Tiểu luận
SO SÁNH PHẬT GIÁO PHẬT GIÁO Ở
TRUNG QUỐC, HÀN QUỐC VÀ NHẬT BẢN
2.1. Điểm giống nhau:Khánh nghĩ bỏ qua phần này!!!! Chưa đưa ra điểm giống nhau nào
nổi bật hết
2.2. Điểm khác nhau:
2.2.3. Quá trình phát triển (những giai đoạn/thời kì phát triển, đặc điểm nổi bật nhất của
từng giai đoạn)(Phần này chưa xong nha, còn một phần quá trình phát triển của Nhật nữa)
TRUNG QUỐC
HÀN QUỐC
NHẬT BẢN
Thời kỳ hình thành:
Phật giáo đã thành hình
và đã truyền bá rộng rãi
trong dân chúng Trung Hoa
dưới triều đại nhà Hán,
nhưng Phật giáo trong thời
kỳ này mang màu sắc pha
tạp của Nho giáo và các tín
ngưỡng dân gian. Từ vua
chúa đến thần dân đều tin và
phụng thờ Phật Thích Ca và
Lão Tử trên cùng một bàn
thờ.
Thời kỳ phát triển:
– Từ Tam Quốc đến Tây
Tấn (thế kỷ thứ III đến thế
kỷ thứ IV T.L). sau khi nhà
Ðông Hán mất ngôi, nước
Tàu bị chia làm ba khối, tức
là thời Tam Quốc: Ngụy,
Thục, Ngô. Mặc dù phân
chia như thế, trong những
nước ấy, từ vua chúa đến
dân gian đều quy ngưỡng
theo đạo Phật, và mỗi nước
đều có những vị cao tăng từ
Tây Vức sang truyền đạo.
Đến đời Tây Tấn, Phật Giáo
Thời kì ba Vương quốc
(57 TCN – 668 CN):
Thách thức đầu tiên khi
Phật giáo mới du nhập vào
Hàn Quốc là tín ngưỡng
Tát-mãn giáo bản địa, tín
ngưỡng này đã giúp hợp
nhất những bộ lạc khác
nhau thành những vương
quốc thống nhất. Phật giáo
Hàn Quốc đã Thách thức
đầu tiên khi Phật giáo mới
du nhập vào Hàn Quốc là
tín ngưỡng Tát-mãn giáo
bản địa, tín ngưỡng này đã
giúp thích ứng với tín
ngưỡng bản địa bằng cách
thiết lập Phật giáo Hộ
quốc.
Thời kì Vương triều
Silla hợp nhất (668-935)
– Vương triều Silla có sự
am hiểu và tôn sùng Phật
giáo nên quần chúng nhân
dân sẵn sàng theo họ. Do
đó, Phật giáo đã tăng cường
tình đoàn kết trong xã hội
Silla.
– Quan niệm duy tâm làm
Thời
kỳ
hình
thành
( 538-794):
Phật giáo chính thức
được truyền đến Nhật từ
Triều Tiên (Korea) vào năm
552 Tây lịch (có chỗ ghi
nhận là năm 538). Lúc bấy
giờ vua nước Bách Tế (Triều
Tiên) đã gởi một phái đoàn
truyền giáo đến Nhật. Phái
đoàn này đã được nhà vua
Nhật Bản tiếp đón một cách
nồng hậu.
Thời
kỳ
phát
triển
(Heian/BìnhAn/794-1184):
-Triều đại Nara (710 –
794) qua sự ủng hộ Phật
Pháp của Hoàng đế Thánh
Võ (Shomu 701 – 756),
vị vua thứ 45 của Nhật
Bản) Phật Giáo đã trở thành
quốc giáo của đất nước Phù
Tang. Năm 741, vua Thánh
Võ đã ban hành một quốc
lệnh rằng mỗi làng và mỗi
tỉnh phải xây dựng một ngôi
chùa và dân chúng phải
thành tâm thọ trì Phật Pháp.
Trung hoa mới thấy được
cái vẽ rực rỡ của thời kỳ
thịnh phát thứ nhất. Chính
trong giai đoạn này, Trung
hoa bắt đầu có những tôn
phái mới là Tam luận tôn và
thành thật tôn.
– Thời kỳ vàng son của
Phật giáoTrung Hoa tập
trung vào triều đại nhà Tùy
(Sui, 581-618). Trong thời
kỳ này nhiều vị cao tăng đã
gây thêm uy thế cho đạo
Phật cả trong dân gian lẫn
cả triều đình, như Ngài Hệ
Lâm được tham dự triều
chín.
–
Dưới
đời
nhà
đường(thế kỷ thứ VII- IX ),
vào khoảng đầu thế kỷ thứ
bảy, dưới đời vua Ðường
Thái Tôn(ông vua thứ hai
đời đường),sau một thời
gian bị phân tán vì giặc giã,
đạo phập ở Trung hoa bắt
đầu thịnh phát lại. Vị cao
tăng đã mở đầu cho giai
đoạn hưng thịnh nầy là
Ngài Huyền-Trang, thường
được gọi là Ðường Tam-
Tạng pháp sư. Ngài Huyền-
Trang tự phát đại nguyện
sang Ấn Ðộ, tìm học đạo
với những bậc minh-sư, và
đi chu du khắp Ấn Ðộ. Sau
15 năm, Ngài trở về Trung
hoa, đem rất nhiều kinh tạng
bằng Phạm-Văn và tổ chức
cuộc phiên dịch sang Hán-
Văn có trên 1.500 quyển.
thỏa mãn sự khao khát
chung về một vùng đất hạnh
phúc, không có khổ đau và
khuyến khích người dân
đồng nhất quốc vương của
họ hay những vị anh hùng
dân tộc với vị thần Phật
giáo. Với sự giúp đỡ của
Phật giáo, Vương triều Silla
đã thành công trong việc
chuyển đổi từ chế độ thị tộc
sang nhà nước quân chủtập
quyền với tính thống nhất
quốc gia mạnh mẽ.
– Vương triều Silla đặc
biệt coi trọng và nghiên cứu
sâu những bộ kinh Phật Đại
thừa,
như:
Kinh
Hoa
Nghiêm, Kinh Pháp.
– Phật học viện có ảnh
hưởng nhất trong Phật giáo
Hàn Quốc được ra đời với
công lao của nhà tư tưởng
Phật giáo bậc thầy Uisang.
– Cuối thời kì Silla hợp
nhất, Phật giáo Seon (Thiền
tông) được du nhập vào Hàn
Quốc.
Thời kì Goryeo (918-
1392)
– Phật giáo dưới triều đại
Goryeo cũng giữ vai trò là
nguồn cảm hứng chủ đạo
cho sáng tác nghệ thuật và
nghiên cứu chuyên môn học
thuật sâu.
– Một trong những thành
tựu to lớn nhất là nghệ thuật
chạm
khắc
Tripitaka
Koreana (Tam Tạng kinh
Để làm gương cho mọi
người, chính vua Thánh Võ
đã đích thân xây chùa Đông
Đại (Todai) tại kinh đô vào
cuối năm 741.Sáu tông phái
Phật giáo được truyền đến
Nhật từ Trung Hoa và phong
trào nghiên cứu và tu Phật
tại Nhật đã bắt đầu: Luật
Tông (Ritsu); Câu Xá Tông
(Kusha); Thành Thật Tông
(Jojitsu); Tam Luận Tông
(Sanron);
Pháp
Tướng
Tông (Hosso); Hoa Nghiêm
Tông(Kegon).
-Triều đại Heian (794 –
1185)được
xem
là
thời
hoàng kim củaPhật giáo
Nhật;
– Thời kỳ Kiếm Thương
(Kamakura1185-1333): Đây
là thời kỳ khủng hoảng, vì cả
nước bị đe dọa trầm trọng
bởi tàn phá khốc liệt từ sự
phân hóa nội bộ và bạo lực
dưới những tổ chức quân sự
được thành lập năm 1185
của bộ tộc Minamoto, ngoại
ô Kyoto, đã làm cho việc tu
tập và nghiên cứu Phật Đà bị
khựng lại một lúc lâu. Tuy
nhiên, cuối cùng mọi việc
cũng đâu vào đấy và Phật
giáo vẫn tiếp tục công việc
của mình.Nhật Liên Tông
(Nichiren) và Tịnh Độ Tông
(Jodo) cũng lần lượt xuất
hiện và được truyền bá rộng
rãi trên toàn nước Nhật.
Thời kỳ này là thời kỳ hưng
thịng lừng lẫy nhất của Phật
Giáo Trung Hoa.
– Từ khi nhà Ðường mất
thiên hạ, đến nhà Minh, trải
qua mấy trăm năm trước
Trung Hoa tuần tự trải qua
các đời: Ngũ Ðại (hậu
Lương, hậu Ðường, hậu
Tấn, hậu Hán, hậu Chu).
Nhà Tống, rồi đến nhà
Nguyên. Nhưng phải đợi
đến đời vua Thái-Tổ nhà
Minh (ChuNguyên Chương)
đạo Phật mới lấy lại được
cái vẽ huy hoàng của những
thời hưng thịnh trước. Minh
Thái-Tổ, nguyên lúc nhỏ là
một vị Sa-Di, nên khi lên
ngôi, Ngài hết sức ủng hộ
Phật Giáo.
– Phải đợi đến cuộc cách-
mạng Tam-dân chủ-nghĩa
(1912), đạo Phật mới trổi
dậy bằng hình thức nghiên
cứu Phật học và sự thành
lập các hội Phật Giáo khắp
trong nước.
Thời kỳ suy vi và chấn
hưng:
Một số triều đại vui chúa
hạ lệnh cấm Phật Giáo
truyền bá, từ đó tạo thành
trên lịch sử Phật giáo 2 chữ
“Pháp nạn”. Nỗi bậc nhất là
4 lần pháp nạn phát sinh vào
thời kỳ Bắc Ngụy Thái Võ
Ðế, Bắc Châu Võ Ðế,
Hàn bản). Đây là Bộ Kinh
Phật được thực hiện vào đầu
thế kỉ 13 trong suốt thời
gian diễn ra chiến tranh với
người Mông Cổ. Bộ Kinh
này bao gồm hơn 80.000
mộc bản. Đây là một công
trình quốc gia được tạo nên
không chỉ bởi công sức của
chính quyền mà còn toàn
thể dân chúng, là sự kết tinh
của một nền văn hóa dân tộc
bắt nguồn từ đức tin Phật
giáo.
– Tới cuối triều đại
Goryeo Phật giáo đã phải
chịu đựng những tổn thất
nặng nề, do: sự chiếm hữu
đất xây dựng chùa thờ Phật
gia tăng hàng năm, việc
miễn thuế và các nghi lễ
quốc gia được tổ chức trên
diện rộng đã trở thành gánh
nặng lớn đối với ngân sách
nhà nước. Hơn nữa, những
vụ việc các nhà sư tham
nhũng, cùng với sự dính líu
của họ tới những cuộc tranh
giành quyền lực chính trị,
tiền tệ hay những vụ bê bối
khác đã diễn ra thường
xuyên và nghiêm trọng
Thời kì Joseon (1392-
1910)
-500 năm triều đại Joseon
là kỉ nguyên tối tăm đối với
Phật giáo. Vì Tân Khổng
giáo nổi bật lên như một thế
lực mới, đàn áp Phật giáo
một cách có hệ thống.
Ðường Võ Tông và Ngũ
Ðại Hậu Châu Thế Tông.
Sau cuộc đàn áp dã man
dưới triều đại vua Võ Tôn
vào năm 845. Cả Thiên Thai
Tông và Hoa Nghiêm Tông
đều bị tàn lụi vì sự đơn độc
của hai tông phái này. Thiền
và Tịnh Độ tông với nhiều
tín đồ, được sống sót, phục
hồi và tìm lại chỗ đứng
trong xã hội Khổng Mạnh.
Triều đại nhà Nguyên
(1215-1368):Mật giáo của
Phật giáo Tây Tạng được
giới thiệu đến miền Bắc
Trung Hoa nơi được sự đở
đầu của hoàng gia sau khi
Mông cổ xâm lăng TH.
Phật giáotiếp tục phát
triển, nhất là Mật tông của
Tây Tạng được hoàng gia
bảo trợ nên có nhiều ưu thế
hơn. Các hoàng đế Thuận
Trị, Khang Hy, Ung Chính,
Càn Long là những ông vua
hết lòng hộ trì Phật pháp và
bảo trợ nhiều công trình
Phật sự để đời như cho khắc
in ba Đại Tạng Kinh Trung
Hoa. Tuy nhiên cuộc nổi
loạn vào các năm 1851-64 ở
miền Nam Trung Hoa do
vua Manchu của nhà Thanh
cầm đầu, đã tạo ra một cuộc
khủng bố khốc liệt đối với
Phật Giáo, kết quả nhiều tự
viện bị hủy diệt và tịch thu.
Sau đó, Phật giáo Trung
Hoaphải cầu viện Phật giáo
-Sự quản lí nhà nước đối
với Phật giáo ngày càng trở
nên căng thẳng hơn, và lên
đến đỉnh điểm khi có lời
tuyên bố rằng các nhà sư là
thành phần bị xã hội ruồng
bỏ nên không được phép
bước vào khu vực thủ đô.
Nhà nước đưa ra lệnh cấm
xây dựng các đền thờ gần thị
trấn và nhiều đền thờ đã bị
phá hủy. Những tu viện đã
tồn tại phải ẩn sâu trong núi.
Do đó, Phật giáo đã mất đi
địa vị của mình trong nền
văn hóa xã hội Hàn Quốc.
Giới Phật giáo gần như rất
thất vọng và mang tư tưởng
chủ bại.
Thời kỳ cận đại
-Nhật Bản thôn tính Hàn
Quốc vào năm 1910 và thực
hiện có hệ thống chính sách
Nhật hoá nền văn hoá Hàn
Quốc
-Các nhà sư Hàn Quốc
được ủng hộ kết hôn, từ bỏ
truyền thống sống độc thân,
như các nhà sư Tân Tăng
Nhật Bản đã và đang làm.
-Sau khi Hàn Quốc được
giải phóng khỏi ách thống trị
Nhật Bản năm 1945, những
nhà tu hành còn độc thân của
Hàn Quốc muốn xua đuổi
những nhà sư đã kết hôn ra
khỏi cộng đồng Phật giáo.
Sau vài thập kỉ đấu tranh gay
gắt, hai phe phái Jogye và
Nhật bản trợ giúp để phục
hồi.
Taego, tiêu biểu cho hai chủ
trương nhà tu hành phải
sống độc thân hay được kết
hôn, thỏa thuận cùng chung
sống như hai dòng Phật giáo
lớn nhất ở Hàn Quốc.
2.2.4. Đặc điểm:
TRUNG QUỐC
HÀN QUỐC
NHẬT BẢN
– Phật giáo được truyền vào
Trung Quốc hiển nhiên là
Phật giáo Đại thừa, tiêu biểu
cho chân lý của Đức Phật,
còn Tiểu thừa chỉ được coi
là phương tiện quyền xảo
mà thôi. Trong mười ba
phái dưới thời Tùy, Đưòng
chỉ có Tỳ Đàm Tôn (sau là
Cấu Xá Tôn) có thể nói là
chân chính Đại thừa, còn tất
cả các phái khác, trên bản
chất thì thuộc Tiểu thừa,
nhưng đều coi mình là Đại
thừa, bởi thế mà địa vị của
Đại thừa được thành lập.
– Tại Trung Quốc, ngoài
triều đình và các vị tăng già
ẩn tuẫn trong các nơi thâm
sơn u tịch ra, đối với nhân
gian, Phật giáo chỉ phụ
thuộc cho nên tinh thần Phật
giáo có vẻ bạc nhược.
– Phật giáo Hàn Quốc là
hợp nhất các quan điểm
khác nhau kết thành một hệ
thống tư tưởng.
– Phật giáo là nền tảng tư
tưởng của giai cấp thống trị
trong quá khứ; đóng vai trò
là tôn giáo phổ biến trong
quần chúng nhân dân.
– Phật giáo Nhật Bản phát
huy đặc chất của Đại thừa,
coi nhẹ phần ẩn dật mà
thiên trọng phần hoạt động,
coi nhẹ phần học vấn mà coi
trọng phần thực hành. Thái
tử Thánh Đức chú thích
kinh Pháp Hoa đến đoạn
nói “nên ở những nơi núi
rừng u tịch mà tu luyện” thì
ông chua thêm là: “không
nên, vì mục đích của đạo
Phật là lấy sự hoạt động
ngay giữa xã hội thực tiễn
để phát huy cơ năng của
mình”
– Phật giáo lại từ chỗ sinh
hoạt quốc gia tiến đến chỗ
lấy sinh hoạt cá nhân làm
trung tâm, lấy sự an tâm lập
mệnh cá nhân làm cơ năng
cao nhất, đến đây thì tinh
thần Phật giáo đã thật sự thu
hút toàn bộ sinh hoạt quốc
gia, và trên thực tế, điểm
này có thể nói đã trở nên
thiết yếu nhất của Phật giáo
Nhật Bản.
2.2.5. Tông phái chính:
TRUNG QUỐC
HÀN QUỐC
NHẬT BẢN
Thiền Tông: là một tông
phái đặc biệt và thành tựu
nhất của Phật giáo Trung
Hoa.
Tại Trung Hoa lúc đầu
thiền bị ảnh hưởng mạnh
mẽ của đạo Lão và Khổng.
Thiền chỉ độc lập và nổi
tiếng từ thế kỷ thứ bảy, tức
phải đợi đến đời tổ Huệ
Năng (Hiu Neng, 638-713,
tổ thứ sáu) thì tông này mới
được truyền bá rộng rãi và
đã trở thành một tông phái
chính cho tới ngày nay.
Thiền (ch’an) là pháp môn
huấn luyện tâm linh nhắm
đến việc trực nghiệm thực
tại của vạn hữu, còn gọi là
tâm hay Phật tánh, hiện hữu
ở mọi chúng sanh. Theo
Thiền tông, thực tại này là
vô ngã (sùnya), không thể
diễn đạt bằng ngôn ngữ, và
cũng không thể nhận thức
bằng tư tưởng. Do vì không
Hiện tại Hàn Quốc có tất
cả là 18 tông phái Phật giáo
khác nhau xuất phát từ bốn
tông phái chính là Thiền
tông, Mật tông, Pháp Hoa
tông và Hoa Nghiêm tông.
Trong các tông phái, nổi
bật và có tầm ảnh hưởng
sâu rộng nhất là Thiền phái
Tào Khê được thiền sư Tri
Nột (Chinul, 1158-1210),
thành lập với ước nguyện sẽ
dung hòa không những, các
chi phái của Thiền Tông
Trung Hoa, mà còn dung
hòa tất cả Tông phái khác
đang hiện hữu tại Hàn
Quốc. Ngài thiết lập ba
phương pháp hành trì, phản
ánh trực tiếp từ những kinh
nghiệm
thiền
quán
của
Ngài: “Thực hành dung hòa
giữa (Thiền) Định và (Trí)
Tuệ”; “Thực hành dung hợp
Tín và Trí”; “Hành trình
Công án của Nam Thiền
Đốn
ngộ
Trung
Hoa”.
Cho đến thế kỷ mười ba,
tất cả những tông phái chính
đều có mặt tại Nhật, bao
gồm Thiền Tông, Tịnh Độ
Tông, Thiên Thai Tông,
Chân Ngôn Tông, Nhật
Liên Tông…
Thiền được giới thiệu đến
Nhật vào khoảng thế kỷ thứ
9 từ Trung Hoa qua hai
Thiền phái Lâm tế và Tào
Động, cả hai phái này đều
ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng
cửa Lục Tổ Huệ Năng ở thế
kỷ thứ 8. Hiện nay ở Nhật
có ba Thiền phái như sau :
*Thiền Lâm Tế (Rinzai
Sect):thường la hét, quát
mắng, đánh đập hoặc áp
dụng hình thức “công án”
để khai thị đệ tử.Do công
khai sáng của thiền sư
người
Nhật
Vinh
Tây
(Eisai, 1141-1215).Ngài đã
tìm đường đến Trung Hoa
để học đạo trong hai lần,
thể diễn đạt bằng ngôn ngữ
và nhận biết bằng tư tưởng,
thực tại này, tức chân tâm
hay Phật tánh, chỉ có thể
liễu hội (hay nắm bắt) bằng
trực giác tức thời. Để đạt
đến cấp độ này, hành giả
phải gột rửa tất cả tư tưởng
để tâm được an tịnh, bởi vì
trong mọi ý niệm đều có
ngã tính, tạo ra sự phân biệt
giữa chủ thể và đối tượng.
Đây là ngọn nguồn của mọi
nghiệp báo khiến người ta
rơi vào vòng sinh tử luân
hồi. Khi liễu hội được chân
tâm, người ta cảm nghiệm
một trạng thái mà thiền gọi
là ngộ, nghĩa là sự nhận biết
như thật về nhất như của
mọi hiện hữu.
Ý chỉ của Tổ về pháp tu
của Thiền tông được thâu
gọn trong bốn câu kệ :
“Bất lập văn tự, Giáo ngoại
biệt truyền, Trực chỉ nhân
tâm,
Kiến
tánh
thành
Phật.”
(Chẳng lập văn tự, Truyền
ngoài giáo lý, Chỉ thẳng tâm
người, Thấy tánh thành
Phật).
Theo triết học đại từ điển,
nội dung của Thiền tông
bao gồm 6 điểm:
*Thuyết tâm tính tạo ra
vạn vật: vạn vật từ tâm mà
ra.
*Thuyết Phật tính: mọi
Những bộ kinh căn bản của
thiền phái này là Kinh Bát
Nhã, Kinh Kim Cang, Kinh
Pháp Bảo Đàn, Kinh Hoa
NghiêmẨ có khoảng 1632
ngôi chùa là chi nhánhở
khắp trong và ngoài Triều
Tiên, và có khoảng 18.000
tăng ni và khoảng 6.000.000
tín đồ qui y theo phái này.
vào những năm 1168 và
1187.. Ngôi chùa Shofuku ở
Hakatađược xem là thiền
viện đầu tiên trên đất nước
này. Ngài cũng được xem là
người có công trong văn
hóa uống trà của Nhật, Ngài
đã mang giống trà từ Trung
Hoa về trồng ở Nhật.
*
Thiền
Tào
Động
(Soto/Tsao-tung): là một
trong năm Thiền phái chính
của Trung Hoa, chú trọng
đến phương pháp nội quán,
hay ngồi thiền dưới sự
hướng dẫn của vị thiền sư,
nghĩa là thiền sinh được vị
thầy chỉ dạy trực tiếp và
riêng rẽ. Đây là một Thiền
phái kiểu mẫu phổ biến hơn
những Thiền phái khác ở
Nhật. Nếu Lâm tế thích ứng
với giới thượng lưu trí thức,
thì Tào Động lại gần gũi với
tầng lớp bình dân. Thiền
Tào Động được Thiền sư
Đạo Nguyên (Dogen, 1200-
1253) khai sáng. Hiện nay
ngôi già lam chính của
Thiền phái này là Chùa
Tổng
Trì
(Soji-ji)
ở
Yokohama
do
thiền
sư
Hành Cơ (Gyogi, 666-749)
tạo dựng năm 1321.
* Thiền Hoàng Bá (Obaku
sect): đây là Thiền phái thứ
ba của người Nhật, có tầm
ảnh hưởng ít hơn hai Thiền
phái trên, do thiền sư người
Trung Hoa Ẩn Nguyên
người đều có Phật tính và
đều có thể thành Phật.
*Thuyết tự ngộ: Phật tính
là tự tính, nhận thức tự tính
sẽ thành Phật.
*Thuyết đốn ngộ:không tu
hành là người bình thường,
nếu tu hành sẽ thành Phật.
*Thuyết vô niệm:tu hành
không để bên ngoài làm ảnh
hưởng.
*Thuyết Phật pháp không
xa lìa thế gian:Phật pháp tại
thế gian, khônng giác ngộ
khi xa lìa thế gian, xa rời
thế gian để tìm giác ngộ
cũng tựa như đi tìm sừng
thỏ.
(Yin-Yuan,
1592-1673)
khai sáng. Sau nhiều năm tu
học tại quê nhà, ông đến
Nhật Bản để hoằng Pháp
vào năm 1654 và tiến hành
thành lập Thiền phái này tại
chùa
Vạn
Phước
(Mampuku-ji)
ở
tỉnh
Yamato. Ông đã được vua
Nhật ban cho danh hiệu là
Quốc
sư
(Daiko-Fusho-
Kokushi), ông đã để lại
nhiều tác phẩm có giá trị.
Hiện tại có hơn 600 ngôi
chùa là chi nhánh của Thiền
phái này.
Nhìn chung cả ba Thiền
phái trên đã phát triển mạnh
ở Nhật và có tầm ảnh hưởng
sâu rộng trong đời sống của
người dân Nhật. Cả ba đều
có nhiều trường đại học,
nhà xuất bản kinh sách
riêng, cơ quan từ thiện…
Không những thế Thiền đã
ăn sâu vào tiềm thức của
người Nhật, thiền đã đi vào
hoa, vào trà, vào nếp sống,
nếp nghĩ của người dân và
cuối cùng nó nâng lên thành
Đạo, trà đạo, hoa đạo…