BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
DIỆP HỒNG KHÔN
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐÁNH GIÁ VÀ CÔNG
NHẬN NHÃN HIỆU NỔI TIẾNG TẠI VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Tp. Hồ Chí Minh – Năm 2018
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
DIỆP HỒNG KHÔN
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐÁNH GIÁ VÀ CÔNG
NHẬN NHÃN HIỆU NỔI TIẾNG TẠI VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số : 8380107
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. LÊ VĂN HƯNG
Tp. Hồ Chí Minh – Năm 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi, tác giả của luận văn “Hoàn thiện pháp luật về đánh giá và công nhận nhãn
hiệu nổi tiếng tại Việt Nam” xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi
từ sự tìm tòi, thu thập và vận dụng các lý thuyết, dữ liệu và thông tin đã được công
bố dưới sự hướng dẫn tận tình của TS. Lê Văn Hưng.
Các kết quả nghiên cứu, quan điểm học thuật cũng như ý tưởng và kết quả
nghiên cứu của tác giả khác, nếu có đều được tôn trọng và trích dẫn nguồn cụ thể.
Ý tưởng và nội dung đề tài luận văn này cho đến nay chưa được được công bố
trên bất kỳ một phương tiện nào.
Tôi xin đảm bảo về những lời cam đoan trên, nếu sai sẽ chịu trách nhiệm theo
quy chế của nhà trường và pháp luật về sở hữu trí tuệ Việt Nam./.
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 31 tháng 10 năm 2018
Người cam đoan
Diệp Hồng Khôn
MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
…………………………………………………………………………………………………..
3
MỤC LỤC …………………………………………………………………………………………………………….
4
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ………………………………………………………………………
6
MỞ ĐẦU
……………………………………………………………………………………………………………….
1
1.
Lý do chọn đề tài ……………………………………………………………………. 1
2.
Giả thuyết, câu hỏi nghiên cứu …………………………………………………. 1
3.
Tình hình nghiên cứu
………………………………………………………………. 2
5.
Phương pháp tiến hành nghiên cứu …………………………………………… 4
6.
Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài …………………………. 6
Chương 1: Những vấn đề lý luận và thực trạng pháp luật về đánh giá và công nhận
nhãn hiệu nổi tiếng
…………………………………………………………………………………………………
7
1.1.
Những vấn đề lý luận về nhãn hiệu và nhãn hiệu nổi tiếng……………. 7
1.1.1.
Lý luận về nhãn hiệu
…………………………………………………………………………….
7
1.1.2.
Những vấn đề lý luận về nhãn hiệu nổi tiếng …………………………………………
13
1.2.
Pháp luật về đánh giá và công nhận nhãn hiệu nổi tiếng tại các Điều
ước quốc tế
…………………………………………………………………………………… 29
1.3.
Bản khuyến nghị của Tổ chức Sở Hữu Trí Tuệ Thế Giới (WIPO) … 32
1.4.
Pháp luật đánh giá và công nhận nhãn hiệu nổi tiếng tại một số quốc
gia trên thế giới
…………………………………………………………………………….. 34
1.4.1.
Hoa Kỳ
……………………………………………………………………………………………..
34
1.4.2.
Liên Minh Châu Âu ……………………………………………………………………………
35
1.4.3.
Trung Quốc ……………………………………………………………………………………….
36
1.4.4.
Nhật Bản …………………………………………………………………………………………..
45
1.5.
Thực trạng pháp luật về đánh giá và công nhận nhãn hiệu nổi tiếng
tại Việt Nam
…………………………………………………………………………………. 47
1.5.1.
Lịch sử chế định pháp luật về nhãn hiệu nổi tiếng tại Việt Nam
……………….
47
1.5.2.
Đánh giá và công nhận nhãn hiệu nổi tiếng theo quy định của pháp luật sở
hữu trí tuệ Việt Nam
………………………………………………………………………………………..
49
Chương 2: Đề xuất hoàn thiện quy định pháp luật về đánh giá và công nhận nhãn
hiệu nổi tiếng tại Việt Nam
……………………………………………………………………………………
52
2.1.
Đánh giá chung về kết quả thực thi các quy định pháp luật về đánh
giá và công nhận nhãn hiệu nổi tiếng tại Việt Nam qua các thời kỳ ……… 52
2.1.1.
Trước khi có Luật Sở hữu trí tuệ ………………………………………………………….
52
2.1.2.
Sau khi có Luật Sở hữu trí tuệ ……………………………………………………………..
54
2.2.
Những vướng mắc trong đánh giá và công nhận nhãn hiệu nổi tiếng tại Việt Nam .. 59
2.2.1.
Dưới góc độ cơ sở lý luận
……………………………………………………………………
59
2.2.2.
Dưới góc độ thực tiễn thực thi ……………………………………………………………..
62
2.3.
Đề xuất hoàn thiện
………………………………………………………………… 63
2.3.1.
Các nguyên tắc đánh giá và công nhận nhãn hiệu nổi tiếng ……………………..
63
2.3.2.
Các đề xuất cụ thể
………………………………………………………………………………
70
KẾT LUẬN
………………………………………………………………………………………………………….
76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CTMO
Cơ quan nhãn hiệu Trung Quốc
INTA
Hiệp hội nhãn hiệu hàng hóa quốc tế
JPO
Văn phòng sáng chế Nhật Bản
KHCN
Khoa học và công nghệ
Luật SHTT Luật số 50/2005/QH11 ban hành ngày 29/11/2005, hiệu lực ngày
01/07/2006 và đã được sửa đổi, bổ sung bởi Luật số 36/2009/QH12
ngày 19/06/2009, hiệu lực ngày 01/01/2010.
NHNT
Nhãn hiệu nổi tiếng
SAIC
Cơ quan quản lý nhà nước về công nghiệp và thương mại Trung Quốc
SHCN
Sở hữu công nghiệp
SHTT
Sở hữu trí tuệ
TRAB
Ban giải quyết tranh chấp và khiếu nại nhãn hiệu
USPTO
Văn phòng Sáng chế và Nhãn hiệu Hoa Kỳ
WIPO
Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới
1
MỞ ĐẦU
1.
Lý do chọn đề tài
Nhãn hiệu là một đối tượng SHCN gắn liền với hoạt động thương mại hàng
hóa và dịch vụ trong nền kinh tế. Trong quá trình phát triển, cùng với việc ngày
càng phổ biến của một loại hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu đã dẫn đến nhãn
hiệu đó dần trở nên quen thuộc đối với người tiêu dùng. Khi đạt đến mức độ được
biết đến rộng rãi trên toàn lãnh thổ quốc gia và có danh tiếng, uy tín nhất định
thì nhãn hiệu đó trở thành NHNT. NHNT là một tình trạng đặc biệt của một nhãn
hiệu, vì vậy tất yếu dẫn đến phát sinh nhu cầu bảo hộ đối với NHNT nhằm hướng
đến một số mục tiêu, lợi ích kinh tế – xã hội nói chung và bảo vệ quyền, lợi hợp
pháp của các chủ thể có liên quan.
Tuy nhiên, đánh giá để công nhận một NHNT là một nghiệp vụ phức tạp và
gặp nhiều khó khăn trong việc triển khai thực hiện ở nước ta, từ đó ảnh hưởng
đến việc thực thi bảo hộ NHNT. Trong khi đó, việc bảo hộ NHNT là một nghĩa
vụ pháp lý của một quốc gia trong các Điều ước quốc tế về SHTT, đồng thời
cũng là một yêu cầu khách quan của thực tiễn.
2.
Giả thuyết, câu hỏi nghiên cứu
2.1. Giả thuyết nghiên cứu
Cơ chế bảo hộ đối với NHNT mang đặc trưng khác biệt so với nhãn hiệu thông
thường, theo đó nếu như một nhãn hiệu thông thường là đăng ký để được bảo hộ thì
một NHNT được muốn bảo hộ, trước hết phải công nhận nhãn hiệu đó đạt tình trạng
nổi tiếng thông qua việc đánh giá các tiêu chí do pháp luật quy định.
Tiêu chí đánh giá NHNT là một tập hợp các tính chất, dấu hiệu do pháp luật quy
định làm căn cứ để nhận biết một nhãn hiệu được coi là nổi tiếng trên thị trường.
Thông qua các tài liệu, thông tin cụ thể được cung cấp và chứng minh bởi chủ sở hữu
nhãn hiệu hoặc do cơ quan có thẩm quyền tập hợp, thống kê để làm căn cứ xem xét,
đánh giá, từ đó đưa ra kết luận nhãn hiệu đó có đạt tình trạng nổi tiếng hay không?
Tuy nhiên, để thực hiện đánh giá và công nhận một NHNT trên thực tiễn thì cần phải
2
làm sáng tỏ vấn đề cơ bản liên quan đến NHNT. Trong phạm vi của đề tài này, tác
giả đã đặt ra các câu hỏi nghiên cứu cụ thể, trước hết là những câu hỏi giải quyết
những vấn đề cơ bản của NHNT đến những câu hỏi nghiên cứu trực tiếp giải quyết
vấn đề mà đề tài đặt ra, đó là đánh giá và công nhận NHNT.
2.2. Câu hỏi nghiên cứu
Các câu hỏi nghiên cứu cụ thể bao gồm:
(1) NHNT có đặc điểm và vai trò gì (trong mối quan hệ so sánh với nhãn hiệu
thông thường)?
(2) Cơ chế bảo hộ đối với NHNT mang đặc trưng và có khác biệt như thế nào
so với nhãn hiệu thông thường?
(3) Việc đánh giá và công nhận NHNT được các Điều ước quốc tế, cộng đồng
quốc tế về SHTT, pháp luật một số nước và tại Việt Nam được quy định như thế nào?
(4) Việc đánh giá và công nhận NHNT tại Việt Nam còn tồn tại những vướng mắc,
bất cập nào dưới góc độ cơ sở lý luận và thực tiễn thực thi cần phải được hoàn thiện?
3. Tình hình nghiên cứu
NHNT không phải là một đề tài mới vì đã được nhiều học giả trong và ngoài
nước khai thác ở nhiều khía cạnh lý luận và thực tiễn khác nhau. Trong đó các đề tài
được nhiều học giả nghiên cứu nhất là cơ chế pháp lý về bảo hộ đối với NHNT.
Các công trình trong nước, có Luận án Tiến sỹ “Bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng –
Nghiên cứu so sánh giữa pháp luật Liên minh Châu Âu và Việt Nam” của tác giả
Phan Ngọc Tâm. Đây là một công trình nghiên cứu chuyên sâu đầu tiên về cơ chế
bảo hộ NHNT trên quan điểm pháp luật Việt Nam và Liên minh Châu Âu. Công trình
nghiên cứu mới nhất về bảo hộ NHNT là Báo cáo nghiên cứu “Bảo hộ nhãn hiệu nổi
tiếng theo pháp luật Việt Nam – thực trạng và giải pháp hoàn thiện”. Đây là công
trình nghiên cứu công phu của hai tác giả Phan Ngọc Tâm và Lê Quang Vinh trong
khuôn khổ của “Dự án nhãn hiệu nổi tiếng” do Thanh tra Bộ KHCN phối hợp với
Hiệp hội nhãn hiệu hàng hóa quốc tế (INTA) tổ chức nhằm đánh giá các quy định
3
pháp luật hiện hành, các vướng mắc thực tiễn đối với việc bảo hộ và thực thi quyền
đối với NHNT tại Việt Nam và đề xuất phương hướng điều chỉnh Luật SHTT.
Các công trình nước ngoài tiêu biểu có tác phẩm “Famous and well-known
marks – An international analysis” của tác giả Frederick W. Mostert, cuốn sách đã đề
cập đến những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến việc thực thi cơ chế bảo hộ
NHNT, đặc biệt tác giả có đề cập đến các tiêu chí đánh giá NHNT. Công trình nghiên
cứu “The protection of well-known marks in Asia” của tác giả Christopher Heath và
Kung – Chung Liu, trong đó những vấn đề liên quan đến bảo hộ NHNT được công
trình nghiên cứu này giải quyết trên cơ sở lý luận và thực tiễn, từ đó góp phần quan
trọng trong việc so sánh về cơ chế pháp lý bảo hộ NHNT giữa các hệ thống pháp luật
lớn trên thế giới. Bên cạnh đó, các bài báo, bài viết và công trình nghiên cứu của các
học giả trên thế giới góp phần hoàn thiện lý luận chung và phản ánh thực tiễn trong
việc bảo hộ NHNT nói chung và vấn đề đánh giá và công nhận NHNT nói riêng.
Như vậy, có thể thấy vấn đề về đánh giá và công nhận NHNT, mặc dù là một
phần trong tổng thể của cơ chế bảo hộ NHNT nhưng chưa được chú trọng khai thác
nghiên cứu chuyên sâu.
Để giải quyết vấn đề đặt ra của đối tượng nghiên cứu, tác giả đi từ giải quyết
những vấn đề cơ bản của nhãn hiệu và NHNT (Chương 1 và 2) đến những vấn đề
trực tiếp làm sáng tỏ nội dung đề tài (Chương 3).
4. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Như đã trình bày tại mục 3, NHNT đã được nhiều học giả trong và ngoài nước
khai thác ở nhiều khía cạnh lý luận và thực tiễn khác nhau. Trong đó các đề tài được
nhiều học giả nghiên cứu nhất là cơ chế pháp lý về bảo hộ đối với NHNT. Tuy vậy,
vấn đề về đánh giá và công nhận NHNT, mặc dù là một phần trong tổng thể của cơ
chế bảo hộ NHNT nhưng chưa được chú trọng khai thác nghiên cứu chuyên sâu.
Chính vì vậy, đối tượng nghiên cứu chính của đề tài là việc đánh giá và công nhận
NHNT nhằm làm rõ các quan điểm về NHNT, các tiêu chí đánh giá để công nhận
một NHNT, cơ quan có thẩm quyền đánh giá, công nhận; giá trị pháp lý của việc công
4
nhận NHNT và các vấn đề pháp lý khác có liên quan. Từ đó đóng góp vào hệ thống
lý luận về NHNT thông qua nghiên cứu các quy định của các Điều ước quốc tế, pháp
luật của một số quốc gia trên thế giới điều chỉnh về NHNT. Cuối cùng là đề xuất hoàn
thiện quy định pháp luật về đánh giá và công nhận NHNT phù hợp với bối cảnh và
mục đích của việc công nhận NHNT ở Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là các quan điểm về NHNT, các tiêu chí đánh giá
để công nhận NHNT trong các Điều ước quốc tế như Công ước Paris1, Hiệp định
TRIPs2, Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và
các khuyến nghị không mang tính ràng buộc của Tổ chức SHTT thế giới. Đồng thời
nghiên cứu và so sánh quan điểm của một số hệ thống pháp luật như Hoa Kỳ, Liên
minh Châu Âu, Nhật Bản, Trung Quốc và Việt Nam để có cái nhìn tổng quan về bản
chất, ý nghĩa của đánh giá và công nhận NHNT; cơ chế công nhận NHNT, các tiêu
chí và phương pháp đánh giá để công nhận NHNT; cơ quan có thẩm quyền trong việc
công nhận NHNT và một số vấn đề pháp lý liên quan.
5.
Phương pháp tiến hành nghiên cứu
Đề tài áp dụng các phương pháp nghiên cứu pháp luật bao gồm:
5.1. Phương pháp pháp lý truyền thống
Đây là phương pháp nghiên cứu pháp luật được thực hiện thông qua việc phân
tích, đánh giá và diễn giải nội dung của quy định của pháp luật liên quan đến đánh
giá và công nhận NHNT để từ đó làm sáng tỏ các vấn đề về lý luận và thực tiễn của
đối tượng nghiên cứu.
5.2. Phương pháp pháp lý so sánh
Đây là phương pháp nghiên cứu pháp luật được thực hiện trên cơ sở phân tích,
đánh giá những điểm giống nhau và khác nhau giữa quy phạm pháp luật cụ thể về
1 Công ước Paris về bảo hộ SHCN năm 1883, tuy nhiên vấn đề bảo hộ bảo hộ NHNT được thảo luận bởi các nước
thành viên của Công ước Paris từ những năm 1920 đến năm 1925 Điều 6bis về NHNT lần đầu tiên được ghi nhận
vào Công ước Paris (sau đây gọi tắt là Công ước Paris).
2 Hiệp định TRIPs về các khía cạnh liên quan tới thương mại của Quyền SHTT 1994 (sau đây gọi tắt là Hiệp định TRIPs).
5
đánh giá và công nhận NHNT ở các hệ thống pháp luật để thấy được sự khác biệt và
tương đồng một cách khái quát nhất.
5.3.
Phương pháp pháp lý lịch sử
Đây là phương pháp nghiên cứu pháp luật được thực hiện trên cơ sở tìm hiểu
sự phát triển của một chế định pháp luật trong lịch sử lập pháp của một hệ thống pháp
luật quốc gia hay ở phạm vi quốc tế tại các điều ước quốc tế. Phương pháp pháp lý
lịch sử giúp các nhà nghiên cứu hiểu được nguồn gốc, quá trình và quy luật phát triển
để từ đó có thể dự báo xu hướng phát triển của chúng trong tương lai. Đồng thời,
phương pháp pháp lý lịch sử còn giúp nhà nghiên cứu tìm ra những sự giải thích hợp
lý và khoa học cho những vấn đề pháp lý được đặt ra của đối tượng nghiên cứu.
5.4.
Phương pháp pháp lý kinh tế
Phương pháp pháp lý kinh tế là sự kết hợp giữa nghiên cứu pháp luật với kinh
tế xuất phát từ mối liên hệ chặt chẽ của chúng với nhau. Nghiên cứu lĩnh vực pháp
luật về SHTT càng không thể tách khỏi các yếu tố kinh tế. Các nguyên tắc, học thuyết
kinh tế cho phép giải thích một cách hiệu quả, thuyết phục những vấn đề pháp lý liên
quan đến quyền và thực thi quyền SHTT để từ đó thấy được giá trị kinh tế cũng như
vai trò, tầm quan trọng của chúng trong cơ cấu tài sản của doanh nghiệp.
5.5.
Phương pháp pháp lý xã hội
Phương pháp pháp lý xã hội được xác lập dựa trên việc giải quyết mối quan hệ
tương tác biện chứng giữa pháp luật và xã hội. Sự tác động của các quy phạm pháp
luật sau khi được ban hành đến đời sống xã hội và ngược lại, các thực trạng và các
điều kiện xã hội sẽ ảnh hưởng như thế nào đến tính khả thi, hiệu quả của các quy
phạm pháp luật, đặc biệt là những vấn đề pháp lý có khuynh hướng định tính hơn là
định lượng như việc đánh giá và công nhận NHNT.
Các phương pháp nghiên cứu nêu trên còn được tác giả sử dụng kết hợp với
phương pháp nghiên cứu đọc hiểu, tổng hợp, phân tích, đánh giá, suy luận trực tiếp
6
trên tài liệu, sách vở, các trang thông tin điện tử (internet) nhằm giải quyết một cách
hiệu quả nhất đối với các câu hỏi nghiên cứu mà đề tài đặt ra.
6.
Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Trong bối cảnh bùng nổ thông tin hiện nay, việc đánh giá và công nhận NHNT
có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của
chủ sở hữu nhãn hiệu. Trong khi đó pháp luật về đánh giá và công nhận NHNT tại
Việt Nam đã tồn tại nhiều hạn chế, bất cập, có thể kể một vài điển hình như: (1) Nhiều
tiêu chí đánh giá để công nhận NHNT chưa được cụ thể và còn định tính3; (2) Chưa
xác định các trường hợp cụ thể được công nhận NHNT; (3) Chưa phân định rõ ràng
cơ quan có thẩm quyền công nhận NHNT.
Chính vì vậy, luận văn này sẽ đi sâu vào nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn
của ý nghĩa, bản chất pháp lý, kinh tế – xã hội, cơ chế công nhận NHNT, các tiêu chí
và phương pháp đánh giá để công nhận một NHNT, cơ quan có thẩm quyền trong
việc công nhận NHNT và các vấn đề pháp lý khác có liên quan, từ đó đề xuất các
hướng hoàn thiện quy định pháp luật Việt Nam trên cơ sở phù hợp với bản chất khách
quan và yêu cầu thực tiễn ở nước ta.
3 Theo Dự thảo “Báo cáo tổng kết 10 năm thi hành Luật Sở hữu trí tuệ – tài liệu phục vụ Hội nghị tổng kết 10
năm thi hành Luật SHTT tại Hà Nội (ngày 19/5/2017) và tại Thành phồ Hồ Chí Minh (ngày 23/5/2017)”, trang
20. Xem thêm tại:
7
Chương 1: Những vấn đề lý luận và thực trạng pháp luật về đánh giá và công
nhận nhãn hiệu nổi tiếng
1.1.
Những vấn đề lý luận về nhãn hiệu và nhãn hiệu nổi tiếng
1.1.1. Lý luận về nhãn hiệu
1.1.1.1.
Khái niệm và đặc điểm của nhãn hiệu
Trước khi thuật ngữ “nhãn hiệu” được sử dụng rộng rãi và điều chỉnh bởi pháp
luật thì hình thức biểu hiện và cách thức tồn tại của nó đã xuất hiện từ khá sớm.
Những người thợ Ấn Độ, thương nhân Trung Quốc thời cổ đại cách nay khoảng 2000
ngàn năm đã sử dụng các biểu tượng, ký hiệu dưới dạng hình vẽ, chữ viết, chữ số…
chạm khắc, đục… trên các sản phẩm mà mình tạo ra hoặc buôn bán nhằm mục đích
phân biệt các sản phẩm trên thị trường. Tuy nhiên, khi đó việc tạo ra và sử dụng chúng
chỉ mang tính chất tự phát mà chưa thành một nhu cầu phổ biến.
Với sự ra đời của chủ nghĩa tư bản và nền kinh tế thị trường được vận hành, sản
phẩm hàng hóa không ngừng tăng về số lượng và chủng loại, người tiêu dùng có
nhiều sự lựa chọn hơn dẫn đến sự cạnh tranh giữa các thương nhân trên thị trường.
Trong đó có những hành vi cạnh tranh không lành mạnh, phổ biến và sớm nhất là
hành vi làm giả các sản phẩm được sử dụng phổ biến, vốn quen thuộc với người tiêu
dùng. Tại nước Anh, vào thế kỷ XVIII, các thương nhân lớn đã phản ánh tình trạng
các sản phẩm của họ bị làm giả, vì vậy để tránh tình trạng này, nước Anh được cho
là quốc gia đầu tiên ban hành luật về bảo hộ độc quyền nhãn hiệu4. Từ đó khởi đầu
cho việc sử dụng rộng rãi và phổ biến của thuật ngữ “nhãn hiệu” trên thị trường và
lịch sử pháp luật về quyền SHTT đối với nhãn hiệu.
Ngày nay, nhãn hiệu, cùng với quyền tác giả và các đối tượng khác của quyền SHCN
là những tài sản quan trọng của các doanh nghiệp và khái niệm nhãn hiệu đã dần trở nên
quen thuộc trong đời sống kinh tế – xã hội. Tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa có một nội dung
thống nhất nào để diễn giải nội hàm của thuật ngữ “nhãn hiệu”, chẳng hạn:
4 Nhãn hiệu đầu tiên được bảo hộ tại nước Anh theo Luật độc quyền nhãn hiệu là hình tam giác màu cam của hãng
bia BASS (năm 1777), theo Lê Nết (2006, trang 81).
8
Theo Điều 15.1 của Hiệp định TRIPs định nghĩa về nhãn hiệu như sau:
“Bất kỳ một dấu hiệu, hoặc tổ hợp các dấu hiệu, bao gồm các dấu hiệu nhìn
thấy được như chữ cái, chữ số, hình họa và dấu hiệu không nhìn thấy được như
âm thanh, mùi, vị nếu có khả năng phân biệt hàng hoá hoặc dịch vụ của một
doanh nghiệp với hàng hoá hoặc dịch vụ của các doanh nghiệp khác, đều có thể
được đăng ký làm nhãn hiệu”.
Tại Hoa Kỳ, Văn phòng Sáng chế và Nhãn hiệu Hoa Kỳ (USPTO) cho rằng
nhãn hiệu, bao gồm nhãn hiệu hàng hóa và nhãn hiệu dịch vụ được hiểu là bất kỳ từ
ngữ, tên gọi, dấu hiệu, hình vẽ hoặc sự kết hợp của chúng được sử dụng hoặc sẽ được
sử dụng trong thương mại nhằm xác định nguồn gốc hàng hóa, dịch vụ và phân biệt
những hàng hóa, dịch vụ của một chủ thể kinh doanh với hàng hóa, dịch vụ của các
chủ thể kinh doanh khác5;
Theo Liên minh Châu Âu, luật nhãn hiệu quy định “nhãn hiệu có thể bao gồm
bất kỳ dấu hiệu nào có thể được thể hiện một cách cụ thể và rõ ràng dưới dạng các
từ, bao gồm tên riêng, hình ảnh, chữ viết, chữ số, hình dáng hoặc bao bì của hàng
hóa, với điều kiện là chúng có khả năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của một chủ thể
kinh doanh này với hàng hóa, dịch vụ của các chủ thể kinh doanh khác”6;
Tại Khoản 16 Điều 4 của Luật SHTT Việt Nam quy định: “nhãn hiệu là dấu
hiệu để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau”.
Mặc dù, hiện nay có nhiều định nghĩa về nhãn hiệu, nhưng các định nghĩa về
nhãn hiệu đều thống nhất những nội dung cơ bản của nhãn hiệu, đây cũng là những
đặc điểm của nhãn hiệu:
Một là, nhãn hiệu là dấu hiệu có thể nhìn thấy được như chữ cái, từ ngữ, hình
vẽ, hình ảnh,… đến cả những nhãn hiệu không nhìn thấy được như âm thanh, mùi,…
Tùy vào mỗi quốc gia mà việc mở rộng các dấu hiệu có thể đăng ký nhãn hiệu là khác
nhau, chẳng hạn tại Hoa Kỳ, cho phép mở rộng đăng ký nhãn hiệu âm thanh, mùi.
5 Xem thêm tại http://www.uspto.gov/web/menu/intro.html
6 Điều 2, Chỉ thị 89/104/EEC năm 1988.
9
Trong khi đó, pháp luật SHTT Việt Nam chưa có quy định nào liên quan đến xem xét
và đăng ký các nhãn hiệu dưới dạng các dấu hiệu này.
Hai là, nhãn hiệu là dấu hiệu có khả năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của chủ
sở hữu nhãn hiệu với hàng hóa, dịch vụ của chủ thể khác trên thị trường. Đặc điểm
này của nhãn hiệu mang đến rất nhiều ý nghĩa trong thực tiễn, khả năng phân biệt của
nhãn hiệu càng mạnh, kết hợp với các yếu tố nội tại của hàng hóa, dịch vụ và khả
năng kinh doanh chủ sở hữu nhãn hiệu sẽ mang lại sự thu hút, chú ý của người tiêu
dùng đối với nhãn hiệu đó. Ngoài ra, khả năng phân biệt của nhãn hiệu còn có ý nghĩa
trong việc chống lại những hành vi cố ý gây nhầm lẫn của cá nhân, tổ chức khác nhằm
lợi dụng uy tín của nhãn hiệu, chủ sở hữu nhãn hiệu để cạnh tranh không lành mạnh,
qua đó bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và chủ sở hữu nhãn hiệu.
Ba là, nhãn hiệu là một tài sản vô hình của chủ thể kinh doanh có khả năng định
giá được để lưu thông trên thị trường. Giá trị của nhãn hiệu thể hiện rõ nhất khi chúng
được chuyển nhượng trên thị trường.
Bốn là, quyền SHTT đối với nhãn hiệu chỉ được phát sinh khi nó đã được đăng
ký bảo hộ trong phạm vi lãnh thổ của một quốc gia hay một vùng lãnh thổ nhất định.
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hầu hết các quốc gia theo nguyên tắc nộp đơn đầu tiên
(first to file), bên cạnh đó cũng có một số quốc gia áp dụng thêm nguyên tắc ưu tiên
cho quyền sử dụng trước (first to use). Tuy nhiên, đối với NHNT, cơ chế bảo hộ có
sự khác biệt và mang đặc trưng riêng so với nhãn hiệu thông thường, vấn đề này sẽ
được nghiên cứu, làm rõ trong phần sau của luận văn này.
1.1.1.2.
Vai trò của nhãn hiệu
Vai trò của nhãn hiệu được biểu hiện bởi các chức năng của một nhãn hiệu, hiện
nay với sự phát triển của nền thương mại hàng hóa, dịch vụ thì nhãn hiệu càng giữ
một vai trò quan trọng trong hệ thống tài sản trí tuệ của doanh nghiệp cũng như thỏa
mãn các yêu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng. Nhìn chung, nhãn hiệu thể hiện
các vai trò như sau:
Tạo cầu nối giữa người tiêu dùng và nhà sản xuất, nhà cung ứng dịch vụ:
10
Vai trò này của nhãn hiệu xuất phát từ chức năng xác định nguồn gốc hàng hóa
của nhãn hiệu. Nhãn hiệu mang đến những thông tin chỉ dẫn về xuất xứ, nguồn gốc
của hàng hóa, dịch vụ. Đồng thời nhãn hiệu cũng cho người tiêu dùng biết rằng nhãn
hiệu đó thuộc về một nhà sản xuất hoặc nhà cung ứng dịch vụ cụ thể chứ không phải
bất cứ chủ thể nào khác kinh doanh cùng loại hàng hóa, dịch vụ trên thị trường. Bất
kỳ các vấn đề liên quan đến sản phẩm, dịch vụ, người tiêu dùng đều có thể trực tiếp
liên hệ hoặc phản ánh thông qua bên thứ ba đến nhà sản xuất. Ở chiều ngược lại,
thông qua các thông tin phản ánh, dư luận xã hội đối nhãn hiệu, nhà sản xuất sẽ có
nguồn thông tin khách quan để xây dựng các chiến lược phát triển sản phẩm, dịch vụ
để tiếp tục phục vụ thị hiếu người tiêu dùng, từ đó phát triển nhãn hiệu của mình ở
một tầm vóc mới.
Tạo ấn tượng về hàng hóa, dịch vụ trên thị trường:
Khi nhãn hiệu được gắn và sử dụng với một loại hàng hóa, dịch vụ cụ thể sẽ tạo
nên sự cạnh tranh trên thị trường đối với các chủ thể kinh doanh cùng loại hàng hóa,
dịch vụ. Môi trường cạnh tranh hoàn hảo luôn là môi trường mà có nhiều chủ thể kinh
doanh cùng loại hàng hóa, lĩnh vực dịch vụ. Vì vậy, một thị trường mà người tiêu
dùng có rất nhiều sự lựa chọn thay thế thì lúc đó nhãn hiệu sẽ đóng vai trò quan trọng
trong việc khẳng định vị trí của nó trong tâm trí người tiêu dùng. Nhãn hiệu có thể
gây sự chú ý đến người tiêu dùng bằng nhiều cách thức khác nhau, chẳng hạn như
yếu tố thẩm mỹ, hình thức đặc trưng của nhãn hiệu. Tuy nhiên, hầu hết hiện nay các
chủ thể kinh doanh cho rằng một nhãn hiệu có mức độ danh tiếng cao (thông qua các
số liệu về sức mua hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu) mới là yếu tố để lại ấn tượng
sâu đậm, bền vững đối với người tiêu dùng. Có nhiều yếu tố để tạo nên uy tín, danh
tiếng cho nhãn hiệu, tuy nhiên yếu tố cơ bản là chất lượng của hàng hóa, dịch vụ
mang nhãn hiệu đó, bởi vì đây là một trong các yếu tố kích thích người tiêu dùng tiếp
tục mua thêm hàng hóa, sử dụng dịch vụ, và cũng từ đây nhãn hiệu ngày càng trở
thành một ấn tượng mạnh mẽ của người tiêu dùng khi lựa chọn hàng hóa, dịch vụ.
Ngày càng trở thành một tài sản quan trọng của doanh nghiệp:
11
Vai trò của nhãn hiệu ngày nay, cũng như các tài sản trí tuệ khác của doanh
nghiệp trong cách mạng công nghệ 4.0 đang ngày một trở nên quan trọng, nhất là đối
với những nhãn hiệu mạnh đã khẳng định được uy tín trên thị trường. Đặc biệt, đối
với các NHNT thì giá trị của nhãn hiệu không chỉ đại diện cho tài sản của doanh
nghiệp, thậm chí trong một số trường hợp còn trở thành một biểu tượng kinh doanh,
đóng góp quan trọng cho nền kinh tế quốc gia nơi có nhãn hiệu đó được sử dụng và
kinh doanh. Việc định giá một nhãn hiệu đã trở thành một nghiệp vụ quen thuộc và
là một phần không thể thiếu trong quá trình đánh giá tài sản doanh nghiệp.
1.1.1.3.
Khái quát chung pháp luật về nhãn hiệu
Pháp luật về nhãn hiệu ra đời một tất yếu của lịch sử phát triển kinh tế – xã
hội, bản chất pháp luật về nhãn hiệu nói riêng và quyền SHTT nói chung là một
chế định pháp luật về tài sản và quyền sở hữu. Do đó, pháp luật về nhãn hiệu ra
đời trước hết nhằm mục đích bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ sở hữu
nhãn hiệu, tiếp đó là nhằm đảm bảo quyền, lợi ích chính đáng của các chủ thể có
liên quan và lợi ích chung của xã hội.
Thực tiễn đã cho thấy, pháp luật về nhãn hiệu ra đời trong xã hội tư hữu đã phát
triển nền kinh tế thị trường, cụ thể các nghiên cứu chỉ ra rằng, luật về nhãn hiệu đã
xuất hiện vào những năm 1800 tại nước Anh với đạo luật nền tảng là Đạo Luật đăng
ký nhãn hiệu (1875) và Đạo Luật về Nhãn hiệu thương mại (1862)7 sau khi tại nước
Anh đã phát sinh một số vụ kiện tụng liên quan đến nhãn hiệu8. Tại Hoa Kỳ cũng có
những vụ việc nổi tiếng tạo thành án lệ về bảo hộ nhãn hiệu được giải quyết bởi Tòa
án tối cao Hoa Kỳ9. Pháp luật về nhãn hiệu sơ khai ra đời dựa trên thực trạng giả mạo
hàng hóa của các chủ thể kinh doanh hoặc tình trạng cố tình gây ra nhầm lẫn hàng
hóa của một bộ phận thương nhân để trục lợi, vì vậy luật về nhãn hiệu sơ khai nhằm
mục đích ngăn chặn sự nhầm lẫn hàng hóa của các chủ thể kinh doanh trên thị trường.
7 David I Bainbridge (2007, trang 586).
8 Một số vụ kiện nổi bật như Southern v. How năm 1618, vụ Blanchard v. Hill năm 1742, vụ Sykes v. Sykes năm
1824, theo Mark P.MC Kenna (2007, Vol. 82:5).
9 Một số vụ nổi bật như: United States v. Steffens, United States v. Wittemean and United States v. Johnson, xem
tại:
12
Từ nền tảng hệ thống thông luật, các chế định pháp luật thành văn về nhãn hiệu
cũng được ra đời, cho đến nay, pháp luật về nhãn hiệu không ngừng hoàn thiện và trở
nên phổ biến ở mọi quốc gia. Sự ra đời và phát triển của pháp luật về nhãn hiệu góp
phần giải quyết một số vấn đề kinh tế – xã hội, cụ thể:
Góp phần ngăn chặn các hành vi cạnh tranh không lành mạnh:
Bảo hộ nhãn hiệu sẽ giúp cho chủ sở hữu nhãn hiệu được độc quyền sử dụng
nhãn hiệu của mình đối với các hàng hóa, dịch vụ được cung cấp trên thị trường bởi
chủ sở hữu đó. Từ đó, chủ sở hữu nhãn hiệu ngăn chặn các hành vi cố tình bắt chước
hay gây nhầm lẫn hàng hóa, dịch vụ của các chủ thể kinh doanh khác trong cùng
ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh. Trong thời gian đầu của pháp luật nhãn hiệu, giải
quyết vấn đề này được coi trọng nhất, bởi lẽ, việc ngăn chặn các hành vi xâm phạm
nhãn hiệu để cạnh tranh không lành mạnh là nguyên nhân đầu tiên cho sự ra đời của
pháp luật về nhãn hiệu.
Đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng:
Quyền lợi người tiêu dùng đôi khi là một cơ sở để đánh giá, chứng minh một
hành vi cạnh không lành mạnh của một chủ thể kinh doanh khi hậu quả của việc giả
mạo, gây nhầm lẫn nhãn hiệu khác làm cho người tiêu dùng mua phải những sản
phẩm kém chất lượng không phù hợp với mong đợi của họ. Cùng với sự phát triển
của pháp luật về nhãn hiệu, quyền lợi của người tiêu dùng đã trở thành một mối quan
tâm tất yếu của pháp luật về nhãn hiệu.
Tạo tâm lý an toàn cho nhà đầu tư:
Thông qua việc bảo hộ nhãn hiệu, “nhà đầu tư có thể an tâm đầu tư nhãn hiệu
vào thị trường với sự tin tưởng rằng không ai có thể chiếm đoạt nó”10. Từ đó làm cho
nhà đầu tư có ý thức hơn trong việc sử dụng nhãn hiệu của mình và gián tiếp tạo sự
ràng buộc đảm bảo hoặc thậm chí trở thành động lực để tăng chất lượng hàng hóa,
dịch vụ do mình sản xuất, kinh doanh.
10 Robert G.Bone, (2004, trang 2108).
13
1.1.2. Những vấn đề lý luận về nhãn hiệu nổi tiếng
1.1.2.1.
Định nghĩa nhãn hiệu nổi tiếng
NHNT trước hết là một nhãn hiệu cụ thể, theo cách hiểu thông thường, đó là
nhãn hiệu đã trải qua quá trình sử dụng liên tục cho hàng hóa, dịch vụ và được nhiều
người tiêu dùng biết đến. Xét về mặt bản chất đây là một tình trạng đặc biệt của nhãn
hiệu – đó là sự nổi tiếng của nhãn hiệu. Mặc dù khái niệm về NHNT đã tồn tại từ rất
lâu trong xã hội, tuy nhiên thuật ngữ “NHNT” chỉ được chính thức hóa bởi Công ước
Paris, thông qua việc đề cập đến nghĩa vụ của các quốc gia thành viên trong việc từ
chối đăng ký, hủy bỏ đăng ký và ngăn cấm sử dụng đối với một nhãn hiệu mà nó có
khả năng gây nhầm lẫn với một NHNT11. Công ước Paris không đưa ra bất kỳ một
định nghĩa pháp lý chính thức nào về NHNT, tương tự như vậy đối với Hiệp định
TRIPs, mặc dù Hiệp định này mở rộng bảo hộ NHNT đối với dịch vụ, đồng thời quy
định một số căn cứ chung để xác định một nhãn hiệu được coi là nổi tiếng, trong khi
đó cũng không có một định nghĩa pháp lý chính thức về NHNT.
Các Điều ước quốc tế đều không định nghĩa về NHNT, do vậy định nghĩa
NHNT được đưa ra dưới góc nhìn của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, không phải pháp luật
quốc gia nào cũng có định nghĩa về NHNT, thậm chí một số quốc gia phát triển như
Hoa Kỳ, Nhật Bản và luật chung của Liên minh Châu Âu cũng không đưa ra một định
nghĩa chính thức về NHNT. Nhìn chung, định nghĩa về NHNT tại các quốc gia dưới
hai hình thức cơ bản:
Các định nghĩa NHNT tập trung vào giải thích nội hàm của khái niệm nổi tiếng
của nhãn hiệu, chẳng hạn Bộ Luật SHTT của Pháp đưa ra định nghĩa NHNT là nhãn
hiệu được công nhận bởi một tỷ lệ lớn người tiêu dùng hay bộ phận công chúng có
liên quan đến quá trình sản xuất, phân phối và sử dụng hàng hóa mang nhãn hiệu và
được nhận biết một cách rõ ràng như là một sự xác định đối với nguồn gốc riêng biệt
của những sản phẩm này. Hay theo luật Trung Quốc, tại Bản quy định về xác định và
bảo hộ NHNT ban hành ngày 7/3/2014 của Cơ quan quản lý Nhà nước về công nghiệp
11 Đoạn 1 – Điều 6bis, Công ước Paris.
14
và thương mại Trung Quốc (SAIC)12 nhằm hướng dẫn Điều 13 và Điều 14 của Luật
nhãn hiệu năm 2013 liên quan đến NHNT kèm theo Lệnh số 66 đã định nghĩa NHNT
ở Điều 2 như sau: “NHNT là nhãn hiệu được biết đến rộng rãi bởi bộ phận người tiêu
dùng có liên quan tại Trung Quốc”. Tại Luật SHTT Việt Nam, theo Khoản 20, Điều
4 thì “nhãn hiệu nổi tiếng là nhãn hiệu được người tiêu dùng biết đến một cách rộng
rãi trên toàn lãnh thổ Việt Nam”.
Các định nghĩa NHNT tập trung vào đặc trưng của NHNT, chẳng hạn Luật nhãn
hiệu của Ấn Độ thì nhấn mạnh ở tính chất dễ bị xâm phạm của NHNT, cụ thể “Một
nhãn hiệu nổi tiếng có nghĩa là nhãn hiệu trở nên nổi tiếng trong một bộ phận đáng
kể của công chúng sử dụng hàng hóa hay dịch vụ mang nhãn hiệu mà sự sử dụng
nhãn hiệu như thế cho các hàng hóa hay dịch vụ khác sẽ có nguy cơ tạo ra một sự kết
nối trong lĩnh vực thương mại giữa những hàng hóa hay dịch vụ đó với chủ thể sử
dụng nhãn hiệu cho hàng hóa hay dịch vụ được đề cập trước đó”13.
Như vậy có thể thấy cho đến nay vẫn chưa có cách hiểu duy nhất và cuối cùng
đối với NHNT, tuy nhiên, cách tiếp cận cách hiểu về NHNT ở các quốc gia, các hệ
thống pháp luật là tương đồng nhau nếu xét về bản chất của NHNT khi thống nhất
điểm cơ bản của chúng, đó là các đặc trưng hay đặc điểm của NHNT, cho dù pháp
luật quốc gia đó có đề cập hay không đề cập đến định nghĩa NHNT.
1.1.2.2.
Đặc trưng của nhãn hiệu nổi tiếng
Nhãn hiệu có uy tín và danh tiếng được bộ phận người tiêu dùng hoặc công
chúng có liên quan biết đến rộng rãi:
Đây là đặc điểm quan trọng nhất của NHNT, sự nổi tiếng của một nhãn hiệu
đầu tiên phải được nhiều người biết đến. Sự nổi tiếng của một nhãn hiệu là một quá
trình sử dụng nhãn hiệu lâu dài, liên tục trên hàng hóa, dịch vụ để định hình, khắc sâu
và trở nên quen thuộc trong tâm trí người tiêu dùng, thông thường những NHNT trên
thế giới phần lớn là có một thời gian tồn tại từ rất lâu và là những nhãn hiệu mạnh
12 State Administration for Industry and Commerce.
13 Bộ KHCN và Hiệp Hội nhãn hiệu quốc tế (INTA), (2017, trang 23).
15
hay nói cách khác là những nhãn hiệu có giá trị thương mại cao. Tìm hiểu quá trình
phát triển của một nhãn hiệu sẽ thấy có nhiều yếu tố khách quan và chủ quan dẫn đến
khả năng một nhãn hiệu được biết đến một cách rộng rãi. Tuy nhiên, trong đó yếu tố
chủ quan là nhân tố quyết định để một nhãn hiệu đạt được sự được nổi tiếng, đó là
tập hợp các nhân tố thuộc về nội lực như tài chính, trí tuệ trong kinh doanh cũng như
uy tín, chất lượng sản phẩm, cách thức phục vụ…. Chẳng hạn có thể thấy ở trường
hợp của nhãn hiệu COCA-COLA14, nguồn gốc sự nổi tiếng của nhãn hiệu này trên
toàn thế giới đã thể hiện một trí tuệ kinh doanh sắc sảo đó là tạo ra sự khác biệt đối
với sản phẩm. Trước khi COCA-COLA ra đời, thị trường nước giải khát thời kỳ đó
bao gồm bia tươi, nước thổ phục linh, nước gừng, nước cam, nước chanh và các loại
nước pha chế thủ công khác. COCA-COLA là nhãn hiệu tiên phong trên thị trường
với sản phẩm nước giải khát từ nước cola với công thức độc đáo. Nhãn hiệu này đã
có thời gian độc quyền trên thị trường khá lâu và được người tiêu dùng biết đến không
chỉ ở quốc gia nó ra đời mà đến người tiêu dùng trên toàn thế giới. Có thể thấy, cách
thức COCA-COLA trở nên nổi tiếng không phải là việc tập trung xây dựng nhãn hiệu
cho những chủng loại hàng hóa hiện tại mà là nhà đầu tiên cung cấp cho thị trường
một sản phẩm mới và định hình một tiêu chuẩn mới cho nước giải khát, hay nói cách
khác yếu tố làm nên sự nổi tiếng của nhãn hiệu này là sự sáng tạo và chất lượng đặc
trưng của sản phẩm.
Như vậy, có thể thấy, sự khác biệt giữa nhãn hiệu thông thường và NHNT là
khả năng gây ấn tượng mạnh với người tiêu dùng không phải chỉ là hình thức bên
ngoài của nhãn hiệu mà các yếu tố bên trong của nhãn hiệu như chất lượng sản
phẩm, cách thức phục vụ, trí tuệ trong kinh doanh…. Các yếu tố này đã trở thành
một biểu tượng của uy tín, danh tiếng gắn liền với hàng hóa, dịch vụ mang nhãn
hiệu. Đây cũng là yếu tố quyết định trong việc hình thành và duy trì khả năng phân
14 Năm 2006, Coca-Cola được định giá là nhãn hiệu hàng đầu thế giới với giá trị 67 tỷ USD, theo Al Ries
và Laura Ries (2007, trang 40).
16
biệt của người tiêu dùng giữa NHNT với nhãn hiệu khác cho các nhóm hàng hóa,
dịch vụ cùng loại15.
Tuy nhiên, đặc điểm sự nổi tiếng của nhãn hiệu không đồng nghĩa với việc phải
được toàn bộ hay phần lớn người tiêu dùng trên thị trường biết đến như quan điểm
của một số quốc gia trước đây. Quan điểm phổ biến hiện nay về vấn đề này đó là
nhãn hiệu được coi là nổi tiếng chỉ cần đạt tình trạng nổi tiếng trong cộng đồng người
tiêu dùng có liên quan. Điều này xuất phát từ một thực tế hợp lý theo nguyên tắc thị
trường cung và cầu, khi người tiêu dùng có nhu cầu về hàng hóa, dịch vụ nào thì sẽ
có nhà cung cấp tương ứng. Vì vậy NHNT cũng như nhãn hiệu thông thường luôn có
đối tượng khách hàng cụ thể. Khi được số lượng hoặc tỷ lệ đáng kể người tiêu dùng
có liên quan biết đến nhãn hiệu đó thì sẽ trở nên nổi tiếng. Có thể thấy điều này tại
Bộ Quy tắc Công nhận và Bảo hộ NHNT của Trung Quốc, so với Bộ Quy tắc cũ trước
năm 1996, nhà làm luật đã thay đổi cụm từ “được biết đến rộng rãi trong thị trường”
thành “được biết đến rộng rãi trong bộ phận người tiêu dùng có liên quan”. Trong các
tiêu chí đánh giá cần xem xét một nhãn hiệu là nổi tiếng, Luật SHTT Việt Nam cũng
đề cập đến tiêu chí liên quan đến “người tiêu dùng có liên quan”, cụ thể tại Khoản 1
Điều 75 quy định: “Số lượng người tiêu dùng liên quan đã biết đến nhãn hiệu thông
qua việc mua bán, sử dụng hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu hoặc thông qua quảng
cáo”. Đến nay, quy định pháp luật các nước cũng như ở bình diện quốc tế đều khẳng
định “người tiêu dùng có liên quan” biết đến hoặc thừa nhận nhãn hiệu là nổi tiếng là
một trong những căn cứ quan trọng để xác định NHNT, điều này có thể nhận thấy
trong Bản khuyến nghị chung tháng 09/1999 được ban hành bởi Đại hội đồng của
15 Ngoài ra, yếu tố “danh tiếng” và “uy tín” của NHNT còn là những dấu hiệu để phân biệt giữa NHNT và
nhãn hiệu được sử dụng và thừa nhận rộng rãi. Loại nhãn hiệu này được đề cập tại Điểm g Khoản 2 Điều
74 của Luật SHTT Việt Nam. Mặc dù loại nhãn hiệu này đạt được sự nhận biết cao của bộ phận người
tiêu dùng có liên quan nhưng nó chưa được xem là NHNT, một số nhà nghiên cứu còn cho rằng nó là nhãn
hiệu trung gian đứng giữa nhãn hiệu thông thường và NHNT – Báo cáo nghiên cứu – “Dự án nhãn hiệu
nổi tiếng” (2017, trang 121 – 122).
17
Công ước Paris và Tổ chức SHTT Thế Giới (WIPO) về bảo hộ NHNT (sau đây gọi
tắt là Bản khuyến nghị WIPO)16.
NHNT là nhãn hiệu có căn cứ xác lập quyền trên cơ sở thực tiễn sử dụng liên
tục, lâu dài và phổ biến của nhãn hiệu đó:
Đây có thể xem là một đặc điểm ngoại lệ của nguyên tắc xác lập quyền đối với
quyền SHCN nói chung và đối với nhãn hiệu nói riêng. Thay vì nguyên tắc chung là
cần phải đăng ký để được cấp văn bằng bảo hộ thì quyền SHCN đối với NHNT được
xác lập trên cơ sở thực tiễn sử dụng liên tục, lâu dài và phổ biến của nhãn hiệu đó mà
không phụ thuộc vào thủ tục đăng ký. Luật SHTT Việt Nam, tại Điểm a Khoản 3
Điều 6 đã khẳng định nguyên tắc này: “Đối với nhãn hiệu nổi tiếng, quyền sở hữu
được xác lập trên cơ sở sử dụng, không phụ thuộc vào thủ tục đăng ký”. Quy định
này phù hợp với các Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên như Điều 6bis
Công ước Paris, Điều 16(2) – Hiệp định TRIPs. Đặc điểm này là hệ quả tất yếu
của quá trình một nhãn hiệu trở nên nổi tiếng, thông thường một nhãn hiệu được
sử dụng liên tục thì sẽ trở nên quen thuộc (hay trở nên phổ biến) với người tiêu
dùng và khi nhãn hiệu đó càng được sử dụng lâu dài, sự nổi tiếng của nhãn hiệu
đó càng được củng cố.
Có thể thấy, quá trình một nhãn hiệu trở nên nổi tiếng là một quá trình phát triển
của nhãn hiệu, đầu tiên một nhãn hiệu mới phải có một bộ phận người tiêu dùng thừa
nhận và chấp nhận nó, để làm sao một nhãn hiệu được người tiêu dùng chấp nhận và
lựa chọn là cả một chiến lược kinh doanh và tiếp thị của doanh nghiệp, theo hai học
giả nghiên cứu về chiến lược tiếp thị và phát triển nhãn hiệu người Mỹ – Al Ries và
Laura Ries trong cuốn sách “Nguồn gốc nhãn hiệu – Sự tiến hóa của sản phẩm liên
tục tạo nên cơ hội xuất hiện cho các nhãn hiệu mới như thế nào?” (2007, trang 49) đã
nhận định: “Mục tiêu ban đầu của chương trình xây dựng nhãn hiệu không phải là thị
trường cho một sản phẩm hay dịch vụ nào cả mà là đưa sản phẩm vào tâm trí mọi
16 Theo Điểm b, Khoản 1 Điều 2 của Bản Khuyến nghị WIPO, một trong các tiêu chí khuyến nghị áp dụng đối với
các Quốc gia thành viên khi đánh giá một nhãn hiệu là nổi tiếng là: “Mức độ nhận biết hay thừa nhận của nhãn hiệu
trong bộ phận người tiêu dùng có liên quan”.
18
người”. Các chủ sở hữu nhãn hiệu có nhiều cách thức khác nhau để thuyết phục người
tiêu dùng quyết định lựa chọn sản phẩm cho mình, từ việc không ngừng cải tiến chất
lượng hàng hóa, cung cách phục vụ cho đến việc sáng tạo ra các hàng hóa, dịch vụ
mới chưa từng kinh doanh trên thị trường hoặc khai thác những mảng, phân khúc
khác nhau của những hàng hóa, dịch vụ vốn đã phổ biến, ví dụ có thể thấy trong
trường hợp này đó là nhãn hiệu đồng hồ Rolex, ra đời vào năm 1908 khi mà khá nhiều
nhãn hiệu đồng hồ đeo tay đã có mặt trên thị trường, tuy nhiên trong tâm trí người
tiêu dùng khi đó không hề có khái niệm “đồng hồ cao cấp” và tất nhiên không hề có
bất kỳ một nhãn hiệu nào của chủng loại hàng này, như vậy với việc giới thiệu Rolex
đã tạo ra quan niệm về một phân khúc sản phẩm đồng hồ đeo tay mới, đến ngày nay
nó đã chiếm một phần quan trọng trên thị trường đồng hồ. Khi một nhãn hiệu đã được
một bộ phận người tiêu dùng lựa chọn thì để bộ phận người tiêu dùng đó tiếp tục lựa
chọn lại hàng hóa, dịch vụ mà không tìm kiếm một nhãn hiệu của doanh nghiệp khác
thay thế, cũng như không ngừng tiếp tục mở rộng thị trường để tiếp cận những người
tiêu dùng tiềm năng khác là yếu tố sống còn của một nhãn hiệu và nhiệm vụ của
doanh nghiệp không gì khác ngoài việc tiếp duy trì sản xuất, cung ứng dịch vụ liên
tục đảm bảo phục vụ khách hàng hiện hữu kết hợp với các chiến lược tiếp thị, quảng
cáo để giới thiệu hàng hóa, dịch vụ đến các khách hàng tiềm năng.
Ngày nay quảng cáo, tiếp thị giữ vai trò rất quan trọng trong việc khẳng định sự
tồn tại của một nhãn hiệu, nó vừa đóng vai trò “nhắc lại” với người tiêu dùng hiện
hữu vừa giới thiệu đến khách hàng tiềm năng. Đồng thời, quảng cáo và tiếp thị còn
là kênh phổ biến để kết nối người tiêu dùng với doanh nghiệp, từ đó góp phần làm
cho hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu trở nên quen thuộc với người tiêu dùng và
ngày càng được sử dụng phổ biến, thậm chí có những trường hợp nhãn hiệu đó trở
thành một biểu tượng đại diện cho một hàng hóa, dịch vụ cụ thể từ đó làm mất đi
tính phân biệt của nhãn hiệu đó. Chẳng hạn tại Việt Nam, đã có thời gian dài, xe
gắn máy cũng thường được gọi chung là xe Honda bởi mức độ quá phổ biến của
nó trên thị trường.
19
Như vậy có thể thấy, hầu như các nhãn hiệu trên thế giới đều là những nhãn
hiệu được sử dụng liên tục, trở nên phổ biến với người tiêu dùng trong một khoảng
thời gian rất dài, hàng năm, hàng chục hoặc thậm chí là lâu hơn. Chẳng hạn, nhãn
hiệu BUDWEISER được sử dụng từ năm 1876 tại Cộng hòa Séc, nhãn hiệu kẹo sô-
cô-la nổi tiếng và lâu đời nhất ở Hoa Kỳ là HERSHEY có từ năm 1894 hay nhãn hiệu
HONDA, TOYOTA của Nhật Bản đã xuất hiện từ những năm 30, 40 của thế kỷ
trước… Tính liên tục, lâu dài và phổ biến trong quá trình sử dụng là một đặc trưng
quan trọng để xác định một NHNT trên thực tiễn.
Tuy nhiên, chính vì đặc điểm xác lập quyền này nên khi thực hiện quyền và giải
quyết tranh chấp đối với NHNT, chủ sở hữu nhãn hiệu phải chứng minh nhãn hiệu
của mình là nổi tiếng thông qua các tiêu chí đánh giá NHNT và nếu đáp ứng sẽ được
công nhận bởi cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, khi đó quyền của chủ sở hữu hay
việc lựa chọn các biện pháp bảo hộ cần thiết đối với NHNT trong vụ việc cụ thể mới
được áp dụng và thực thi.
Là tài sản trí tuệ có giá trị rất lớn của doanh nghiệp:
Để đo lường giá trị của các tài sản trí tuệ nói chung và nhãn hiệu, cũng như
NHNT nói riêng hiện nay phổ biến với hoạt động định giá. Thông qua hoạt động định
giá, giá trị của NHNT được quy đổi ra tiền là một thước đo cơ bản nhất để đánh giá
giá trị của một NHNH trên thị trường. Hiện nay có rất nhiều tổ chức định giá tài sản
trí tuệ, tuy nhiên phổ biến và có uy tín nhất vẫn là kết quả xếp hạng hàng năm trên
trang thông tin điện tử chính thức của tổ chức Interbard17. Hầu như các nhãn hiệu có
tên trên bảng xếp hạng hàng năm của Interband là những NHNT, quen thuộc trong
các lĩnh vực hàng hóa, dịch vụ, đồng thời giá trị của những nhãn hiệu này đều cao
hoặc rất cao. Thậm chí, không ít trường hợp, giá trị của các nhãn hiệu này còn cao
hơn cả GDP của một quốc gia, chẳng hạn năm 2012, theo một so sánh thì giá trị
17 Interbrand là một tổ chức có uy tín hàng đầu thế giới về định giá các thương hiệu, có trụ sở tại New York, Hoa
Kỳ. Kết quả định giá các thương hiệu hàng đầu thế giới của Interbrand được Tạp chí BusinessWeek công nhận, phát
hành chính thức và được sử dụng rộng rãi trên thế giới. Xem tại: