Tiểu luận
Phật giáo và ảnh hưởng của phật giáo
đến đời sống tinh thần của người Việt
Nam
Mục lục
Chương 1: TỔNG QUAN …………………………………………………….. 1
1.1
Đặt vấn đề
……………………………………………………………………… 1
1.2
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ……………………………………… 1
1.3
Phương pháp nghiên cứu………………………………………………….. 1
Chương 2: SỰ RA ĐỜI CỦA PHẬT GIÁO VÀ NHỮNG TƯ
TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA PHẬT GIÁO …………………………………………. 2
2.1
Sự ra đời của Phật Giáo …………………………………………………… 2
2.1.1 Hoàn cảnh ra đời của Phật Giáo ………………………………… 2
2.1.2 Thân thế và sự nghiệp của Đức Phật Thích Ca
…………….. 3
2.1.3 Sự truyền bá Đạo Phật vào Việt Nam
…………………………. 3
2.2
Những tư tưởng triết học cơ bản của Phật Giáo
……………………. 4
2.2.1 Quan Điểm của Phật Giáo về thế giới Quan
………………… 4
2.2.2 Tư tưởng Phật Giáo về nhân sinh quan ………………………. 6
Chương 3: ẢNH HƯỞNG PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG
TINH THẦN CỦA VIỆT NAM.
………………………………………………………. 16
3.1
Ảnh hưởng của Phật Giáo về mặt tư tưởng và đạo lý …………. 16
3.1.1 Ảnh hưởng của Phật Giáo về tư tưởng ……………………… 16
3.1.2 Ảnh hưởng của Phật Giáo về đạo lý
…………………………. 17
3.2
Ảnh hưởng Phật Giáo qua quá trình hội nhập văn hóa Việt Nam
18
3.2.1 Ảnh hưởng Phật Giáo qua sự dung hòa với các tín ngưỡng
truyền thống, các tôn giáo khác và các thế hệ chính trị xã hội
…………… 19
3.2.2 Ảnh hưởng Phật Giáo qua phong tục, tập quán ………….. 20
3.2.3 Ảnh hưởng của Phật Giáo qua các loại hình văn hóa nghệ
thuật
21
Chương 4: KẾT LUẬN ………………………………………………………. 23
Phật giáo và ảnh hưởng của phật giáo đến đời sống tinh thần của người Việt Nam
Page 1
Chương 1: TỔNG QUAN
1.1 Đặt vấn đề
Ước muốn về một cuộc sống hạnh phúc đó là ước muốn từ muôn đời
nay không của chỉ riêng ai. Phật Giáo chứa một triết lí nhân sinh cao cả với
ước muốn là cứu con người khỏi nỗi khổ muôn đời, với cứu cánh là giải thoát,
không phải bằng sự ban bố nhân đức mà ở chỗ con người có hạnh phúc hay
không là chính ở cuộc sống đức độ của con người, có như vậy con người mới
có thể đạt đến cái “Chân- Thiện – Mỹ” và nhập vào thế giới niếp bàn.
Ta thấy rằng đạo Phật đã du nhập vào Việt Nam từ những kỉ nguyên
tây lịch, rồi tồn tại phát triển và chan hòa với dân tộc cho đến tận hôm nay.
Nếu thời gian là thước đo của chân lí thì với bề dày lịch sử đó đạo Phật đã
khẳng định những giá trị của nó trên mảnh đất này. Vì vậy tìm hiểu triết học
Phật Giáo giúp con người biết hiểu hơn về một trường phái triết học lớn, về
truyền thống văn hóa mà tổ tiên đã để lại
1.2 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là tư tưởng cơ bản của triết học Phật
Giáo, ảnh hưởng của Phật Giáo đối với đời sống tinh thần ở người Việt Nam.
Phạm vi ngiên cứu: chỉ nghiên cứu những tư tưởng cơ bản của Phật
Giáo và ảnh hưởng của Phật Giáo đối với đời sống tinh thần ở người Việt
Nam.
1.3 Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cúu tiểu luận là phương pháp tổng hợp các
phương pháp chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đặc
biệt là logic phân tích, tổng hợp gắn với lí luận thực tiễn để thực hiện đề tài.
Phật giáo và ảnh hưởng của phật giáo đến đời sống tinh thần của người Việt Nam
Page 2
Chương 2: SỰ RA ĐỜI CỦA PHẬT GIÁO VÀ NHỮNG TƯ TƯỞNG
TRIẾT HỌC CỦA PHẬT GIÁO
2.1 Sự ra đời của Phật Giáo
2.1.1 Hoàn cảnh ra đời của Phật Giáo
Điều kiện thiên nhiên ở Ấn Độ rất phức tạp, địa hình đa dạng, khắc
nghiệt của tự nhiên và khí hậu là những thế lực tự nhiên đè nặng lên đời sống
và ghi dấu ấn đậm nét lên tâm trí người dân Ấn Độ cổ.
Xã hội Ấn Độ cổ đại là một xã hội rất sớm, khoảng thế kỉ thứ XXV
trước công nguyên đã xuất hiện nền văn minh đầu tiên là nền văn minh sông
Ấn. Đến thế kỉ thứ XV trước công nguyên , có sự xâm nhập của người Arya
vào khu vực của người bản địa (người Dravida) hình thành nên các quốc gia
Ấn Độ tạo nên nền văn hóa mới gọi là nền văn hóa Véda.
Đặc diểm nổi bật của nền kinh tế – xã hội Ấn Độ cổ là sự tồn tại rất
sớm và kéo dài của kết cấu kinh tế xã hội theo mô hình “công xã nông thôn”,
đặc trưng của kết cấu này là ruộng đất thuộc quyền sở hữu của nhà nước của
các Đế Vương, mà gắn liền với nó là sự bần cùng hóa của người dân trong
công xã. Xã hội thời kì này được phân chia thành 4 đẳng cấp lớn là: Tăng lữ,
quý tộc, bình dân tự do và nô lệ cung đình. Sự phân chia đẳng cấp đó là cho
xã hội xuất hiện những mâu thuẫn gay gắt dẫn đến cuộc đấu tranh giai cấp
giữa các đẳng cấp trong xã hội. Trong cuộc đấu tranh ấy nhiều tôn giáo và
trường phái triết học đã ra đời, trong đó có Phật Giáo.
Phật Giáo ra đời trong làn sóng phản đối sự ngự trị của đạo Bà-La-
Môn và chế độ đẳng cấp. Phật Giáo lí giải căn nguyên nỗi khổ và tìm đường
giải thóat cho con người khỏi nỗi khổ triền miên đè nặng trong xã hội nô lệ
Ấn Độ. Vì chống lại sự ngự trị của đạo Bà-La-Môn, đặt biệt là chống lại quan
điểm của kinh Véda, nên Phật Giáo được xem là dòng triết học không chính
thống. Đức Phật xuất hiện như một mặt trời sưởi ấm: buổi ban mai làm tan đi
Phật giáo và ảnh hưởng của phật giáo đến đời sống tinh thần của người Việt Nam
Page 3
bóng đen dày đặc đã từ lâu che phủ cuộc đời. Ngài không chỉ là vị cứu tinh
cho xứ Ấn Độ thời bấy giờ, mà còn là người vạch ra hướng đi mới cho nhân
loại.
2.1.2 Thân thế và sự nghiệp của Đức Phật Thích Ca
Người sáng lập ra Phật Giáo là Thích Ca Mâu Ni, tên thật là Tât Đạt
Đa (Siddhattha), họ là Cù Đàm (Goutama), thuộc bộ tộc Sakya. Tất Đạt Đa
sinh ngày 15 tháng 4 năm 563 trước CN, là Thái tử của vua Tịnh Phạn, một
nước nhỏ nằm ở Bắc Ấn Độ (nay thuộc vùng đất Nepan).
Mặc dù sống trong cảnh cao sang quyền quý, dòng dõi Đế Vương, vợ
đẹp con ngoan. Nhưng trước bối cảnh xã hội phân chia đẳng cấp khắc nghiệt,
với sự bất lực của con người trước khó khăn của cuộc đời. Năm 29 tuổi, ông
quyết định từ bỏ con đường Vương giả xuất gia tu đạo. Sau 6 năm tu hành,
năm 35 tuổi, Tất Đạt Đa đã giác ngộ tìm ra chân chân lí “Tứ diệu đế” và
“Thập nhị nhân duyên”, tìm ra con đường giải thoát nỗi khổ cho chúng sinh.
Từ đó Người đã đi khắp nơi để truyền bá tư tưởng của mình và ông đã trở
thành người sáng lập ra tôn gáo mới là Đạo Phật. Về sau ông được suy tôn với
nhiều danh hiệu khác nhau: Đức Phật, Thích Ca Mâu Ni, Thánh Thích Ca…
Qua hơn 40 năm hoằng pháp và truyền đạt Giáo lí khắp nước Ấn Độ.
Năm ông 80 tuổi thì qua đời, ông để lại cho nhân lọai những tư tưởng triết
học Phật Giáo vô cùng quý báu.
2.1.3 Sự truyền bá Đạo Phật vào Việt Nam
Việc xá định niên đại Phật Giáo du nhập vào Việt Nam cho đến nay
vẫn chưa có đủ tư liệu đề biết chính xác. Sử liệu chỉ nói đến tình hình Phật
Giáo nước ta từ thế kỉ thứ II sau công nguyên, lúc bấy giờ trung tâm Phật
Giáo ở Luy Lâu ( vùng Dâu-Thuận Thành- Hà Bắc) đã khá thịnh đạt. Điều đó
khiến ta có thể suy đoán rằng Phật Giáo từ phía Nam Ấn Độ qua đường biển
vào Việt Nam khỏang thế kí thứ I sau công nguyên. Các vị sư đầu tiên là
Phật giáo và ảnh hưởng của phật giáo đến đời sống tinh thần của người Việt Nam
Page 4
người Ấn Độ, nhưng về sau lại thấy xuất hiện tên hiệu vị sư Trung Á và
Trung Hoa. Có thể nói rằng, ngay từ thời rất xưa Việt nam đã đựơc cao tăng
Ấn Độ đến để truyền Giáo trực tiếp. Trải qua các triều đại từ Đinh, Lê, Lý,
Trần… Đặc biệt là dưới 2 triều đại Lý và Trần, Phật Giáo đã để lại dấu ấn một
thời vàng son. Từ thế kỉ thứ XIII tuy Phật Giáo không còn là quốc Giáo
nhưng có sự kết hợp hài hòa với tinh thần “Tam Đạo Đồng Đường” đã tạo
cho Phật Giáo một nét mới, vẫn để lại nhiều dấu ấn trong tâm hồn, tình cảm,
phong tục tập quán và cảnh quan của dân tộc Việt Nam.
2.2 Những tư tưởng triết học cơ bản của Phật Giáo
Tư tưởng triết học Phật Giáo ban đầu chỉ là truyền miệng, sau đó được
viết thành văn thể trong một khối kinh điển rất lớn, gọi là “ Tam Tạng”, Gồm
3 Tạng kinh điển là: Tạng Kinh, Tạng Luật, và Tạng Luận. Trong đó thể hiện
các quan điểm về thế giới và con người.
2.2.1 Quan Điểm của Phật Giáo về thế giới Quan
Quan điểm về thế giới quan của Phật Giáo Được thể hiện tập trung ở
nội dung của 3 cặp phạm trù: Vô ngã, Vô thường và Duyên.
2.2.1.1 Vô ngã
Cho rằng thế giới xung quanh ta và cả con người không phải do một vị
thần nào sáng tạo ra, mà được cấu thành bởi sự kết hợp giữa 2 yếu tố: “Sắc”
và “Danh”.
Sắc: Là yếu tố vật chất, là cái thể cảm giác được. Còn “Danh”. Là yếu
tố tinh thần, không có hình chất mà chỉ có có tên gọi. Chính cái “Danh” và
“Sắc” đó hợp lại với nhau tạo thành “Ngũ Uẩn”: Sắc (vật chất), thụ (cảm
giác), Tưởng (ấn tượng), Hành (suy lý) và thức (ý thức). “Danh” và “Sắc” tác
dộng qua lại tạo nên vạn vật và con người. Nhưng sự tồn tại của vật chất chỉ
là tạm thời, không có sự vật riêng biệt nào tồn tại mãi mãi. Do đó cũng không
có cái gọi là “Tôi”.
Phật giáo và ảnh hưởng của phật giáo đến đời sống tinh thần của người Việt Nam
Page 5
2.2.1.2 Vô thường
Nghĩa là vạn vật biến đổi cùng theo chu trình bất tận: Sinh-Trụ-Dị-
Diệt. Vậy thì “có có” – “không không” luân hồi bất tận, “thoáng có” – “thoáng
không”, cái còn mà chẳng còn cái mất mà chẳng mất.
Đức Phật dạy, “tất cả những gì trong thế gian đó là biến đổi, hư hoại,
đều là vô thường”. Vì vậy vô thường nghĩa là không thường, không mãi ở yên
trong một trạng thái nhất định, luôn luôn thay đổi hình dạng, đi từ trạng thái
hình thành đến biến dị rồi tan rã.
Vô thường của Đạo Phật là một phương pháp chỉ rõ mặt trái của đời,
để bài trừ những sự mê lầm, ngăn chặn người chạy theo vật dục, nó chưa phải
là thuyết tuyệt đối. Vô thường là một định luật chi phối tất cả sự vật từ thân
tâm cho đến hoàn cảnh. Hiệu lý vô thường, con người dễ giữ được bình tĩnh,
thản nhiên trước cảnh đổi thay bất ngờ.
2.2.1.3 Duyên
Là điều kiện giúp cho nguyên nhân trở thành kết quả.
Phật Giáo cho rằng, mọi sự vật, hiện tượng trong vũ trụ từ cái nhỏ
nhất đến cái lớn nhất đều chịu sự chi phối của luật nhân duyên. Trong đó
duyên là điều kiện giúp cho nguyên nhân trở thành kết quả. Kết quả ấy lại nhờ
có duyên mà trở thành nhân khác, nhân khác lại nhờ có duyên mà trở thành
kết quả mới. Cứ như vậy mà tạo nên sự biến đổi không ngừng của các sự vật,
tuân theo quy luật Nhân-Quả: nhân là cái mầm, Qủa là cái hạt, cái trái do
mầm ấy phát sinh. Nhân và quả là hai trạng thái nối tiếp nhau, nương vào
nhau mà có. Nếu không có nhân thì không thể có quả, nếu hkông có quả thì
không thể có nhân, nhân thế nào thì quả thế ấy. Nói cách khác nhân với quả
bao giờ cũng đồng một loại với nhau, hể nhân đổi thì quả đổi.
Một nhân không sinh ra quả, sự vật trong vũ trụ này đều là sự tổ hợp
của nhiều nhân duyên. Cho nên không có nhân nào tự tạo thành quả được nếu
Phật giáo và ảnh hưởng của phật giáo đến đời sống tinh thần của người Việt Nam
Page 6
không có sự giúp đỡ của nhiều nhân khác, trong nhân có quả, trong quả có
nhân. Một sự vật mà ta gọi là quả là khi nó biến chuyển hình thành ra trạng
thái mà ta mong đợi, ước muốn. Mỗi vật vì thế điều có thể gọi là nhân hay là
quả đều được cả. Đối với quá khứ thì nó là quả, đối với tương lai thì nó là
nhân.
Sự biến chuyển từ nhân đến quả có khi nhanh khi chậm, chứ không
phải bao giờ cũng diễn tiến trong một thời gian đồng nhất.
Tóm lại: Triết học Phật Giáo bát bỏ quan niệm duy tâm cho rằng thần
thánh sáng tạo ra con người và vũ trụ. Phật Giáo thừa nhận con người và sự
vật được cấu thành từ các yếu tố vật chất và tinh thần, các sự vật của thế giới
trong sự biến đổi không ngừng. Đó là quan điểm duy vật biện chứng về thế
giới, mặc dù còn chất phác, mộc mạc nhưng rất đáng trân trọng.
2.2.2 Tư tưởng Phật Giáo về nhân sinh quan
Quan điểm về nhân sinh quan của Phật Giáo bao gồm “Nghiệp”,
thuyết “Tứ Diệu Đế” và “Ngũ giới”.
2.2.2.1 Nghiệp báo
Là một định luật nhân quả trong vấn đề luân lý, hay như người
phương tây thường nói là “ảnh hưởng của hành động”. Phật Giáo không nhìn
nhận có một linh hồn trường cữu được tạo nên một cách ngẫu nhiên và độc
đoán. Phật Giáo tin có định luật và công lý thiên nhiên, không phải do một
đấng thượng đế toàn năng hay một Đức Phật đại từ đại bi tạo nên.
Theo lý nghiệp báo, chúng ta không nhất định trói buộc trong một
hoàn cảnh nào, vì nghiệp báo không phải là số mạng cũng không phải là tiền
định do một oai lực huyền bí nào đó định đoạt cho ta một cách bất khả kháng.
Chúng ta có đủ năng lực để chuyển phần nào cái nghiệp của ta theo ý muốn.
Nghiệp không nhất thiết phải là hành động trong quá khứ mà thôi.
Nghiệp bao chùm qúa khứ và hiện tại là nơi trong quá khứ chúng ta hành
Phật giáo và ảnh hưởng của phật giáo đến đời sống tinh thần của người Việt Nam
Page 7
động như thế nào và trong tương lai chúng ta sẽ là như thế nào cũng tùy nơi
hành động chúng ta trong hiện tại.
Tóm lại: tất cả nghiệp lực đều tùy thuộc nơi biến đổi của tâm lực và
luôn luôn sẵn sàng phát hiện trong muôn ngàn hiện tượng mỗi khi có cơ hội.
Nghiệp là năng lực cá biệt được chuyển từ kiếp này sang kiếp khác. Nghiệp
thủ một vai trò quan trọng trong việc cấu tạo tâm tính con người, nghiệp giải
thích những hiện tượng mà ta gọi là vĩ nhân, thiên tài, thần đồng.
2.2.2.2 Thuyết tứ Diệu đế
Nội dung triết lý nhân sinh của Phật Giáo thể hiện trong “Tứ Diệu Đế”
được Phật Giáo coi là 4 chân lý vĩ đại. Thông điệp tứ diệu đế được xem là
một giải trình mà ở đó bao gồm cả hai mặt nhận thức và hành động, do đó con
đường tu tập tứ đế không thể xét qua góc độ nhận thức mà vấn đề là mô thức
biện chứng của nó.
Đức Phật trong quá trình đi tìm con đương giải thóat, những kinh
nghiệm khổ đau của bản thân đã trải qua là những kinh nghiệm sâu sắc. Do đó
thuyết tứ diệu đế được xem như một quá trình biện chứng thực tại ngay đời
sống của người và cái đỉnh cao tận cùng ấy được Đức Phật giảng giải qua
dạng của tứ đế trên cơ sở tương quan nhân quả, đây chính là bằng chứng thực
tại mà Đức Phật đã đi qua. Vì thế nó không phải là mẫu thức lý tưởng, cũng
không phải là bản sao chép từ những ý nịêm.
Tứ Diệu Đế được Đức Phật giải minh thông qua bốn tiền đề triết học
cơ bản: Tri ân thực tại, sự chuyển hướng tư duy, sự chuyển hướng 2 chiều,
giải trình tư duy.
2.2.2.2.1
Khổ đế
Là thực trạng đau khổ của con người, triết lý về cuộc đời mỗi người là
một bể khổ, ràng buộc, hệ lụy, không tự do. Có tám cái khổ: Sinh, lão, bệnh ,
Phật giáo và ảnh hưởng của phật giáo đến đời sống tinh thần của người Việt Nam
Page 8
tử, thụ biệt khổ, sở cầu bất đắc, ngũ thụ uẩn, ta có thể chia thành ba phương
diện.
Phương diện sinh lý: Khổ là một cảm giác khó chịu, bức xúc,
đau đớn.
Phương diện tâm lý: Là sư đau khổ do không vừa ý, không vừa
lòng… Tạo nên đau khổ. Những mất mát thua thiệt trong cuộc đời làm mình
khổ.
Phương diện Phật học: Khổ là ngũ thụ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành
và thức). Khi ta bám víu vào năm yếu tố trên, coi đó là ta, là cùa ta, là tự ngã
của ta, thì sự khổ đau có mặt. Ý niệm về “thân thể của tôi”, “tình cảm tôi”,
“nhận thức của tôi”…hình thành một cái tôi ham muốn, vị kỷ, từ đó mọi đau
khổ phát sinh đều gắn liền với ý niệm về cái tôi ấy.
Tóm lại: Cái khổ về mặt hiện tượng là cảm giác khổ về thân, sự bức
xúc của hòan cảnh, sự không toại nguyện của tâm lý về bản chất. Về phương
triết học, khổ đau là một thực tại như thực đối với con người, khổ đế là một
chân lý khách quan hiện thực, khổ hay hình thái bất an là kết quả hàng lọat
nhân duyên được tạo tác từ tâm thức. Như vậy tri nhân thực tại là một cách
trực tiếp đi vào soi sáng mọi hình thái khổ đau của con người. Để thấu hiểu
triệt để cái căn nguyên của khổ đau, con người không thể dừng lại ở sự thật
của đau khổ, hay quay mặt chạy trốn, mà phải đi vào soi sáng cái bản chất nội
tại của nó.
2.2.2.2.2
Tập đế
Chân lí về sự phát sinh của khổ: Nguyên nhân của khổ là sự ham
muốn, tìm sự thoả mãn dục vọng, thoả mãn được trở thành, thoả mãn được
hoại diệt. Các loại ham muốn này là gốc của Luân hồi
Có 12 nguyên nhân gây ra sự đau khổ (thập nhị nhân duyên).
Phật giáo và ảnh hưởng của phật giáo đến đời sống tinh thần của người Việt Nam
Page 9
Vô minh: Đây là danh từ mang hàm nghĩa chỉ sự không hiểu biết
chánh pháp, không thông hiểu bản chất của cuộc sống, chứ không phải mang
nghĩa thông thường là không hiểu. Vì do vô minh mà con người chỉ lo bám
víu đời sống hôm nay, chỉ lo tìm kiếm lợi lạc cho riêng mình, mong muốn
được thụ cảm những những hạnh phúc, vui sướng, thoải mái tạm bợ bên ngoài
nhằm thỏa mãn giác quan. Đó là một sự ngu muội vô cùng, vì rằng hạnh phúc
vĩnh cửu chỉ xuất hiện từ trong nội tâm phát ra mà thôi. Còn nương tựa bên
ngoài thì không bao giờ là bền vững, nhất định nó sẽ tan biến và mất đi dù
chúng ta có bám lấy sao đi nữa.
Hành: Chữ Hành ta có thể hiểu đó chính là những hành động,
hành vi của thân, khẩu, ý gây tạo nên nghiệp quả. Yếu tố này do vô minh dẫn
đến, Vì rằng không có hiểu biết mà con người hành động theo tham ái, hay
dục vọng của mình mà không có điều hòa, chế ngự tâm nên tội lỗi, khổ đau,
buồn phiền luôn xuất hiện theo sau.
Thức: Đây là yếu tố do Hành dẫn đến. Mang hàm nghĩa là thức
nối tiếp, thức tái sinh hay thức nhận biết.Khi chúng ta hành động không có
Chánh kiến sẽ dẫn đến những nhận biết sai lầm, để rồi chúng ta trở nên vô
minh nhiều hơn nữa.
Danh sắc: Yếu tố do Thức dẫn đến. Danh Sắc hay còn được gọi
là tâm và thân. Khi sự thấu hiểu sai lệch được hình thành làm cho Tâm
(Danh) chúng ta có khuynh hướng lệ thuộc vào những quan kiến đó, khi đó
bản ngã sẽ xuất hiện. Cụm từ Danh Sắc bao hàm nên một con người.
Lục Căn: Đây là yếu tố do Danh Sắc dẫn đến. Bao gồm có:
Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân, Ý và nó chỉ có khi con người tồn tại.
Xúc: Yếu tố do Lục Căn dẫn đến. Bên cạnh lục căn gồm có Lục
Trần: Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc, Pháp. Cả hai Lục Căn và Lục Trần cấu tạo
Phật giáo và ảnh hưởng của phật giáo đến đời sống tinh thần của người Việt Nam
Page 10
nên Xúc của con người. Tiếp xúc thế giới xung quanh sinh ra các cơ quan
cảm giác.
Thọ: Yếu Tố do Xúc dẫn đến. Thọ ta có thể hiểu nó chính là cảm
giác hạnh phúc, đau khổ hay không hạnh phúc, không đau khổ. Hiểu theo
nghĩa thô đó chính là sự nhận, thụ hưởng. Có nghĩa là khi mà Xúc phát xuất
thì Thọ cũng sẽ xảy ra cùng lúc.
Ái: Yếu Tố do Thọ dẫn đến. Chỉ những dục vọng mong muốn,
yêu thích, thèm khát… Vì khi con người nhận được những xúc cảm bên ngoài
tác động vào, họ phát sinh nên tham ái đối với những đối tượng giác quan đó.
Thủ: Yếu Tố do Ái dẫn đến. Chỉ sự bám chặt, bám víu, thủ
chấp…. Mang nghĩa gần giống với Luyến. Đây là yếu tố dẫn con người đi
trong vòng luân hồi mãi mãi. Do chúng ta bám chấp vào đời sống.
Hữu: Yếu tố do Thủ dẫn đến. Đây chỉ về Nghiệp gồm có quá
trình tạo tác, quá trình nhận lãnh. Vì do bám víu, xem điều gì hay vật gì đó là
của mình nên con người tạo những nghiệp quả nhằm đem lại lợi ích cho chính
mình, tiến trình thông qua 3 hành động từ thân, khẩu và ý.
Sanh: Yếu tố do Hữu dẫn đến. Yếu Tố Sanh mang hàm nghĩa là
sự hình thành của của năm uẩn trong bào thai của một người mẹ nào đó. Do
chịu lý của Nghiệp Quả mà thức tái sanh sẽ tiếp tục trở lại bào thai người mẹ
và hình thành nên một con người để thụ lãnh Nghiệp đã vay tạo.
Lão và tử: ếu tố cuối cùng do Sanh dẫn đến. Đây là thuộc về luật
tự nhiên và như một giai đoạn mà không một người nào thoát khỏi nếu như
còn mang nặng ngũ uẩn. Con người sẽ già theo năm tháng và cuối cùng là
phải giã từ cõi đời.
Như thế 12 nhân duyên là hiện hữu của con người, đồng thời cũng là
tiến trình hiện hữu của con người từ sinh thành đến hủy diệt. Thập nhị nhân
duyên là triết lý về nguyên nhân của sự khổ, về nguồn gốc của sự khổ. Khi
Phật giáo và ảnh hưởng của phật giáo đến đời sống tinh thần của người Việt Nam
Page 11
nhận thức được bản chất của sự khổ một cách rõ ràng ta mới có thể đi vào con
đường đọan tận khổ đau. Nguyên nhân của khổ có nguồn gốc sâu xa trong
tâm tưởng của con người. Phật Giáo cũng nhìn thấy các nguyên nhân đau khổ,
có cái phát sinh từ vật chất hay hoàn cảnh xã hội, nhưng nguyên nhân chính
vẫn là tâm thức.
Nguyên nhân sâu hơn và căn bản hơn chính là vô minh, tức là si mê
không thấy rõ bản chất của sự vật hiện tượng đều nương vào nhau mà sinh
khởi, đều vô thường và chuyển biến, không có cái chủ thể, cái bền vững độc
lập ở trong chúng. Do không thấy rõ nên sinh tâm ham muốn, ôm giữ lấy các
đối tượng lạc thú. Do không thấy rõ mới lầm tưởng rằng “cái tôi” là quan
trọng nhất, là cái có thật cần phải bám víu, củng cố và thỏa mãn nhu cầu của
nó.
Tóm lại: Chúng ta có thể nhận thấy một cách rõ ràng, khổ hay không
là do lòng mình. Hay nói cách khác, tùy theo cách nhìn của mỗi người đối với
cuộc đời mà có khổ hay không. Nếu không bị sự chấp ngã và dục vọng, vị kỹ
hay phiền não khuấy động, chi phối, ngự trị trong tâm thì cuộc đời đầy an lạc
hạnh phúc.
2.2.2.2.3
Diệt đế
Phật Giáo cho rằng mỗi nỗi khổ có thể tiêu diệt được để đạt đến trang
thái niết bàn có ngã là hạnh phúc, an lạc. Đạo Phật quan niệm rằng, nguyên
nhân khổ là do sự vận hành của thập nhị nhân duyên, trong đó gốc rễ sâu xa là
sự vô minh. Vậy muốn diệt khổ phải đi ngược lại sự vận động của 12 nhân
duyên, bắt đầu tư diệt trừ vô minh. Vô minh bị diệt, trí tuệ bừng sáng, hiểu rõ
được bản chất tồn tại, thực tướng của vũ trụ và con người, không còn tham
dục và kéo theo những hành động tạo nghiệp nữa, tức là thoát khỏi vòng luân
hồi sinh tử. Nói cách khác, diệt trừ được vô minh, tham dục thì hoạt động ngũ
uẩn dừng lại, tu đến Niết bàn, tịch diệt, khi ấy mới hết luân hồi sinh tử.
Phật giáo và ảnh hưởng của phật giáo đến đời sống tinh thần của người Việt Nam
Page 12
Phật Giáo cho rằng, một khi người ta đã làm lắng dịu lòng tham ái,
chấp thủ, thì những nỗi lo âu, sợi hải, bất an giảm dần, thâm tâm của bạn trở
nên thanh thản, đầu óc tĩnh táo hơn; lúc đó nhìn mọi vấn đề trở nên đơn giản
hơn, rộng lượng hơn. Đó là một hình thức hạnh phúc, cũng nhờ vậy tâm trí
không bị chi phối bởi những tư tưởng chấp thủ, nhờ không bị nung núng bởi
các ngọn lửa phiền muộn, lo lắng sợ hải mà tâm lý của bạn trầm tĩnh và sáng
suốt hơn, khả năng nhận thức sự vật hiện tượng sâu sắc hơn, chính xác hơn,
thâm tâm được chuyển hóa, thái độ ứng xử của bạn với mọi người xung
quanh rộng lượng và bao dung hơn. Tùy vào khả năng giảm thiểu lòng tham,
vô minh đến mức độ nào thì đời sống của bạn sẽ tăng phần hạnh phúc đến
mức độ ấy.
2.2.2.2.4
Đạo Đế
Là con đường phải theo để diệt trừ đau khổ.
Đạo Phật chủ trương vừa lấy trí tuệ diệt trừ vô minh, phá vòng luân
hồi sinh tử, vừa thực hành tu tập, diệt trừ tham dục để chuyển nghiệp, đạt đến
sự giải thoát. Đây là con đường nhằm để hòan thiện đạo Đức cá nhân, con
đường này là một bằng chứng về kiểu suy luận hơp lý và trí tuệ thực tiễn
thông qua con đường Bát chính đạo:
Chính kiến: Hiểu biết đứng đắn về tứ Diệu đế hãy từ bỏ mọi điều
mê tín, tư tưởng vạn vật hữu linh, các nghi thức cổ xưa, hãy từ bỏ niềm tin
vào các tục lệ gây nên sự không bình đẳng giữa người với người, từ bỏ niềm
tin vào sự hiện hữu của một đấng tối cao, hãy dựa vào khả năng suy luận
thuần túy của mình. Đây là bước giúp con người có một căn bản lý trí. Nếu
không có chính kiến thì mọi quyết định sẽ mắc sai lầm.
Chính tư duy: Hãy suy nghĩ chính chắn, suy nghĩ đúng là nền
tảng để đạt được những thành tựu to lớn, miễn là dựa trên chính kiến.
Phật giáo và ảnh hưởng của phật giáo đến đời sống tinh thần của người Việt Nam
Page 13
Chính ngữ: Giữ lời nói chân chính, trung thực, trong sáng, không
nói lời nóng nảy, thô tục, chửi bới, vu khống, phỉ bán.
Chính nghiệp: Hành động chân chính, không làm những việc tàn
bạo, giả dối, không sát sinh, chộm cắp, rượu chè nghiện ngập.
Chính mạng: Sống chân chính, không tham lam, vụ lợi xa rời
nhân nghĩa.
Chính tinh tiến: Rèn luyện, tu tạp không mệt mỏi là sự nỗ lực
vam go để nâng cao trí tuệ và đạo Đức của mình. Con người phải cố gắng nỗ
lực từ bỏ thói hư tật xấu, học tập các đức tính tốt, không để mình bị lôi kéo
vào các đức tính xấu xa, hãy nâng cao phẩm chất mà mình có được.
Chính niệm : Là sự chú ý đến các hoạt động, cùng những chỗ
yếu kém của bản thân và ý mình, là suy luận chân chính.
Chính định: Sự tập chung tâm trí và con đường chân chính,
không để bẩt cứ điều gì lay chuyển, làm thoái trí, phân tâm.
Trong bát chính đạo thì chính kiến, chính tư duy thuộc về trí tuệ;
chính ngữ, chinh nghiệp, chính mệnh thuộc về giới luật; chính tinh tiến, chính
niệm, chính định thuộc về định.
Thế giới hiện nay đang từng bước phát triển, đi vào đa phương hóa
toàn diện. Nhiều học thuyết, lý thuyết triết học, đạo học đang được tái thẩm
định để tìm ra những giá trị ứng dụng cho nền văn minh hiện đại. Nếu phải
tìm ra phạm trù đạo đức chung để xây dựng và góp phần ổn định mọi rối lọan
trong cuộc sống nhân sinh thì Bát chính đạo là định hướng cho đời sống cá
nhân, gia đình và xã hội. Chừng nào con người còn đau khổ thì bát chính đạo
vẫn còn là kim chỉ nam hướng dẫn mọi hành vi, lời nói và tư tưởng. Chừng
nào mọi quốc gia trên thế giới còn mong muốn đem lại an lạc cho nhân loại
chừng đó Bát chính đạo vẫn là đóng góp của Phật Giáo vào tiếng nói chung
Phật giáo và ảnh hưởng của phật giáo đến đời sống tinh thần của người Việt Nam
Page 14
của nhân loại trên tiến trình hòa bình thế giới. Có thể khẳng định giá trị của
Bát chính đạo như một bản đồ tu tập cho mọi người ở mọi thời dại.
2.2.2.2.5
Ngũ giới
Phật Giáo còn đưa ra năm điều răn để mọi người chủ động thực hiện
nhằm đem lại lợi ích cho mình và mọi người, gọi là ngũ giới. Ngũ giới là năm
điều kính mà đức Phật đưa ra nhằm để ngăn cản những tường niệm ác, nói
năng chẳng lành, hành động bất chính. Năm điều răn ấy là: không sát sinh,
không trộm cướp, không được tà dâm, không được nói dối, không được uống
rượu.
Năm điều răn này dựa trên tâm niệm từ bi bác ái, bình đẳng trên
phương diện từ bỏ tội lỗi cái nhân và đem lại trật tự, an vui cho xã hội mà
thành lập. Đức Phật không bắt buộc chúng phải triệt để tôn theo, va cũng
không hâm dọa nếu không tuân theo thì phải bị trừng phạt, việc giữ ngũ giới
hay không là hoàn toàn do chúng ta tự liệu lấy.
Bất sát: Không được giết hại. Đây là điều răn thứ nhất mà đức
Phật khuyên chúng ta không được giết hại sinh mạng từ loài người cho đến
loài vật. Sinh mạng có một giá trị quý báu , nhất là sinh mạng người, giết hại
sinh mạng kia để tô điểm cho sinh mạng này là một điều ác, không hợp đạo
lý.
Bất dâm: Không tà dâm. Nếu giữ được giới không tà dâm, thì gia
đình được hòa thuận an vui hạnh phúc, mọi nể trọng kính mến.
Bất vọng ngữ: Không nói dối. Nếu giữ giới không nói dối sẽ
được mọi người kính trọng, quý mến, tin cậy, dễ được gần gũi, việc làm thuận
lợi uy tín được nâng cao.
Bất ẩm tửu: không uống rượu. Nếu giữ được giới không uống
rượu thì bảo tòan được hạt giống trí tuệ, ngăn ngừa những nguyên nhân phát
sinh tội ác trong xã hội.
Phật giáo và ảnh hưởng của phật giáo đến đời sống tinh thần của người Việt Nam
Page 15
Bất đạo: Không trộm cướp. Nếu giữ được giới không trộm cướp
là góp phần đưa xã hội về bình đẳng, văn minh.
Có năm việc mà trong hiện tại mà trong hiện tại mọi người không thể
làm cho của cải vật chất và sinh mạng được tăng trưởng. Năm điều ấy là: sát
sinh, trộm cướp, tà dâm, ưa nói vọng và uống rượu. Trong năm giới trên có
bốn điều thuộc về vô tính giới, một điều uống rượu thuộc về tưởng giới. Nói
tính giới là vì những giới có liên quan đến tâm tính của con người trong xã
hội. Cho nên về giới tính dù con người có thọ giới hay không, nếu phạm giới
thì đều bị sa đọa. Còn tưởng giới là thuộc về hình thức để ngăn ngừa sự phạm
lỗi, nếu có thọ mà phạm giới thì đắc tội, không thọ thì không đắc tội.
Ngũ giới là hạ phẩm giới, là nền tảng của các giới, chúng ta thấy công
cụ thiết thực và lợi ích của năm giới đối với cá nhân và đoàn thể. Nhưng năm
giới nói trên không có gì là cao siêu huyền bí, đó là một học công thông
thường mà bất cứ quốc gia nào, xã hội nào muốn phồn vinh, hưng thịnh cũng
không thẻ bỏ sót được. Một xã hội mà mọi phần tử đều thực hiện được năm
giới ấy thì đó là một xã hội gương mẫu và văn minh nhất thế giới. Cho nên
năm điều ấy không phải chỉ để áp dụng riêng cho giới Phật tử, mà còn dùng
chung cho tất những ai muốn sống một cuộc sống lành mạnh, an vui, có lễ
nghĩa, tiến bộ.
Phật giáo và ảnh hưởng của phật giáo đến đời sống tinh thần của người Việt Nam
Page 16
Chương 3: ẢNH HƯỞNG PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG TINH
THẦN CỦA VIỆT NAM.
3.1 Ảnh hưởng của Phật Giáo về mặt tư tưởng và đạo lý
3.1.1 Ảnh hưởng của Phật Giáo về tư tưởng
Tư tưởng hay đạo lý căn bản của Phật Giáo là đạo lý Duyên Khởi, Tứ
Diệu, Đế và Bát Chánh Đạo. Ba đạo lý này là nền tảng các tông phái Phật
Giáo, nguyên thủy cũng như Đại Thừa đã ăn sâu vào lòng của người dân Việt.
Về Giáo lý nghiệp báo hay nghiệp nhân quả báo đã được truyền vào nước ta
rất sớm, giáo lý này đương nhiên đã trở thành nếp sống hết sức sáng tỏ đối
với người Việt Nam có hiểu biết, cớ suy nghĩ. Người ta biết lựa chọn ăn ở
hiền lành, dù tối thiểu thì đó cũng là kết quả tự nhiên âm thầm của lý nghiệp
báo, nó chẳng những thích hợp với giới bình dân mà còn ảnh hưởng đến giới
trí thức. Có thể nói mọi người dân Việt Nam đều ảnh hưởng ít nhiều qua Giáo
lý này. Vì thế, lý nghiệp báo luân hồi đã in dấu đậm nét trong văn chương
bình dân, trong văn họ chữ nôm, chữ hán, từ xưa cho đến đã dẫn dắt từng thế
hệ con người biết soi sáng tâm trí mịnh vào lý nhân quả nghiệp báo mà hành
động sao cho tốt đẹp đem lại hòa bình an vui cho con người. Mỗi người dân
Việt đều tự nhiên biết câu: “ác giả ác báo”. Họ phát biểu câu rất đúng hòan
cảnh sự việc xảy ra cho đối phương, hay “chạy trời không khỏi nắng”, mặt
khác họ hiểu rằng nghiệp nhân không phải định nghiệp, có thể làm thay đổi,
do đó họ tự biết sửa chứa, tu tập cải ác tùng thiện. Ta không nên ngồi một chỗ
tưởng tượng đến những kết quả tốt đẹp sẽ đến với mình, từ những hành
nghiệp thiện, giảm bớt điều ác, dần dần ta sẽ chuyển hóa và tạo cho ta có một
cuộc sống yên cho hiện tại và mai sau.
Phật giáo và ảnh hưởng của phật giáo đến đời sống tinh thần của người Việt Nam
Page 17
3.1.2 Ảnh hưởng của Phật Giáo về đạo lý
Phật Giáo có ảnh hưởng tích cực để tô thêm vết son vàng đậm nét cho
truyền thống nhân nghĩa Việt Nam. Đạo lý ảnh hưởng nhất là Giáo lý từ bi,
tinh thần hiếu hòa, hiếu sinh của Phật Giáo đã ảnh hưởng và thấm nhuần
trong tâm hồn người Việt. Điều này ta thấy rõ qua con người và tư tưởng của
Nguyên Trãi (1380-1442), một nhà văn, nhà chính trị, nhà tư tưởng Việt Nam
kiệt xuất, ông dã vận dụng đạo lý từ bi và biến nó thành đường lối chính trị,
đem lại thành công nổi tiếng trong lịch sử Nước Việt. Ông nói điều đó trong
Bình Ngô Đại Cáo rằng:
“Đem đại nghĩa để thắng hung tàn
Lấy trí nhân để thay cường bạo”
Cho nên khi thắng quân xâm lược, đối với tù binh nhà Minh, chúng ta
không những không giết hại mà còn cấp thuyền bè lương thực để họ về nước.
“Thần vũ chẳng giết hại
Thuận lòng trời ta mở đất hiếu sinh”
Tinh thần thương người như thể thương thân này đã biến thành ca dao
tục ngữ rất phổ biến trong quàn chúng Việt Nam như “Lá lành đùm lá rách”,
hay
“Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng”
Đó là những câu ca dao, tục ngữ mà bất cứ người Việt Nam nào cũng
đều thấm nhuần và thuộc nằm lòng, nói lên lòng nhân ái vị tha của dân tộc
Việt Nam.
Ngoài đạo lý Từ Bi, người Việt còn chịu ảnh hưởng sâu sắc một đạo
lý khác của đạo Phật là đạo lý Tứ Ân, gồm ân cha mẹ, ân sư trưởng, ân quốc
gia và ân chúng sanh. Đạo lý này được xây dựng theo một trình tự phù hợp
với sự phát triển của tâm lý về tình cảm của dân tộc Việt. tình thương ở mọi
Phật giáo và ảnh hưởng của phật giáo đến đời sống tinh thần của người Việt Nam
Page 18
người bắt đầu từ thân đến, từ tình thương cha mẹ, họ hàng lan dần đến tình
thương trong các mối quan hệ xã hội với thầy bạn, đồng bào quê hương đất
nứơc và mở rộng đến quê hương cao cả đối với cuộc sống của nhân lọai trên
vũ trụ này. Đặc biệt trong đạo lý tứ ân, ta thấy ân cha mẹ là nổi bật và ảnh
hương rất sâu đậm trong tình cảm và đạo lý của người Việt. Bởi Phật Giáo
đặc biệt chú trọng chữ hiếu như thế nên thích hợp với nếp sống đạo lý truyền
thống của dân tộc Việt.
Nhìn chung, đạo lý hiếu ân trong ý nghĩa mở rộng có cùng một đối
tượng thực hiện là nhắm vào người thân, cha mẹ, đất nước, nhân dân, chúng
sanh, vũ trụ, đó là môi trường sống của chúng sanh gồm cả mặt tâm linh nữa.
Đạo lý Tứ Ân còn có chung cái động cơ thúc đẩy là Từ Bi, Hỷ Xã khiến cho
ta sống hài hòa với xã hội, với thiên nhiên để tiến tới hạnh phúc chân thực và
miên trường. Từ cơ sở tư tưởng triết học và đạo lý trên đã giúp cho Phật Giáo
Việt Nam hình thành được bản sắc đặc thù rất riêng biệt của nó tại Việt Nam
góp phần làm phong phú và đa dạng nền văn hóa tinh thần của dân tộc Việt.
3.2 Ảnh hưởng Phật Giáo qua quá trình hội nhập văn hóa Việt Nam
Phật pháp là bất định pháp, luôn luôn uyển chuyển theo hòan cảnh và
căn cơ của chúng sanh để hòan thành sứ mạng cứu khổ của mình. Với tinh
thần nhập thế tùy duyên bất biến mà đạo Phật đã tạo cho mình một sức sống
vô biên, vượt qua những ngăn cách của địa lý, văn hóa, tôn Giáo, ý thức hệ,
thời gian, không gian…. Tinh thần tùy duyên là tự thay đổi với hòan cảnh để
có thể tiếp độ chúng sanh, tính bất biến làa giải thóat ra khỏi mọi đau khổ,
sinh tử luôn hồi. Tuy nhiên Phật Giáo vẫn luôn luôn hòa nhập với tất cả các
truyền thống văn hóa tín ngưỡng của các nước trên thế giới.
Phật giáo và ảnh hưởng của phật giáo đến đời sống tinh thần của người Việt Nam
Page 19
3.2.1 Ảnh hưởng Phật Giáo qua sự dung hòa với các tín ngưỡng truyền
thống, các tôn giáo khác và các thế hệ chính trị xã hội
Ảnh hưởng Phật Giáo qua sự dung hòa với các tín ngưỡng truyền
thống: khi được truyền vào Việt Nam, Phật Giáo đã tiếp xúc ngay với các tín
ngưỡng bản địa, do vậy đã kết hợp chặt chẽ với các tín ngưỡng này. Lối kiến
trúc của chùa chiền của Việt Nam là tiền Phật hậu Thần cùng với việc thờ
trong chùa các vị thần, các vị thánh, các vị thành Phật Giáo Việt Nam dung
nạp dễ dàng các tín ngưỡng đa thần của bản địa trong khi các quốc gia trong
vùng thì không có và tinh thần dung hòa và khai phóng Phật Giáo Việt Nam
là một trong những nét đặc trưng đáng chú ý.
Ảnh hưởng Phật Giáo qua sự dung hòa với các tôn giáo khác: đó
là kết quả của sự phối hợp và kết tinh của Đạo Phật với Đạo Nho va Đạo Lão,
được các nhà vua thời Lý côgn khai hóa và hợp pháp hóa. Chính vì đặc tính
dung hòa và đều hợp này mà Phật Giáo Việt Nam đã trở thành tín ngưỡng
truyền thống của dân tộc Việt. Nó chẳng phải Phật Giáo Ấn Độ hay Trung
Hoa, Tiểu Thừa hay Đại Thừa, mà nó là tất cả những khuynh hướng tam linh
của người Việt, đó là thực tại Tam Vi Nhất của tinh thần tam Giáo Việt Nam.
Trong nhiều thế kỷ hình ảnh tam Giáo tổ sư với Phật Thích Ca ở giữa, Lão Tử
bên trái và Khổng Tử bên phải đã in sâu vào tâm thức của người dân Việt.
Ảnh hưởng Phật Giáo qua sự dung hòa với các thế hệ chính trị xă
hội: Phật Giáo tuy là một tôn Giáo xuất thế, nhưng Phật Giáo Việt Nam có
chủ trương nhập thế, tinh thần nhập thế sinh động này nổi bật nhất là các thời
Đinh, Lê, Lư, Trần. Trong các thời này các vị cao tăng có học thức, có giới
hạnh điều được mời tham gia triều chính hoặc làm cố vấn trong những việc
quan trọng của quốc gia. ta thấy có nhiều lý do khiến các thần sư Việt Nam
tham gia vào chính sự, thứ nhất: họ là những người có học, có ư thức về quốc
gia, sống gần gũi nên thấu hiểu được nỗi đau khổ của một dân tộc bị nhiều
Phật giáo và ảnh hưởng của phật giáo đến đời sống tinh thần của người Việt Nam
Page 20
cuộc đô hộ của ngoại bang. Thứ hai: các thiên sư không có ư tranh ngôi vị
ngoài đời nên đựoc các vua tin tưởng và thứ ba: các thiên sư không cố chấp
vào thuyết trung quân (chỉ biết giúp vua mà thôi) như các nho gia nên họ có
thể cộng tác với bất cứ vị vua nào đem lại hạnh phúc cho dân chúng.
3.2.2 Ảnh hưởng Phật Giáo qua phong tục, tập quán
Ảnh hưởng của Phật Giáo qua tập tục ăn chay, phóng sanh, bố
thí:
Về ăn chay, hầu như đông đảo người Việt Nam từ xưa đến nay đều
chịu ảnh hưởng nếp sống văn hóa này. Ăn chay hay ăn lạc xuất phát từ qua
niệm từ bi của Phật Giáo. Đạo Phật không muốn sát sinh hại vật, mà trái lại
phải thương yêu mọi loài. Số ngày ăn chay tuy có khác nhau trong từng tháng,
nhưng cùng giống nhau ở quan điểm Từ Bi, Hỉ Xả của Đạo Phật. Ăn chay và
thờ Phật là việc đi đôi với nhau của người Việt Nam.
Cùng với tục thờ Phật, tục thờ cúng tổ tiên của dân tộc Việt Nam có từ
lâu đời. Tục này xuất phát từ ḷòng hiếu kính đối với ông bà, cha mẹ, tổ tiên.
Tín ngưỡng này được một số bình dân nhập làm một với Đạo Phật, Phật Giáo
có nhiều kinh đề cập đến vấn đề này như: Kinh Vu Lan, kinh Báo Phụ Mẫu
Ân… Vào những ngày rằm, mồng một, những gia đ́ ình không theo đạo Phật
cũng mua hoa quả, thắp nhang trên bàn thờ tổ tiên.
Cũng xuất phát từ tinh thần từ bi của đạo Phật tục lệ bố thí và phóng
sanh đã ăn sâu vào đời sống sinh hoạt của quần chúng nhân lao động. Người
dân thích làm phước bố thí và săn sàng giúp đỡ kẻ nghèo khó, hoạn nạn thể
hiện đạo lư của dân tộc lá lành đùm lá rách.
Ảnh hưởng của Phật Giáo qua tập tục cúng rằm, mồng một và lễ
chùa:
Tập tục đến chùa để tìm sự bình an cho tâm hồn, chiêm ngưỡng vẽ
đẹp thanh thoát của các pho tượng, lắng nghe tiếng chuông ngân vang, đã trở
Phật giáo và ảnh hưởng của phật giáo đến đời sống tinh thần của người Việt Nam
Page 21
thành một nét phong tục lâu đời “đi chùa lễ Phật” của tổ tiên. Những ngày lễ
hội lớn trong năm từ Phật Giáo như: lễ Phật Đãn, lễ Vu Lan, lễ tắm Phật, thật
sự đã trở thành ngày hội văn hóa của người dân Việt. Điều này phù hợp với
nét sinh hoạt cộng đồng, một sinh hoạt truyền thống.
Đặc biệt đối với đồng bào Khơ-me Nam Bộ, chịu ảnh hưởng sâu sắc
của Phật Giáo Nam tông, có những lễ dân tộc mang đậm nét tưởng Phật Giáo
như: lễ mừng năm mới (Chol-ch-nam-thơ-mây); lễ cúng tổ tiên (Donta); lễ
cúng trăng (Okcombok) …đã trở thành những ngày hội vô cùng sôi nỗi và đặc
sắc của đồng bào Khơ-me.
Những ngày đại lễ Phật Giáo vừa nêu trên đă là chất keo gắn bó người
dân Việt, nâng cao tình yêu thương đồng loại và nảy nở ḷòng hy sinh, tính vị
tha, củng cố ḷòng hiếu kính với ông bà, cha mẹ. Ảnh hưởng đó ngày càng sâu
rộng trong quân chúng nhân dân.
Phong tục tập quán tại Việt Nam trong quá trình tồn tại và phát triển
đă chịu nhiều tác động của trào lưu văn hóa khác nhau. nhất là từ Trung
Quốc. Trong đó Phật Giáo dự phần quan trọng trong việc định hình và duy trì
không ít các tập tục dân gian mà chúng ta thấy vẫn c ̣òn tồn tại cho tới ngày
nay.
3.2.3 Ảnh hưởng của Phật Giáo qua các loại hình văn hóa nghệ thuật
Ảnh hưởng của Phật Giáo qua ca dao thơ ca:
Tư tưởng đạo lư của Phật Giáo cũng thường được ông cha ta đề cập
đến trong ca dao dân ca dưới đề tài này hay khía cạnh khác để nhắc nhở,
khuyên răng dạy bảo, với mục đích xây dựng một cuộc sống an vui, phù hợp
với truyền thống đại đức của dân tộc Việt Nam. Quan niệm đạo Phật là đạo
hiếu, lời dạy của Phật về việc nhớ ơn và báo ơn cha mẹ là những cảm giác suy
tư in đậm trong lòng của người dân Việt Nam, và đã thể hiện linh động và
triền miên ngang qua ca dao dân ca:
Phật giáo và ảnh hưởng của phật giáo đến đời sống tinh thần của người Việt Nam
Page 22
“Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”
Triết lý Phật Giáo còn ảnh hưởng rất rõ nét trong lĩnh vực thơ, văn
thông các đại thi hào dân tộc: Nguyễn Du, Nguyễn Gia Thiều… qua các tác
phẩm: Truyện Kiều, Chinh Phụ Ngâm…
“Đã mang lấy nghiệp vào thân
Thì đừng trách lẫn trời gần trời xa”
Phật Giáo thể hiện qua nghệ thuật sân khấu: Tính triết lý “Nhân
quả báo ứng” của Phật Giáo đóng vai trò qua trọng trong các bài ca tuồng, vở
diễn phù hợp với đạo lý phương Đông và nếp sống truyền thống của dân tộc.
Nghệ thuật sân khấu: hát bội, hát chèo ở đồng bằng Bắc Bộ và cải lương ở
Nam Bộ. Do sự ảnh hưởng tinh thần từ bi hỷ xả của Phật Giáo nên luôn luôn
các vở tuồng ở phần kết thức đều có hậu như: Lưu Bình Dương Lễ, Tấm
Cám, Thoại Khanh Châu Tuấn, Phạm Công Cúc Hoa,…
Ảnh hưởng của Phật Giáo qua nghệ thuật tạo hình: Thể hiện ở
các lĩnh vực kiến trúc, điêu khắc, hội họa qua các di tích đền, chùa, miếu,
tượng Phật, tranh cảnh vật… tiêu biểu như: chùa Hương, chùa Thiên Mụ, chùa
Keo; tượng Quan Âm nghìn mắt, nghìn tay (Chùa Hạ), bộ tượng Thập Bát ở
chùa Tràng (Mỹ Tho); Bức tranh “Đi Lễ Chùa” của Nguyễn Siêu, “Bức Tăng”
của Đỗ Quang Em.