10131_Khảo sát nhận thức và thái độ của sinh viên Trường Cao đẳng Kinh tế Đối ngoại

luanvantotnghiep.com

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
**********************

ĐÀO THỊ QUÝ

KHẢO SÁT NHẬN THỨC VÀ THÁI ĐỘ CỦA SINH VIÊN
TRƯỜNG CAO ĐẲNG KINH TẾ ĐỐI NGOẠI
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ĐỐI VỚI MỘT SỐ NGHỀ
LIÊN QUAN ĐẾN KINH TẾ VÀ THƯƠNG MẠI

Chuyên ngành: Tâm lý học
Mã số: 603180

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN LUẬN VĂN
TS. NGUYỄN ÁNH HỒNG

Tp. Hồ Chí Minh, năm 2010

THƯ
VIỆN
LỜI CẢM ƠN

Tôi xin chân thành cảm ơn TS. Nguyễn Ánh Hồng. Trong quá trình làm luận văn vừa
qua tôi đã được cô chỉ bảo, hướng dẫn tận tình và nhờ có sự giúp đỡ của cô tôi mới hoàn
thành được luận văn này.
Tôi xin cảm ơn các giảng viên trong trường Đại Học Sư Phạm TP. Hồ Chí Minh,
Phòng nghiên cứu khoa học và Sau đại học, các bạn học viên cao học lớp Tâm lý học K18 đã
tận tính giúp đỡ và ủng hộ tôi trong quá trình nghiên cứu luận văn vừa qua.
Tôi cũng xin cảm ơn chân thành đến ban Giám Hiệu trường CĐ Kinh Tế Đối Ngoại,
Khoa Quản trị Kinh doanh, Khoa Tài chính Kế toán cùng toàn thể các thầy cô và các bạn
sinh viên trong trường CĐ Kinh Tế Đối Ngoại đã tích cực cộng tác và giúp đỡ chúng tôi
trong quá trình thực hiện luận văn này.

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 8 năm 2010
Tác giả
Đào Thị Quý

BẢNG VIẾT TẮT

Viết tắt
Viết đầy đủ
CĐ. KTĐN
Cao Đẳng Kinh Tế Đối Ngoại
DNTM
Doanh nghiệp thương mại
ĐLTC
Độ lệch tiêu chuẩn
KTTM
Kinh tế thương mại
N
Số lượng
NN
Nghề nghiệp
TB
Trung bình
TM
Thương mại
SV
Sinh viên

MỞ ĐẦU

1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Thế giới ngày càng biến chuyển về mọi mặt trong đó có nền kinh tế biến chuyển khá rõ rệt,
nền kinh tế các nước đều theo một trào lưu đó là hoà nhập vào nền kinh tế thế giới. Việt Nam
cũng không ngoại lệ, ngày 07/11/2006 Việt Nam đã chính thức gia nhập vào nền kinh tế thương
mại thế giới (WTO) đưa nền kinh tế nước ta phát triển lên một tầm cao mới. Để có thể hội nhập
với nền kinh tế quốc tế, xã hội cần phải có đội ngũ nguồn nhân lực trí tuệ, có trình độ chuyên
môn tay nghề cao và phải có tâm huyết với nghề.
Chất lượng đào tạo nguồn nhân lực phụ thuộc vào nhiều yếu tố đặc biệt là yếu tố chủ
quan của người học, yếu tố đóng vai trò quyết định. Sự ảnh hưởng của những yếu tố tâm lý nhân
cách của sinh viên đến diễn biến và kết quả hoạt động học tập, trau dồi nghề nghiệp của bản thân
các em, đó là nhận thức và thái độ nghề nghiệp được hiểu một cách cụ thể ở sinh viên đang học
nghề. Nhận thức nghề nghiệp là sự hiểu biết đầy đủ về các thông tin liên quan đến nghề. Thái độ
nghề nghiệp là sự thể hiện tình cảm yêu thích hay thờ ơ, chán ghét, có thái độ tích cực hay tiêu
cực… đối với nghề, nảy sinh trên cơ sở nhận thức về nghề.
Sinh viên học nghề ngay sau khi vào trường cần có sự hiểu biết nhất định về đặc điểm, nội
dung, vai trò, giá trị của nghề và tình cảm tích cực đối với nghề đã chọn và đang học. Điều đó rất
quan trọng bởi lẽ tình cảm nghề nghiệp sẽ tạo nên hứng thú nghề nghiệp. “Hứng thú kích thích
tích cực của nhân cách, thúc đẩy con người hoạt động” học tập nỗ lực hơn và đạt kết quả tốt hơn.
Sau này khi ra trường khi các em làm nghề mà mình yêu thích thì các em sẽ có tâm huyết với
nghề và sẽ gặt hái được nhiều thành công hơn trong công việc, sự nghiệp của mình.
Như vậy, nhiệm vụ đặt ra ở đây đối với các cơ sở đào tạo nguồn nhân lực, đặc biệt là đối
với các trường Đại học và Cao đẳng không chỉ chú trọng đào tạo chuyên môn nghề nghiệp mà
còn giúp các em có nhận thức và thái độ đầy đủ, đúng mực với nghề mà các em đã lựa chọn.
Cùng với sự nghiệp đổi mới và phát triển của đất nước, trường Cao Đẳng Kinh Tế Đối
Ngoại Thành Phố Hồ Chí Minh không ngừng phát triển với nhiều đóng góp lớn lao vào sự
nghiệp xây dựng và phát triển nền kinh tế đất nước. Trường đào tạo đa ngành nghề thuộc lĩnh
vực kinh tế và thương mại. Trong vài năm gần đây trường Cao Đẳng Kinh Tế Đối Ngoại
(CĐKTĐN) là một trong những trường cao đẳng có số lượng thí sinh đăng ký và thi vào trường
nhiều nhất trong cả nước. Điều này chứng tỏ những ngành nghề thuộc lĩnh vực kinh tế và thương
mại đang rất thu hút các bạn trẻ. Tuy nhiên mức độ hiểu biết, nhận thức và thái độ của các em về
ngành nghề này như thế nào sau khi các em đã thi đậu và theo học trong trường? Cần làm gì để
góp phần nâng cao nhận thức và thái độ nghề nghiệp, giúp các em chuẩn bị hành trang để bước
vào hoạt động lao động trong xã hội?….
Từ những băn khoăn đó đã khiến chúng tôi lựa chọn đề tài: “Khảo sát nhận thức và thái
độ của sinh viên Trường Cao Đẳng Kinh Tế Đối Ngoại Thành Phố Hồ Chí Minh đối với một
số nghề liên quan đến kinh tế và thương mại”.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Từ kết quả nghiên cứu thực trạng nhận thức, thái độ của SV trường CĐKTĐN đối với một số
nghề liên quan đến kinh tế và thương mại đề xuất một số biện pháp giúp SV có nhận thức và
thái độ đúng đắn đối với nghề nghiệp của mình.
3. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU

Nghiên cứu một số vấn đề lý luận liên quan đến đề tài: nhận thức, thái độ, đặc điểm tâm lý sinh
viên, nghề nghiệp liên quan đến kinh tế và thương mại…

Khảo sát thực trạng nhận thức và thái độ của SV CĐ.KTĐN đối với một số nghề liên quan đến
kinh tế và thương mại.

Đề xuất một số biện pháp tác động nhằm góp phần nâng cao nhận thức của sinh viên về nghề
nghiệp các em đã chọn và có thái độ đúng đắn với các nghề này.
4. KHÁCH THỂ VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU

4.1 Khách thể nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu trên 400 sinh viên khoa Quản Trị Kinh Doanh, Khoa Tài Chính Kế Toán,
trường Cao đẳng Kinh Tế Đối Ngoại, TP. Hồ Chí Minh
4.2 Đối tượng nghiên cứu
Nhận thức và thái độ của sinh viên trường Cao đẳng Kinh Tế Đối Ngoại đối với một số
nghề liên quan đến kinh tế và thương mại.
5. GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU
Nhận thức và thái độ của sinh viên trường CĐ.KTĐN đối với nghề nghiệp thuộc lĩnh vực
kinh tế và thương mại chưa đầy đủ và phù hợp.
6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

6.1 Các phương pháp nghiên cứu lý luận
Khi nghiên cứu lý luận, chúng tôi tiến hành thu thập các tài liệu lý luận, các kết quả nghiên
cứu thực tiễn (sách, luận án, tạp chí, bài báo, các công trình nghiên cứu trong và ngoài
nước…) về các vấn đề liên quan đến đề tài. Các tư liệu trên được nghiên cứu, phân tích, tổng
hợp, hệ thống hóa để xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài.

6.2 Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
6.2.1 Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi
Đây là phương pháp nghiên cứu chính của đề tài. Chúng tôi tiến hành xây dựng bảng hỏi
dành cho 400 SV năm thứ nhất và SV năm cuối các khoa Quản trị kinh doanh và Tài chính
kế toán. Việc chọn mẫu nghiên cứu được thực hiện một cách ngẫu nhiên. Bảng hỏi được thực
hiện qua ba giai đoạn như sau:
 Giai đoạn 1:
Dựa trên những cơ sở lý luận của đề tài, chúng tôi tiến hành thiết kế bảng hỏi mở về
những vấn đề liên quan đến nhận thức và thía độ của SV về NN thuộc lĩnh vực KTTM . Sau
đó, phát cho 30 SV được chọn ngẫu nhiên để thu thập những thông tin cần thiết làm định
hướng cho việc xây dựng bảng hỏi chính thức của đề tài.
 Giai đoạn 2:
Từ kết quả thu được sau khi phát bảng hỏi mở cộng với những lý luận của đề tài sẽ xây
dựng bảng hỏi chính thức bao gồm các nội dung sau:
– Các câu hỏi về thông tin cá nhân về khách thể nghiên cứu
– Các câu hỏi nhằm khảo sát nhận thức của SV về NN thuộc lĩnh vực KTTM gồm các câu
1, 4, 10, 11, 12, 13, 14
– Các câu hỏi nhằm tìm hiển thái độ và hành động của SV đối với NN. Gồm các câu
2,3,5,6,7,8,9,15,16,17,18,19,20
 Giai đoạn ba:
Tiến hành phát phiếu điều tra chính thức. Kết quả thu về như sau: Số phiếu phát ra là
400 phiếu, số phiếu hợp lệ là 380 phiếu. Điều tra ở sinh viên các chuyên ngành: Quản trị
DNTM (109 SV), Marketing TM (129 SV), Kế toán DNTM (120 SV), Kinh doanh (21
SV).
6.2.2 Phương pháp phỏng vấn
Chúng tôi đã tiến hành phỏng vấn:
– 20 sinh viên các khoa: Quản trị kinh doanh, khoa tài chính kế toán để tìm hiểu suy nghĩ,
hiểu biết, thái độ của các em về nghề nghiệp các em đã chọn.
– Trưởng khoa Quản trị kinh doanh, khao Tài chình kế toán, 5 giảng viên giảng dạy trong
trường, 5 giáo viên chủ nhiệm để thu thập thông tin liên quan đến đề tài.

6.3 Phương pháp toán thống kê:
Kết quả điều tra bằng phiếu hỏi được xử lý bằng phần mềm SPSS for Windows phiên bản
11.5 tính tần số, tỷ lệ phần trăm, trị số trung bình, …

7. GIỚI HẠN VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI

7.1 Giới hạn:
Nghiên cứu nhận thức và thái độ của sinh viên khoa: Quản Trị Kinh Doanh, Tài Chính Kế
Toán về nghề liên quan đến kinh tế và thương mại.

7.2 Phạm vi:
Nghiên cứu 400 sinh viên năm nhất và năm cuối hai khoa: Quản Trị Kinh Doanh, Tài Chính
Kế Toán trường CĐ Kinh Tế Đối Ngoại
8. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI

8.1 Về mặt lý luận
Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần làm sáng tỏ hơn lý luận về nhận thức và thái độ, mối
tương quan giữa nhận thức và thái độ, những NN thuộc lĩnh vực kinh tế và thương mại cũng
như nhận thức và thái độ của SV đối với NN thuộc lĩnh vực kinh tế thương mại.

8.2 Về mặt thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của đề tài là tài liệu tham khảo cho Ban Giám Hiệu, chủ nhiệm các khoa
cũng như các giảng viên trong trường CĐ. KTĐN trong việc xây dựng các biện pháp cụ thể
để góp phần nâng cao chất lượng công tác hướng nghiệp cho SV trong trường.

Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI

1.1 LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
Vấn đề nghề nghiệp nói chung đã và đang được nhiều tác giả trong và ngoài nước quan
tâm nghiên cứu.
1.1.1 Trên thế giới
Xuất hiện vào giữa thế kỷ XIX ở Châu Âu với sự ra đời của cuốn sách “Hướng dẫn chọn
nghề” (1848), vấn đề nghề nghiệp bắt đầu được các nước công nghiệp quan tâm nghiên cứu. Từ
năm 1916, những cơ quan chuyên môn về hướng nghiệp đã được thành lập ở nhiều nước như
Đức, Anh, Ý…và không ngừng phát triển đến nay.
Ở Liên Xô đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề nghề nghiệp từ những năm 20 của
thế kỷ XX. Năm 1921, phòng thí nghiệm tâm lý chuyên nghiên cứu nhân cách học sinh phục vụ
cho hướng nghiệp thành lập. Năm 1927 hội nghị toàn liên bang về tâm sinh lý lao động và tuyển
chọn nghề được tổ chức tại Mátxicơva, nhiều nhà tâm lý học nổi tiếng như
E.A.Climôp,V.I.Segurôva… đã đi sâu nghiên cứu về xu hướng, hứng thú nghề nghiệp quyết
định hiệu quả hoạt động nghề [23, tr.52].
Ngoài ra còn có công trình nghiên cứu về mặt tâm lý của một loạt các nghề phổ biến và xây
dựng những phương pháp xác định sự phù hợp về nghề nghiệp của con người. Những nghiên
cứu này được tiến hành cho học sinh trước khi bước vào chọn nghề, để tránh sự lãng phí trong
đào tạo khi các em lựa chọn nghề không đúng với hoàn cảnh thực tế của mình. năm thứ nhất và
SV năm cuối Từ năm 1970 ở trường Lêningrat đã tiến hành nghiên cứu nhân cách của học sinh
bằng cách xác định thiên hướng nghề nghiệp của các em với sự giúp đỡ của viện bội dưỡng giáo
viên. Tác giả Ph.N.Gôlôbin có công trình nghiên cứu về “ Những phẩm chất tâm lý của người
giáo viên”. Ông đã vạch ra được những phẩm chất tâm lý chủ yếu quyết định sự thành công
trong hoạt động giảng dạy của người giáo viên, qua đó đề ra những yêu cầu nghề nghiệp làm cơ
sở giúp cho sinh viên, giáo viên rèn luyện và phát triển năng lực sư phạm phù hợp
[8].
1.1.2 Tại Việt Nam
Trong vài năm trở lại đây công tác hướng nghiệp nhằm góp phần nâng cao hiểu biết, nhận
thức về nghề nghiệp cho giới trẻ ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường phổ thông đã trở
thành mối quan tâm của toàn xã hội.
Ngày 19/03/1981 hội đồng Chính phủ đã ra quyết định 126/CP về “công tác hướng nghiệp
trong nhà trường phổ thông…” và từ đây hướng nghiệp đã trở thành hoạt động chính thức trong
nhà trường phổ thông. Ngày 17/11/1981, Bộ Giáo dục ra thông tư số 31/TT quy định “ Để giúp
HS hiểu biết các ngành nghề, các trường học tạm thời sử dụng mỗi tháng một buổi lao động, để
giới thiệu, tuyên truyền, giải thích ngành nghề”. Nghị quyết Đại hội VI của Đảng Cộng Sản Việt
Nam (1986) khẳng định: “Trường phổ thông phải chuyển mạnh theo hướng dạy kiến thức phổ
thông cơ bản, lao động kỹ thuật tổng hợp, hướng nghiệp và dạy nghề”. Nghị quyết 23 ngày
29/03/1989 của Bộ Giáo dục cũng nhấn mạnh “Phải đẩy mạnh giáo dục hướng nghiệp, phát triển
hệ thống dạy nghề…”. Ngày 31/03/1990 Bộ Giáo dục ban hành quyết định số 329/QĐ nói rõ nội
dung sinh hoạt hướng nghiệp và quy định các lớp THPT mỗi tháng phải có một buổi sinh hoạt
hướng nghiệp.
Nhờ sự quan tâm sâu sát của các cơ quan chính quyền mà công tác hướng nghiệp ở trường
phổ thông đã có những bước phát triển rõ rệt: các trung tâm giáo dục kỹ thuật tổng hợp, hướng
nghiệp được tổ chức rộng rãi, các trường phổ thông xuất hiện các phòng, góc hướng nghiệp với
rất nhiều tư liệu về các ngành nghề.
Bên cạnh đó nhiều tác phẩm viết về vấn đề nghề nghiệp cũng được ra đời trong thời gian
gần đây như: “Định hướng NN cho giới trẻ” của tác giả Ngô Hoài Sơn. Sách có đề cập đến
những con đường lập nghiệp, hướng dẫn học sinh cách chọn khối thi, ngành thi, trường thi cũng
như cung cấp cho một số thông tin về xu hướng phát triển một số NN trong tương lai. [17].
Tác phẩm “Bạn sẽ chọn nghề như thế nào” của Nguyễn Minh Nhựt. Tập sách bao gồm
những câu hỏi – đáp từ từ các thắc mắc của học sinh xoay quanh vấn đề tuyển sinh và được các
chuyên gia giáo dục trả lời[18].
Tác phẩm “Chọn nghề chọn tương lai” của Phạm Văn Hải. Sách sưu tập những ngành nghề
thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau giúp bạn trẻ tự tìm cho mình NN phù hợp với sở thích, năng lực,
tính cách. Ngoài ra sách còn giới thiệu những yêu cầu cụ thể của từng nghề, môi trường làm
việc, mức lương của nghề cũng như những nơi đào tạo các ngành nghề đó [26].
Sách “Tư vấn hướng nghiệp” của tác giả Quang Dương đưa ra 50 chủ đề được chắt lọc từ
những tình huống đã có và tác giả tư vấn theo chủ đề đó. Ngoài ra sách còn sưu tập những bài
viết đăng trên báo, tạp chí [30].
Tác phẩm “Cẩm nang hướng nghiệp” của Nguyễn Chí Thu để cập đến cách thức để bạn trẻ
tự nhận biết bản thân như tính cách, khí chất, hứng thú, tố chất trước khi quyết định chọn nghề
[20].
“Kiến thức và kỹ năng vào nghề” của Nguyễn Đăng Lập. Nội dung tác phẩm đề cập đến
cách thức để học sinh tìm hiểu và khám phá bản thân, tìm hiểu về năng lực học tập cũng như
hướng dẫn kỹ năng chọn nghề [11].
Như vậy trong những năm trở lại đây công tác hướng nghiệp cho học sinh bậc phổ thông đã
có những tiến bộ rõ rệt, chủ nghề NN được xem là đề tài nóng hổi để nhiều tác giả quan tân đề
cập đến. Bên cạnh đó cũng có những tác phẩm viết về công tác hướng nghiệp cho giới trẻ là SV,
tuy nhiên những tài liệu này chưa nhiều, chưa đáp ứng được nhu cầu tìm hiểu thông tin NN của
SV. Tác giả Nhân Văn với “Sổ tay hướng dẫn cách tìm việc”. Nội dung sách xoay quanh những
vấn đề hướng dẫn bạn trẻ cách tìm việc, cách chuẩn bị bản thân để đáp ứng nhu cầu công việc,
cách tìm kiếm và phát hiện những cơ hội việc làm, chuẩn bị hồ sơ xin việc và phỏng vấn [21].
“Chọn nghề và cách chiến hắng nhà tuyển dụng” của tác giả Nguyễn Ninh đã để cập đến
những kiến thức cơ bản về kỹ năng chọn nghề, kỹ năng trả lời phỏng vấn, các xu hướng tất yếu
phát triển của các doanh nghiệp trong tương lai [19].
Tác phẩm “Cẩm nang tìm việc” của P.H.Diệp đưa ra những lời khuyên cho bạn trẻ trước
khi tìm việc như chọn kênh thông tin tìm việc, xác định lý do làm việc, những lưu ý để có việc
làm thích hợp cũng như cách viết đơn xin việc, chuẩn bị hồ sơ, chuẩn bị phỏng vấn trước nhà
tuyển dụng…[29] Công tác định hướng nghề nghiệp không chỉ dừng lại ở bậc phổ thông mà ngay cả sinh viên
sau khi đã lựa chọn ngành nghề và theo học ở bậc đại học, cao đẳng vẫn cần được quan tâm,
điều này sẽ góp phần nâng cao nhận thức và thái độ nghề nghiệp mà SV đang theo học. Như
vậy quá trình hướng nghiệp là một quá trình liên tục và kéo dài cho đến những năm cuối cùng
của bậc đại học, cao đẳng. Tuy nhiên trên thực tế vấn đề này rất ít được quan tâm nghiên cứu,
với những công trình nghiên cứu chuyên sâu vào lĩnh vực nhận thức, thái độ của sinh viên về
ngành nghề thuộc lĩnh vực kinh tế lại càng ít. Chính vì vậy, qua đề tài này chúng tôi muốn khảo
sát thực trạng nhận thức và thái độ về nghề nghiệp của sinh viên đang học các ngành nghề kinh
tế để từ đó đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao nhận thức về nghề nghiệp của sinh viên,
giúp SV hình thành thái độ tích cực, đúng đắn đối với ngành nghề các em đang theo học.

1.2 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.2.1 LÝ LUẬN VỀ NHẬN THỨC VÀ THÁI ĐỘ
1.2.1.1 Nhận thức
Khái niệm chung
Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về nhận thức, trong chương trình tâm lý học đại cương
của nhiều tác giả, khái niệm nhận thức đã được đề cập rất cụ thể với nhiều phương diện khác
nhau.
Theo từ điển tiếng Việt – 1992: nhận thức là quá trình hoặc kết quả phản ánh và tái hiện hiện
thực vào trong tư duy; quá trình con người nhận biết và hiểu biết thế giới khách quan, hoặc kết
quả của quá trình đó [ 3, tr.689].
Theo Từ điển Triết học: nhận thức là quá trình phản ánh biện chứng, tích cực, tự giác và sáng
tạo thế giới khách quan vào trong đầu óc con người trên cơ sở thực tiễn [32].
Từ điển Bách khoa Việt Nam: nhận thức là quá trình biện chứng của sự phản ánh thế giới
khách quan trong ý thức con người, nhờ đó con người tư duy và không ngừng tiến đến gần
khách thể [40].
Roberts Feldman cho rằng: Sự nhận thức là quá trình tinh thần bậc cao qua đó chúng ta hiểu
thế giới, xử lý thông tin, phán đoán và quyết định, và chia sẻ hiểu biết với người khác
[42,tr.307]. Định nghĩa này đã nói một cách rất cụ thể về nhận thức.
Theo Le Ny: “nhận thức bao hàm đồng thời toàn bộ những hoạt động góp phần vào sự hiểu
hiết, dù cho hoạt động đó đúng đắn và toàn bộ sản phẩm của hoạt động đó, dù đó là bản thân
kiến thức, lệch lạc về kiến thức, biểu hiện và tín ngưỡng gần đúng hoặc có một phần sai lệch”
[47,tr.68].
Với định nghĩa mà Le Ny đưa ra, nhận thức được xem xét một cách rất tổng quát, ở phạm vi
rất rộng.
Một khái niệm xem xét nhận thức ở phạm vi hẹp hơn đó là định nghĩa của Raynal và
Rieunier: “Nhận thức là toàn bộ những quy trình mà nhờ đó những đầu vào cảm xúc chuyển
hóa, mã hóa, cấu trúc hóa, lưu trữ, hồi cố và sử dụng” [47, tr.68].
Stephen Worchel – Wayne Shebilsue: “Nhận thức là một quá trình diễn dịch thông tin do
cảm giác thu thập được”[45, tr107]. Định nghĩa này cho chúng ta thấy nhận thức ở một phạm vi
rất hẹp. Nhận thức được hiểu là một sự giải mã các thông tin.
Phạm Hoàng Gia cho rằng: Lĩnh vực nhận thức bao gồm cả tri thức và năng lực trí tuệ [48,
tr.227].
Nguyễn Quang Uẩn cho rằng: “nhận thức là hoạt động đặc trưng của con người. Trong quá
trình sống và hoạt động con người nhận thức – phản ánh được hiện thực xung quanh, hiện thực
của bản thân mình, trên cơ sở đó con người tỏ thái độ và hành động đối với thế giới xung quanh
và đối với chính bản thân mình”[43, tr.88]. Định nghĩa này xem xét nhận thức ở khía cạnh là
một hoạt động của con người.
Ở một khía cạnh khác, nhận thức được xem là một quá trình, đó chính là quan điểm của tác
giả Nguyễn Khắc Viện: “Nhận thức là một quá trình tiếp cận, tiến gần đến chân lý, nhưng không
bao giờ ngừng ở một trình độ nào, vì không bao giờ nắm hết toàn bộ hiện thực, phải thải dần
những cái sai, tức không ăn khớp với hiện thực, đi hết bước này sang bước khác”[49].
Cũng xem xét nhận thức ở khía cạnh quá trình, nhưng xem xét ở những quá trình cụ thể, chia
nhỏ quá trình đó thành những quá trình riêng lẻ là quan điểm của tác giả Đặng Phương Kiệt lý
giải: Nhận thức là một thuật ngữ khái quát hóa mọi dạng hiểu biết. Các quá trình hiểu biết bao
gồm: chú ý, ghi nhớ, suy nghĩ và giải quyết vấn đề, tri giác và nhận biết hình mẫu. [50, tr.284].
Từ các quan điểm và các góc độ tiếp cận của các nhà nghiên cứu trên, chúng tôi xác định
rằng: Nhận thức là quá trình phản ánh hiện thực khách quan vào não con người, mang tính
chủ thể, mang tính lịch sử xã hội và trên cơ sở nhận thức con người tỏ thái độ và hành động
đối với thế giới xung quanh và với chính bản thân mình.
Như vậy chúng ta nhận thấy:
– Nhận thức là quá trình phản ánh hiện thực khách quan do đó nếu con người có nhận thức
tốt tức là quá trình phản ảnh hiện thức khách quan đúng đắn, đầy đủ.
– Nhận thức có mối quan hệ với tình cảm, thái độ. Tức là khi con người nhận thức tốt sẽ
làm nảy sinh, định hướng, điều khiển tình cảm, thái độ và giúp con người tỏ thái độ phù hợp.
– Nhận thức, thái độ có mối quan hệ với hành động. Nghĩa là nhận thức, thái độ tốt sẽ làm
động lực thúc đẩy con người hành động và đạt kết quả tốt.

Các giai đoạn của quá trình nhận thức
Sống và hoạt động trong thế giới khách quan, con người luôn nhận thức và tỏ thái độ của
mình với những sự vật hiện tượng xung quanh. Trong quá trình hoạt động, con người phải
nhận thức cái bên ngoài và bản chất bên trong, cái trực quan cụ thể và cái khái quát, trừu
tượng…của sự vật hiện tượng. Như vậy hoạt động nhận thức rất phức tạp, đa dạng và thể
hiện ở nhiều mức độ khác nhau. Hoạt động nhận thức được chia thành hai giai đoạn: Nhận
thức cảm tính và nhận thức lý tính. Nhận thức cảm tính bao gồm hai quá trình cảm giác và
tri giác. Nhận thức lý tính gồm có quá trình tư duy và tưởng tượng. Giữa cảm tính và lý
tính có cấp độ trung gian, đó là trí nhớ [22, tr.88].
 Nhận thức cảm tính
Nhận thức cảm tính là mức độ nhận thức đầu tiên của con người, trong đó chúng ta chỉ
phản ánh được những đặc điểm bên ngoài của sự vật hiện tượng riêng lẻ khi chúng trực tiếp tác
động vào các giác quan của chúng ta. Nhận thức cảm tính gồm có hai quá trình cơ bản là cảm
giác và tri giác.
– Cảm giác:
Cảm giác là một quá trình nhận thức đơn giản nhất, phản ánh những đặc điểm riêng lẻ, bề
ngoài của sự vật hiện tượng khi chúng tác động trực tiếp vào các giác quan tương ứng của con
người.
Mức độ cảm giác chúng ta mới chỉ có những hiểu biết rất mơ hồ, rất chung chung về thế
giới xung quanh, thậm chí cảm giác có thể không chính xác. Mặc dù cảm giác là quá trình tâm lý
rất đơn giản, nhưng nó có vai trò vô cùng to lớn đối với hoạt động nhận thức nói riêng và đối với
cuộc sống con người nói chung. Cảm giác đưa đến cho ta nguồn tài liệu phong phú về hiện thực
khách quan, nó cung cấp nguyện liệu cho các qúa trình nhận thức cao cấp khác. “Cảm giác là
những viên gạch đầu tiên từ đó dựng nên lâu đài nhận thức” (V.I.Lenin). Cảm giác là công cụ
duy nhất nối liền ý thức với thế giới bên ngoài. Không có cảm giác con người không thể định
hướng được trong môi trường xung quanh, không thể giao thiệp được với mọi người, không thể
lao động và không thể tránh khỏi các mối nguy hiểm.
– Tri giác
Tri giác là một quá trình nhận thức phản ánh một cách trọn vẹn các thuộc tính bề ngoài của
sự vật hiện tượng khi chúng trực tiếp tác động vào các giác quan của chúng ta
Tri giác là một quá trình nhận thức cao cấp hơn cảm giác, là sự tổng hợp một cách phức tạp
của các cảm giác. Để tạo ra hình ảnh trọn vẹn về thế giới xung quanh. Quá trình tri giác có sự
tham gia của kinh nghiệm, của tư duy, của ngôn ngữ và nhiều chức năng tâm lý khác nữa. Vì thế
tri giác không chỉ là qúa trình tạo ra hình ảnh cảm tính về sự vật hiện tượng mà còn là một hoạt
động tích cực của con người. Tuy nhiên tri giác cũng chỉ mới là cảm tính, vì vậy nó cũng thiếu
chính xác và không sâu sắc.

Nhận thức lý tính
Là giai đoạn nhận thức cao hơn so với cảm tính, nó cho ta biết cái bên trong, cái bản chất,
cái quy luật của sự vật hiện tượng. Nhận thức lý tính bao gồm 2 quá trình tư duy và tưởng tượng.
– Tư duy:
Tư duy là quá trình nhận thức phản ánh những thuộc tính bản chất, những mối liên hệ và
quan hệ có tính quy luật của sự vật hiện tượng trong hiện thực khách quan, nảy sinh trên cơ sở
nhận thức cảm tính. Tư duy cho ta biết những thuộc tính bản chất bên trong, những quy luật của
hàng loạt sự vật hiện tượng, những cái mà bằng giác quan, bằng nhận thức cảm tính con người
chưa thể phản ánh được. Tư duy nảy sinh trên cơ sở hoạt động thực tiễn, từ nhận thức cảm tính
và vượt ra ngoài nhận tức cảm tính. Tư duy là quá trình tâm lý không tách rời ngôn ngữ, hình
thành bởi xã hội, đi tìm cái mới cơ bản, là quá trình phản ánh gián tiếp và khái quát hiện thực.
Chính vì thế tư duy cho phép ta tìm hiểu quá khứ xa xưa và cũng cho phép ta nhìn về tương lai.

– Tưởng tượng:
Trong thực tế, không phải bất cứ tình huống có vấn đề nào ta cũng đều giải quyết được
bằng tư duy. Có nhiều trường hợp, khi đứng trước tình huống có vấn đề con người không thể
dùng tư duy để giải quyết mà phải dùng một quá trình nhận thức khác gọi là tưởng tượng.
Tưởng tượng là một quá trình nhận thức phản ánh những cái chưa từng có trong kinh
nghiệm của cá nhân bằng cách xây dựng những hình ảnh mới trên cơ sở những biểu tượng đã có.
Tưởng tượng tạo ra những hình ảnh mới trên cơ sở những biểu tượng của trí nhớ nhờ các
phương thức hành động: chắp ghép, liên hợp, nhấn mạnh, mô phỏng…
Các mức độ của quá trình nhận thức
Đã có nhiều tác giả trong và ngoài nước bàn về các mức độ của quá trình nhận thức, nhưng
đề tài này chỉ tập trung nói đến quan niệm của B.S.Bloom về đánh giá các mục tiêu nhận thức.
Nhận thức có nhiều mức độ khác nhau, phân loại mục tiêu nhận thức ra thành 6 mức độ từ
thấp đến cao. Mỗi mức độ đặc trưng cho một hoạt động trí tuệ.
Mức 1: Biết: Đưa vào trí nhớ và phục hồi lại thông tin của cùng một đối tượng nhận thức,
ghi nhớ, có thể nhắc lại các sự kiện, định nghĩa các khái niệm, nội dung các định luật,…
Mức 2: Hiểu: Có thể thuyết minh, giải thích, chứng minh những kiến thức đã lĩnh hội (phục
hồi ngữ nghĩa thông tin trong những đối tượng khác nhau, thiết lập liên hệ ở những đối tượng
khác nhau)
Mức 3: Vận dụng: Có thể áp dụng kiện thức vào những tình huống mới, khác với trong bài
học (sử dụng các nguyên tắc, quy tắc, những phác đồ để giải quyết một vấn đề nào đó)
Mức 4: Phân tích: Biết phân chia toàn thể thành các bộ phận, một vấn đề lớn thành những
vấn đề nhỏ hơn, làm sáng tỏ mối quan hệ giữa các bộ phận (đồng nhất những bộ phận tạo nên
cái tổng thể, từ đó phân biệt các ý tưởng trong đối tượng đó)
Mức 5: Tổng hợp: Biết sắp xếp các bộ phận thành một thể thống nhất, ghép các vấn đề nhỏ
thành vấn đề lớn, tạo thành một tổng thể mới (liên kết tất cả các bộ phận tạo nên tổng thể)
Mức 6: Đánh giá: Có thể nhận định, phán đoán về giá trị, ý nghĩa của mỗi kiến thức (tạo
thành những phán đoán về số lượng cũng như chất lượng thao tác tạo nên chất lượng của trí tuệ)
Hai mức đầu là nhận thức ở mức thấp, bốn mức sau là nhận thức ở mức cao vì chúng đề
cập đến các thao tác tư duy phức tạp hơn, huy đông 3 thao tác phân tích, tổng hợp, đánh giá.
Tự nhận thức
Tự nhận thức là thành phần của tự ý thức. Tự nhận thức được hiểu là quá trình nhận thức
hướng vào chính cá nhân mình.
Quá trình tự nhận thức có thể diễn ra với những mục đích khác nhau và xuất phát từ những
mục tiêu, có thể xuất phát từ những nguyên nhân khác nhau, động cơ khác nhau.
Không nhất thiết chỉ trong hoạt động tự nhận thức con người mới có được những nhận thức
về bản thân. Trong khuân khổ của những hoạt động khác, con người cũng có thể có được những
nhận thức về bản thân một cách không chủ định. Điều đó xảy ra trong sự thống nhất với các quá
trình ý thức khác nhau và xảy ra một cách gián tiếp.
Trong quá trình tự nhận thức, cá nhân có được những nhận thức mới về bản thân. Chất
lượng của những nhận thức mới đó phụ thuộc vào một loạt những điều kiện bên trong, điều kiện
bên ngoài và phụ thuộc vào chất lượng của chính hoạt động mà trong đó nhận thức được hình
thành.
“Con người có được sự nhận thức thực sự một cách nhanh nhất và tốt nhất nếu con người
hành động và tự kiểm tra mình trong những tình huống sống biến động thay cho việc chỉ tập
trung vào sự quan sát” (S.L.Rubinstein)[15].
Trong quá trình tự nhận thức, cá nhận sẽ có được những quan điểm đối với bản thân và
đồng thời còn có một hệ thống nhận thức tương đối bền vững về bản thân, mỗi một nhận thức
mới phải được hòa nhập vào hệ thống đó.
+ Nếu những nhận thức mới phù hợp với hệ thống nhận thức đã có thì dẫn đến sự xác nhận
cũng như củng cố thêm nhận thức đã có tạo nên sự hòa nhập.
+ Nếu những nhận thức mới không phù hợp với nhận thức đã có thì có sự tác động qua lại
giữa thông tin mới và nhận thức đã có. Sự tác động này thường gắn với những trạng thái xúc
cảm. Đặc biệt trong trường hợp này, những quá trình nhận thức mới có thể kích thích đưa đến sự
cải tổ hệ thống nhận thức và hệ thống quan điểm đã có.
Tự nhận thức với tư cách là thành phần của tự ý thức của nhân cách, là sự nhận thức về cái
tôi riêng trong mối quan hệ với sự nhận thức thực tế khách quan, nhưng đồng thời trong sự thống
nhất với những quá trình ý thức, nó có chức năng điều chỉnh hành động có ý thức.
1.2.1.2 Thái độ
Khái niệm thái độ
Thái độ là một thuật ngữ được sử dụng khá thường xuyên trong khoa học tâm lý và các
ngành khoa học khác, tuy nhiên việc tìm một khái niệm toàn diện, đầy đủ nhất về thái độ không
phải là dễ. Dưới đây là một số khái niệm tiêu biểu về thái độ
Theo từ điển Tiếng việt – 1999, thái độ là tổng thể nói chung những biểu hiện ra bên ngoài
(bằng nét mặt, cử chỉ, lời nói, hành động) của ý nghĩ, tình cảm với ai hoặc đối với sự việc nào
đó. Thái độ hống hách, thái độ không bằng lòng, thái độ niềm nở, thái độ im lặng…[3] Thái độ là cách nghĩ, cách nhìn và cách hành động theo một hướng nào đó trước một vấn
đề, một tình hình. Xây dựng thái độ lao động mới, thái độ học tập đúng đắn, thái độ hoài nghi,
thiếu tin tưởng…
Theo tâm lý học xã hội: Thái độ là sự sẵn sàng ổn định của cá nhân để phản ứng với một
tình huống hay một phức thể tình huống, thái độ vốn có xu hướng rõ rệt hình thành quy luật nhất
quán phương thức xử thế của mỗi cá nhân [53].
Theo từ điểm tâm lý học của Nguyễn Khắc Viện – 1991: Trước một số đối tượng nhất định,
như hàng hoá nào đó hoặc một ý tưởng nào đó (chính trị, tôn giáo, triết lý…) nhiều người có
những phản ứng tức thì, tiếp nhận dễ dàng hay khó khăn, đồng tình hay chống đối, như đã sẵn
sàng có những cơ cấu tâm lý tạo ra định hướng cho việc ứng phó. Từ những thái độ sẵn có, tri
giác về các đối tượng cũng như tri thức bị chi phối, về vận động thì thái độ gắn liền với tưởng
tượng [49].
Thái độ liên quan với động cơ và các dục vọng bản năng, nhưng khác với dục vọng là khi
đã tỏ thái độ rồi, vị tất nó sẽ dịu đi như khi thoả mãn dục vọng (ghét ai, có xỉ vả rồi nhiều khi
vẫn giữ thái độ như trước). Thái độ thay đổi trong quá trình hoạt động.
Như vậy, theo từ điển Tiếng việt thái độ được hiểu là: cách nghĩ, cách nhìn và cách hành
động theo một hướng nào đó trước một vấn đề, một tình hình.
Dựa trên những tư tưởng của Lazuski và xuất phát từ lập trường Mácxit, V.N.Miasixev đề
ra học thuyết tâm lý về thái độ chủ quan của cá nhân, ông viết: Thái độ dưới dạng chung nhất, là
hệ thống trọn vẹn các mối liên hệ cá nhân, có chọn lọc, có ý thức của nhân cách với các khía
cạnh khác nhau của hiện thực khách quan. Hệ thống này xuất phát từ toàn bộ lịch sử phát triển
của con người, nó thể hiện kinh nghiệm cá nhân và quy định hành động và các thể nghiệm của
cá nhân từ bên trong [52].
Các nhà tâm lý học Xô viết ít dùng thuật ngữ “thái độ” trong các nghiên cứu của mình vì
tính đa nghĩa của thuật ngữ này trong tiếng Nga. Cho nên khái niệm tâm thế được sử dụng nhiều
hơn để nói đến thái độ chủ quan của nhân cách, được định nghĩa như sau: Tâm thế xã hội là một
dạng tâm thế được xem như một yếu tố hình thành hành vi xã hội của nhân cách, xuất hiện dưới
dạng các quan hệ của nhân cách với các điều kiện hoạt động của nó và của những người khác.
Tác giả K.K.Platonov lại cho rằng “thái độ là một cấu thành tích cực của ý thức cá nhân và
là các mối liên hệ ngược của chủ thể đối với thế giới, được phản ánh và được khách thể hóa
trong tâm vận động”. Do vậy, phản ánh được hiểu không chỉ là kết quả tác động của môi trường
lên con người mà là biểu hiện của sự tác động qua lại giữa chúng. Nói cách khác, bản thân phản
ánh là sự tác động qua lại được thực hiện bằng phương thức thái độ có ý thức.
Các nhà tâm lý học của Leninggrad thuộc Liên Xô trước đây coi thái độ là “những cơ cấu
tâm lý sẵn có, định hướng cho sự ứng phó của cá nhân”. Còn dưới góc độ tâm lý học nhân cách
thì Kosacowski và Lompscher đều khẳng định thái độ thuộc tính tâm lý bao gồm niềm tin, hứng
thú, thái độ xã hội.
Lênin định nghĩa thái độ là một bộ phận của lĩnh vực tình cảm phản ánh quan hệ của cá
nhân đối với hiện thực. Nó được quyết định bởi thế giới quan của cá nhân cho nên cũng phản
ánh tồn tại xã hội, chịu ảnh hưởng của ý thức giai cấp, của tâm lý xã hội, của dư luận và tập đoàn
xã hội. Nó thường không phải là những đáp ứng được biểu lộ một cách rõ ràng hay trực tiếp mà
là những ý nghĩ đang chuyển hoá thành hành động [52].
Các tác giả Xô viết mặc dù có các định nghĩa khác nhau nhưng đều chung một ý là: thái độ
là sự phản ánh ý thức, là sự phản ánh thuộc tính cốt lõi của nhân cách và là một yếu tố định
hướng hành vi xã hội của con người.
Trong tâm lý học phương Tây, vấn đề thái độ được đặt ra lần đầu do hai nhà tâm lý học
người Mỹ là V.I.Thomas và PH.Znanheski (1918) và được nghiên cứu mạnh mẽ vào những năm
30, 50 của thế kỷ này. Họ xem thái độ như là một trong những thuộc tính quan trọng của các vấn
đề xã hội, thái độ là trạng thái tinh thần của cá nhân đối với một giá trị.
Thái độ được hiểu là sự đáp ứng có tính cách đánh giá và đáp ứng thuộc lĩnh vực tình cảm
được đặt trên cơ sở việc áp dụng một số khái niệm có tính đánh giá và chính thái độ làm nảy
sinh động cơ hay các hành vi có chủ đích. Nếu vậy, thái độ nảy sinh bên trong của con người
trước sau đó mới biểu hiện ra bên ngoài và thái độ là sản phẩm của sự đánh giá tâm lý và nhận
thức về đối tượng xuất phát từ nhu cầu của chủ thể.
Nhà tâm lý học xã hội Hoa Kỳ G.V.Onparte thì cho rằng: Thái độ là trạng thái thần kinh và
tâm lý của sự sẵn sàng được tạo ra trên cơ sở kinh nghiệm nó có ảnh hưởng và điều khiển năng
động đến những khách thể và tình huống gắn liền với cá nhân đó.
Theo D.N.Uzanataze cho rằng ”Thái độ là một trạng thái toàn vẹn của chủ thể. Đó là sự
phản ứng cơ bản đầu tiên đối với các tác động của tình huống trong chủ thể phải đặt ra và giải
quyết tình huống”
Qua những khái niệm trên ta thấy rõ các tác giả đều khẳng định khía cạnh tâm lý cá nhân
trong thái độ, thái độ là cái rất riêng của cá nhân như là sự sẵn sàng ổn định của cá nhân hay là
sự sẵn sàng của cơ thể. Thế nhưng, thái độ không chỉ đề cập đến khía cạnh tâm lý cá nhân mà
phải được xem xét trong mối quan hệ với những yếu tố khác như mối quan hệ với người khác và
cả trong mối quan hệ phức tạp và đa dạng của xã hội.
Thực vậy, thái độ không chỉ mang tính chất cá nhân mà còn mang tính xã hội. Thông
thường thái độ mang tính chất riêng tư của cá nhân vì mỗi cá nhân là một chủ thể nhất định,
song chính cá nhân lại tồn tại và sống trong một xã hội nhất định cho nên xã hội đã chi phối rất
rõ thái độ của con người.
Thái độ phải được xem xét dưới khía cạnh xã hội. trong cuốn “Nhập môn tâm lý học xã hội
Mác xít”, M.Hipso đề cập đến thuật ngữ “khuân mẫu thái độ” là một hiện tượng tâm lý xã hội
với tư cách là sự sẵn sàng phản ứng nảy sinh trong những nhóm nhất định và trong những tình
huống cụ thể.
Nhà tâm lý học xã hội Mỹ G.W.Allport cho rằng, “Thái độ là trạng thái sẵn sàng về mặt
tinh thần và thần kinh được tổ chức thông qua kinh nghiệm, điều chỉnh hoặc ảnh hưởng năng
động đến các phản ứng của cá nhân với tất cả các khách thể và tình huống mà nó có mối liên hệ”
và đã tóm tắt thành năm đặc trưng của khái niệm thái độ đó là:

Trạng thái của tinh thần và hệ thần kinh

Biểu hiện sự sẵn sàng hành động

Tính tổ chức (sắp xếp theo thứ bậc, trạng thái có tổ chức)

Hình thành trên cơ sở kinh nghiệm

Gây ảnh hưởng và điều khiển hành vi
Theo Y.Tamat và Znanhieuski khi nghiên cứu về sự thích ứng của người nông dân Balan
di cư thì khái niệm này dùng để chỉ những đặc trưng cá nhân so với đặc trưng xã hội. Thái độ
được coi là trạng thái xúc động của cá nhân đối với các giá trị, ý nghĩa, lý tưởng của đối tượng
xã hội cụ thể hoặc là trạng thái ý thức của cá nhân phù hợp với một số giá trị xã hội.
Nhà tâm lý học Mỹ Newcom cho rằng, thái độ là khuynh hướng hành động, nhận thức, tư
duy, cảm nhận của cá nhân với khách thể có liên quan.
H.C.Trianodis coi “Thái độ là tư tưởng được hình thành từ những cảm xúc gây tác động
đến hành vi nhất định ở một giai cấp nhất định trong những tình huống xã hội. Thái độ của con
người bao gồm những điều người ta suy nghĩ và cảm thấy về đối tượng, cũng như thái độ xử sự
của họ đối với nó.”
R.Marten thì khẳng định, thái độ là xu hướng thường xuyên đối với các tình huống xã hội,
nó biểu thị sự thống nhất của ý nghĩ, tình cảm và hành động. Thái độ của con người có mối quan
hệ chặt chẽ với hành vi, được xác định bằng tình huống thống nhất bên trong.
H.Fillmore cho rằng, thái độ là sự sẵn sàng phản ứng tích cực hay tiêu cực đối với đối
tượng hay các ký hiệu (biểu tượng) của môi trường…thái độ là sự định hướng của cá nhân đến
các khía cạnh khác nhau của môi trường và là cấu trúc có tính động cơ.
J.Traver và cộng sự định nghĩa thái độ là các cảm xúc, tư duy và hành động tương đối lâu
dài đối với sự việc hay con người nào đó.
Như vậy, khái niệm thái độ là một khái niệm mang tính phức tạp. Thái độ con người theo
diện rộng là toàn bộ hệ thống các mối quan hệ có tính phân biệt lựa chọn, có ý thức của nhân
cách đối với các mặt khác nhau của hiện thực khách quan. Hệ thống này là kết quả của toàn bộ
lịch sử phát triển con người. Nó thể hiện kinh nghiệm cá nhân và mặt bên trong quy định thành
hành vi, tâm trạng của con người.

Đặc điểm của thái độ
Đầu tiên là cảm xúc với đối tượng quen thuộc. Tuy thế, vẫn chưa đủ mà thái độ bao gồm cả
ý định và hành động đối xử với một đối tượng nhất định. Đó là mặt trong, mặt chủ quan của thái
độ. Mặt bên trong của thái độ không phải lúc nào cũng thể hiện một cách trọn vẹn, thẳng thắn và
nguyên xi mà có thể bị giấu kín nếu như cảm thấy cần che giấu, khi đó chủ thể sẽ kìm chế, đè
nén và không biểu lộ thái độ của mình.
Thái độ của con người có thể biểu hiện một cách minh thị song cũng có thể được che giấu.
Ngay khi thái độ được biểu hiện thì thái độ cũng có thể biểu hiện một cách chân thực, rõ ràng
nhưng cũng có thể biểu hiện một cách giả dối, không chân thực.
Thái độ mang tính chủ thể nhưng lại mang tính đối tượng khá rõ nét. Đối với con người bao
giờ thái độ cũng là thái độ đối với một đối tượng cụ thể nhất định. Thế nhưng thái độ lại thể hiện
rất rõ nét tính chủ thể vì với cùng một đối tượng nhưng mỗi người lại có thái độ khác nhau, thậm
chí ngay khi con người có thái độ tương đối giống nhau thì cách thức và mức độ biểu hiện cũng
khác nhau
Thái độ mang tính cá nhân nhưng cũng bị chi phối bởi những yếu tố xã hội, dư luận xã hội,
phong tục tập quán…trước khi tỏ thái độ con người thường xem xét những yếu tố xã hội chung
quanh mình xem có cho phép hay không.
Mặt khác thái độ chính là một phần trong biểu hiện tình cảm. Thái độ có thể nói là giai
đoạn nảy sinh trước động cơ song chính thái độ cũng góp phần không nhỏ trong việc hình thành
động cơ và chính nó là giai đoạn định hướng cho động cơ đi đến hành động.
Thái độ thường được phân chia theo hai hướng khác nhau: Thái độ tích cực, thái độ tiêu
cực; Thái độ đúng đắn, thái độ không đúng đắn (thái độ sai lệch). Khi đề cập đến thái độ ta
thường đề cập đến những thuật ngữ như: thích hay không thích, tán thành hay không tán thành, e
ngại hay tự tin…tất cả đều được hiểu là thái độ của một chủ thể đối với một đối tượng nhất định,
đó là một sự vật hiện tượng hoặc một vấn đề hay một con người cụ thể nào đó.

Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành thái độ
– Thái độ được hình thành bởi các thông tin
Thông tin trên các phương tiện: báo, tạp chí, truyền hình, radio, trong đời sống hàng
ngày…đều có thể ảnh hưởng đến việc hình thành thái độ của con người, như vậy khi thông tin
tác động vào chúng ta thì chúng ta thường có thái độ với những thông tin đó. Hệ thống thông tin
được các chủ thể tiếp nhận dưới nhiều góc độ khác nhau, có thông tin làm chủ thể nhận rõ thêm
bản chất của vấn đề và sau đó chủ thể dễ dàng bày tỏ thái độ…
– Thái độ được hình thành trong quá trình thoả mãn nhu cầu
Con người thường hình thành thái độ tích cực với những gì có lợi và hình thành thái độ tiêu
cực với khách thể có hại trong tiến trình thoả mãn nhu cầu của mình. Quá trình thoả mãn nhu
cầu là quá trình chủ thể nỗ lực bản thân, tìm kiếm các phương pháp phù hợp để thoả mãn các
nhu cầu, sau đó cảm xúc sẽ xuất hiện và chủ thể bày tỏ thái độ một cách cụ thể.
– Thái độ được hình thành qua giao tiếp nhóm
Mỗi cá nhân là thành viên của nhiều nhóm khác nhau, thái độ của một người thường phản
ánh giá trị, chuẩn mực, niềm tin của nhóm mà họ là thành viên. Thái độ của các nhóm khác nhau
là do mục đích, tiêu chuẩn của các nhóm khác nhau. Chẳng hạn nhóm hoạt náo viên khác nhóm
thổi kèn đám ma.
Giá trị mà cả nhóm theo đuổi sẽ có ảnh hưởng đến việc hình thành thái độ của các thành
viên trong nhóm đó. Chuẩn mực đó không chỉ xác định hành vi nào là đúng hay sai, hành vi nào
là tốt hay xấu mà còn xác định xem thái độ nào là đúng thái độ nào là sai. Thông qua việc
thưởng phạt và áp lực nhóm, ép cá nhân phải tuân theo. Các nhóm thường đưa ra quy chế thưởng
phạt làm động cơ cho các thành viên. Ai có thái độ, hành vi tốt, đúng thì sẽ được khen ngợi,
được thưởng và ngược lại thì sẽ bị lên án, bị phạt. Trong tâm lý học xã hội đề cao vai trò của
nhóm, nhất là các nhóm: gia đình, bạn bè, đồng nghiệp…có vai trò quan trọng trong việc hình
thành ý thức cá nhân. Tuy nhiên cá nhân tiếp nhận các thái độ trong nhóm một cách có lựa chọn,
không tiếp nhận một cách bị động, mức độ và cách thức tiếp nhận của mỗi thành viên trong
nhóm là khác nhau.
– Thái độ được hình thành qua kinh nghiệm sống
Kinh nghiệm trong cuộc sống sẽ hình thành nên thái độ. Người có nhiều kinh nghiệm sẽ có
thái độ khác so với những người có ít kinh nghiệm mặc dù họ cùng gặp một vấn đề giống nhau.
– Nhân cách cá nhân và sự hình thành thái độ
Cá nhân có xu hướng tiếp nhận các thái độ phù hợp với nhân cách của mình, nhưng nhân
cách của con người thì chưa hẳn là một hệ thống hoàn toàn thống nhất. Chính vì thế mà chúng ta
có thể tiếp nhận các thái độ mâu thuẫn nhau, bởi sự giáo dục khác nhau.
1.2.1.3 Mối tương quan giữa nhận thức và thái độ
Thái độ có liên quan chặt chẽ với nhận thức, thái độ chịu sự chi phối của nhận thức nhưng
cùng lúc đó thái độ lại tác động ngược trở lại đối với nhận thức. Thông thường nếu nhận thức
đúng đắn sẽ có thái độ tích cực, đúng nhưng khi con người có thái độ tích cực đối với một vấn
đề cụ thể thì nhu cầu và hứng thú nhận thức của chủ thể sẽ được nâng lên. Lẽ dĩ nhiên, đây chỉ là
sự tác động xuôi chiều vì nhiều khi con người nhận thức đúng nhưng không hẳn đã có thái độ
tích cực và ngược lại.
Nhận thức và thái độ đều phản ánh hiện thực khách quan và mang tính chủ thể sâu sắc. Tuy
nhiên, giữa nhận thức và thái độ vẫn còn những đặc điểm riêng. Trong khi nhận thức phản ảnh
những thuộc tính và các mối quan hệ của bản thân thế giới, thái độ thể hiện mối quan hệ giữa
các sự vật hiện tượng với nhu cầu, động cơ của con người. Con người thường có thái độ tích cực
khi có những đối tượng nào đó làm thoả mãn nhu cầu, hoặc ngược lại, con người có thái độ tiêu
cực khi có những đối tượng gây trở ngại cho sự thoả mãn nhu cầu.
Nhận thức và thái độ là hai yếu tố tâm lý cơ bản tạo nên cấu trúc của biểu tượng, hành vi
tương ứng với những đối tượng được nhận thức. Trước khi con người có hành vi đáp lại một tác
nhân kích thích nào đó, người ta phải nhận thức, và phân tích sâu sắc nhằm nhận thức được ý
nghĩa, bản chất của kích thích, trên cơ sở đó mà có một phản ứng, một thái độ đáp lại một cách
thích hợp. Vì vậy, ta có thể nói muốn hình thành thái độ, con người phải có nhận thức đúng.
Thái độ thể hiện mối quan hệ với nhu cầu, nguyện vọng đối với đối tượng. Nếu con người
có thái độ tích cực đối với đối tượng nhận thức, nghĩa là họ quan tâm, mong muốn nhận thức đối
tượng một cách sâu sắc thì quá trình nhận thức sẽ diễn ra thuận lợi hơn và hiệu quả hơn. Vì thế
ta có thể nhận xét rằng thái độ tích cực của cá nhân đối với một đối tượng nào đó có tác dụng
thúc đẩy quá trình nhận thức của con người đối với đối tượng đó.
Nhận thức và thái độ có tác động đến nhau, ảnh hưởng lẫn nhau, tạo nên ý thức trọn vẹn ở
mỗi người. Tuy nhiên mỗi thành tố trên đều tương đối độc lập với nhau. Vì thế trong ý thức từng
người, khi xảy ra mâu thuẫn giữa nhận thức và thái độ sẽ gây nên sự không nhất quán trong ý
thức. Chẳng hạn, về nhận thức ta hiểu đúng ý nghĩa và sâu sắc về đối tượng nhưng về thái độ ta
lại không có thái độ đúng đắn. Hoặc ngược lại, đôi khi một cá nhân ngẫu nhiên có thái độ đúng
với một hiện tượng nào đó nhưng lại bị hạn chế về mặt nhận thức.
Nhận thức và thái độ có vai trò quan trọng trong quá trình tự ý thức và hình thành tự ý thức.
Trên cơ sở nhận thức được bản chất, con người có những thái độ trân trọng đối với những giá trị
nhân cách và đồng thời có thái độ tự phê phán, tự xoá bỏ những nhược điểm về nhân cách của
mình. Chính lúc này quá trình tự nhận thức phát triển thành tự ý thức
1.2.2 THANH NIÊN SINH VIÊN
1.2.2.1 Đặc điểm lứa tuổi thanh niên sinh viên
Tuổi thanh niên sinh viên được xác định trong khoảng từ 18 đến 25 tuổi vì đây là độ tuổi
quy định trong tuyển sinh vào cao đẳng, đại học của Bộ Giáo dục và Đào tào. Mặt khác, vì mốc
bắt đầu tuổi sinh viên là 18 nên sinh viên được xếp vào tuổi thanh niên muộn hay được xem là
sự bắt đầu của tuổi người lớn. Tuổi sinh viên là độ tuổi trưởng thành về mặt sinh học cũng như
cả về mặt xã hội. Ở lứa tuổi này nhân cách của các em có những dấu hiệu của người trưởng
thành.
Sự phát triển thể chất: Do sinh viên ở trong độ tuổi chuyển tiếp từ giai đoạn cuối tuổi thanh
niên sang đầu giai đoạn tuổi trưởng thành nên đây là giai đoạn phát triển ổn định, đến 24, 25 tuổi
con người đang hoàn tất về sự phát triển về thể chất.
Sự phát triển tâm lý: Bước sang tuổi sinh viên, các chức năng tâm lý cũng có nhiều thay
đổi, đặc biệt trong lĩnh vực phát triển trí tuệ, khả năng tư duy. Các công trình nghiên cứu tâm lý
học cho rằng lứa tuổi thanh niên sinh viên hoạt động tư duy rất tích cực và có tính độc lập, tư
duy lý luận phát triển mạnh, có khả năng khái quát các vấn đề nhờ đó mà tự mình phát hiện ra
cái mới, sự phát triển mạnh của tư duy lý luận liên quan chặt chẽ với khả năng sáng tạo.
Về mặt xã hội: Khi các mối quan hệ của sinh viên được mở rộng thì các em hình thành
những hứng thú và thái độ mới, quan tâm nhiều hơn đến việc phát triển những kỹ năng mới,
cách ứng xử mới, tác phong đĩnh đạc để đối diện với môi trường xã hội ngày một mở rộng.
Sinh viên là giai đoạn chuyển từ sự chín muồi về thể lực sang trưởng thành về mặt phương
diện xã hội. Theo nghiên cứu của Ananhev cho thấy lứa tuổi sinh viên là thời kỳ phát triển tích
cực nhất về tình cảm đạo đức và thẩm mỹ, là giai đoạn hình thành và ổn định tính cách, đặc biệt
là họ có vai trò xã hội của người lớn (quyền công dân, quyền xây dựng gia đình…). Sinh viên có
kế hoạch riêng cho hoạt động của mình và độc lập trong phán đoán và hành vi, đây là thời kỳ có
nhiều biến đổi mạnh mẽ về động cơ, về thang giá trị xã hội. Họ xác định con đường sống trong
tương lai, tích cực quan tâm tới nghề nghiệp và bắt đầu thể nghiệm mình trong mọi lĩnh vực của
cuộc sống.

1.2.2.2 Các hoạt động cơ bản của thanh niên sinh viên
Đặc điểm hoạt động học tập
Hoạt động học tập của sinh viên hướng vào việc hình thành và phát triển hoàn thiện nhân
cách người học trong các lĩnh vực nghề nghiệp tương ứng. Vì vậy học tập của sinh viên mang
tính đặc trưng của hoạt động nghề nghiệp tương lai. Trình độ học vấn của của sinh viên được
xác định là trình độ chuyên môn nghề nghiệp. Việc học tập trong trường có một ý nghĩa rõ rệt,
cụ thể xem như một dạng hoạt động lao động. Mục đích học tập chuyên nghiệp của sinh viên là
chiếm lĩnh hệ thống các kiến thức, kỹ năng và thái độ nghề nghiệp nhằm hình thành những phẩm
chất của người chuyên gia tương lai. Vì vậy trong qúa trình học tập, sinh viên phải xây dựng cho
mình vốn hành trang trí tuệ và nhân cách đáp ứng yêu cầu nghề nghiệp sau này.
Tính độc lập cao trong học tập: Do yêu cầu của việc đào tạo nên việc học tập của sinh viên
đòi hỏi mức độ độc lập trí tuệ cao. Sinh viên phải tự ý thức đầy đủ về hoạt động học tập của bản
thân, là sự giác ngộ bản thân về mục đích học tập cũng như định hướng rõ vị trí của mình trong
thế giới người lớn do đó sinh viên phải là chủ thể của hoạt động học tập, là người tổ chức, định
hướng và kiểm tra quá trình học tập đồng thời cũng là một chủ thể có trách nhiệm của các hoạt
hộng xã hội với tư cách là một công dân.
Quá trình học tập của sinh viên nhằm xây dựng phương pháp học tập nghiên cứu khoa học
độc lập, tự chủ. Sở dĩ sinh viên có khả năng độc lập cao trong hoạt động học tập là do kết quả
phát triển tương đối hoàn thiện của các chức năng tâm sinh lí của lứa tuổi này. Sự trưởng thành
về trí tuệ, tư duy logic, thế giới quan và nhân sinh quan là cơ sở của sự phát triển độc lập cao ở
sinh viên
Tính sáng tạo: Sinh viên được lĩnh hội một khối lượng kiến thức rất lớn bao gồm các kiến
thức về lĩnh vực chuyên môn, chuyên ngành và kiến thức khoa học cơ bản nên đòi hỏi rất cao ở
tính sáng tạo của sinh viên. Sinh viên phải tự chủ trong việc tổ chức các hoạt động tự học, tự
nghiên cứu của mình cũng như tự hình thành những phương pháp học tập tích cực sáng tạo để
chiếm lĩnh tri thức và kinh nghiệm làm hành trang cho tương lai khi gia nhập vào hoạt động
nghề nghiệp. Hoạt động học tập của sinh viên hiện nay được đặt ở vị trí rất quan trọng theo yêu
cầu của Luật Giáo Dục “Phát huy tính tích cực, tự giác, chủ đông, tư duy sáng tạo của người
học, bồi dưỡng năng lực tự học, say mê học tập với ý trí vươn lên”[21, tr.9] Tính thực tiễn: Trong bối cảnh xã hội hiện nay, những yêu cầu của giáo dục đào tạo nâng
cao chất lượng đào tạo sinh viên, đào tạo cho sinh viên có thái độ học tập với tính năng động,
sáng tạo cao. Mặt khác để đáp ứng đòi hỏi thực tiễn, sinh viên phải chủ động nâng cao nghiệp vụ
chuyên môn, ngoại ngữ, tin học…để trang bị kiến thức làm hành trang cho nghề nghiệp tương
lai.
Sinh viên phải học cách học, làm chủ qúa trình tự học của bản thân, nghiên cứu khoa
học…làm cơ sở tiền đề của việc học suốt đời của mỗi cá nhân. Trong xu thế thời đại ngày nay,
sinh viên thực sự học tập vì cuộc sống, vì nghề nghiệp tương lai của bản thân. Sinh viên tự điều
khiển quá trình học tập, biến qúa trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo, biết kết hợp quá trình
cá nhân hóa với qúa trình xã hội hóa trong học tập của bản thân nhằm đạt tới việc đáp ứng yêu
cầu nghề nghiệp, nhạy bén với thị trường, chủ động gia nhập vào các hoạt động nghề nghiệp với
những công việc làm thêm bước đầu tích lũy kinh nghiệm gia nhập vào thị trường lao động trong
tương lai.
Một số hoạt động khác của sinh viên
Hoạt động chính trị – xã hội: Đây là hoạt động đặc trưng của sinh viên, sinh viên là những
người có trí tuệ nhạy bén, mẫn cảm đối với tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của quốc gia, quốc
tế.
Sinh viên cũng là những người tích cực tham gia vào các hoạt động khác mang tính chất
giải trí, vui chơi phù hợp với năng khiếu và sở thích cá nhân như các câu lạc bộ văn học, nghệ
thuật, thể dục thể thao, câu lạc bộ ngoại ngữ…hay các cuộc thi về nghiệp vụ nghề nghiệp được
Đoàn trường và các cơ quan tổ chức cũng luôn hấp dẫn và lôi cuốn sự tham gia của nhiều sinh
viên.
1.2.2.3 Một số phẩm chất nhân cách của sinh viên
Sinh viên là lứa tuổi đẹp nhất trong đời người, có sức khỏe, có khả năng sáng tạo và có tính
độc lập cao. Trong những năm học ở trường được xem là thời kỳ chuyển tiếp cho việc chuẩn bị
độc lập tham gia vào các cộng đồng xã hội và hoạt động nghề nghiệp ổn định trong tương lai, do
đó các em vẫn còn chịu sự tác động giáo dục của gia đình, nhà trường và xã hội, mặt khác ở bản
thân các em cũng cần có sự tự giáo dục và rèn luyện nhân cách bản thân để đáp ứng các yêu cầu
nghề nghiệp trong tương lai.
Sinh viên chưa có vị trí độc lập chính thức trong các tổ chức lao động xã hội, các em đang
tích cực rèn luyện cả về phẩm chất và năng lực nghề nghiệp bằng cách tự rèn luyện, nỗ lực học
tập dưới sự hướng dẫn của giảng viên và bước đầu các em cũng trải nghiệm qua hoạt động thực
tiễn như tham gia các cuộc thi nghiệp vụ chuyên môn hoặc làm thêm để tiếp cận dần với nghề
nghiệp qua công tác thực tế chứ không phải là chỉ dừng ở việc học lý thuyết suông. Nhân cách
của sinh viên phát triển khá toàn diện và phong phú với những đặc điểm, đặc trưng như sau:
Đặc điểm về tự đánh giá, tự ý thức, tự giáo dục của sinh viên:
Tự đánh giá là một trong những phẩm chất quan trọng, một trình độ phát triển cao của
nhân cách. Tự đánh giá có ý nghĩa định hướng, điều chỉnh hoạt động, hành vi của chủ thể nhằm
đạt mục đích, lý tưởng sống một cách tự giác. Tự đánh giá ở lứa tuổi sinh viên là một hoạt động
nhận thức, trong đó đối tượng nhận thức chính là bản thân chủ thể, là quá trình chủ thể thu thập,
xử lý thông tin về chính mình, chỉ ra những tồn tại ở bản thân từ đó có thái độ, hành vi, hoạt
động phù hợp nhằm tự điều chỉnh, tự giáo dục để hoàn thiện và phát triển nhân cách.
Đặc điểm tự đánh giá của sinh viên mang tính chất toàn diện và sâu sắc, biểu hiện cụ thể
của nó là sinh viên không chỉ đánh giá hình ảnh bản thân mình ở hình thức bên ngoài mà còn đi
sâu vào các phẩm chất, các giá trị của nhân cách. Tự đánh giá của họ không chỉ trả lời câu hỏi:
Tôi là ai? Mà còn đi sâu vào các nội dung liên quan đến bản thân họ như: Tôi là người như thế
nào? Tôi có những phẩm chất gì? Tôi có xứng đánh không?…Hơn thế họ còn có khả năng lý giải
và trả lời câu hỏi: Tại sao tôi là người như thế?
Những cấp độ ở trên mang yếu tố phê phán, phân tích rõ rệt. Vì vậy tự đánh giá của sinh
viên có ý nghĩa tự ý thức và tự giáo dục cao. Tự ý thức là một trình độ phát triển cao của ý thức,
nó giúp sinh viên có hiểu biết về thái độ, hành vi cử chỉ của mình để chủ động hướng hoạt động
của mình đi theo những yêu cầu đòi hỏi của tập thể, của cộng đồng xã hội. Tự giáo dục là mức
độ phát triển cao trong nhận thức của sinh viên nhằm rèn luyện mình theo những mục đích và kế
hoạch cuộc đời. Nghiên cứu tự đánh giá, tự ý thức của sinh viên cho thấy mức độ phát triển của
những phẩm chất nhân cách này có liên quan đến trình độ học lực, hình ảnh cái tôi cũng như kế
hoạch sống tương lai của sinh viên. Việc khám phá hình ảnh cái tôi không đơn giản chỉ phụ
thuộc vào trình độ nhận thức của sinh viên mà còn là tâm thế xã hội, thái độ của cá nhân đối với
chính bản thân mình, bao gồm 3 yếu tố phụ thuộc lẫn nhau đó là: Nhận thức, xúc cảm và hành
vi. Nhận thức về hình ảnh cái tôi chính là hiểu biết về bản thân, biểu tượng về những phẩm chất
và thuộc tính của mình. Xúc cảm về cái tôi thể hiện ở sự đánh giá về những phẩm chất và lòng
tự ái có liên quan tới những đánh giá ấy, lòng tự trọng và tình cảm khác. Hành vi là thái độ thực
tế đối với bản thân xuất phát từ hai yếu tố nói trên.
Như vậy những phẩm chất nhân cách như tự đánh giá, lòng tự trọng, tự tin, tự ý thức đều
phát triển mạnh mẽ ở tuổi sinh viên. Những phẩm chất nhân cách bậc cao này có ý nghĩa lớn đối
với việc tự giáo dục, tự rèn luyện và hoàn thiện bản thân theo hướng tích cực của những trí thức
tương lai.
1.2.2.4 Nhận thức và thái độ của sinh viên đối với nghề nghiệp

Nhận thức, thái độ của SV đối với NN
Với sinh viên, những ước mơ, hoài bão, những lý tưởng của tuổi thanh xuân dần được hiện
thực hóa, được điều chỉnh trong quá trình học tập ở trường. Tính viển vông, viễn tưởng của
những điều trừu tượng, xa vời trước đây nhường chỗ cho những kế hoạch đường đời cụ thể. Do
việc học ở cao đẳng, đại học để trở thành người có nghề nghiệp đã được xác định rõ ràng. Ý thức
sau này sẽ làm việc ở đâu? làm như thế nào? triển vọng phát triển của nghề ra sao?…là những
điều SV phải lưu tâm. Các em cũng nhìn nhận các vấn đề của cuộc sống tích cực và thực tế hơn,
thừa nhận thành công trong cuộc sống là do sự nỗ lực của bản thân hơn là sự phụ thuộc hay do
số phận may rủi nào đó. Họ không chỉ đặt ra kế hoạch đường đời của mình mà còn tìm cách để
thực thi kế hoạch đó theo những cách thức nhất định. Nhiều sinh viên ngay khi còn ngồi trên ghế
giảng đường đã có kế hoạch riêng để đạt được mục đích đời mình. Họ không ngần ngại tìm
những việc làm thêm để có cơ hội va chạm cuộc sống thực tế, tích lũy kinh nghiệm để tạo điều
kiện thuận lợi cho nghề nghiệp của mình sau này.
Xem xét một số định hướng nghề nghiệp của sinh viên cho thấy, động cơ chọn nghề của
sinh viên trong vài năm gần đây rất thực tế và lành mạnh.
Như vậy sinh viên là lứa tuổi đạt đến độ phát triển sung mãn của đời người, họ là lớp người
giàu nghị lực, ước mơ và hoài bão. Tuy nhiên, do quy luật phát triển không đồng đều về mặt tâm
lý, do những điều kiện và hoàn cảnh sống, điều kiện giáo dục không giống nhau nên không phải
bất cứ sinh viên nào cũng phát triển ở mức tối ưu. Điều này phụ thuộc rất nhiều vào những tình
huống đúng đắn cũng như tính tích cực hoạt động của bản thân mỗi sinh viên. Các em chịu sự
chi phối của thế giới quan và nhân sinh quan rất rõ nét.
 Mối tương quan giữa nhận thức, thái độ và hành động của SV đối với NN
Nhận thức, thái độ là cơ sở và điều kiện để SV học tập và rèn luyện phẩm chất đạo đức
chuẩn bị cho NN tương lai. Trong đời sống tâm lý của con người, nhận thức, thái độ, tình cảm là

Đánh giá post

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *