11237_Tiểu luận Giới thiệu chung về không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên

luận văn tốt nghiệp

Tiểu luận

Giới thiệu chung về không gian văn
hóa cồng chiêng Tây Nguyên

Nói đến văn hóa các dân tộc Trường Sơn – Tây Nguyên ta không thể nào không nhắc
đến loại nhạc cụ tiêu biểu đại diện cho bản sắc văn hóa nơi đây. Loại nhạc cụ đó là
cồng chiêng Tây Nguyên, một loại nhạc cụ làm nên một không gian văn hóa cho sự
trường tồn của dân tộc.

Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên trãi dài trên vùng cao nguyên
đất đỏ gồm 5 tỉnh: Kon Tum, Giai Lai, Đắk Nông, Đắc Lắk, và Lâm Đồng mà chủ
nhân của loại hình đặc sắc cho không gian văn hóa này là các dân tộc thiểu số sống
dọc Trường Sơn – Tây Nguyên: Ê-đê, Bana, Xê đăng, Mnông,Mạ…
Mỗi dân tôc ở Tây Nguyên sử dụng cồng chiêng theo cách thức riêng để chơi những
bản nhạc của dân tộc mình, nhất là vào dịp lễ hội, chào đón năm mới, mừng nhà
mới và nó thể hiện được tiếng nói tâm linh, tâm hồn con người, để diễn tả tâm trạng
của con người.
Trải qua bao năm tháng cồng chiêng đã trở thành nền văn hóa đặc trưng, đầy sức
quyến rủ và hấp dẫn của vùng đất Tây Nguyên. Năm 2005 “ không gian văn hóa
cồng chiêng Tây Nguyên “ đã chính thức được UNESCO công nhận là “Kiệt tác di
sản văn hóa phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại”.

2. Xuất xứ, đặc điểm và vai trò của cồng chiêng Tây Nguyên
a.Xuất xứ:
– Cồng chiêng Tây Nguyên có nguồn gốc từ truyền thống Đông Sơn, văn
hóa âm nhạc cồng chiêng Tây Nguyên có lịch sử lâu đời.Về cội nguồn nhiều nhà
nghiên cứu cho rằng, cồng chiêng là “hậu duệ “của đàn đá. Trước khi có văn hóa
đồng người ta đã tìm đến loại khí cụ đá: cồng đá , chiêng đá…tre, rồi tới thời đại đồ
đồng mới có chiêng đồng.
– Một hiện tượng khá độc đáo của âm nhạc cồng chiêng Tây Nguyên là tất
cả tộc người ở đây đều không đúc và chế tác cồng chiêng, mà phải mua từ người
việt ở Trung Bộ, người Khơmer ở Campuchia, người Lào ở Nam Lào. Khi mua về,
trong cộng đồng các tộc người ở đây có những người có khả năng chỉnh lại âm
thanh của chiêng sao cho phù hợp với sở thích âm nhạc truyền thống của dân tộc
mình.
b.Đặc điểm:
– Cồng chiêng Tây Nguyên rất đa dạng và gồm nhiều loại. Căn cứ vào cách
chế tạo và vị trí của mỗi chiếc cồng trong giàn cồng chiêng mà người ta đặt tên và
phân thành nhiều loại chiêng khác nhau.
– Cồng chiêng là loại nhạc khí làm bằng hợp kim đồng, có khí pha vàng bạc
hoặc đồng đen. Cồng là loại có núm, chiêng là lọai không có núm. Nhạc cụ này có
nhiều cỡ, đường kính từ 20 cm đến 60 cm, loại cực đại từ 90 cm đến 120 cm. Khi
biểu diễn, cồng chiêng có thể được dùng đơn lẻ hoặc dùng theo dàn, bộ từ 2 đến
12, 13 chiếc thậm chí có nơi từ 18 đến 20 chiếc.Thành phần cồng chiêng bao giờ
cũng có một chiêng dàm, một chiêng đủm, một đôi chiêng bong beng, ba hoặc bốn
chiếc chiêng khỗ và một chiếc chiêng chốt.
– Cồng chiêng Tây Nguyên là loại nhạc cụ độc đáo đặc sắc và đa dạng, khi
sử dụng cồng chiêng người ta có thể gõ bằng dùi, đấm bằng tay. Có tộc còn áp dụng
kỹ thuật chặn tiếng bằng tay trái hoặc tạo ra giai điệu trên một chiếc chiêng. Các
dàn cồng chiêng Tây Nguyên lấy thang bồi âm tự nhiên làm cơ sở thiết lập thang
âm riêng của mình. Trong đó mỗi biến chế của từng tộc người đều cấu tạo bởi thang
3 âm, 5 âm hay 6 âm cơ bản, song cồng chiêng vốn là nhạc cụ đa âm bên cạnh âm
cơ bản bao giờ cũng vang kèm một vài nhạc phụ khác.
– Cồng chiêng Tây nguyên là một vật thiêng, sợi dây nối liền con người với
thần linh
– Cách chỉnh Cồng và gõ Cồng rất đặc biệt, chính xác và tinh tế, dùi gõ bằng
cách gỗ cứng, gỗ mềm, gỗ có bọc da,tay mặt tạo ra thanh, độ cao, màu âm khác
nhau tùy nơi gõ,tay trái có thể tham gia biểu diễn bằng cách bóp cồng làm thay đổi
màu âm.
– Biến chế của dàn cồng rất đa dạng và căn cứ vào độ cao của cồng, chức
năng của mỗi loại cồng có liên quan đến tổ chức xã hội và triết lý sống của người
dân nơi đó, như chia ra cồng mẹ, cồng cha, cồng con, cồng cháu phát lên âm thanh
trầm nứt làm nền cho bản nhạc.
– Khoảng cách giữa người nghe cồng và mỗi chiếc cồng bằng nhau.
– Cồng chiêng di chuyển từ mặt sang trái, đi ngược với kim đồng hồ khiến
cho người nghe giống như được quay về với thời quá khứ.
– Cồng chiêng có mặt trong đời sống con người từ lúc sơ sinh, qua các sinh
hoạt trong đồng áng, trên sông ngòi, thời bình và trong chiến tranh.
Từ thuở sơ khai, giai điệu cồng chiêng gắn với người dân hết sức mật thiết,
nó có mặt và theo sát cuộc đời của con người. Lọt lòng mẹ, tiếng cồng chiêng đã
khai thông, cho đứa bé nhận ra sự ra đời của nó qua lễ thổi tai. Cứ thế đứa trẻ lớn
dần theo nhịp cồng chiêng âm vang của lễ hội vòng đời: trưởng thành, trao vòng,
mừng sức khỏe….Nằm trên lưng mẹ, bé cũng được âm hưởng cồng chiêng cho
nghe những giai điệu náo nức của lễ hội, vòng cây trồng: phát rẩy, trĩa lúa, diệt sâu
bọ, ăn cốm, mừng lúa mới…cùng các lễ tục và lễ hội khác giữa các cộng đồng với
nhau, giữa thiên nhiên và lịch sử: mừng nhà mới, đâm trâu gia đình, đâm trâu mừng
nhà rông mới, đâm trâu mừng chiến thắng, sử bến nước, xua đuổi bệnh tật…cho tới
khi từ giã trần gian về cõi vĩnh hằng yên nghỉ, tiếng cồng chiêng u hoài thương tiếc
tiễn đưa vẫn còn lưu luyến níu kéo chân người ở lại. Tiếng cồng chiêng biểu hiện
của tín ngưỡng là phương tiện giao tiếp với siêu nhiên, và nó còn giống như là thứ
để kết nối những con người trong một cộng đồng lại với nhau.Đây là phương tiện
khẳng định cộng đồng và bản sắc văn hóa dân tộc của cộng đồng các dân tộc ở Tây
Nguyên.
– Ở phần lớn các tộc người, cồng chiêng là nhạc cụ dùng riêng cho nam giới:
Ê đê kpah, GiaiRai, BaNa, Xơ Đăng, Brâu, Cơ Ho… song cũng có một số ít tộc
người thì cả nam lẫn nữ đều có thể dùng: Mạ, Mnông…riêng một số ít tộc người
như Êđê Binh thì chỉ có nữ giới mới được chơi và các kiêng kỵ trong sử dụng cồng
chiêng cũng khác biệt ở mỗi tộc. Cồng chiêng Tây Nguyên là di sản văn hóa mang
đậm dấu ấn thời gian và không gian.
– Khác với cồng chiêng của các nước trong khu vực, cồng chiêng Tây
Nguyên chưa bị chuyên nghiệp hóa vẫn gắn với buôn,vẹn nguyên dáng vẻ dân gian,
thô mộc mà chắc khỏe, tinh tế và sâu lắng nơi núi rừng đại ngàn, cùng với tiếng
thác nước ào ạt chảy ngày đêm, tạo nên một không gian văn hóa đậm chất Tây
Nguyên mà không nơi nào có thể có được.

c. Vai trò:
Về vai trò thì loại nhạc cụ gõ này nó có vai trò hết sức quan trọng và đa dạng
trong đời sống ở các phạm vi:
-Phạm vi quốc gia và cung đình: dùng chiêng trong các lễ hội có triều đình
đứng ra tổ chức, như ở Đền Hùng, Đền Gíong,…chiêng còn dùng để thau binh hoặc
khi xử trảm một tội tử hình cũng gíong chiêng.
– Phạm vi thôn xã và làng buôn: cồng chiêng giữ vai trò rất quan trọng trong
sinh hoạt cộng đồng. Ở các dân tộc Trường Sơn -Tây Nguyên, cồng chiêng dùng
trong các lễ hội đâm trâu rừng chiến thắng, lễ cúng mừng nhà Rông mới, các lễ tạ
ơn thần linh và trong lễ sắc bùa mừng tết Đoan Ngọ của người Mường.
– Trong sinh hoạt quan trọng của gia đình: như sinh đẻ, cưới sinh và tang ma
đều sử dụng cồng chiêng.
-Trong tín ngưỡng dân gian và trong tôn giáo không thể không có sự hỗ trợ
của loại nhạc khí này, dùng chiêng trong các tín ngưỡng dân gian, âm thanh của nó
góp phần tạo nên không gian linh thiêng của tín ngưỡng tôn giáo
-Trong sinh hoạt và sinh hoạt văn nghệ dân gian: cồng chiêng trong múa hát
của người Mường, trong xòe Thái,và tất cả các dân tộc sống dọc Trường Sơn- Tây
Nguyên.
-Trong lao động sản xuất: người ta dùng cồng chiêng trong săn bắn và khi
thu hoạch mùa màng.
Như vậy ta có thể thấy giữ cồng chiêng giữ vai trò quan trọng trong sinh
hoạt xã hội, văn hóa, gia đình, lao động, tín ngưỡng, văn nghệ của các dân tộc dặc
biệt trong phạm vi sinh hoạt làng bảng gia đình.
3. Những giá trị về không gian văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên
Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên được UNESCO công nhận là
di sản văn hóa phi vật thể bởi đó là tập quán, là các hình thức thể hiện,là sự biểu đạt
những kỹ năng của con người nơi đây đã làm nên những giá trị nổi bật ngang tầm
kiệt tác sáng tạo của nhân loại. Đồng thời nó còn là phương tiện khẳng định cộng
đồng và bản sắc văn hóa dân tộc của cộng đồng dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên có
lịch sử lâu đời và bắt nguồn từ truyền thống văn hóa Đông Sơn, nó còn có giá trị
như một bằng chứng độc đáo của đặc trưng truyền thống văn hóa và đang đứng
trước nguy cơ mai một. Bên cạnh đó không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên
còn được lưu truyền qua bao thế hệ được cộng đồng, các nhóm người không ngừng
tái tạo để thích nghi với môi trường và mối quan hệ qua lại giữa cộng đồng với tự
nhiên và lịch sử của họ, đồng thời cũng hình thành trong họ ý thức về bản sắc và sự
kế tục nên đã không làm mất đi tính truyền thống và bản sắc riêng của dân tộc
mình.
– Gía trị nghệ thuật:
Từ chủng loại phương thức kích âm, biên chế và than âm cho đến hệ thống
bài bản và nghệ thuật diễn tấu, chúng ta sẽ bắt gặp những gì của một dải nghệ thuật
đa diện từ đơn giản đến phức tạp, từ ít đến nhiều, từ đơn tuyến đến đa tuyến…
Hiện tại trên cao nguyên vẫn còn hàng chục các nghệ nhân có biệt tài truyền
âm cho các bộ chuyên, nhờ tài năng đặc biệt của họ mà các bộ cồng chuyên vẫn còn
giữ được các âm chuẩn diễn tả được cảm xúc tinh tế nhất của con ngườiTrong đó
bảo lưu cả những lớp cắt lịch sử của tiến trình phát triển âm nhạc từ thời kỳ sơ khai.
Ở đây, mọi giá trị nghệ thuật đều nằm trong mối quan hệ tương đồng và dị biệt, xác
định cá tính vùng miền của nghệ thuật, cùng với sự phong phú, độc đáo và đa dạng
từ toàn bộ đến từng phần, có thể khẳng định vị trí đặc biệt của cồng chiêng Tây
Nguyên trong nền âm nhạc dân tộc Việt Nam.
-Gía trị vật chất
Ở Tây Nguyên hiện nay nhiều gia đình vẫn còn lưu giữ những bộ cồng chiêng có
giá trị, vẫn còn lưu giữ được nhiều nét văn hóa cùng với những giá trị đặc trưng.
-Gía trị biểu thị đặc trưng và bản sắc văn hóa vùng.
Cồng chiêng Tây Nguyên là phương tiện khẳng định cộng đồng và bản sắc
văn vùng.Mỗi dân tộc ở Tây Nguyên có một cách tổ chức dàn cồng chiêng khác
nhau, cách chơi cũng khác nhau. Có ít nhất ba phong cách âm nhạc lớn của Tây
Nguyên: Cồng chiêng Êđê nhịp điệu phức hợp, tốc độ nhanh cường độ lớn; cồng
chiêng Mnông cường độ không lớn mặc dù tốc độ khá nhanh; cồng chiêng Bana-
Giairai thiên về tính chất chủ điệu, một bè trầm của cồng và núm vang lên âm sắc
vững chải, hung tráng một bè giai điệu thánh thót của chiêng không có núm với âm
sắc đanh gọn,lảnh lót.
Bản sắc văn hóa các dân tộc ở mỗi vùng trên Tây Nguyên đều thể hiện đậm
đà nhất qua cồng chiêng và sinh hoạt văn hóa cồng chiêng. Tín ngưỡng lễ hội, múa
hát…đều thể hiện gắn bó mật thiết qua cồng chiêng.
-Gía trị biểu thị đặc trưng văn hóa tộc người hoặc nhóm tộc người thậm chí
cả đặc trưng văn hóa của những nhóm địa phương trong cùng một tộc người
Cồng chiêng là loại nhạc khí được sử dụng rộng rãi của nhiều vùng miền
của Việt Nam và các quốc gia trên thế giới có lẽ không có ở nơi nào hội tụ được
những nét đa dạng. Mỗi dân tộc đều có cách lựa chọn và cách khai thác riêng về
âm thanh cồng chiêng để chúng có thể vang lên tiếng nói tình cảm khát vọng của
dân tộc mình.
Ơ mỗi dân tộc đều có những nét văn hóa riêng trong việc sử dụng cồng
chiêng. Đối với dân tộc Ê đê kpah, GiaiRai, BaNa, Xơ Đăng, Brâu, Cơ Ho… thì
chỉ có nam đánh cồng chiêng, còn Êđê Binh thì chỉ có nữ giới mới được đánh cồng
chiêng. Khác với dân tộc Ê đê kpah, thì người phụ nữ Mnông được tham gia sử
dụng các loại cồng chiêng của dân tộc mình. Họ diễn tấu cồng chiêng trong sinh
hoạt văn hóa cộng đồng, trong các nghi lễ, lễ hội của bon làng, lễ ăn trâu mừng
được mùa,…trong lễ này người phụ nữ không chỉ là người chủ lễ mà còn là người
chỉ đạo và tham gia diễn tấu cồng chiêng theo những bài chiêng dân gian của dân
tộc mình. Đặc biệt tên của dàn chiêng Mnông cũng rất độc đáo, mang đậm yếu tố
mẫu hệ. Cụ thể chiêng bor( người Mnông Gar, Preh, Bu Nơr gọi là Cưng bor). Bộ
chiêng này gồm 6 cái. Thứ tự tên gọi từng cái chiêng như sau:

– May (mẹ)

– R nul (bố)

-N’ dớt

– Loa

-Thơ

-Thế
Qua đó thì ta có thể thấy được một nét đặc trưng riêng biểu thị giá trị đặc
trưng văn hóa của nhóm người, tộc người hay của của một địa phương rất khác
nhau.
-Gía trị sử dụng đa dạng
Tùy vào mỗi dân tộc mà họ có những cách chỉnh và đánh cồng chiêng khác
nhau, và dựa vào đó mà nó có giá trị sử dụng rất đa dạng phù hợp với từng mục
đích.

– Gía trị phi vật thể và không gian linh thiêng

Với người Tây Nguyên, cồng chiêng và văn hóa cồng chiêng là tài sản vô
giá, không chỉ có ý nghĩa về mặt vật chất cũng như những giá trị về nghệ thuật đơn
thuần mà nó còn là tiếng nói của con người và của thần linh theo quan niệm vạn vật
hữu linh. Và theo quan niệm của người dân, đằng sau mỗi chiếc cồng chiêng là một
vị thần, cồng chiêng càng cổ thì quyền lực của vị thần càng cao. Cồng chiêng thể
hiện được sức mạnh của vạn vật nó chính là cuộc sống của người Tây Nguyên. Khi
bài chiêng tấu váng lên, người ta có thể hiểu được đó là cồng chiêng của tộc người
nào và ở đó đang có nghi lễ gì, đặc biệt nghe tiếng cồng, tiếng chiêng người ta còn
thấy được cả không gian săn bắn, không gian làm rẫy, không gian lễ hội…
Trong các hoạt động mang tính nghi lễ, tiếng chiêng thường đi kèm với lời cúng và
múa thiêng để cầu gọi các thế lực siêu nhiên. Bộ chiêng từ giá trị vật chất đơn
thuần, để trở thành vật thiêng dân làng phải tiến hành nhiều nghi lễ mang đậm dấu
ấn tâm linh, tiêu biểu là lễ đón hồn chiêng” – lễ cuối cùng trong hàng loạt các nghi
lễ được tiến hành nhằm đưa xác chiêng được nhập hồn, khi chiêng đã nhập hồn và
trở thành chiêng thiêng thì việc sử dụng của họ đều được tuân thủ theo những quy
tắc nghiêm ngặt nhất định.
Và hầu hết các hoạt động sinh hoạt diễn ra đều xuất phát từ niềm tin của người dân,
bởi lẽ họ cho rằng đằng sau mỗi chiếc cồng chiêng đều ẩn chứa một vị thần,cồng
chiêng càng cổ thì quền lực của vị thần càng cao nó biểu tượng cho quyền lực và sự
giàu có.
-Gía trị cố kết cộng đồng
Âm thanh cồng chiêng là những khúc nhạc theo suốt vòng đời người và chu
kỳ sản xuất của cộng đồng nó biểu hiện sức sống đa diện của cộng đồng, ngoài ra
cồng chiêng còn gắn kết với hoạt động nghệ thuật. Tính cộng đồng thể hiện ở các lễ
hội, theo kiểu”có rượu mọi người cùng uống, có thịt mọi người cùng ăn”,” Ai đánh
chiêng cứ đánh, ai ca hát cứ ca hát” mọi người tham gia lễ hội cũng là để chia vui,
lưu truyền và sáng tạo thêm những giá trị văn hóa truyền thống. Âm thanh cồng
chiêng là sợi dây kết nối cá thể với cộng đồng, và giữa cộng đồng với cộng đồng
một cách linh thiêng và cộng cảm. Cồng chiêng đã trở thành biểu tượng cuộc sống
của Tây Nguyên là biểu hiện đại diện của sức sống là biểu hiện thân thế của gia
đình dòng tộc.Với các dân tộc Tây Nguyên , phương tiện kết nối cộng đồng đó
chính là cồng chiêng. Tiếng cồng chiêng vang lên để nối kết cá thể với cộng đồng,
giữa cộng đồng này với cộng đồng khác của cùng một dân tộc, làm cho họ hòa hợp
vào nhau trong văn hóa trong văn hóa cồng chiêng mà vẫn giữ được bản sắc văn
hóa dân tộc mình, không có hiện tượng loại trừ hay đồng hóa của nhau trong sinh
hoạt văn hóa cồng chiêng. Các dân tộc thiểu số đều đến với nhau khi sinh hoạt văn
hóa cồng chiêng. Tiếng cồng chiêng luôn mang đén một cảm xúc rạo rực khó tả
trong mỗi con người, như sự đồng thanh tương ứng khi họ tìm đến nhau.
Cồng chiêng Tây Nguyên có giá trị như một bằng chứng độc đáo của đặc trưng
truyền thống văn hóa bởi nó có những nét khác biệt về văn hóa và âm nhạc đó là
văn hóa và âm nhạc dân gian, nó thuộc sở hữu cộng đồng mang chuẩn mực văn
hóa ở mỗi người thực hiện.
– Gía trị lịch sử
Cồng chiêng Tây Nguyên là cái nôi của cồng chiêng Đông Nam Á, bởi
những yếu tố vết tích hiện vật, những nét chạm khắc biểu hiện người đánh cồng
chiêng có trên trống đồng Đông Sơn vốn có lịch sử hơn 4000 năm, về lối đánh rất
nguyên thủy và nó có ý nghĩa như một vật tổ.
* Cho đến nay cồng chiêng Tây nguyên còn lưu giữ được nhiều yếu tố cổ
xưa. Gía trị nổi bật của không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên là chứa đựng
những sáng tạo mang tầm kiệt tác của nhân loại, và biến những sản phẩm mà họ
không làm ra thành một nhạc cụ tuyệt vời.
4. Kết luận
Cồng chiêng Tây Nguyên đã tạo nên nét đặc trưng văn hóa riêng mà không
nơi nào có được, chính vì thế mà nó đã làm nên bản sắc văn hóa, không gian văn
hóa đặc thù và được USNECO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể.Với những
giá trị khác nhau về nghệ thuật về không gian linh thiêng…nó đã làm nên cái gọi là:
không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.PGS.TS.Nguyễn Thị Thanh Nga(Chủ Biên),Văn hóa truyền thống một số tộc người ở
Hòa Bình, Nhà xuất bản văn hóa dân tộc.
2.Thu Loan,Lễ hội nông nghiệp của người Bahanar, nhà xuất bản văn hóa dân tộc.
3. GS.TS Ngô Đức Chánh, Những mảng màu văn hóa Tây Nguyên, Nhà xuất bản
trẻ.
4. Viện khoa học xã hội nhân văn.Viện nghiên cứu văn hóa,”phong tục cổ truyền
một số dân tộc thiểu số ở Nam Tây Nguyên”Lê Văn Kỳ (chủ biên) Ngô Đức Thịnh,
Nguyễn Quang Lê, NXB văn hóa dân tộc.
5.TS. Phan Quốc Anh, Văn hóa GiaLai những gì còn lại, NXB văn hóa dân tộc
6. Tổng cục du lịch Việt Nam. Trung tâm công nghệ thông tin.
http:// www.vietnamtourism.com
http:/www.vietnamtourism.gov.vn
Non nước Việt Nam, sách hướng dẫn du lịch. Hà Nội -2005
Trang web
http://vi.wikipedia.org/wiki/Kh%C3%B4ng_gian_v%C4%83n_h%C3%B3a_C%E1%BB
%93ng_Chi%C3%AAng_T%C3%A2y_Nguy%C3%AAn
http://www.tintaynguyen.com/khong-gian-van-hoa-cong-chieng-tay-nguyen-viet-
nam/9618/
http://tranquanghai.info/p2491-bui-trong-hien-%3A-cong-chieng-tay-nguyen-mot-so-dac-
diem-nghe-thuat-co-ban-**.html
http://www.aceev.org/index.php?option=com_content&view=article&id=27%3Avai-net-c-
thu-ca-cng-chieng-tay-nguyen-&catid=6%3Avan-hc&Itemid=7&lang=vihttp://kto.vn/71-
1971/song-trong-khong-gian-van-hoa-cong-chieng-tay-nguyen.html

Đánh giá post

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *