mật được trong hoạt động kinh doanh
–
Giữ uy tín cho các bên
–
Đáp ứng cơ hội của các hoạt động kinh doanh
–
Không gây phiền hà và không bị ràng buộc bởi các thủ tục pháp lý
Nhược điểm
–
Kết quả của thương lượng còn phụ thuộc vào mức độ hiểu biết, thái độ, thiện
chí, và hợp tác của các bên tranh chấp
–
Kết thúc thương lượng không phải cuộc thương lượng nào cũng giải quyết
được xung đột
–
Kết quả của thương lượng không được đảm bảo bởi các cơ chế pháp lý bắt
buộc mà phụ thuộc vào sự tự nguyện thi hành của các bên
–
Có 1 số chủ thể với sự không hợp tác và thiện chí đã trì hoãn quá trình thương
lượng để kéo dài thời gian vụ tranh chấp
Kết luận
–
Thực tế, thương lượng thường được tiến hành ngay sau khi xảy ra tranh chấp,
các bên cố gắng giải quyết tranh chấp một cách nhanh chóng để duy trì mối
quan hệ lâu dài trong kinh doanh
–
Pháp luật Việt Nam quy định các bên cần tiến hành thương lượng sau đó mời
thực hiện các hình thức giải quyết khác.
–
Chỉ áp dụng cho các trnah chấp nhỏ , đơn giản mức xung đột không cao
2. Hoà giải
Khái niệm
–
Hoà giải là hình thức giải quyết tranh chấp với sự tham gia của bên thứ 3 đóng
vai trò làm trung gian để hỗ trợ hoặc thuyết phục các bên tranh chấp tìm kiếm
các giải pháp nhằm chấm dứt xung đột hoặc bất hoà.
Phân loại
5
–
Hoà giải ngoài thủ tục tố tụng
–
Hoà giải trong thủ tục tố tụng
Hoà giải ngoài thủ tục tố tụng
–
Là việc các bên mời một tổ chức hoặc cá nhân đứng ra làm trung gian
để cùng đàm phán, thương lượng.
–
Cơ sở: các bên tranh chấp cung cấp thông tin cho nhau và trình bày
quan điểm => Người hoà giải hướng các bên tham gia vào việc tìm
kiếm những giải pháp thích hợp => sự nhất trí của 2 bên
–
Sự nhất trí của 2 bên được thế hiện bằng văn bản, có xác nhận của bên
đứng ra làm trung gian hoà giải và có giá trị ràng buộc đối với các bên
tham gia
Hoà giải trong tố tụng
–
Là việc hoà giải được tiến hành tại toà án hoặc trọng tài khi các cơ quan
này giải quyết tranh chấp theo yêu cầu của các bên.
–
Đặc điểm:
o Hoà giải trong tố tụng là thủ tục bắt buộc đối với cả toà án với trọng
tài.
o Người đứng ra làm trung gian: thẩm phán hoặc trọng tài viên
o Trong quá trình hoà giải, thẩm phán hoặc trọng tài viên không được ép
buộc mà phải tôn trọng tính tự nguyện, thiện chí giữa các bên
–
Cơ sở:
o Khi các bên đi đến thoả thuận để giải quyết các xung đột => thẩm
phán hoặc trọng tài lập biên bản hoà giải
o Biên bản hoà giải có hiệu lực pháp luật cao bởi không có sự kháng cáo
kháng nghị hay bị yêu cầu toà án huỷ quyết định
Kết quả hoà giải phụ thuộc vào:
–
Thiện chí giữa các bên tham gia tranh chấp
–
Uy tín, kinh nghiệm và kĩ năng của người đứng ra làm trung gian hoà giải
Ưu điểm:
6
–
Thủ tục hòa giải được tiến hành nhanh gọn, chi phí thấp, các bên có quyền tự
định đoạt, lựa chọn bất kỳ người nào làm trung gian hòa giải cũng như địa
điểm tiến hành hòa giải.
–
Tiếp tục giữ gìn và phát triển các mối quan hệ kinh doanh vì lợi ích của cả hai
bên..
–
Hình thức giải quyết này đặc biệt hiệu quả khi giải quyết những tranh chấp
kinh doanh, thương mại mang tính chất kỹ thuật (xây dựng, tài chính … ).
–
Các bên trong vụ việc tranh chấp hoàn toàn có quyền chủ động trong việc tìm
kiếm một hòa giải viên có đủ hiểu biết để tham gia giải quyết tranh chấp.
–
Các bên kiểm soát được các tài liệu chứng cứ có liên quan (những bí mật kinh
doanh) trong khi giải quyết tại tòa án thì các yêu cầu này không được đảm bảo
do tòa án thực hiện xét xử theo nguyên tắc công khai.
Nhược điểm:
–
Việc hòa giải có được tiến hành hay không phụ thuộc vào sự nhất trí của các
bên,
–
Hòa giải viên không có quyền đưa ra một quyết định ràng buộc hay áp đặt bất
cứ vấn đề gì đối với các bên tranh chấp thỏa thuận hòa giải không có tính bắt
buộc thi hành như phán quyết của trọng tài hay của tòa án.
–
Ít được sử dụng nếu các bên không có sự tin tưởng với nhau.
3. Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
Khái niệm
–
Giải quyết tranh chấp trong kinh doanh bằng trọng tài là hình thức giải quyết
tranh chấp thông qua hoạt động của trọng tài viên, với tư cách là một bên thứ
ba độc lập nhằm chấm dứt các xung đột bằng cách đưa ra một phán quyết buộc
các bên tham gia tranh chấp phải thực hiện.
–
Đây là hình thức giải quyết tranh chấp rất phổ biến, được áp dụng rộng rãi do
những ưu điểm và lợi thế mà các hình thức giải quyết tranh chấp khác không
có được như:
7
o Các bên được bảo đảm tối đa quyền tự do định đoạt trên nhiều phương
diện (lựa chọn trọng tài viên, lựa chọn địa điểm, thủ tục, phương thức giải
quyết tranh chấp…)
o Thủ tục đơn giản, ngắn gọn và trong trường hợp cần thiết thì bảo đảm bí
mật hơn so với giải quyết bằng Tòa án.
o Bên cạnh đó, phán quyết của trọng tài là một ràng buộc có hiệu lực thi
hành không bắt buộc phải dựa trên sự thống nhất của đôi bên.
4. Giải quyết tranh chấp trong kinh doanh bằng toà án
Khái niệm
–
Giải quyết tranh chấp trong kinh doanh bằng toà án là hình thức giải quyết
tranh chấp do cơ quan tài phán của Nhà nước thực hiện
Gắn liền với quyền lực nhà nước
Đặc điểm
–
Được tiến hành khi mà việc áp dụng cơ chế thương lượng, hoà giải không có
hiệu quả và các bên tranh chấp cũng không thoả thuận đưa vụ tranh chấp ra
giải quyết tại trọng tài
–
Đặc trưng cơ bản của thủ tục giải quyết tranh chấp bằng toà án là thông qua
hoạt động của bộ máy tư pháp và nhân danh quyền lực nhà nước để đưa ra
phán quyết
–
Phạm vi và thẩm quyền của Toà án trong việc giải quyết tranh chấp trong kinh
doanh được pháp luật các nước quy định khác nhau.
Thẩm quyền của các cơ quan tài phán nhà nước ở các quốc gia là khác nhau
nhưng tập trung vào các lĩnh vực tranh chấp:
–
Tranh chấp hợp đồng thương mại
–
Tranh chấp liên quan đến tổ chức và hoạt động của công ty
–
Tranh chấp liên quan đế việc bảo hộ nhãn hiệu thương mại
–
Tranh chấp thương mại hàng hải
8
–
Tranh chấp phát sinh trong quá trình bảo hộ cạnh tranh và chống cạnh
tranh bất hợp pháp
–
Tranh chấp liên quan đến hoạt động phát hành cà kinh doanh chứng
khoán
Ưu điểm
–
Trình tự, thủ tục tố tụng chặt chẽ và độ tin cậy vào hiệu lực của phán quyết
–
Có sức mạnh cưỡng chế nên góp phần vào việc nâng cao ý thức tôn trọng pháp
luật cho các chủ thể kinh doanh
Nhược điểm
–
Không giữ được bí mật kinh doanh
–
Thủ tục tại toà thiếu linh hoạt
Mỗi hình thức giải quyết đều mang những đặc điểm cơ bản riêng, với những ưu
nhược điểm nhất định. Sự đa dạng trong cơ chế giải quyết tranh chấp xét cho cùng cũng
là biểu hiện đặc trưng về tính đa dạng của các quan hệ kinh tế trong điều kiện nền kinh tế
thị trường.
3.
Giải quyết các tranh chấp kinh tế bằng trọng tài
“Giải quyết tranh chấp kinh tế bằng trọng tài là hình thức giải quyết tranh chấp thông
qua hoạt động của trọng tài với tư cách là bên thứ 3 độc lập nhằm chấm dứt xumg đột
bằng việc đưa ra một phán quyết buộc các bên tham gia tranh chấp phải thực hiện.”
Khoản 1, Điều 2 Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003 quy định: “Trọng tài là phương
thức giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại được các bên thỏa
thuận và được tiến hành theo trình tự, thủ tục tố tụng do Pháp lệnh này quy định”.
1. Trọng tài kinh tế
– Là một tổ chức xã hội nghề nghiệp có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp kinh
tế theo quyết định của pháp luật.
9
– Trọng tài kinh tế được tổ chức dưới hình thức trung tâm trọng tài kinh tế.
– Trung tâm trọng tài kinh tế có chủ tịch và phó chủ tịch do các trọng tài viên của
trung tâm bầu ra.
– Trung tâm trọng tài kinh tế chỉ được thành lập khi có ít nhất 5 trọng tài viên là
sáng lập viên.
2. Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam
Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam được thành lập theo Quyết định số 204/TTg ngày
28 tháng 4 năm 1993 của Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam trên cơ sở hợp nhất Hội đồng Trọng tài Ngoại thương (thành lập năm 1963) và Hội
đồng Trọng tài Hàng hải (thành lập năm 1964). VIAC (Vietnam International Arbitration
Centre) là tổ chức độc lập, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận.
a. Thẩm quyền trọng tài
– Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp
phát sinh từ các quan hệ kinh tế quốc tế như các hợp đồng mua bán ngoại thương,
các hợp đồng đầu tư, du lịch, vận tải và bảo hiểm quốc tế, chuyển giao công nghệ,
tín dụng và thanh toán quốc tế, khi mà một hay các bên đương sự là thể nhân hay
pháp nhân nước ngoài.
– Tại Quyết định số 114/TTg ngày 16/2/1996, Thủ tướng Chính phủ đã cho phép
Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam được mở rộng thẩm quyền giải quyết các
tranh chấp phát sinh từ các mối quan hệ kinh doanh trong nước nếu các bên đương
sự thoả thuận đưa ra trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam để giải quyết.
– Giải quyết các tranh chấp phát sinh ở hợp đồng kinh tế giữa : pháp nhân với pháp
nhân, pháp nhân với doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp tư nhân với doanh
nghiệp tư nhân, doanh nghiệp tư nhân với cá nhân kinh doanh; phát sinh giữa công
ty với các thành viên của công ty và giữa các thành viên của công ty với nhau liên
quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể công ty; các tranh chấp liên quan đến
việc mua bán cổ phiếu, trái phiếu.
10
– Thẩm quyền của trọng tài kinh tế không được xác lập theo vùng lãnh thổ cho nên
về nguyên tắc các bên có quyền lựa chọn bất kỳ trung tâm nào để giải quyết tranh
chấp không phụ thuộc vào nơi đặt trụ sở hoặc nơi cư trú của các bên.
b. Lựa chọn trọng tài viên
– Trọng tài viên Trung tâm trọng tài quốc tế bao gồm những người (kể cả người
nước ngoài) có kiến thức và kinh nghiệm trong lĩnh vực pháp luật, ngoại thương,
đầu tư, tài chính, ngân hang, vận tải, bảo hiểm và những lĩnh vực khác; những
người này do Ban Thường trực Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
chọn lựa với nhiệm kì là 4 năm.
– Khi đưa vụ tranh chấp ra Trung tâm trọng tài quốc tế để giải quyết, mỗi bên đương
sự được quyền chọn một hoặc đề nghị Chủ tịch Trung tâm trọng tài chọn hộ mình
một trọng tài viên có trong danh sách của Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam.
– Hai trọng tài viên do hai bên đương sự thống nhất chọn trọng tài viên thứ ba. Ba
trọng tài viên được chọn hợp thành Uỷ ban trọng tài, trong đó trọng tài viên thứ ba
làm Chủ tịch.
– Trong trường hợp hai trọng tài viên không thống nhất được với nhau về việc chọn
trọng tài viên thứ ba thì Chủ tịch Trung tâm trọng tài quốc tế sẽ chỉ định.
c. Nguyên tắc tố tụng
– Trọng tài chỉ ” xét xử” 1 lần
– Tố tụng trọng tài kinh tế không quy định nguyên tắc xét xử công khai như toà án
mà xét xử bí mật chỉ những người được mời mới được tham dự phiên họp.
– Tố tụng trọng tài không theo nguyên tắc xét xử tập thể mà bằng 1 trọng tài viên do
đương sự lựa chọn
– Việc giải quyết tranh chấp kinh tế theo tố tụng bao gồm các giai đoạn sau:
Nguyên đơn gửi đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp đến một trung tâm trọng tài
kinh tế kèm theo văn bản thoả thuận của các bên về việc đưa vụ tranh chấp ra
giải quyết ở trung tâm trọng tài kinh tế đó. (Trung tâm trọng tài kinh tế chỉ
11
nhận đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp nếu trước hoặc sau khi xảy ra tranh
chấp các bên đã có thoả thuận bằng văn bản về việc đưa vụ tranh chấp ra giải
quyết tại chính trung tâm trọng tài kinh tế đó).
Trong một thời hạn 7 ngày kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu, thư ký trung
tâm trọng tài kinh tế phải gửi bản sao đơn yêu cầu của nguyên đơn và danh
sách trọng tài viên cho bị đơn đồng thời ấn định thời hạn bị đơn phải gửi văn
bản trả lời cho trung tâm trọng tài kinh tế.
Trọng tài viên tiến hành các công việc cần thiết cho việc giải quyết tranh chấp
như nghiên cứu hồ sơ, nghe các bên trình bày, trưng cầu giám định, …
Tổ chức phiên họp giải quyết tranh chấp.
Việc giải quyết vụ tranh chấp được kết thúc bằng quyết định.
– Toàn bộ các hoạt động có liên quan, trong bất kì bước nào và do ai thực hiện cũng
phải tuân theo nguyên tắc tôn trọng quyền tự do định đoạt của các bên tranh chấp
và bảo đảm sự độc lập của trọng tài viên trong hoạt động xét xử.
Nguyên tắc tự do định đoạt: Nguyên tắc này thể hiện các bên đương sự có
quyền tự do lựa chọn trọng tài viên.
Nguyên tắc đảm bảo sự độc lập của trọng tài viên trong hoạt động xét xử: việc
thực hiện nguyên tắc này nhằm đảm bảo tính khách quan trong toàn bộ quá
trình giải quyết tranh chấp. Nội dung của nguyên tắc này thể hiện trên 2 khía
cạnh: không có bất cứ ai có quyền can thiệp vào hoạt động của trọng tài viên;
các trọng tài viên hoàn toàn bình đẳng với nhau trong hoạt động xét xử.
d. Hiệu lực của phán quyết
Kết quả giải quyết tranh chấp có thể là một thoả thuận hoà giải hoặc 1 phán quyết
trọng tài. Phán quyết của trọng tài quốc tế là chung thẩm không thể kháng cáo
trước bất cứ Toà án hay tổ chức nào khác. Các bên phải tự nguyện thi hành trong
thời hạn được quy định trong phán quyết. Nếu phán quyết không được tự nguyện
thi hành trong thời hạn được quy định thì sẽ áp dụng các biện pháp cưỡng chế.
12
3. Trung tâm trọng tài kinh tế (tổ chức theo Nghị định số 116/CP)
a. Thẩm quyền:
– Giải quyết các tranh chấp hợp đồng kinh tế; các tranh chấp giữa công ty với các
thành viên của công ty, giữa cá thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc
thành lập, hoạt động, giải thể công ty; các tranh chấp liên quan đến việc mua bán
cổ phiếu, trái phiếu”.
– Riêng tranh chấp hợp đồng kinh tế thì theo quy định, Trọng tài kinh tế chỉ giải
quyết đối với những tranh chấp giữa pháp nhân với pháp nhân, giữa pháp nhân với
doanh nghiệp tư nhân, giữa doanh nghiệp tư nhân với nhau và giữa doanh nghiệp
tư nhân với cá nhân kinh doanh.
– Thẩm quyền của Trọng tài không được xác lập theo vùng lãnh thổ nên về nguyên
tắc, các bên có quyền lựa chọn bất kỳ Trung tâm trọng tài kinh tế nào để giải quyết
tranh chấp, không phụ thuộc vào nơi đặt trụ sở hoặc nơi cư trú của các bên.
Tuy nhiên, Trung tâm trọng tài kinh tế chỉ nhận đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp nếu
trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp, các bên đã có thỏa thuận bằng văn bản về việc
đưa vụ tranh chấp ra giải quyết tại chính trung tâm trọng tài kinh tế đó. Như vậy,
ngoài nội dung tranh chấp, việc xác lập quyền của trung tâm trọng tài kinh tế đối với
việc giải quyết một vụ tranh chấp còn tùy thuộc vào ý chí hay sự lựa chọn của các bên
đương sự.
b. Lựa chọn trọng tài viên:
– Trọng tài kinh tế là trọng tài thường trực và mỗi trung tâm có danh sách trọng tài
viên riêng.
– Trong trường hợp vụ tranh chấp do một Hội đồng trọng tài giải quyết thì mỗi bên
chọn một trọng tài viên và hai trọng tài viên sẽ được chọn trọng tài viên thứ ba làm
Chủ tịch Hội đồng. Sau 15 ngày mà hai trọng tài viên do các bên chỉ định không
chọn được trọng tài viên thứ ba, cũng như trong trường hợp các bên thỏa thuận vụ
13
tranh chấp do 1 trọng tài viên giải quyết nhưng không chọn được ai thì sau 7 ngày
Chủ tịch trung tâm trọng tài kinh tế sẽ chỉ định.
– Nếu có căn cứ cho thấy trọng tài viên có thể không vô tư trong việc giải quyết
tranh chấp, trọng tài viên có nghĩa vụ phải khước từ và các bên tranh chấp có
quyền yêu cầu trọng tài viên phải khước từ. Tuy nhiên, mỗi bên chỉ có thể khước
từ trọng tài viên mà mình đã chọn. Bên muốn khước từ phải làm đơn gửi trung tâm
trọng tài kinh tế và Chủ tịch trung tâm trọng tài kinh tế phải xem xét giải quyết
trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày nhận được đơn (Điều 18).
c. Giải quyết tranh chấp:
– Điều kiện: phải có đơn yêu cầu và văn bản thỏa thuận của các bên về việc đưa vụ
tranh chấp ra giải quyết tại trung tâm trọng tài kinh tế đó và những tài liệu cần
thiết để chứng minh cho yêu cầu của mình.
– Trong thời hạn 7 ngày, kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu, Thư ký Trung tâm
trọng tài kinh tế phải gửi cho bị đơn bản sao đơn yêu cầu của nguyên dơn và Danh
sách trọng tài viên, đồng thời ấn định thời hạn bị đơn phải gửi văn bản trả lời cho
Trung tâm trọng tài kinh tế.
– Trọng tài viên có thể nghe các bên trình bày ý kiến và cũng có thể tìm hiểu sự việc
từ những người khác với sự có mặt của các bên sau khi đã thông báo cho các bên
biết. Ngoài ra, trọng tài viên có thể trưng cầu giám định và yêu cầu các bên cung
cấp thêm các bằng chứng và tài liệu có liên quan.
– Các bên tranh chấp có quyền thỏa thuận về thời gian, địa điểm phiên họp giải
quyết tranh chấp. Trường hợp không có sự thỏa thuận thì Chủ tịch Hội đồng trọng
tài hoặc Trọng tài viên (duy nhất) ấn định, nhưng giấy triệu tập tham dự phải gửi
cho các bên tham gia chậm nhất 15 ngày trước khi mở phiên họp.
– Đáng lưu ý là theo quy định tại Điều 25, việc giải quyết tranh chấp được tiến hành
căn cứ vào những điều khoản của hợp đồng và pháp luật hiện hành. Điều này có
nghĩa là khác với quy tắc tố tụng của nhiều trung tâm trọng tài khác trên thế giới
(nhất là các trung tâm trọng tài quốc tế), việc giải quyết tranh chấp tại các Trung
14
tâm trọng tài kinh tế ở nước ta không áp dụng nguyên tắc tự thỏa thuận về luật áp
dụng.
– Các bên có thể tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp tham gia vào việc
giải quyết tranh chấp cũng như có thể mời luật sư để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình.
– Theo đề nghị của các bên hoặc được các bên chấp thuận, vụ tranh chấp có thể
được giải quyết mà không có lý do chính đáng thì căn cứ vào tài liệu và chứng cứ
hiện có, phiên họp giải quyết tranh chấp vẫn được tiến hành.
– Theo quy định tại Điều 30, khi các bên đạt được thỏa thuận bằng thương lượng thì
trọng tài chấm dứt việc giải quyết và các bên có thể yêu cầu Trung tâm trọng tài
xác nhận sự thỏa thuận đó bằng văn bản, văn bản này có giá trị như Quyết định
trọng tài.
– Mọi diễn biến của phiên họp giải quyết tranh chấp được Thư ký trung tâm trọng
tài ghi thành biên bản và được các Trọng tài viên cùng ký.
– Các bên có quyền tìm hiểu nội dung biên bản. Những điểm thay đổi hoặc bổ sung
biên bản theo yêu cầu của một hay các bên do Chủ tịch Hội đồng trọng tài hoặc
Trọng tài viên (duy nhất) quyết định.
d. Quyết định trọng tài:
– Việc giải quyết vụ tranh chấp được kết thúc bằng quyết định. Nếu việc giải quyết
thông qua một Hội đồng thì quyết định được thông qua bằng biểu quyết theo
nguyên tắc đa số.
– “Hội đồng trọng tài hoặc trọng tài viên có thể ra quyết định giải quyết từng phần
của vụ tranh chấp, nếu thấy điều đó là hợp lý” (Điều 28). hạn chế những ách tắc
trong hoạt động kinh doanh, nhất là đối với những vụ tranh chấp có tình tiết phức
tạp mà nếu đổi giải quyết dứt điểm một lần thì rất mất thời gian, thậm chí gây khó
khăn trong việc duy trì các hoạt động kinh doanh bình thường của các bên tham
gia.
15
– Quyết định trọng tài được công bố cho các bên ngay sau khi kết thúc phiên họp
hoặc có thể công bố sau nhưng chậm nhất là 5 ngày kể từ ngày kết thúc phiên họp
và được gửi cho các bên trong vòng 3 ngày kể từ ngày ra quyết định.
– Quyết định trọng tài phải có chữ ký của tất cả các trọng tài viên và sau khi được
công bố không có ai có quyền sửa chữa, bổ sung, trừ trường hợp có sai sót rõ ràng
về số liệu tính toán hoặc về chính tả nhưng phải thông báo cho các bên biết.
e. Lệ phí trọng tài:
– Lệ phí trọng tài là khoản tiền mà các bên tranh chấp phải trả cho trung tâm trọng
tài kinh tế để trang trải cho các khoản chi phí phát sinh từ việc giải quyết vụ tranh
chấp.
– Biểu phí trọng tài do từng trung tâm trọng tài kinh tế ấn định, trên cơ sở khung lệ
phí trọng tài cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định.
– Lệ phí trọng tài do bên thua kiện trả, nếu các bên không có thỏa thuận khác. Mức
lệ phí trọng tài đối với từng vụ kiện được ghi trong quyết định trọng tài.
4. Ví dụ về giải quyết tranh chấp kinh tế bằng trọng tài:
PHÁN QUYẾT SỐ 12
TRANH CHẤP VỀ GIAO HÀNG THIẾU
TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN QUẦN ÁO TRẺ EM
Các bên:
Nguyên đơn : Người mua Cuba
Bị đơn
: Người bán Trung Quốc
Tóm tắt vụ việc:
Ngày 25 tháng 12 năm 1986, Nguyên đơn và Bị đơn ký kết một hợp đồng mua bán theo
đó Bị đơn phải cung cấp 19.500 tá quần áo trẻ em sợi hỗn hợp với số lượng và giá cả
khác nhau. Tổng trị giá hợp đồng là 404.415 USD, FOB cảng Trung Quốc, đóng vào hộp
giấy, gửi hàng đi vào quý 1 và quý 2 năm 1987. Tháng 6 năm 1987 Bị đơn giao 900 hộp
16
giấy chứa hàng hoá theo hợp đồng. Số hàng này đã được bốc lên tàu của Cuba và đã rời
đi cảng Havana, Cuba.
Theo Nguyên đơn, khi hàng đến cảng Havana Nguyên đơn đã xác nhận rằng bề ngoài của
số thùng giấy là không có vấn đề gì nhưng có một số thùng có trọng lượng không đủ.
Nguyên đơn đã vận chuyển số hàng nói trên vào kho. Cơ quan giám định sở tại đã xác
nhận thiếu 606 quần/áo trong 19 thùng hàng được giám định (trong số 300 thùng) so với
NQ 9114, B/L52, hoá đơn SUL 30047 được giao. Kết quả giám định 61 thùng hàng theo
NQIOO58-4, B/L53, hoá đơn SUL 30048 xác định thiếu 1.845 quần/áo.
Nguyên đơn hy vọng sẽ đạt được một thoả thuận thông qua đàm phán với Bị đơn, nhưng
Bị đơn đã không chấp nhận đàm phán. Căn cứ vào Điều 42 Các điều kiện chung về giao
hàng, Nguyên đơn cho rằng Bị đơn phải chịu trách nhiệm cho số hàng thiếu và yêu cầu
Bị đơn bồi thường cho các thiệt hại về kinh tế như sau:
1. Khoản tiền 4.245,01 USD thanh toán cho số hàng giao thiếu, bao gồm: 606
quần/áo, tương đương với 50,5 tá theo NQ9114 với giá 22,29 USD/tá, là 1.125,65
USD; 1.854 quần/áo, tương đương với 154,5 tá theo NQ10058-4 với giá 20,19
USD/tá, là 3.119,36 USD;
2. Phí giám định 180 USD;
3. Phí trọng tài.
Trong văn bản trả lời, Bị đơn giải trình như sau:
1. Theo các qui định tại Điều 14 Các điều kiện chung về giao hàng, số lượng và khối
lượng của hàng hoá được xác định theo vận đơn đường biển. Sau khi hàng đã được
bốc lên tàu, Bị đơn nhận vận đơn sạch do thuyền trưởng phát hành xác nhận hàng
hoá hợp lệ và phù hợp với số lượng ghi trong hoá đơn và bản chứng nhận số thùng
hàng với các chi tiết ghi trên vận đơn. Ngoài ra, từ các tài liệu do Nguyên đơn
trình, 71 thùng (30-40% trong tổng số 120 thùng) thiếu về số lượng, và hầu hết là
thiếu loại quần áo cỡ 36 hoặc 48. Nếu tình trạng này nghiêm trọng đến mức như
Nguyên đơn biện luận thì chắc chắn có nhiều thùng hàng rỗng hoặc đã bị mở và
nếu thế thì thuyền trưởng chắc chắn đã không ký vận đơn sạch. Hơn nữa, Nguyên
17
đơn cũng đã xác nhận rằng khi được chuyển đến, các thùng hàng vẫn hợp lệ,
Nguyên đơn đã không trình được chứng nhận giám định hàng hoá để chứng minh
hàng bị thiếu về khối lượng và trong thùng có nhiều thứ khác không phải là hàng
hoá. Do đó cần phải bác yêu cầu của Nguyên đơn liên quan đến việc giao thiếu
hàng.
2. Điều 15 Các điều kiện chung về giao hàng qui định: “Đơn vị khối lượng và đơn vị
đo của bản giám định và xác nhận hàng hoá cung cấp phụ thuộc vào các tài liệu
của bên bán”. Xác nhận về số thùng hàng do Bị đơn cung cấp chứng minh rằng số
hàng được giao phù hợp với các qui định của hợp đồng và cần phải dựa vào bản
xác nhận này để xác định số hàng đã giao.
3. Hợp đồng được ký theo điều kiện FOB. Theo các qui định trong INCOTERMS,
một khi hàng hoá đã được chuyển qua lan can tàu tại cảng bốc hàng, mọi rủi ro về
mất mát hoặc tổn thất đối với hàng hoá cũng được chuyển cho bên mua. Vì vậy,
yêu cầu của Nguyên đơn là không có cơ sở.
Phán quyết của trọng tài:
Theo Điều 14 Các điều kiện chung về giao hàng, số lượng hàng do Bị đơn giao được xác
định theo vận đơn đường biển. Trong các thùng hàng thuộc vận đơn số 52 và 53, số hàng
được ghi lần lượt là 300 và 600 thùng. Mặc dù trên vận đơn đường biển có ghi tổng trọng
lượng của hàng hoá, nhưng không ghi số hàng trong từng thùng hoặc khối lượng của mỗi
thùng hàng. Theo chứng nhận giám định của Cục giám định hàng hoá Cuba, tất cả các
thùng hàng đều hợp lệ. Có tổng số 2.460 quần/áo thiếu trong 71 thùng.
Bị đơn đã trình chứng nhận về hàng hoá được đóng vào thùng khi số hàng này còn ở
trong nhà máy, nhưng hàng đã không được bốc trực tiếp lên tàu sau khi rời nhà máy mà
được vận chuyển bằng nhiều phương tiện, rồi cuối cùng mới được bốc lên tàu. Do đó,
không loại trừ khả năng việc thiếu hàng xảy ra trước khi số hàng này được bốc lên tàu.
Uỷ ban trọng tài cho rằng Điều 42 Các điều kiện chung về giao hàng đã qui định rõ
quyền của các bên được khiếu nại về việc thiếu hàng hoá và do đó Bị đơn phải chịu trách
nhiệm về việc thiếu hàng này.
18
Phán quyết:
1. Bị đơn phải bồi thường cho Nguyên đơn 4.425,01 USD là khoản tiền đã trả cho số
hàng thiếu, và 180 USD phí giám định.
2. Phí trọng tài sẽ do Bị đơn chịu.
19
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. http://luatminhkhue.vn/trong-tai/giai-quyet-tranh-chap-bang-trong-
tai.aspx
2. http://voer.edu.vn/c/giai-quyet-tranh-chap-trong-kinh-doanh/63800bff/
cd2c7f97
3. http://www.viac.org.vn/
4. Giáo trình Luật kinh tế Việt Nam – NXB Đại học Quốc Gia Hà Nội
20
NHÓM 5
Nguyễn Thị Ngọc Anh
Trịnh Phương Hà
Nguyễn Thị Hồng Nhung
BẢNG ĐÁNH GIÁ NHIỆM VỤ CỦA THÀNH VIÊN TRONG NHÓM
STT
TÊN
NHIỆM VỤ
ĐIỂM
1
Nguyễn Thị Ngọc Anh
– Trưởng nhóm
– Bao quát công việc chung
– Làm phần I
– Thuyết trình phần I
2
Trịnh Phương Hà
– Làm phần II
– Tổng hợp, chỉnh sửa word
– Thuyết trình phần II
3
Nguyễn Thị Hồng Nhung
– Làm phần II
– Làm slide
– In ấn tài liệu