BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Trần Văn Thảo
HÀNH VI VĂN MINH HỌC ĐƯỜNG
CỦA SINH VIÊN Ở MỘT SỐ TRƯỜNG ĐẠI HỌC
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÍ HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh – 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Trần Văn Thảo
HÀNH VI VĂN MINH HỌC ĐƯỜNG
CỦA SINH VIÊN Ở MỘT SỐ TRƯỜNG ĐẠI HỌC
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Chuyên ngành: Tâm lí học
Mã số: 60 31 04 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÍ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. ĐINH PHƯƠNG DUY
Thành phố Hồ Chí Minh – 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả trong
luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong các công trình khác.
Học viên
Trần Văn Thảo
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến:
– Quí thầy cô Khoa Tâm lý Giáo dục, phòng Sau đại học trường Đại học Sư
Phạm Thành phố Hồ Chí Minh đã tận tình giảng dạy và hướng dẫn tôi trong suốt quá
trình học tập ở lớp Cao học Tâm lý K23.
– Tiến sĩ Đinh Phương Duy – Người thầy giàu tri thức, nhiệt tâm, hết lòng vì
học viên đã luôn động viên và hướng dẫn tôi trong suốt quá trình học tập và hoàn
thành luận văn.
– Ban giám hiệu, quí thầy cô và các phòng ban ở trường Đại học Khoa Học
Xã Hội & Nhân Văn và Đại học Sư Phạm Kĩ Thuật đã tạo điều kiện, hỗ trợ tôi
trong quá trình nghiên cứu, khảo sát và thu thập thông tin phục vụ cho việc hoàn
thành luận văn này.
– Quý thầy cô trong Hội đồng chấm luận văn đã có những góp ý khoa học và
cần thiết giúp tôi hoàn thiện công trình nghiên cứu này hơn.
– Các anh chị em, đồng nghiệp, các bạn trong lớp Cao học Tâm lý K23 đã chia
sẻ, hỗ trợ, động viên tôi trong quá trình học tập cũng như trong việc hoàn thành
luận văn này.
Học viên
Trần Văn Thảo
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN …………………………………………………………………………………… 3
LỜI CẢM ƠN ………………………………………………………………………………………… 4
MỤC LỤC ……………………………………………………………………………………………… 5
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
……………………………………………………….. 8
DANH MỤC CÁC BẢNG ………………………………………………………………………. 9
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
…………………………………………………………………………. 10
MỞ ĐẦU ……………………………………………………………………………………………….. 1
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI……………………………………………………………………………..
1
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
………………………………………………………………………
2
3. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
………………………………………………………………………
2
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU
……………………………………….
2
5. GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU ………………………………………………………………….
2
6. GIỚI HẠN VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
…………………………………………………
3
7. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
………………………………………………………………
3
8. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI
………………………………………………………………………..
4
9. CẤU TRÚC LUẬN VĂN
…………………………………………………………………………..
4
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HÀNH VI …………………………………………… 5
VĂN MINH HỌC ĐƯỜNG CỦA SINH NIÊN
………………………………………… 5
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
………………………………………………………………………
5
1.1.1. Trên thế giới
……………………………………………………………………………………..
5
1.1.2. Ở Việt Nam
…………………………………………………………………………………….
10
1.2. Lý luận về hành vi văn minh học đường
………………………………………………..
12
1.2.1. Hành vi, văn minh và hành vi văn minh
……………………………………………..
12
1.2.2. Văn minh học đường và hành vi văn minh học đường của sinh viên ……..
23
1.2.3. Hành vi văn minh học đường của sinh viên ………………………………………..
27
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi văn minh học đường của sinh viên
……
42
1.3.1. Các yếu tố chủ quan
…………………………………………………………………………
42
1.3.2. Các yếu tố khách quan ……………………………………………………………………..
43
Tiểu kết chương 1
……………………………………………………………………………………….
44
Chương 2: THỰC TRẠNG BIỂU HIỆN HÀNH VI VĂN MINH HỌC
ĐƯỜNG CỦA SINH VIÊN Ở MỘT SỐ TRƯỜNG ĐẠI HỌC TẠI THÀNH
PHỐ HỒ CHÍ MINH ……………………………………………………………………………. 46
2.1. Vài nét về khách thể nghiên cứu
……………………………………………………………
46
2.2. Thể thức nghiên cứu …………………………………………………………………………….
48
2.3. Kết quả nghiên cứu thực trạng hành vi văn minh học đường của sinh viên
một số trường đại học tại Thành phố Hồ Chí Minh.
…………………………………………
50
2.3.1. Nhận thức của sinh viên về hành vi văn minh học đường
……………………..
50
2.3.2. Thái độ của sinh viên về từng hành vi văn minh học đường
………………….
66
2.3.3. Động cơ thực hiện hành vi văn minh học đường của sinh viên ……………..
73
2.3.4. Kết quả biểu hiện hành vi văn minh học đường của sinh viên
……………….
75
2.3.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi văn minh học đường của sinh viên …..
85
2.4. Một số biện pháp giáo dục hành vi văn minh học đường cho sinh viên tại
các trường đại học ở thành phố Hồ Chí Minh
………………………………………………….
88
Tiểu kết chương 2
……………………………………………………………………………………….
92
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ……………………………………………………………….. 93
1. Kết luận ………………………………………………………………………………………………….
93
2. Kiến nghị ………………………………………………………………………………………………..
94
TÀI LIỆU THAM KHẢO …………………………………………………………………….. 97
PHỤ LỤC ………………………………………………………………………………………………. 1
PHỤ LỤC 1 ………………………………………………………………………………………………….
1
PHỤ LỤC 2 ………………………………………………………………………………………………….
2
PHỤ LỤC 3 ………………………………………………………………………………………………….
4
PHỤ LỤC 4 ………………………………………………………………………………………………..
11
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
1. ĐHKHXHNV: Đại Học Khoa Học Xã Hội Và Nhân Văn
2. ĐHSPKT: Đại học Sư Phạm Kĩ Thuật
3. ĐH: Đại học
4. TB: Trung bình
5. SV: Sinh viên
6. Nxb: Nhà xuất bản
7. SD: Độ lệch chuẩn
8. HVVMHĐ: Hành vi văn minh học đường
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Thống kê sinh viên trên toàn mẫu nghiên cứu ………………………………………….. 47
Bảng 2.2. Thống kê sinh viên theo trường học và giới tính ………………………………………. 47
Bảng 2.3. Bảng thống kê theo trường học và năm học …………………………………………….. 47
Bảng 2.4. Nhận thức chung của sinh viên về hành vi văn minh học đường ………………… 50
Bảng 2.5. Nguồn tìm hiểu về văn minh học đường
………………………………………………….. 51
Bảng 2.6. Vai trò của văn minh học đường đối với sinh viên
…………………………………… 53
Bảng 2.7. Nhận thức của sinh viên về HVVMHĐ trong quan hệ học tập …………………… 54
Bảng 2.8. Nhận thức của sinh viên về HVVMHĐ trong quan hệ giao tiếp xã hội ……….. 57
Bảng 2.9. Nhận thức của sinh viên về HVVMHĐ trong quan hệ phát triển bản thân …… 60
Bảng 2.10. So sánh trung bình nhận thức của sinh viên về HVVMHĐ theo trường học,
giới tính và năm học ……………………………………………………………………………………………. 62
Bảng 2.11. Bảng thái độ của sinh viên về HVVMHĐ trong quan hệ học tập ……………… 65
Bảng 2.12. Thái độ của sinh viên về HVVMHĐ trong quan hệ giao tiếp xã hội ………… 67
Bảng 2.13. Thái độ của sinh viên về HVVMHĐ trong quan hệ phát triển bản thân …….. 69
Bảng 2.14. So sánh trung bình thái độ của sinh viên về HVVMHĐ theo trường học,
giới tính và năm học ……………………………………………………………………………………………. 70
Bảng 2.15. Động cơ thực hiện HVVMHĐ của sinh viên
………………………………………….. 72
Bảng 2.16. Biểu hiện HVVMHĐ của sinh viên ………………………………………………………. 74
Bảng 2.17. So sánh trung bình biểu hiện của sinh viên về HVVMHĐ theo trường học,
giới tính và năm học ……………………………………………………………………………………………. 76
Bảng 2.18. Hành vi ứng xử trong các tình huống cụ thể
…………………………………………… 78
Bảng 2.19. Hành vi tiêu cực nơi học đường
……………………………………………………………. 80
Bảng 2.20. Nguyên nhân dẫn đến hành vi thiếu văn minh nơi học đường ………………….. 83
Bảng 2.21. Các yếu tố ảnh hưởng đến HVVMHĐ của sinh viên ………………………………. 84
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 1. Nhận thức chung về HVVMHĐ của sinh viên ………………………………………… 50
Biểu đồ 2. Nguồn tìm hiểu về văn minh học đường ………………………………………………… 52
Biểu đồ 3. Vai trò của văn minh học đường đối với sinh viên
………………………………….. 53
Biểu đồ 4. Nhận thức của sinh viên về HVVMHĐ trong quan hệ học tập ………………….. 55
Biểu đồ 5. Nhận thức của sinh viên về HVVMHĐ trong quan hệ giao tiếp xã hội ………. 59
Biểu đồ 6. Nhận thức của sinh viên về HVVMHĐ trong quan hệ phát triển bản thân
….. 61
Biểu đồ 7. Thái độ của sinh viên về HVVMHĐtrong quan hệ học tập ………………………. 66
Biểu đồ 8. Thái độ của sinh viên về HVVMHĐtrong quan hệ giao tiếp xã hội ………….. 68
Biểu đồ 9. Thái độ của sinh viên về HVVMHĐtrong quan hệ phát triển bản thân ………. 70
Biểu đồ 10. Hành vi tiêu cực nơi học đường của sinh viên
……………………………………….. 82
Biểu đồ 11. Nguyên nhân của những hành vi tiêu cực nơi học đường của sinh viên ……. 84
1
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Mỗi thời đại xã hội đều có những tiêu chí để xem xét đánh giá là phát triển hay
chậm phát triển, hiện đại văn minh hay lạc hậu, thịnh vượng hay nghèo khó… Trong xã
hội ngày nay, văn minh hay hành vi văn minh là thước đo của cá nhân, tập thể, cộng
đồng và của xã hội. Một xã hội được coi là hiện đại phải là một xã hội văn minh và
ngược lại một xã hội văn minh được xem là xã hội hiện đại. Trong môi trường giáo
dục, hành vi văn minh học đường thể hiện trình độ văn hoá, giá trị cá nhân, các phẩm
chất nhân cách cũng như phản ánh lối sống của người học.
Sinh viên là lớp người năng động trẻ trung, sáng tạo và luôn hướng đến cái mới.
Với sự phát triển nhanh chóng của khoa học kĩ thuật và công nghệ đã giúp sinh viên dễ
dàng, thuận lợi trong việc giao lưu tiếp xúc với các nền văn hoá khác nhau trên thế
giới. Ngoài việc tiếp thu kiến thức chuyên môn thì việc trao dồi rèn luyện để thực sự
có những hành vi văn minh, lịch sự, ứng xử chuẩn mực nơi học đường cần được coi
trọng. Đất nước ngày càng hội nhập và phát triển, bên cạnh những mặt tích cực thì
những mặt tiêu cực cũng ngày càng nhiều. Những không phù hợp với môi trường học
đường như nói năng tục tĩu, ồn gào gây mất trật tự, quay cóp, trang phục không phù
hợp, hút thuốc, xả rác bừa bãi…ngày càng phổ biến. Một bộ phận sinh viên chạy theo
lối sống thực dụng hưởng thụ, sống chỉ biết đến mình, thể hiện bản thân một cách thái
quá không phù hợp với chuẩn mực xã hội. Chính những điều này đã làm ảnh hưởng rất
lớn đến cách nhìn nhận đánh giá của xã hội về hình ảnh người học cũng như môi
trường giáo dục.
Ứng xử văn minh hay những hành vi văn minh nơi học đường cần được xem như
là một kỹ năng và phải trở thành thói quen, thành nếp sống xử của sinh viên. Tuy
nhiên thực tế nó vẫn chưa được sự quan tâm của chính bản thân sinh viên, của nhà
trường và xã hội.Việc nghiên cứu những hành vi văn minh nói chung và hành vi văn
minh học đường nói riêng càng trở nên quan trọng và cấp thiết, đặc biệt là các công
trình nghiên cứu từ góc độ tâm lý học.
2
Từ lý do trên, đề tài “Hành vi văn minh học đường của sinh viên ở một số
trường đại học tại Thành phố Hồ Chí Minh” được thiết lập.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Khảo sát thực trạng hành vi văn minh học đường của sinh viên ở một số trường
đại học tại thành phố Hồ Chí Minh và những yếu tố ảnh hưởng đến hành vi văn minh
học đường của sinh viên. Trên cơ sở đó đề xuất một số biện pháp nhằm giáo dục hành
vi văn minh học đường cho sinh viên.
3. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
3.1. Hệ thống hoá các vấn đề lý luận liên quan đến đề tài như: hành vi, văn minh,
hành vi văn minh, hành vi văn minh học đường của sinh viên.
3.2. Khảo sát thực trạng hành vi văn minh học đường của sinh viên ở một số
trường đại học tại thành phố Hồ Chí Minh.
3.3. Tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi văn minh học đường của sinh
viên. Qua đó đề xuất một số biện pháp giáo dục hành vi văn minh học đường cho sinh
viên.
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Hành vi văn minh học đường của sinh viên ở một số trường đại học tại thành phố
Hồ Chí Minh.
4.2. Khách thể nghiên cứu
386 sinh viên đại học tại thành phố Hồ Chí Minh.
5. GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU
Đa số sinh viên đã có nhận thức, thái độ, động cơ rõ ràng về hành vi văn minh
học đường và đã có biểu hiện hành vi văn minh học đường cụ thể.
Có sự khác biệt trong nhận thức, thái độ và biểu hiện bên ngoài ở một số hành vi
văn minh học đường của sinh viên theo trường học, giới tính và năm học.
3
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến hành vi văn minh học đường của sinh viên, trong
đó yếu tố liên quan đến bản thân sinh viên là quan trọng nhất.
6. GIỚI HẠN VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
6.1. Về đối tượng nghiên cứu
Chỉ nghiên cứu một số biểu hiện hành vi văn minh học đường cụ thể của sinh
viên trong môi trường học đường.
6.2. Về khách thể nghiên cứu
Đề tài lựa chọn nghiên cứu 386 sinh viên năm thứ nhất, năm thứ hai và năm thứ
ba của hai trường đại học tại thành phố Hồ Chí Minh gồm: 193 sinh viên trường đại
học Sư Phạm Kĩ Thuật và trường đại học Khoa Học Xã Hội & Nhân Văn.
7. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
7.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
Dựa trên sự tổng hợp các tài liệu và công trình nghiên cứu có liên quan, kết hợp
với lý luận riêng, đề tài nghiên cứu sẽ xây dựng các khái niệm công cụ cũng như
những khái niệm có liên quan để định hướng cho việc soạn thảo công cụ nghiên cứu
cũng như quá trình điều tra thực tiễn.
7.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.1. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
Bảng hỏi được thiết kế nhằm điều tra thực trạng hành vi văn minh học đường của
sinh viên cũng như một số nguyên nhân của thực trạng này. Các câu hỏi khảo sát thực
trạng được cấu trúc thành một bảng hỏi điều tra. Thông qua việc trả lời các khách thể
sẽ bộc lộ những thông tin nhằm làm sáng tỏ vấn đề đang nghiên cứu. Đây là phương
pháp chủ đạo của đề nghiên cứu.
7.2.2. Phương pháp phỏng vấn
Phương pháp này được sử dụng để điều tra sâu một số trường hợp tiêu biểu và
thu thập thông tin một cách trực tiếp. Ngoài ra còn được dùng để đánh giá độ trung
thực trong việc trả lời bảng hỏi.
7.2.3. Phương pháp quan sát
4
Phương pháp này sử dụng để quan sát thái độ và hành vi của sinh viên ở môi
trường học đường với số lượng khách thể được chọn ngẫu nhiên tại hai trường đại học.
7.2.4. Phương pháp toán thống kê
Phần mềm SPSS phiên bản 11.5 sẽ được dùng để xử lý các dữ kiện thu được,
phục vụ cho việc phân tích số liệu cũng như đảm bảo tính khách quan trong quá trình
nghiên cứu.
8. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI
Phát hiện một số hành vi văn minh học đường học đường của sinh viên; phân tích
các biểu hiện hành vi văn minh học đường của sinh viên. Qua đó giúp các cán bộ quản
lý nhà trường nắm bắt được thực trạng biểu hiện hành vi văn minh học đường và các
yếu tố ảnh hưởng đến hành vi văn minh học đường của sinh viên. Trên cơ sở đó, xây
dựng những biện pháp giáo dục hành vi văn minh học đường cho sinh viên.
9. CẤU TRÚC LUẬN VĂN
– Mở đầu
– Chương 1: Cơ sở lý luận hành vi văn minh học đường
– Chương 2: Thực trạng biểu hiện hành vi văn minh học đường của sinh viên ở
một số trường tại thành phố Hồ Chí Minh
– Kết luận và kiến nghị
– Tài liệu tham khảo và phụ lục
5
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HÀNH VI
VĂN MINH HỌC ĐƯỜNG CỦA SINH NIÊN
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Trên thế giới
Hành vi văn minh học đường đã được các nhà khoa học quan tâm với nhiều
hướng nghiên cứu khác nhau. Có thể phân chia thành 3 hướng nghiên cứu sau:
a) Hướng nghiên cứu hành vi và hành vi lệch chuẩn của thanh niên sinh viên
Các nhà sinh lý học xem xét hành vi với tư cách là cách ứng xử trong một môi
trường nhất định dựa trên sự thích nghi của cơ thể với môi trường. Đại diện tiêu biểu
là Pavlov (1849 – 1936), người Nga. Từ những thí nghiệm của mình, Palov kết luận
rằng một kích thích có điều kiện nếu luôn xảy ra ngay sau hoặc cùng lúc với kích thích
không điều kiện có thể dẫn tới phản ứng vốn chỉ chịu tác động bởi kích thích không
điều kiện. Ông và các cộng sự đã làm nhiều nghiên cứu trên thực nghiệm các hiện
tượng hành vi của động vật mà ông gọi là thần kinh cao cấp, và đã xây dựng nên
thuyết về phản xạ có điều kiện. Đây là một cống hiến rất to lớn đối với không chỉ với
Sinh lý học, Y học mà còn đặc biệt với Tâm lý học [15].
Sự ra đời của trường phái tâm lý học hành vi với hướng tiếp cận hành vi là
một trong những cố gắng rất lớn của tâm lý học đầu thế kỷ XX nhằm khắc phục tính
chủ quan trong nghiên cứu. J.Watson cho rằng: “Chỉ có hành vi của tồn tại người mới
là đối tượng của thuyết hành vi, còn ý thức chỉ là một cái gì đó vu vơ, vô ích” [14].
6
Trường phái hành vi đã có nhiều công trình nghiên cứu về hành vi và đóng góp rất
nhiều cho tâm lý học.
Tác giả Michael Rulter đã có những nghiên cứu về các hành vi chống đối xã
hội của những người trẻ tuổi, đặc biệt là thanh niên. Trong tác phẩm “What do we
mean by “Antisocial behavior” and “Young people”, tác giả kết luận rằng “các hành
vi chống đối xã hội của thanh niên xuất phát từ các yếu tố xã hội là chủ yếu, từ sự bất
bình đẳng trong mối quan hệ giữa người và người trong xã hội” [52].
Tác giả Loeber và Hay của Viện nghiên cứu tâm thần Phương Tây nước Mỹ
đề cập đến những hành vi lệch chuẩn của thanh niên, sinh viên. Nghiên cứu chỉ ra
rằng, những hành vi lệch chuẩn của thanh niên, những hành vi thiếu kềm chế của giới
trẻ phần lớn là do ảnh hưởng của môi trường sống, của những nhóm bạn hoặc những
tác động tiêu cực từ cộng đồng hoặc ngay cả gia đình mà thanh niên đó sinh sống [50].
Tác giả Spiros Tzelepis của Hội nghiên cứu Tâm lý học bang New York nước
Mỹ đã có những tìm hiểu về hành vi bạo lực của sinh viên, học sinh. Trong công trình
nghiên cứu “According to youth Risk behavior servey” tác giả đã khẳng định: “Trong
toàn nước Mỹ đã có trung bình 14.8% học sinh, sinh viên từng đánh nhau gây thương
tích. Nhìn chung, nam sinh viên (20%) có nhiều khả năng gây hấn và đánh nhau hơn
so với học sinh nữ (8,6%)” [55].
Nhóm tác giả thuộc khoa Giáo dục, đại học Cambrige với công trình nghiên
cứu “Hỗ trợ hành vi xã hội cho thanh niên” đã phân tích các hành vi của thanh niên
dưới góc độ của nhà sư phạm và đề xuất một số cách thức hỗ trợ hành vi của thanh
niên trong các cộng đồng và trong việc thực hiện các chương trình xã hội, tình nguyện
[41].
Nhóm tác giả ở “Child and Adolescent Mental Health Center” của Anh nghiên
cứu về các phương pháp tiếp cận điều trị đối với rối loạn hành vi trẻ vị thành niên và
người phạm tội trẻ tuổi. Theo công trình nghiên cứu “Conduct Disorder and Offending
Behavior in Young People” này thì “các rối loạn và hành vi vi phạm ở những người
trẻ tuổi là vấn đề hết sức phức tạp cần có sự hỗ trợ và giải quyết của nhiều cơ quan với
những giải pháp đa dạng”[49].
7
Nhóm tác giả của đại học Illinois, Mỹ đã nghiên cứu về hành vi thu nhận, xử
lý thông tin của thanh niên, sinh viên. Nghiên cứu cho thấy “thanh niên thường thiếu
kiến thức nguồn, kiến thức nền và thiếu kiến thức tình huống, một số thanh niên né
tránh các thông tin về mình và một số thanh niên rơi vào tình trạng quá tải thông tin”.
Luận án tiến sĩ “Media influence on deviant behavior in middle school” của
tác giả Adrian D. Pearson thuộc đại học North Carolina đã đề cập đến những tác động
tiêu cực từ các phương tiện truyền thông đến các hành vi chống đối xã hội, truyền
thông như một yếu tố quan trọng góp phần làm các học sinh nghĩ đến việc chống đối
xã hội và gây rối. Luận án cũng cung cấp một cách tổng quan về các yếu tố khác được
xác định trong vấn đề này, đó là việc thiếu sự hỗ trợ của gia đình, một số học sinh ít có
lòng tự trọng và ít có sự kiểm soát từ bên ngoài [38].
b) Hướng nghiên cứu hành vi văn minh của con người và của thanh niên sinh
viên
Tác giả Anton Chekhov trong tác phẩm “A Life in Letters” đã có những quan
điểm về những hành vi văn minh của con người. Ông đã đề xuất 8 tiêu chí để xác định
hành vi của người văn minh:
– Tôn trọng, khoan dung, nhẹ nhàng, lịch sự với người khác và tuân theo các qui
định đã được xác lập.
– Có lòng từ bi đối với người khác và bị lay động về những gì đang nhìn thấy
bằng mắt thường.
– Luôn tôn trọng tài sản của người khác.
– Không quanh co, không nói dối ngay cả trong vấn đề tầm thường nhất.
– Không hạ mình xuống để gây được cảm tình của người khác.
– Không bắt chước, sao chép hành vi của người nổi tiếng.
– Tự hào về tài năng thực sự của mình.
– Không sống theo bản năng [40].
Trong bài viết với tiêu đề “Civilized behavior” trên Daily Motivator 2004, tác
giả Ralph S. Marston đã cho rằng: “Để có nền văn minh, mọi người phải thực hành
lịch sự, tôn trọng người khác để được người khác tôn trọng lại”. Bằng việc phụ thuộc
vào nhau càng cao, mỗi người chúng ta vừa phục vụ lợi ích riêng của mình tốt nhất,
8
vừa phải xem xét đến lợi ích của người khác. Đó là bản chất của hành vi văn minh và
là nền tảng cho một xã hội phồn vinh và hiệu quả. Đó cũng là cơ sở cho sự thành công
cá nhân trong xã hội đó [50].
Với cuốn sách “Rules for civilized behavior” tác giả Sydney Morgan
D’Angelo khẳng định “Khi thực hiện một hành vi được cho là văn minh, người ta phải
lưu tâm đến giá trị của hành vi đó trong nhận thức của mình, sau đó họ phải lựa chọn
cách ứng xử phù hợp với mình”. Tác giả cho rằng những hành vi văn minh được các
cá nhân thực hiện lúc nào cũng phụ thuộc vào sự hiểu biết, về trình độ lượng giá vấn
đề trong một tình huống cụ thể [56].
Tác giả Lucinda Holdforth trong cuốn sách “Why Manners Matter: The Case
For Civilized Behavior in a Barbarous World” đã nghiên cứu và phân tích khá sâu sắc
về những ứng xử văn minh trong một tình huống bất thường hoặc “không văn minh”.
Tác giả cho rằng, người ta phải lịch sự với người khác vì ứng xử lịch sự với người
khác như là một nhu cầu của mình vậy. Không nên có cách suy nghĩ và ứng xử kiểu
như: Tôi muốn làm những gì tôi muốn cho tôi mặc dù có thể làm cho bạn lâm vào
cảnh khốn cùng”. Đề cập đến các hành vi văn minh dưới góc nhìn văn hóa – tâm lý, tác
giả cho rằng “Hành vi văn minh là cách thức cư xử hiện đại, là triết lý của các nhà tư
tưởng về cuộc sống hiện đại”[51].
Còn tác giả Keith Thomas trong “Toward civilized behavior” đề cập đến hành
vi văn minh như là nói đến mối quan hệ và ứng xử giữa Người với Người, trong đó các
hành vi thông thường như ăn uống, thích ứng với môi trường được thực hiện như thế
nào để người khác không cảm thấy lố bịch…[47]. Đối với tác giả Itzkoff Seymour. W
trong “The making of the civilized mind” thì đề cập đến hành vi văn minh như là một
hành vi có tính trí tuệ cao.
Tác giả Ahmed A. L. Mahbub Uddin trong “Weber’s perspective on the city
and culture” đã đề cập về vai trò của yếu tố văn hóa đến hành vi ứng xử của con
người. Tác giả cho rằng những yếu tố văn hóa có ảnh hưởng rất lớn đến việc hình
thành những khuôn mẫu ứng xử, những khuôn mẫu ứng xử này quay lại ảnh hưởng
đến việc duy trì các giá trị văn hóa [39].
c) Hướng nghiên cứu hành vi văn minh của học sinh sinh viên trong trường học
9
Tác giả S.E McKinney trong nghiên cứu qua đánh giá xếp loại ABC giáo viên
trường phổ thông “Managing Student Behavior in Urban Classrooms: The role of
Teachers” đã đề cập đến việc quản lý hành vi của sinh viên trong lớp học. Theo nhận
định của tác giả, muốn quản lý hành vi, ứng xử của học sinh trong lớp học theo các
chuẩn mực thì người giáo viên phải am hiểu những diễn biến tâm lý và các tình trạng
xã hội khác từ phía gia đình, bè bạn của học sinh” [57].
Trong công trình “Civilized and uncivilized behaviors in the classoom: An
example from the teacher and students from the second stage of primary education”
của tiến sĩ Çiğdem APAYDIN, trường đại học Akdeniz và tiến sĩ Munise SEÇKİN,
trường đại học Eskişehir Osmangaz đã tiến hành nghiên cứu về những hành vi văn
minh và thiếu văn minh trong lớp học, ảnh hưởng của những hành vi đó lên bầu không
khí lớp học. Theo nghiên cứu, sinh viên nhận thức rằng hành vi văn minh của giáo
viên như là một hình thức giáo dục đối với họ. Biết tôn trọng người khác được xem là
hành vi lịch sự chung. Cả giáo viên và sinh viên cảm thấy có tình cảm tích cực đối với
các hành vi văn minh. Phát hiện khác của đề tài cho thấy các giáo viên thực hiện các
hành vi thiếu văn minh, có chứa bạo lực với sinh viên. Đặc biệt nghiên cứu chỉ ra rằng
việc hình thành môi trường học tích cực thì giúp giáo viên tiến hành dạy học hiệu quả,
cũng như giúp sinh viên thành công trong việc học tập. Mặt khác những hành vi thiếu
văn minh làm ảnh hưởng đến bầu không khí học tập, tạo ra xung đột giữa các sinh viên
hoặc phá hủy có chủ ý đến quá trình dạy học [43].
Trong báo cáo với tựa đề “civility in schools: An Emerging Paradigm for
Behavioral Problems and School Violence” của tiến sĩ Keely Swanson, Paul
Caldarella, Richard Young thì nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc dạy văn minh
trong trường học. Theo các tác giả, hành vi bạo lực thường là kết quả của một tranh cãi
do những hành vi khiếm nhã vượt ra ngoài tầm kiểm soát. Thiếu tôn trọng có thể dẫn
đến đổ máu. Bằng cách làm cho những hành vi thiếu văn minh giảm đi, chúng tã sẽ
làm cho mức độ bạo lực giảm đi… Nếu chúng ta dạy cho người trẻ ở tất cả các tầng
lớp xã hội cách để quản lý xung đột với các kỹ năng quan hệ văn minh cơ bản, chúng
ta sẽ có xã hội văn minh, ít bạo lực [48].
10
Có thể nhận thấy rằng, những hành vi văn minh được các tác giả nước ngoài trình
bày khá chi tiết trên các bình diện ứng xử của con người nhưng chưa mang tính hệ
thống, chưa phân tích cụ thể mối quan hệ giữa các chủ thể với hiện thực xung quanh.
Nghiên cứu hành vi văn minh trên bình diện ứng xử, đây cũng là cơ sở để người
nghiên cứu tham khảo tìm hiểu vấn đề văn minh học đường hiện nay của sinh viên.
1.1.2. Ở Việt Nam
Các công trình nghiên cứu về văn minh, hành vi văn minh vẫn còn tương đối mới
mẻ so với các nước trên thế giới, đặc biệt là các công trình nghiên cứu dưới góc độ
tâm lý học. Các công trình nghiên cứu của các tác giả trong nước có thể chia thành hai
hướng sau:
a) Hướng nghiên cứu hành vi con người
Tác giả Phạm Minh Hạc đã có công trình “Hành vi và hoạt động” khẳng định
phương pháp tiếp cận hoạt động – nhân cách, định hướng cho nghiên cứu tâm lý học
lý luận và ứng dụng ở Việt Nam. Những vấn đề lý luận về hành vi của mỗi trường phái
tâm lý học còn nhiều điều khác nhau tùy thuộc vào cách tiếp cận, do đó việc định
hướng nghiên cứu từng loại hành vi cụ thể của con người có sự khác nhau, hệ thống
các cách thức điều khiển, thích ứng hành vi cũng sẽ khác nhau [14].
Tác giả Lưu Song Hà với bài viết “hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội” trên tạp
chí tâm lý học, số 7/2004 đã tìm hiểu về những hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội.
Theo tác giả hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội là hành vi vi phạm các chuẩn mực xã
hội. Như vậy có thể hiểu hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội là bất kì hành vi nào không
phù hợp với sự mong đợi của một nhóm hoặc của xã hội.
b) Hướng nghiên cứu về giáo dục hành vi
Tác giả Nguyễn Như Chiến với luận án tiến sĩ “Nghiên cứu hành vi chấp hành
luật giao thông đường bộ của học sinh trung học cơ sở khi tham gia giao thông” đã có
những phân tích khá rõ nét về diễn biến hình thành và biểu hiện hành vi tham gia giao
thông của học sinh nói riêng và con người xã hội nói chung. Luận án của tác giả chỉ ra
thực trạng hành vi chấp hành luật giao thông đường bộ của học sinh trung học cơ sở
(THCS) khi tham gia giao thông dựa trên số liệu thu được từ nhiều nguồn thông tin
11
khác nhau; phân tích các yếu tố tâm lý, xã hội ảnh hưởng đến hành vi chấp hành luật
giao thông của học sinh THCS. Các phân tích, so sánh được tiến hành theo nhiều chiều
cạnh khác nhau như: theo biến số lớp học, theo giới tính, theo học lực, hạnh kiểm của
học sinh, theo khu vực trường… đã làm rõ được các mức độ chấp hành, những sai
phạm luật giao thông của học sinh [6].
Tác giả Giáp Bình Nga và Nguyễn Thứ Mười với nghiên cứu “Giáo dục hành
vi giao tiếp có văn hóa cho thiếu nhi thủ đô thông qua ba tổ chức hoạt động của đội”
đã đưa ra những nhận định về nhu cầu được giáo dục về nội dung giáo tiếp có văn hóa
của thiếu nhi thể hiện ở sự gương mẫu với em nhỏ, lễ phép với người lớn, thân thiện
với bạn bè. Các tác giả khẳng định phương thức lồng ghép, tích hợp giáo dục nội dung
“gương mẫu”, “lễ phép”, “thân thiện” trong hành vi giao tiếp có văn hóa cho thiếu nhi
thông qua các hình thức hoạt động cơ bản của Đội như sinh hoạt chi đội, diễn đàn, câu
lạc bộ thiếu nhi cho thiếu nhi ở thủ đo là khả thi và có hiệu quả.
Tác giả Lê Thị Linh Trang với luận án tiến sĩ tâm lý học về “Hành vi văn
minh đô thị của thanh niên thành phố Hồ Chí Minh”đã nghiên cứu và phân tích về
thực trạng của việc thực hiện hành vi văn minh đô thị của thanh niên thể hiện trong
mối quan hệ với bản thân, người khác và trong môi trường đô thị. Luận án cũng phân
tích các yếu tố ảnh hưởng đến việc thanh niên Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện hành
vi văn minh đô thị [36].
Tài liệu tham khảo Tạp chí Giáo dục mầm non tháng 2/2008 với chuyên đề
“Giáo dục hành vi văn hóa cho trẻ” không chỉ đề xuất những yêu cầu cho trẻ mà cho
cả người lớn, cho thầy cô giáo để ứng xử có văn hóa với những hành vi văn hóa. Các
công trình nghiên cứu trên đây đã có những phân tích khá chi tiết về những vấn đề lý
luận về hành vi, cơ cấu hành vi, những yếu tố ảnh hưởng đến hành vi của từng đối
tượng, đặc biệt phác thảo thực trạng thực hiện hành vi với những nội dung đa dạng.
Tóm lại vấn đề hành vi văn minh học đường đã được các nhà khoa học trong và
ngoài nước tiếp cận dưới nhiều góc độ và mức độ khác nhau, trong đó đề cập đến định
nghĩa về hành vi văn minh, ảnh hưởng của các yếu tố văn hóa đến việc hình thành
những hành vi văn minh, những biểu hiện của ứng xử văn minh. Tuy nhiên việc
12
nghiên cứu sự hình thành hành vi văn minh học đường của sinh viên trong từng hoàn
cảnh môi trường cụ thể thì chưa được đề cập một cách cụ thể, chi tiết.
Những nghiên cứu về hành vi văn minh học đường của sinh viên dưới góc độ
tâm lý học thì còn khá mới và chưa được quan tâm. Đề tài “Hành vi văn minh học
đường của sinh viên ở một số trường đại học tại thành phố Hồ Chí Minh” sẽ cụ thể hóa
dưới góc độ tâm lý học.
1.2. Lý luận về hành vi văn minh học đường
1.2.1. Hành vi, văn minh và hành vi văn minh
a) Hành vi
Trong thuyết hành vi cổ điển, hành vi được hiểu hết sức đơn giản là tổ hợp các
phản ứng của cơ thể và trả lời các kích thích từ môi trường tác động vào [15].
Pavlov cho rằng hành vi là kết quả của quá trình phản xạ có điều kiện [15].
Năm 1843, khi đưa ra khái niệm “tập tính học”, John Stuart Mill đã nói đến
“hành vi” như là một thói quen tập thành [14, tr34].
Trường phái tâm lý học hành vi quan niệm rằng hành vi là phản ứng, là bất cứ
cái gì mà sinh vật làm để trả lời kích thích của môi trường. Kích thích (S) luôn là
nguyên nhân, phản ứng (R) luôn là kết quả. Nhờ những cử động, phản ứng đó mà động
vật và người với tư cách là “một cơ quan biết phản ứng” hay “một hệ thống vật lý” sẽ
thích nghi với môi trường nhằm đảm bảo sự sống còn. Cơ chế hình thành các hành vi
là sự mò mẫm của chủ thể theo nguyên tắc “thử và sai”, qua nhiều lần, cho tới khi xác
lập được phản ứng phù hợp, luyện tập và củng cố nó. Theo J.Watson ở con người có
bốn loại hành vi: hành vi tập thành minh nhiên (bên ngoài) như nói, viết và chơi bóng,
hành vi tập thành mặc nhiên (bên trong) như sự tăng nhịp đập của tim gây nên khi nhìn
thấy máy khoan của nha sĩ, hành vi tự động minh nhiên như nháy mắt, hắt hơi, hành vi
tự động mặc nhiên như sự tiết dịch và các biến đổi về tuần hoàn. Mọi việc người ta
làm, kể cả suy nghĩ, đều thuộc về một trong bốn loại hành vi này [18].
Như vậy, thuyết hành vi có mấy điểm đáng chú ý khi đề cập về hành vi người.
Thứ nhất hành vi người tuy có một số khác biệt so với động vật, nhưng vẫn chỉ là tổ
hợp phản ứng của cơ thể để trả lời các kích thích tác động vào cơ thể. Thứ hai, trường
13
phái này không thừa nhận tâm lý, ý thức tham gia vào việc điều khiển hành vi người.
Để nghiên cứu hay điều khiển hành vi nói chung và hành vi người nói riêng thì chỉ cần
dựa vào yếu tố đầu trong công thức S R.
E. Tolman (1886 -1959) gọi hành vi là “cử động hành vi” (behavior acts). Các
cử động hành vi có cả các sự kiện vật lý và sinh lý học, còn dựa cả vào những thuộc
tính của bản thân. Theo tác giả, không thể từ một vận động đơn giản mà tách ra được
những sản phẩm đặc trưng cho cử động hành vi. Cử động hành vi không phải là phản
ứng sinh lý học, vì vậy phải nghiên cứu hành vi tổng thể bằng con đường riêng với các
yếu tố trung gian của chủ thể trong sơ đồ S – R [14].
Theo K.Hull (1884-1953), hành vi là cử động có thể làm cho các nhu cầu của cơ
thể được thỏa mãn, là hành vi do các biến số nhu cầu cơ thể và môi trường ngoài cơ
thể tạo nên [15]. B.F.Skinner đã đưa thêm vào hai khái niệm: phản ứng tạo tác và củng
cố hành vi. Theo ông “cường độ của hành vi tạo tác tăng lên nếu hành vi (tác động)
được kèm theo kích thích củng cố. Không có củng cố trực tiếp thì không thể có hành
vi tạo tác. Có củng cố là có sự xuất hiện phản ứng. Xác suất xuất hiện phản ứng, tần
số, và cường độ phản ứng hoàn toàn tùy thuộc vào củng cố và cách củng cố. Theo
B.F.Skinner, hậu quả hành vi – những cái củng cố – là các lực kiểm soát rất mạnh mẽ,
vì vậy mà kiểm soát được củng cố thì sẽ kiểm soát được hành vi.
Theo A. Maslow, hành vi của con người không chỉ gồm các hành vi quan sát
được mà là những phản ứng không quan sát được, những trải nghiệm chủ quan của
con người [15].
Như vậy, những quan niệm về hành vi của các nhà nghiên cứu, các trường phái
trong tâm lý học nêu trên có những điểm hợp lý: Họ đã khắc phục được cách nhìn duy
tâm về hành vi người, có những đóng góp nhất định cho việc nghiên cứu hành vi
người. Tuy nhiên lý luận của các trường phái trên vẫn chưa lý giải được đầy đủ những
vấn đề về hành vi người. Vì thế tác giả luận án chỉ kế thừa những điểm hợp lý, chứ
không thể dựa hoàn toàn vào lý luận đó để nghiên cứu hành vi văn minh học đường
của sinh viên.
“Hành vi” theo quan điểm của các nhà Tâm lý học hoạt động không giống khái
niệm “hành vi” trong quan niệm của các nhà Tâm lý học hành vi.
14
L.X.Vưgotxki trong bài báo “Ý thức là vấn đề của tâm lý học hành vi” (được
coi là cương lĩnh đầu tiên của Tâm lý học hoạt động) đã xác định hành vi là “cuộc
sống”, là “lao động, là “thực tiễn”; tức là phải hiểu hành vi là hoạt động với đơn vị
của nó là hành động trong cuộc sống, tâm lý, ý thức và hoạt động không tách rời nhau.
Việc tạo ra và sử dụng các tín hiệu tự tạo (còn gọi là các dấu hiệu) làm cho hành vi
người khác hẳn hành vi con vật. Quá trình hình thành hành vi người là quá trình hình
thành hoạt động dấu hiệu, từ các dấu hiệu trung gian đơn giản của hành vi đến chỗ dấu
hiệu có ý nghĩa công cụ, phương tiện giao tiếp cũng như phương tiện điều khiển hành
vi bản thân. Hành vi không phải là một tổ hợp các phản xạ, phản ứng máy móc thoe
kiểu “kích thích phản ứng” nhằm giúp cơ thể thích nghi với môi trường mà hành vi
đã chịu sự định hướng, điều khiển, điều chỉnh. Hành vi được xem như là tổ hợp các cử
động, thao tác, là mặt bề ngoài của hoạt động. Như vậy, hành vi theo quan niệm của
L.X.Vưgotxki là hành vi gắn với tâm lý, chúng không tách rời nhau [14].
X.L.Rubinstein quan niệm hành vi là hoạt động đặc biệt và hoạt động chuyển
thành hành vi chỉ khi mà động lực hoạt động từ bình diện đối tượng chuyển sang quan
hệ cá nhân – xã hội. Như vậy hành vi không còn là một hay vài cử động riêng rẽ nào
đó của con người mà là tổ hợp các cử động, thao tác, hành động bề ngoài của con
người. Đây là vấn đề phương pháp luận của việc nghiên cứu hành vi người. Người
nghiên cứu tán thành quan điểm này và coi đây là cơ sở nền tảng trong việc nghiên
cứu hành vi văn minh học đường của sinh viên [20].
Trong “Từ điển giản yếu” (bản Tiếng Nga), A.V.Petrovxki và M.G.Iarosevxki
quan niệm: hành vi là sự tác động qua lại giữa cơ thể sống, thông qua hoạt tính bên
ngoài (vận động) và bên trong (tâm lý). “Bất kì hoạt động thực tế nào cũng có mặt bên
ngoài, mặt bên trong chúng liên hệ mật thiết với nhau. Bất kỳ hành động bên ngoài nào
cũng gián tiếp liên quan đến các quá trình diễn ra bên trong chủ thể, còn quá trình bên
trong bằng cách này hoặc cách khác đều được thể hiện ra bên ngoài… Nhiệm vụ của
tâm lý học, đầu tiên là nghiên cứu “mặt bề ngoài” của hoạt động để phát hiện “mặt bên
trong”, chính xác hơn là để hiểu được vai trò thực của tâm lý trong hoạt động.
Hành vi là những biểu hiện bên ngoài của hoạt động. Nó gắn với động cơ, nhu
cầu và có ý nghĩa xã hội nhất định.
15
Quyết định luận duy vật biện chứng đã chỉ ra rằng: “Tồn tại quyết định ý thức,
ý thức độc lập tương đối với “tồn tại” và tác động trở lại “tồn tại”. Với tinh thần này,
các nhà Tâm lý học hoạt động đã quán triệt và chứng minh trong các công trình nghiên
cứu của mình: Ý thức được coi là một chất lượng mới của toàn bộ tâm lý người. Theo
B.Ph.Lomov: “Ý thức phản ánh tồn tại. Nhưng không nên cho rằng ở mọi thời điểm ý
thức hoàn toàn tương ứng với tồn tại. Đó không phải là cái bóng, không phải là hình
ảnh trực tiếp, nó không nhắc lại nguyên xi sự kiện. Ý thức “trùng hợp” với sự kiện chỉ
ở quy mô tổng thể. B.Ph.Lomov cho rằng: Sự xuất hiện của ý thức và sự phát triển của
ý thức (trước hết là nói đến ý thức cá nhân) làm cho chức năng cơ bản của cái tâm lý
có những đặc điểm mới về chất. Chức năng nhận thức của tâm lý ở cấp độ ý thức thể
hiện như là một hoạt động đặc biệt tương đối độc lập và có định hướng. Trong quá
trình hoạt động nhận thức, cá nhân không chỉ tiếp thu những tri thức vốn có mà có khả
năng tạo ra những tri thức mới. Chức năng điều chỉnh ở cấp độ ý thức là tính có chủ
định. Hành vi cá nhân được thực hiện như là sự thể hiện ý chí của nó. Chức năng giao
tiếp của tâm lý ở cấp độ ý thức được phát triển đầy đủ nhất. Tuy tâm lý học có nhiều
quan điểm khác nhau về giao tiếp nhưng có thể nói chung nhất rằng, chức năng giao
tiếp của ý thức đã làm cho kinh nghiệm của cá nhân bao gồm cả kinh nghiệm của
những người khác, có sự tái tạo, sự phản ánh thuộc tính của một người trong người
khác (tất nhiên được biến đổi). Chức năng giao tiếp được thực hiện không những trong
quá trình trao đổi tri thức mà cả trong quá trình điều khiển hành vi lẫn nhau của mọi
người. Đối với hoạt động, ý thức giữ vai trò định hướng cao cấp nhất, điều khiển, điều
chỉnh tinh vi nhất. Ý thức vạch ra hướng chung cho hoạt động, sau đó dựa vào từng
kết quả của từng hành động mà tiếp tục định hướng cho hoạt động, tức là một mặt nó
dựa vào định hướng chung, mặt khác, nó thông qua kết quả hành động, ý thức điều
khiển, điều chỉnh hoạt động. Đối với hành động của con người thì hành động có ý thức
là hành động chủ yếu, ngay cả hành động bản năng cũng được ý thức hóa; ở con người
cũng có lúc có hành động không phải do ý thức mà do vô thức định hướng, điều khiển,
điều chỉnh (hành vi của trẻ lúc nhỏ tuổi, hành động của người bị ám thị, thôi miên, tâm
thần…), nhưng đó không phải là phổ biến thường xuyên [14].
Như vậy, các nhà Tâm lý học hoạt động đều thống nhất cho rằng: ý thức là chức