11343_Tiểu luận Văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên

luận văn tốt nghiệp

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA: ĐỊA LÝ_DU LICH
—  —

BÀI TIỂU LUẬN GIỮA KỲ

KHÔNG GIAN VĂN HÓA CỒNG CHIÊNG
TÂY NGUYÊN

GVHD: Th.s Phạm Thị Thúy
Nguyệt
Nhóm: Góc nhỏ
Lớp: Địa lý_du lịch k30

GIỚI THIỆU:

Việt Nam là nước có nhiều danh lam thắng cảnh đẹp và đã được thế giới
công nhận là di sản văn hóa thế giới : phố cổ Hội An, quần thể kiến trúc thánh địa
Mỹ Sơn,… trong đó không thể không kể đến di sản văn hóa phi vật thể nổi tiếng
không chỉ trong nước và trên thế giới là “Không gian văn hóa cồng chiêng Tây
Nguyên”

MỤC LỤC:
I.Khái quát về không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên
1. Khái niệm
Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên là gì?
2. Nguồn gốc
3. Qúa trình hình thành và phát triển
4.Qúa trình đề nghị và được công nhận “không gian văn hóa cồng chiêng
Tây Nguyên”
II.Mô tả đặc trưng di sản
1.Nét đặc trưng về môi trường tự nhiên, dân cư và lịch sử
2. Nét đặc trưng về tiếng cồng, tiếng chiêng
2.Gía trị về lịch sử và về văn hóa
III. Phân tích thực trạng khai thác “không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên”
IV. Bảo tồn và phát huy những giá trị của “ không gian văn hóa cồng chiêng Tây
Nguyên”
V. Một số biện pháp nhằm dung hòa giữa việc khai thác di sàn vào trong du lịch:
VI. Nhận xét và đánh giá

I.Khái quát về không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên
1. Khái niệm
Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên là gì?
Là khu vực đang diễn ra hình thức sinh hoạt văn hóa cồng chiêng độc đáo này mà
chủ thể chính ở đây là các dân tộc thiểu số, tiêu biểu như: Bana, Xêđăng, Mnông,
Cơho, Rơmăm, Êđê, Giarai… Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên là
không gian trải rộng suốt 5 tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đăk Lăk, Đăk Nông và Lâm
Đồng.
2. Nguồn gốc
Rất nhiều ý kiến cho rằng nguồn gốc của cái cồng, cái chiêng có phải là ở bản địa
hay là xất phát từ nơi khác đến. Theo Gáo sư – nhạc sĩ Tô Vũ – một trong những
chuyên gia ở Việt Nam có thâm niên cao nhất về lĩnh vực này – đã cho rằng, căn
cứ vào nhiều yếu tố, có thể khẳng định rằng chiêng Tây Nguyên là cái nôi của
cồng chiêng Đông Nam Á. Ông đã nghiên cứu cồng chiêng từ năm 1978, nhạc sĩ
Tô vũ đã phát hiện ra nhiều điều thú vị. Về cội nguồn, cồng chiêng là “hậu duệ”
của đàn đá – trước khi có văn hóa đồng, người xưa đã tìm đến loại khí cụ đá theo
“quy trình tiến hóa” cồng đá, chiêng đá, chiêng…, rồi mới tới cồng đồng, chiêng
đồng…

Đàn đá

Cồng chiêng đồng
Cồng chiêng Tây Nguyên là cái nôi của cồng chiêng Đông-Nam Á, bởi những yếu
tố sau:
Về vết tích hiện vật, những nét chạm khắc biểu hiện người đánh cồng chiêng
(dáng đánh rất giống người Tây Nguyên) có trên trống đồng Đông Sơn vốn có
lịch sử hơn 4.000 năm. Về lối đánh, “rất nguyên thủy”, người Tây Nguyên vẫn
“mỗi người một cái”, chưa kết thành dàn do một nghệ sĩ biểu diễn như các dân tộc
ở Thái-lan, Malaysia, Lào, Campuchia (theo nguyên lý phát triển từ đơn giản đến
phức tạp; càng đơn giản càng gần ý nghĩa là “vật tổ”); hình dáng cồng chiêng
cũng thế, chưa phát triển theo dạng trống (tức chiêng có đế, vuông hoặc tròn).
Về mục đích, cồng chiêng Tây Nguyên vẫn mang ý nghĩa từ thuở sơ khai của nó:
Dùng để mừng lúa mới, xuống đồng; biểu hiện của tín ngưỡng – là phương tiện
giao tiếp với siêu nhiên… qua các lễ thổi tai, bỏ mả v.v…, nghĩa là vẫn thuần chức
năng phục vụ đời sống con người. Trong khi ở các vùng Đông -Nam Á khác, cồng
chiêng đã “tiến hóa” đến mức thành phương tiện biểu diễn cung đình, mang chức
năng giải trí.
Xét về lịch sử tiến hóa, mỗi sự biến chuyển tính năng nhạc khí (ở thời bấy giờ)
diễn ra trong hàng mấy trăm năm. Và có thể khẳng định, căn cứ trên vết tích trống
đồng (mà những gì quý giá mới được khắc lên đó), cồng chiêng Tây Nguyên đã
có ít nhất 2.000 năm.
Đồng thời, dựa vào tài liệu khảo cổ về nguồn gốc tộc người và ngữ hệ ở Việt
Nam, vốn từ họ Nam Á và Nam Đảo (thậm chí gần đây còn có luận điểm gây bất
ngờ rằng trống đồng Việt có nguồn gốc từ Trường Sơn), có thể khẳng định rằng
cộng đồng Việt, Tày, các tộc người Tây Nguyên đã từng ở với nhau rất lâu đời, vì
vậy sự “giao thoa” văn hóa cồng chiêng là hiển nhiên.
Suốt lịch sử văn hóa của mình, người Tây Nguyên không chế tác mà mua cồng
chiêng từ người Kinh vùng Quảng Nam, rồi về “nắn” lại thanh âm theo cách của
mình – đó là những hoạt động “giao thương” theo lối hàng đổi hàng có từ hàng
nghìn năm nay. Ngay cả “chiêng Lào” mà người Tây Nguyên sở hữu cũng không
phải được chế tác từ Lào mà chỉ là hàng hóa trao đổi, mua bán từ nơi khác về Tây
Nguyên. Từ đó dẫn đến quan điểm nhất quán rằng cồng chiêng Tây Nguyên là
cồng chiêng việt.
Và còn một số giả thuyết khác lại cho rằng cồng chiêng không xuất phát từ Tây
Nguyên:
“Cái nôi của cồng chiêng rất có thể là Trường Sơn – Tây nguyên” là giả định của
GS Jose Maceda (Philippines) cách đây hơn 20 năm. Đông Sơn đã trở thành tên
gọi cho cả nền văn hóa thời kỳ đồ đồng cách đây khoảng 3.500 năm trong khu vực
Đông Nam Á. Hiện người Mường ở Thanh Hóa, Hòa Bình vẫn còn những dàn
cồng chiêng đến 12 chiếc.
Và một giả thiết đã được GS Tô Vũ xác nhận: cồng chiêng rất có thể có nguồn gốc
Việt – Mường, nhưng về sau trong quá trình dài Hán hóa đã bị mai một đi; chỉ còn
lại nhánh “trốn lên núi” (Mường) là lưu giữ được… Một thực tế củng cố thêm giả
thiết này là đồng bào dân tộc Tây nguyên vẫn chưa tự chế tác được nhạc cụ cồng
chiêng mà phải mua của người Kinh, người Lào, Campuchia
Đó chỉ là một số giả thuyết của một số nhà khoa học nói về nguồn gốc của cồng
chiêng Tây Nguyên. Và các giả thuyết điều cho rằng cồng chiêng Tây Nguyên có
nguồn gốc xuất phát từ Việt Nam
3. Qúa trình hình thành và phát triển
Cồng chiêng là một nhạc cụ rất phổ biến trong nền âm nhạc của các tộc người
Việt Nam. Nhưng với người Tây Nguyên, cồng chiêng là đại diện, là nguồn sống,
là tín ngưỡng tâm linh. Những âm thanh khi ngân nga sâu lắng, khi thôi thúc, hòa
quyện với tiếng suối, tiếng gió và với tiếng lòng sẽ sống mãi cùng với đất trời và
con người Tây Nguyên. Để có được những thành tựu như ngày hôm nay, cồng
chiêng Tây Nguyên phải trãi qua một quá trình phát triển lâu dài.
a) Sự phát triển về chất liệu:
Sự thay đổi về chất liệu làm nên cồng chiêng theo phán đoán của các nhà
nghiên cứu từ vật liệu đá cho đến chất liệu đồng nằm trong thời kì của sự cải tiến
công cụ lao động, và sự tiến bộ vượt bậc trong tư duy của loài người. Như vậy,
đồng thời khi đó tư duy của con người trong việc sử dụng chúng với những ý nghĩa
khác nhau cũng có những sự tiến bộ. Ví như khi được làm bằng đồng chúng sẽ
phát ra âm thanh to hơn, vang xa hơn dễ dàng hơn trong các cuộc đi săn trong
rừng, từ đó mang lại cho họ những chiến lợi phẩm ngày thêm dồi dào.
Về màu sắc của cồng chiêng và sự khác nhau về âm thanh của chúng: càng
về sau, người dân tộc thiểu số càng chú ý hơn về yếu tố thẩm mĩ của cồng chiêng,
đó là yếu tố màu sắc. Người ta có thể tạo ra nhiều cồng chiêng với nhiều màu sắc
khác nhau. Nếu đúc bằng đồng nguyên chất, khi mới ra lò chúng có màu của đồng
như máu đỏ, màu vàng hoặc đen. Tuy nhiên, trong quá trình đúc, người ta có thể
pha chế với một số hợp kim khác để tạo nên những màu sắc khác nhau. Thường thì
người ta có tình chuyển đổi nó thành màu đen hoặc xám để sử dụng, bởi trên thực
tế giá trị của đồng đen là cao nhất trong các loại đồng, làm như thế để thể hiện sự
giàu có. Trong quá trình đúc, với các bí quyết pha chế hợp kim phụ trợ, người ta có
thể tạo ra những chiếc cồng chiêng với những âm thanh to nhỏ, vang rền theo ý
muốn. Chính điều đó đã tạo nên những nét độc đáo riêng trong các dàn cồng
chiêng thuộc các dân tộc, buôn làng với nhau.
b)Sự phát triển về văn hóa- xã hội :
Việc sử dụng cồng chiêng thể hiện tính cộng đồng của người dân tộc thiểu
số. Từ việc dùng nó làm phương tiện để săn thú, cho đến việc dùng nó làm tiếng
nói để kết nối với thế giới thần linh, hay một số tập tục khác đã cho thấy sự thay
đổi hàng ngày trong nhận thức về giá trị của cồng chiêng trong cộng đồng người
Tây Nguyên. Nó là phương tiện kết nối họ trong công cuộc sinh tồn đồng thời cũng
là sự tôn kính của họ với các đấng thần linh hay là ý niệm tôn trọng thiên nhiên của
họ.

Lễ hội đâm trâu
Các buổi sinh hoạt cồng chiêng mang tính liên kết rất to lớn, ngoài việc liên
kết cộng đồng thì những mối tơ duyên đôi lứa cũng được se kết từ đây.
Không chỉ dừng ở đó, trong các đám cúng gia đình hay của làng bản, trước
khi cúng tế, người ta thường phải xin dùng cồng chiêng trong buổi lễ, qua đó cho
thấy sự nhớ ơn và ý thức tôn trọng ông bà tổ tiên, thế hệ đi trước.
Đặc biệt, cồng chiêng không chỉ song hành cùng con người Tây Nguyên từ
khi sinh ra cho đến khi mất đi. Với người Giarai, khi đứa trẻ mới sinh ra trong buổi
“lễ thổi tai” chúng sẽ được nghe tiếng chuông đầu tiên để biểu trưng rằng nó đã
thuộc vào bộ tộc của họ. Rồi trong cuộc sống của họ, tiếng cồng chiêng đi theo
trong các lễ hội cầu mùa, mừng lúa mới, rồi trong đám cưới của họ, thậm chí trong
các lễ đưa ma hay bỏ mã…tiếng cồng chiêng.
Trong nền âm nhạc Việt Nam, nghệ thuật đánh cồng chiêng đã góp phần tạo
nên sự phong phú về hình thức chơi nhạc cụ cũng như phong phú thêm về các loại
nhạc cụ. Sự biến đổi và khác biệt trong cách đánh cồng chiêng của người dân Tây
Nguyên tạo nên sự phong phú ngày càng hấp dẫn cho loại hình nghệ thuật này,
đồng thời cũng cho thấy sự tinh tế, tâm hồn lãng mạn của họ ngày càng đi đến
những tầm cao hơn của nghệ thuật. Rõ ràng khi có đam mê, có nhiệt huyết và có cả
tâm hồn đẹp đẽ họ mới có thể làm được những thành công đó. Những sự phát triển
đó thể hiện sự thay đổi phong cách và kỹ thuật chơi nhạc cụ ngày càng có trình độ
cao hơn: Cồng chiêng Êđê nhịp điệu phức hợp, tốc độ nhanh, cường độ lớn; cồng
chiêng Mnông cường độ không lớn mặc dù tốc độ khá nhanh; cồng chiêng Bana –
Giarai thiên về tính chất chủ điệu (một bè trầm của cồng có núm vang lên âm sắc
vững chãi, hùng tráng, một bè giai điệu thánh thót của chiêng không có núm với
âm sắc đanh gọn, lảnh lót). Có khi họ dùng tay để đánh, có khi dùng dùi gỗ có bịt
vải ở đầu…điều đó tạo nên sự phong phú cho viêc tạo ra các hiệu ứng âm thanh
khác nhau. Khi biểu diễn vòng tròn, các nghệ nhân đánh và di chuyển dàn cồng
chiêng từ phải qua trái với ý nghĩa ngược chiều với thời gian, hướng về nguồn cội.
Bên cạnh âm nhạc thì nét đẹp văn hóa này còn được thể hiện rõ ràng và
phong phú trong các tác phẩm sử thi, truyền thuyết, thơ ca… của người Tây
Nguyên. Cụ thể trong “ Sử thi Đam San” có đoạn viết: “Hãy đánh những cái
chiêng kêu thanh nhất, những chiêng kêu trầm nhất. Đánh nhè nhẹ cho gió đưa
xuống đất. Đánh cho tiếng chiêng vang xa khắp xứ! Đánh cho tiếng chiêng luồn
qua sàn lan đi xa. Đánh cho tiếng chiêng vượt qua mái nhà vọng lên trời. Đánh cho
khỉ trên cây cũng quên bám chặt vào cành đến phải ngã xuống đất! Đánh cho ma
quỷ mê mải nghe đến quên làm hại con người. Đánh cho chuột sóc quên đào hang,
cho rắn nằm ngay đơ, cho thỏ phải giật mình, cho hươu nai đứng nghe quên ăn cỏ,
cho tất cả chỉ còn lắng nghe tiếng chiêng của Đam San”.
Cũng không thua kém, việc sử dụng cồng chiêng âm vang, hùng hồn, tấp
nập trong các trận đánh quân thù thể hiện tinh thần tự chủ của người dân tộc, tinh
thần yêu nước cao cả, yêu chuộng hòa bình của họ. Hoặc sâu sắc hơn, những âm
vang đó trong những tình huống, không gian phù hợp còn gợi cho người ta hồi
tưởng về cội nguồn, về những cuộc săn đuổi muôn thú để duy trì sự sống, đồng
thời cũng là thể hiện sức mạnh vô biên của họ khi đối chọi với thiên nhiên khắc
nghiệt.
4.Qúa trình đề nghị và được công nhận “không gian văn hóa cồng chiêng Tây
Nguyên”.
Việc chuẩn bị hồ sơ trình UNESCO là công việc rất vất vả, khó khăn. Vì địa
bàn của không gian văn hóa cồng chiêng lại trải rộng trên năm tỉnh, với 11 dân
tộc. Mà thời gian để chuẩn bị hồ sơ lại không nhiều, chỉ vỏn vẹn có sáu tháng. Vấn
đề quan trọng là phải xây dựng bộ hồ sơ theo đúng mẫu của UNESCO, gồm các
tiêu chuẩn về hình ảnh, băng đĩa, cơ sở để bảo tồn và phát huy giá trị di sản, tài
liệu tham khảo như sơ đồ, các công trình nghiên cứu, giới thiệu về di sản…, tất cả
đều phải được dịch và giới thiệu bằng tiếng Anh. Ðể xây dựng hoàn chỉnh hồ sơ
về cồng chiêng, ngoài các tư liệu lưu trữ sẵn có, cán bộ của Viện đã phải chia
thành nhiều bộ phận, phụ trách những phần việc khác nhau như đi điền dã, biên
tập, dịch thuật, lồng tiếng… Với danh nghĩa là nghệ thuật biểu diễn của từng dân
tộc thì cồng chiêng cũng đã có mặt trong một số ngày hội của quốc gia, đã từng đi
trình diễn ở nước ngoài…
Từ xuất phát điểm về giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể của vùng văn hóa
cồng chiêng Tây Nguyên, ngày 19-3-2004, Bộ VH-TT gửi công văn 814/VHTT-
DSVH trình Thủ tướng Chính phủ về việc đề cử di sản văn hóa phi vật thể để
UNESCO công nhận là Kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể của nhân loại đợt III
năm 2005. Ngày 24-3-2004, Thủ tướng Chính phủ đã đồng ý với đề nghị của Bộ
VH-TT trong công văn 2557/VPCP-VX.
Để hoàn thiện bộ hồ sơ trình UNESCO, Viện VH-TT, Cục Di sản văn hóa và
các sở VH-TT thuộc 5 tỉnh Tây Nguyên đã khẩn trương thực hiện những công việc
do Bộ VH-TT chỉ đạo. Cụ thể là ngày 12 và 13-10-2004, cuộc tọa đàm khoa học
Giá trị văn hóa của các nhạc cụ gõ bằng đồng của Việt Nam và các nước trong khu
vực Đông Nam Á được tổ chức tại Hà Nội, với sự tham dự của các nhà khoa học
thuộc nhiều cơ quan của Bộ VH-TT, Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Hội Văn
nghệ dân gian Việt Nam và 3 nhà khoa học đến từ Nhật Bản, Philippin và
Campuchia. Chính sự kiện này đã mạng lại những kết quả nhất định cho việc trình
đề nghị đến UNESSCO.
Cuối cùng UNESCO đã công nhận không gian văn hóa cồng chiêng Tây
Nguyên là Kiệt tác truyền khẩu và di sản phi vật thể của nhân loại đợt 3 công bố
ngày 25-11-2005. Và đó là một niềm vinh dự to lớn không chỉ của người dân vùng
đất Tây Nguyên hùng vĩ mà còn là cả một niềm kiêu hãnh của toàn dân tộc Việt
Nam.

Các lí do Cồng Chiêng Tây Nguyên của Việt Nam được UNESCO công nhận là
“Kiệt tác truyền khẩu và di sản phi vật thể của nhân loại”
1. Danh tiếng văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên đã vượt ra khỏi biên giới
quốc gia, trở thành tài sản của nhân loại. Những giá trị đặc sắc của không
gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, một bộ phận của di sản và tinh hoa
văn hóa Việt Nam được cộng đồng quốc tế biết đến và được tôn vinh .
2. Giá trị nổi bật của Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên là nơi
đây chứa đựng những giá trị sáng tạo mang tầm kiệt tác của nhân loại. Chủ
nhân của Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên là đồng bào các dân
tộc thiểu số Tây Nguyên. Cư dân Tây Nguyên không tự đúc được cồng
chiêng, nhưng với đôi tai và tâm hồn âm nhạc nhạy cảm họ đã nâng giá trị
của một sản phẩm hàng hóa thành một nhạc cụ trình diễn tuyệt vời. Trong
tay các nghệ sĩ dân gian tài hoa ở cộng đồng, mỗi chiếc chiêng giữ nhiệm vụ
một nốt nhạc trong một dàn nhạc, để biểu diễn các bản nhạc chiêng khác
nhau. Ðồng thời, tùy theo từng dân tộc, họ đã sắp xếp, định biên thành các
dàn nhạc khác nhau.
3. Cồng chiêng Tây Nguyên có nguồn gốc từ truyền thống văn hóa và lịch
sử rất lâu đời. Từ xa xưa, cộng đồng cư dân Tây Nguyên đã biết thổi hồn và
tiếp thêm sức sống cho cồng chiêng Tây Nguyên để những âm thanh khi
ngân nga sâu lắng, khi thôi thúc trầm hùng, hòa quyện với tiếng suối, tiếng
gió và với tiếng lòng người Tây Nguyên, sống mãi cùng với đất trời và con
người Tây Nguyên.
4. Cồng chiêng Tây Nguyên giữ vai trò là phương tiện để khẳng định cộng
đồng và bản sắc văn hóa chung các dân tộc Tây Nguyên cũng như của từng
tộc người trên mảnh đất muôn màu, muôn sắc Tây Nguyên. Mỗi dân tộc
Tây Nguyên có một cách chơi chiêng khác nhau. Người dân bình thường ở
Tây Nguyên tuy không phải là những chuyên gia âm nhạc, nhưng chỉ cần
nghe tiếng chiêng là họ phân biệt được đó là dân tộc nào.
5. Âm nhạc của cồng chiêng Tây Nguyên thể hiện trình độ điêu luyện của
người chơi trong việc áp dụng những kỹ năng đánh chiêng và kỹ năng chế
tác. Từ việc chỉnh chiêng đến biên chế thành dàn nhạc, cách chơi, cách trình
diễn, những người dân trong các p’lei, p’lơi, buôn, bon, v.v. dẫu không qua
trường lớp đào tạo vẫn thể hiện được những cách chơi điêu luyện tuyệt vời.
6. Cồng chiêng Tây Nguyên là bằng chứng độc đáo, là nét đặc trưng của
truyền thống văn hóa các dân tộc Tây Nguyên. Nó là một loại hình sinh hoạt
gắn liền với đời sống văn hóa, tinh thần và tín ngưỡng của con người từ lúc
được sinh ra cho đến khi trở về với đất trời, với vũ trụ.
Trong lễ công bố Văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên là kiệt tác văn hóa phi
vật thể của nhân loại, ông Koichiro Matsuura – Tổng Giám đốc UNESCO
đã phát biểu: “Tôi đã được thưởng thức loại hình âm nhạc cồng chiêng rất
riêng của Việt Nam và cũng được thấy những nhạc cụ rất độc đáo trong dàn
nhạc cồng chiêng của các dân tộc Tây Nguyên. Đây là nét văn hóa truyền
thống rất riêng của Việt Nam, rất tuyệt vời và đặc sắc. Việc công nhân
Danh hiệu Kiệt tác di sản văn hóa phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại
đối với Văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên là rất xứng đáng”.
Theo tiến sĩ Đặng Văn Bài _ cục trưởng cục di sản văn hóa “Một vinh dự
lớn cần được bảo tồn và phát huy triệt để”
II.Mô tả đặc trưng di sản
1.Nét đặc trưng về môi trường tự nhiên, dân cư và van hoa.
a. Đặc trưng về môi trường tự nhiên
Về phương diện hành chính lãnh thổ, Tây Nguyên có 5 tỉnh : Gia Lai, Kon
Tum, Đắc Lắc, Đắc Nông , Lâm Đồng. Vùng Tây nguyên có địa hình là cao
nguyên xếp tầng chủ yếu là sơn nguyên , xen giữa là các dãy núi cao trung bình
và các cao nguyên đất đỏ bazan.
Khí hậu phân thành 2 mùa rõ rệt: nóng khô, từ tháng 11 đến tháng 3 và mùa
mưa từ tháng 4 đến tháng 10 tạo nên sự tương phản về thời tiết. Những nét nổi
bật về khí hậu, tạo nên nhịp điệu sản xuất và đời sống van hóa mang tính chu kì
rất đặc trưng ở Tây Nguyên.
Rừng chiếm tỉ lệ lớn và có độ che phủ cao nhất nước ta.Cùng với đó là thế
giới đông thực vật phong phú và quý hiếm tạo nên hệ sinh thái rất đặc trưng của
dân tộc nơi đây.Có thể nói rừng là môi trường sống gần gũi và than thiết cảu cư
dân các dân tộc, văn hóa của người tây nguyên là “ văn hóa rừng”
Hoạt động sản xuất của con người hướng vào canh tác, nương rẫy trồng lúa
ngô là chính , chăn nuôi gia súc phát triển
b. Đặc trưng về dân cư
Tây nguyên và vùng phụ cận là địa bàn sinh tụ cảu gần 20 tộc người bản địa,
thuộc 2 dòng ngôn ngữ chính: Môn-Khmer và Nam Đảo.
Trên địa bàn 5 tỉnh tây nguyên có các tộc người: Bana, Xơ-đăng, Giẻ-triêng,
Brâu, Rơmăm, Mnông, Mạ, Cơho thuộc nhóm Môn-Khmer, và các tộc người
Giarai, Êđê, Churu,Raglai thuộc nhóm Nam Đảo.
Về phân bố dân cư: có các dân tộc thuộc 3 nhóm rõ rệt:
 Các tộc thuộc nhóm Bana – Xơ-đăng (hay gọi là người Bana Bắc) phân bố ở
Bắc tây nguyên, thuộc tỉnh Gia Lai và Kon Tum
 Nhóm M nông – Mạ ( thường gọi là Bana Nam) : gồm tộc ngươi Mnoong,
xtieeng, Mạ, Chơro cư trú ở Nam Tây Nguyên, thuộc tỉnh Lâm Đồng và các
tỉnh kế cận
 Các tộc Nam Đảo ( Gia Rai, Êđê), cư trú chủ yếu ở trung tâm Tây Nguyên
thuộc địa bàn tỉnh Đắc Lắc, Bắc ĐắcNông và Nam Gia Lai.
 Một đặc trưng lớn nhất, cơ bản nhất, từ đó quy định những sắc thái văn hóa
lớn của vùng Trường Sơn – Tây Nguyên là nếp sống nương rẫy, nếp sống chủ
đạo và bao trùm lên toàn bộ tộc người trong vùng.Có thể nói toàn bộ đời sông
vật chất cũng như đời sống tinh thần của dân tộc tây nguyên từ tín ngưỡng lễ
hội, phong tục tập quán, nghi lễ, đời sống tình cảm của con người gắn bó với
nương rẫy, khiến người ta có thể nói văn hóa của đồng bào là “ văn hóa rừng”
c. Đặc trưng về xã hội
Mô hình xã hội cơ bản của tộc người bản địa tây nguyên là làng buôn .Mỗi
buôn làng như vậy bao gồm nhiều gia đình lớn hay nhỏ, cư trú trong một số nóc
nhà, thậm chí cả lằng có môt( nóc nhà dài của đại gia đình.Ở các dân tộc tây
nguyên tồn tại mấy hình thức gia đình mẫu hệ phụ hệ và song hệ, trong đó gia
đình mẫu hệ là tiêu biểu và đặc trưng cho các tộc người ở khu vực này.Cơ cấu
xã hội theo mô hình làng buôn , trong đó nổi bật là quan hệ cộng đồng, là đặc
trưng nổi bật của xã hội các dân tộc tây nguyên.
Toàn bộ văn hóa tộc người cơ bản vẫn là văn hóa dân gian(sử thi) , do con
người sang tạo và phục vụ mọi người trong cộng đồng .
d. Về văn hóa:
Các dân tộc tây nguyên có những nét tương đồng và khá đặc trưng về quan
niệm và ứng xử giữa thế giới người sống và người chế, từ đó hình thành cả một
hệ thống những tập tục, nghi lễ, sinh hoạt văn hóa xung quanh thế giới người
chết, tạo nên một văn hóa dân gian mang tính tổng thể – sinh hoạt văn hóa nhà
mồ
Lễ hội là sinh hoạt tín ngưỡng – văn hóa thường thấy ở tất cả các dân tộc
Tây Nguyên, nó là mốc đánh dấu những hoạt động sản xuất nương rẫy từ chặt
cây gieo hạt tới khi thu hoạch mang lúa về kho; là mốc đánh dấu những sinh
hoạt đời sống con người từ khi đẻ, cưới xin đến lúc chết; là sinh hoạt cộng đồng
từ gia tộc tới cả buôn làng, như lễ cúng bến nước, lễ cầu no đủ,….Trong các lễ
hội ở tây nguyên , nghi thức hiến sinh trở thành quan trọng và không thể thiếu
được. Ngày nay lễ hiến sinh được thay thế bằng con vật, trong đó quan trọng
nhất là hiến sinh trâu. Bởi vậy lễ hội đâm trâu là lễ hội lớn và đặc trưng cho các
dân tộc tây nguyên.
Sinh hoạt văn hóa nghệ thuật cũng là văn hóa nghệ thuật dân gian mang
tính cộng đồng cao: sử thi, sử thi anh hung, trường ca, truyền thuyết anh hung…
Sử thi tây nguyên không chỉ là hiện tượng thuần túy văn học dân gian mà còn là
hiện tượng văn hóa dân gian nữa.Và sinh hoạt kể Khan ra đời –là một hình thức
sinh hoạt văn hóa cộng đồng tiêu biểu của người Êđê nói riêng và của các dân
tộc tây nguyên nói chung.
Âm nhạc: người ta thường nhắc tới nhạc cụ gõ, trong đó cồng chiêng là tiêu
biểu. Nghệ thuật múa cảu dân tộc tây nguyên khá phong phú và độc đáo.Múa là
nội dung sinh hoạt văn hóa chính của các buổi lễ bỏ mả, các lễ hội đâm trâu ,
thậm chí ngay trong ngày vui cảu gia đình,…Có nhiều hình thức mùa như múa
nghi lễ, múa cho từng giới hay mua chung nam nữ, múa tập thể.
Nghệ thuật và tạo hình kiến trúc: mang sắc thái riêng và độc đáo. Ở Trường
Sơn thấy các ngôi nhà công cộng với mái tròn khum mu rùa, đầu hồi trang trí
con chim thần mang phong cách Đông Sơn. Ở Bắc tây nguyên là những ngôi nhà
rông dáng mái cao vút hình lưỡi rìu, vượt hẳn lên trên mái của các ngôi nàh sàn
trong làng.Ở Trung và Nam Tây Nguyên thì đặc trưng bởi các ngôi nhà dài ,
trong đó sinh sống nhiều gia đình và một phần cảu ngôi nàh dành cho sinh hoạt
cộng đồng.. Nhà mồ, tượng mồ và trang trí nàh mồ là đặc trưng chung của hầu
hết các dân tộc sinh sống ở tây nguyên những mỗi tộc người lại mang màu sắc
riêng đăc trưng.
2. Đặc trưng về tiếng cồng, tiếng chiêng.
Các yếu tố bộ phận : cồng chiêng, các bản nhạc tấu bằng cồng chiêng, những
người chơi cồng chiêng, các lễ hội có sử dụng cồng chiêng (Lễ mừng lúa mới, Lễ
cúng Bến nước…), những địa điểm tổ chức các lễ hội (nhà dài, nhà rông, nhà gươl,
rẫy, bến nước, nhà mồ, các khu rừng cạnh các buôn làng Tây Nguyên,…)Cồng
chiêng là những nhạc cụ được xếp vào bộ gõ và nhóm tự thân vang (autosonore)
được làm bằng hợp kim đồng, có khi pha vàng, bạc hoặc đồng đen. Cồng là loại có
núm, chiêng không núm. Nhạc cụ này có nhiều cỡ, đường kính từ 20 đến 50 –
60cm, loại cực đại tới 90 – 120cm. Cồng chiêng có thể được dùng đơn lẻ hoặc dùng
theo dàn, bộ từ 2 đến 12 hoặc 13 chiếc, thậm chí có nơi tới 18 – 20 chiếc. Trong
một bộ chiêng có chiêng mẹ (chiêng cái) là quan trọng nhất.
Cồng chiêng có thể được gõ theo 2 cách chủ yếu: bằng dùi, đấm bằng tay. Có
tộc còn áp dụng kỹ thuật chặn tiếng bằng tay trái hoặc tạo giai điệu trên một chiếc
chiêng.
Có truyền thống văn hóa và lịch sử rất lâu đời
+ Có nguồn gốc ban đầu từ cồng đá, chiêng đá… tre, tới thời đại đồ đồng,
chiêng đồng mới xuất hiện..
+ Tiếng chiêng dài hơn đời người, tiếng chiêng nối liền, kết dính những thế hệ.
Cồng chiêng gắn bó mật thiết với cuộc sống của người Tây Nguyên- là phương
tiện giao tiếp của người Tây Nguyên, là tiếng nói của tâm linh, tâm hồn con người,
để diễn tả niềm vui, nỗi buồn trong cuộc sống, trong lao động và sinh hoạt hàng
ngày của họ.
+ Theo quan niệm của người Tây Nguyên, đằng sau mỗi chiếc cồng, chiêng
đều ẩn chứa một vị thần, họ cũng có đời sống tình cảm và gia đình riêng. Đó
là những vị thần có sức mạnh, và những vị thần linh này có thể mang đến
niềm hạnh phúc, sự thịnh vượng nhưng cũng kéo đến những sự bất hạnh cho
buôn làng khi bị làm cho nổi giận. Vì vậy, Cồng chiêng là phương tiện giao
tiếp với thần linh. Cồng chiêng càng cổ thì quyền lực của vị thần càng cao.
Ngoài ra, Cồng chiêng còn là tài sản quý giá, biểu tượng cho quyền lực và sự
giàu có( vd: Đã có thời một chiếc chiêng giá trị bằng hai con voi hoặc 20 con
trâu)
+ Là phương tiện giao tiếp của người miền núi giữa họ trong cộng đồng-
Phương tiện để nối kết cộng đồng (các dân tộc luôn hoà hợp lẫn nhau trong
văn hoá cồng chiêng mà vẫn giữ được bản sắc văn hoá của dân tộc mình,
không có hiện tượng loại trừ hay đồng hoá văn hoá của nhau trong sinh hoạt
văn hoá cồng chiêng. Các dân tộc đều có thể đến với nhau khi sinh hoạt văn
hoá cồng chiêng. Tiếng cồng chiêng luôn đem đến một cảm xúc rạo rực khó
tả trong mỗi con người, như sự đồng thanh tương ứng khiến họ tìm đến với
nhau)

+ Cồng chiêng Tây Nguyên giữ vai trò là phương tiện để khẳng định cộng
đồng và bản sắc văn hóa chung các dân tộc Tây Nguyên cũng như của từng
tộc người trên mảnh đất muôn mầu, muôn sắc Tây Nguyên. Mỗi dân tộc Tây
Nguyên có một cách chơi chiêng khác nhau. Người dân bình thường ở Tây
Nguyên tuy không phải là những chuyên gia âm nhạc, nhưng chỉ cần nghe
tiếng chiêng là họ phân biệt được đó là dân tộc nào.
+ Nó là một loại hình sinh hoạt gắn liền với đời sống văn hóa, tinh thần và
tín ngưỡng của con người từ lúc được sinh ra cho đến khi trở về với đất trời,
với vũ trụ
Gắn liền với văn hóa .Cồng chiêng là một nhạc cụ nghi lễ
+ Mỗi nghi lễ có ít nhất một bài nhạc chiêng riêng
+ Ngoài ra, còn có những bài chiêng dùng cho các sinh hoạt cộng đồng như:
Bản sắc văn hoá các dân tộc ít người Tây Nguyên thể hiện đậm đà nhất trong
cồng chiêng và sinh hoạt văn hoá cồng chiêng. Tín ngưỡng, lễ hội, nghệ thuật tạo
hình, múa dân gian và ẩm thực dân gian… đều thể hiện, gắn bó mật thiết với cồng
chiêng (các tượng tròn ở nhà mồ của các dân tộc Tây Nguyên chỉ trở nên đẹp hơn
với ngày lễ bỏ mả trong một không gian huyền ảo đầy những tiếng cồng chiêng
sâu lắng).
Đa dạng và phong phú :
Có nhiều biên chế dàn cồng chiêng khác nhau:
+ Dàn chiêng có 2 hay 3 chiếc: Biên chế này tuy nhỏ nhưng theo quan niệm
của nhiều tộc người Tây Nguyên, đây là biên chế cổ xưa nhất. Dàn 2 chiêng
bằng gọi là chiêng Tha, của người Brâu; dàn 3 cồng núm của người Churu,
Bana, Giarai, Gié-Triêng… cũng thuộc loại này.
+ Dàn chiêng có 6 chiêng phổ biến ở nhiều tộc người: Dàn 6 chiêng bằng
của người Mạ; dàn Stang của người Xơđăng; dàn chiêng của các nhóm Gar,
Noong, Prơng thuộc dân tộc Mnông; dàn chiêng Diek của nhóm Kpạ người
Êđê. Cũng có dàn gồm 6 cồng núm như nhóm Bih thuộc dân tộc Êđê. Dàn
chiêng 6 chiếc có thể đảm trách nhịp điệu như dàn cồng núm của nhóm Bih
thuộc dân tộc Êđê, dàn Diek của nhóm Kpạ dân tộc Êđê, dàn chiêng của
nhóm Noong dân tộc Mnông.
+ Dàn chiêng 11 hoặc 12 chiếc gồm 3 cồng núm và 8-9 chiếc chiêng bằng
của các tộc người Giarai (ngành Aráp), Bana (ngành TồLồ, Kon K’Đeh),
người Xơđăng (ngành Steng).
Không do cư dân Tây Nguyên tự đúc ra mà xuất phát từ một sản phẩm hàng
hoá (mua từ các nơi khác về) được nghệ nhân chỉnh sửa thành một nhạc cụ.Vì vậy
phương pháp chỉnh sửa chiêng cộng với tai âm nhạc nhạy cảm của nghệ nhân sửa
chiêng đã thể hiện trình độ thẩm âm tinh tế và hiểu biết cặn kẽ về chế độ rung và
lan truyền âm thanh trên mặt chiêng và trong không gian.
Có hai phương pháp chỉnh sửa mà người nghệ nhân ở Tây Nguyên sử dụng:

+ Gõ, gò theo hình vảy tê tê

+ Gõ, gò theo hình lượn sóng
Có ít nhất 3 phong cách âm nhạc lớn của cồng chiêng Tây Nguyên: Cồng
chiêng Êđê nhịp điệu phức hợp, tốc độ nhanh, cường độ lớn; cồng chiêng Mnông
cường độ không lớn mặc dù tốc độ khá nhanh; cồng chiêng Bana – Giarai thiên về
tính chất chủ điệu (một bè trầm của cồng có núm vang lên âm sắc vững chãi, hùng
tráng, một bè giai điệu thánh thót của chiêng không có núm với âm sắc đanh gọn,
lảnh lót).
Mỗi người đánh chỉ một chiêng: dàn chiêng có bao nhiêu cái thì có bấy
nhiêu người đánh. Niều cuộc cồng phối hợp với nhau để tạo thành dàn nhạc. Lối
biểu diễn rất “động”, kêu gọi cả người xem cùng vào cuộc “xoang”, hát. Kỹ thuật
kích âm, chỉnh âm cồng chiêng của người biểu diễn “biến hóa khôn lường” làm
cho giai điệu lúc trầm, bổng, lúc mơ màng, du dương, lúc bi tráng, hào hùng, lúc
da diết, thắc thỏm… tùy theo hoàn cảnh, môi trường sinh hoạt và tâm trạng. Một
dàn cồng chiêng có cồng chiêng cha mẹ, cồng chiêng con cháu mang hình ảnh một
gia đình gắn bó chặt chẽ với cộng đồng.
Đa số các dân tộc ở Tây Nguyên, chơi chiêng phải là nam giới( kể cả hai tộc
người Êđê, Giarai đang duy trì chế độ mẫu hệ hoặc người Bana, Xơđăng đang duy
trì cả chế độ mẫu hệ lẫn chế độ phụ hệ), thì cũng có một số dân tộc phụ nữ là nghệ
nhân trình diễn chiêng ; đồng thời phụ nữ tham gia múa cùng với nghệ nhân trình
diễn chiêng. Ðiều ấy không chỉ minh chứng cho truyền thống lâu đời của cồng
chiêng Tây Nguyên mà còn cho thấy tính độc đáo văn hóa của nó.
Ngày nay, đã có dàn chiêng hỗn hợp các nghệ nhân cả nam lẫn nữ. Việc nữ
giới đánh chiêng cho thấy vị trí xã hội và vai trò quan trọng của họ trong tâm thức
các tộc người này
Cư dân các dân tộc ít người ở Tây Nguyên đã đạt đến những hiểu biết sâu
và có các kỹ thuật điêu luyện trong việc sử dụng cồng chiêng trong văn hoá và âm
nhạc của mình
( Điều này thể hiện ở việc chỉnh âm chiêng mua về với tư cách là một hàng hoá để
nó trở thành một nhạc cụ trong dàn cồng chiêng của dân tộc; thể hiện ở việc lựa
chọn các biên chế dàn chiêng, ở việc quy định giới tính, tư thế và kỹ xảo diễn tấu.
Ngoài ra, họ còn sáng tác nhiều bản nhạc chiêng cho những công dụng khác
nhau.)
Dân tộc thường chỉ dùng 1-2 cồng phối hợp với một trống dùng trong nghi
lễ hoặc giữ nhịp cho múa. Người Mường ở các tỉnh miền núi phía Bắc có dàn cồng
sắc bùa, bao gồm một biên chế 8-12 chiếc cồng núm. Biên chế chiêng thành dàn là
đặc trưng trong văn hoá của các tộc người Tây Nguyên.
Văn hoá và âm nhạc cồng chiêng Tây Nguyên là văn hoá và âm nhạc dân
gian. Nó là sở hữu cộng đồng, là chuẩn mực văn hoá cho thành viên cộng đồng
thực hiện. Ở những tộc người mà cồng chiêng dành riêng cho nam giới thì mọi
chàng trai tộc người đó phải biết đánh chiêng. Ở những tộc người, nơi cồng chiêng
do nữ giới đảm nhiệm thì mọi cô gái phải biết thực hiện nhiệm vụ này (ở nhóm
Noong dân tộc Mnông thì đó là nhiệm vụ của cả nam lẫn nữ). Là sở hữu của cộng
đồng, cồng chiêng Tây Nguyên có vai trò như một biểu tượng cho năng lực sáng
tạo văn hoá, âm nhạc của người dân trong không gian văn hoá Tây Nguyên.
Thể hiện trình độ điêu luyện của người chơi trong việc áp dụng những kỹ
năng đánh chiêng và kỹ năng chế tác.Các bài chiêng cũng đạt đến một trình độ
biểu cảm âm nhạc phù hợp với trạng thái tình cảm của con người trong mỗi nghi
lễ: Chiêng tang lễ hay bỏ mả thì chậm rãi, man mác buồn; chiêng mùa gặt thì thánh
thót, vui tươi; chiêng đâm trâu thì nhịp điệu giục giã…Mặc dù không tự đúc được
cồng chiêng, nhưng với đôi tai và tâm hồn âm nhạc nhạy cảm họ đã nâng giá trị
của một sản phẩm hàng hóa thành một nhạc cụ trình diễn tuyệt vời. Trong tay các
nghệ sĩ dân gian tài hoa ở cộng đồng, mỗi chiếc chiêng giữ nhiệm vụ một nốt nhạc
trong một dàn nhạc, để biểu diễn các bản nhạc chiêng khác nhau. Ðồng thời, tùy
theo từng dân tộc, họ đã sắp xếp, định biên thành các dàn nhạc khác nhau
Cồng chiêng góp phần tạo nên những sử thi, những áng thơ ca đậm chất văn hóa
Tây Nguyên vừa lãng mạn, vừa hùng tráng. Cồng chiêng đã đi vào sử thi Tây
Nguyên như để khẳng định tính trường tồn của loại nhạc cụ này.
Cồng chiêng có nhiều giá trị khác nhau (10 giá trị ):Giá trị biểu thị đặc trưng
và bản sắc văn hóa vùng; Giá trị biểu thị đặc trưng văn hóa tộc người hoặc nhóm
tộc người, thậm chí cả đặc trưng văn hóa của những nhóm địa phương trong cùng
một tộc người; Giá trị phản ánh đa chiều; Giá trị nghệ thuật; Giá trị sử dụng đa
dạng; Giá trị vật chất; Giá trị biểu thị sự giàu sang và quyền uy; Giá trị tinh thần;
Giá trị cố kết cộng đồng; Giá trị lịch sử.

2.Gía trị về lịch sử và về văn hóa
a. Gía trị lịch sử

Cồng chiêng mang bề dày lịch sử văn hóa của các tộc người Tây Nguyên
hơn 2000 năm.
b. Giá trị văn hoá

Cồng chiêng Tây Nguyên là bằng chứng độc đáo, là nét truyền thống văn
hoá các dân tộc Tây Nguyên. Nó là một loại hình sinh hoạt gắn liền với đời sống
văn hoá, tinh thần và tín ngưỡng của con người từ lúc được sinh ra cho đến khi trở
về với đất trời, với vú trụ. Trong khi đa số các dân tộc ở Tây Nguyên, chơi chiêng
phải là nam giới , thì cũng có một số dân tộc phụ nữ là nghệ nhân trình diễn
chiêng; đồng thời phụ nữ tham gia múa cùng với nghệ nhân trình diễn chiêng. Điều
ấy không chỉ minh chứng cho truyền thống lâu đời của cồng chiêng Tây Nguyên
mà còn cho thấy tính độc đáo văn hoá của nó.

Ở Việt Nam , hầu như tất cả các tộc người đều sử dụng cồng chiêng.
Nhưng các dân tộc thường chỉ dung 1-2 cồng phối hợp với mặt trống dung trong
nghi lễ hoặc giữ nhịp cho múa .Biên chế chiêng thành dàn là đặc trưng trong văn
hoá của các tộc người Tây Nguyên.

Các dàn cồng chiêng Tây Nguyên có nhiều điểm tương đồng với cồng
chiêng Đông Nam Á. Tuy vậy, nó có những nét khác biệt: Văn hoá và âm nhạc
cồng chiêng Tây Nguyên là văn hoá và âm nhạc dân gian. Gía trị văn hóa được thể
hiện qua:
Thứ nhất:Giá trị cố kết cộng đồng“ Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên”

Với các dân tộc Tây Nguyên, phương tiện để nối kết cộng đồng chính là cồng
chiêng. Tiếng cồng chiêng vang lên để nối kết cá thể với cộng đồng, giữa cộng
đồng với cộng đồng này với cộng đồng khác của cùng một dân tộc. Ở Tây Nguyên
có nhiều dân tộc, nhưng các dân tộc luôn hoà hợp lẫn nhau trong văn hoá cồng
chiêng mà vẫn giữ được bản sắc văn hoá của dân tộc mình , không có hiện tượng
loại trừ hay đồng hoá văn hoá của nhau trong sinh hoạt văn hoá cồng chiêng. Các
dân tộc đều có thể đến với nhau khi sinh hoạt văn hoá cồng chiêng. Tiếng cồng
chiêng luôn đem đến một cảm xúc rạo rực khỏ tả trong mỗi con người, như sự
đồng thanh tương ứng khiến họ tìm đến nhau.Âm thanh cồng chiêng là sợi dây nối
cá thể với cộng đồng, cộng đồng với cộng đồng một cách linh thiêng và thế tục,
cộng niệm và cộng cảm. Chiêng cồng đã trở thành biểu tượng cuộc sống các dân
tộc Tây Nguyên.
Thứ hai: Giá trị biểu thị sự giàu sang và quyền uy
Cồng chiêng là tài sản quý giá, biểu tượng cho quyền lực và sự giàu có. Đã có
một thời chiếc chiêng giá trị bằng hai con voi hoặc 20 con trâu.
Nhà nào có nhiều chiêng, có chiêng quý là nhà có quyền lực và giàu có trong buôn
làng.
Với người Tây Nguyên, cồng chiêng và văn hoá cồng chiêng là tài sản vô giá.
Thứ ba: Giá trị biểu thị đặc trưng và bản sắc văn hoá cộng đồng các dân tộc Tây
Nguyên
Bản sắc văn hoá các dân tộc ít người ở Tây Nguyên thể hiện đậm đà nhất trong
cồng chiêng và sinh hoạt văn hoá cồng chiêng. Tín ngưỡng, lễ hội, nghệ thuật tạo
hình, múa dân gian và ẩm thực dân gian… đều thể hiện, gắn bó mật thiết với cồng
chiêng (các tượng tròn ở nhà mồ của các dân tộc Tây Nguyên chỉ trở nên đẹp hơn
với ngày lễ bỏ mả trong một không gian huyền ảo đầy những tiếng cồng chiêng sâu
lắng).
Thứ tư: Giá trị tinh thần“ Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên”
Theo quan niệm của người Tây Nguyên, đằng sau mỗi chiếc cồng, chiêng đều ẩn
chứa một vị thần. Cồng chiêng càng cổ thì quyền lực của vị thần càng cao (Tín
ngưỡng vạn vật linh thiêng).Vào những ngày hội, hình ảnh những vòng người nhảy
múa quanh ngọn lửa thiêng, bên những vò rượu cần trong tiếng cồng chiêng vang
vọng núi rừng, tạo cho Tây Nguyên một không gian lãng mạn và huyền ảo. Cồng
chiêng do vậy góp phần tạo nên những áng thơ ca đậm chất văn hoá Tây Nguyên
vừa lãng mạn, vừa hung tráng .Mỗi dàn cồng chiêng là tiếng nói tâm linh, tâm hồn
của người Tây Nguyên, để diễn tả những niềm vui, nỗi buồn trong cuộc sống lao
động và sinh hoạt hằng ngày của họ. Người Tây Nguyên quan niệm chiêng là tiếng
nói của thần linh và vì thế họ dùng chiếc chiêng trong các lễ hội và họ quan niệm
rằng tiếng chiêng cũng như là tiếng nói của con người Tây Nguyên với thần linh.
Thứ năm: Giá trị biểu thị đặc trưng văn hoá tộc người hoặc nhóm tộc người
Cồng chiêng Tây Nguyên giữ vai trò là phương tiện để khẳng định cộng đồng
và bản sắc văn hoá chung các dân tộc Tây Nguyên cũng như của từng tộc người
trên mảnh đất muôn màu, muôn sắc Tây Nguyên. Mỗi dân tộc Tây Nguyên có một
cách chơi chiêng khác nhau. Người dân bình thường ở Tây Nguyên tuỳ không phải
là những chuyên gia âm nhạc, nhưng chỉ cần nghe tiếng chiêng là họ phân biệt
được đó là dân tộc nào.Mỗi dân tộc đều có những bản nhạc cồng chiêng riêng để

Đánh giá post

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *