10190_KLTNĐH – Thực trạng và giải pháp để phát triển khu vực kinh tế

luận văn tốt nghiệp

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

ĐỀ ÁN KINH TẾ CHÍNH TRỊ
THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ
PHÁT TRIỂN KHU VỰC KINH TẾ TƯ BẢN
TƯ NHÂN
Đề án Kinh tế chính trị

LỜI MỞ ĐẦU

Hiện nay, chúng ta đang ở trong giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
đây là thời kỳ chuyển tiếp từ nền kinh tế cũ lạc hậu lên nền kinh tế mới xây
dựng công hữu. Do đó đòi hỏi cần phải tập trung phát triển nền kinh tế thị
trường với sự đa dạng hoá các hình thức sở hữu và các thành phần kinh tế. Vì
có như vậy mới đưa đất nước thoát khỏi tình trạng nghèo nàn lạc hậu và bắt
kịp với tốc độ phát triển của các nước trong khu vực và trên thế giới. Tuy
nhiên, để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội thì chúng ta không đơn
thuần tập trung phát triển nền kinh tế thị trường thuần tuý mà phải đặt dưới sự
lãnh đạo tài tình sáng suốt của Đảng “phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Với vai trò quan trọng “kinh tế tư bản tư nhân có khả năng đóng góp
vào công cuộc xây dựng đất nước, khuyến khích tư nhân đầu tư vào sản xuất,
yên tâm làm ăn lâu dài, bảo hộ quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp tạo điều kiện
thuận lợi đi đôi với tăng cường quản lý, hướng dẫn làm ăn đúng pháp luật có
lợi cho quốc kế dân sinh” – Báo cáo chính trị tại Đại hội VIII của Đảng. Tuy
nhiên, trong quá trình phát triển, kinh tế tư bản tư nhân ở nước ta đã bộc lộ
những hạn chế, yếu kém và phải đương đầu với nhiều thách thức và khó khăn
về môi trường kinh doanh, năng lực cạnh tranh, trình độ công nghệ, chất
lượng, giá thành sản phẩm. Một số doanh nghiệp vốn lớn, công nghệ tiên tiến,
còn phần lớn vẫn là doanh nghiệp có quy mô nhỏ, vốn ít, công nghệ sản xuất
lạc hậu, trình độ quản lý doanh nghiệp còn yếu kém, hiệu quả và sức cạnh
tranh trên thị trường yếu; thêm vào đó là những khó khăn vướng mắc về vốn,
về mặt bằng sản xuất, kinh doanh, về khả năng tiếp cận và xử lý thông tin về
môi trường pháp lý…
Vì thế, kinh tế tư bản tư nhân có khả năng đóng góp vào công cuộc xây
dựng đất nước như huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn, giải quyết và
tạo công ăn việc làm cho một lực lượng lớn lao động, tăng nguồn thu cho
Đề án Kinh tế chính trị

ngân sách. Bên cạnh những mặt tích cực khu vực kinh tế tư bản tư nhân ở
nước ta bộc lộ những yếu kém, hạn chế đòi hỏi phải có sự can thiệp từ phía
Nhà nước về các chính sách
Nguyên nhân khiến tốc độ phát triển của khu vực kinh tế tư bản tư nhân
chưa đáp ứng được những đòi hỏi của sự phát triển kinh tế xã hội ở nước ta
giai đoạn hiện nay được nêu rõ tại Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban chấp
hành Trung ương khoá IX “Một số cơ chế, chính sách của Nhà nước chưa phù
hợp với đặc điểm của kinh tế tư bản tư nhân mà đại bộ phận có quy mô nhỏ
và vừa; quản lý có phần buông lỏng và có những sơ hở, hạn chế việc thúc đẩy
kinh tế tư bản tư nhân phát triển đúng hướng”.
Để có thể phát huy những lợi thế của khu vực kinh tế tư bản tư nhân và
hạn chế đến mức thấp nhất những khuyết tật vốn có, Đảng và Nhà nước phải
có sự đổi mới cơ chế chính sách để thúc đẩy phát triển của kinh tế tư bản tư
nhân. Bài viết này nêu lên: “Thực trạng và một số giải pháp để phát triển khu
vực kinh tế tư bản tư nhân” làm nội dung chính của đề án kinh tế chính trị của
em.
Đề án Kinh tế chính trị

CHƯƠNG I
LÝ LUẬN VỀ CÁC THÀNH PHẦN KINH TẾ VÀ TƯ BẢN TƯ NHÂN

I. HỌC THUYẾT MÁC – LÊNIN VỀ CÁC THÀNH PHẦN KINH TẾ
Từ khi bước vào công cuộc đổi mới chuyển từ nền kinh tế tập trung
quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường, chúng ta đã đạt được một số
thành tựu đáng kể. Trong đó phải nói đến vai trò của khu vực kinh tế tư bản tư
nhân đã góp phần đáng kể trong việc tạo ra công ăn việc làm, tăng nguồn thu
cho ngân sách. Sau khi luật doanh nghiệp có hiệu lực 1/1/2000, kinh tế tư bản
tư nhân phát triển mạnh mẽ là điều kiện quan trọng thúc đẩy sự phát triển nền
kinh tế trong nước, nâng cao vị thế của Việt Nam lên so với khu vực. Tuy
nhiên, xét về nguồn gốc hình thành và quy mô hoạt động của đại bộ phận
doanh nghiệp tư nhân (DNTN) còn mới, quy mô nhỏ. Vậy trong quá trình hội
nhập, kinh tế tư bản tư nhân nên phát triển như thế nào? Đó là vấn đề cần có
những dự báo đúng đắn để Đảng và Nhà nước có căn cứ khoa học ra các
quyết định chủ trương chính sách cho phù hợp.
Dự báo đúng được xu thế vận động và phát triển của khu vực kinh tế tư
bản tư nhân trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta thì cần dựa
trên các luận cứ khoa học. Mà nền tảng tư tưởng của Đảng ta là học thuyết
Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; do đó, luận cứ khoa học trước hết phải
là lý luận học thuyết của Mác – Lênin về các thành phần kinh tế.
Ngay từ khi mới ra đời, chủ nghĩa Mác – Lênin khẳng định sự phát triển
của các hình thái kinh tế – xã hội có thể coi là một quá trình lịch sử tự nhiên.
Vì vậy, sự vận động của các hình thái kinh tế xã hội là một quá trình khách
quan dưới tác động của những quy luật nhất định và chỉ có thể đánh giá đúng
xu thế vận động của các hiện tượng kinh tế – xã hội khi đặt nó trong quy luật
chung của sự phát triển các hình thái kinh tế xã hội đó. Trong đó, chúng ta
phải xét đến hai nguyên lý về sự vận động và phát triển cần tính đến khi
Đề án Kinh tế chính trị

nghiên cứu xu hướng vận động của kinh tế tư bản tư nhân trong cơ cấu kinh
tế nhiều thành phần.
Thứ nhất, đó là quy luật về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất. Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nước ta chưa
thể có ngay lực lượng sản xuất hiện đại với trình độ xã hội hoá cao nên hệ
thống quan hệ sản xuất phù hợp là cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với sự đa
dạng về hình thức sở hữu. Đó chính là cơ sở khách quan của sự tồn tại của
kinh tế tư bản tư nhân .
Thứ hai, là lý luận về cơ cấu sản xuất kinh tế quyết định cơ cấu xã hội,
giai cấp của xã hội tương ứng và vai trò vị trí của nó. Như ở nước ta trong giai
đoạn hiện nay, khi kinh tế tư bản tư nhân đang có điều kiện phát triển mạnh
thì tầng lớp chủ doanh nghiệp sẽ có vị trí xứng đáng tương ứng trong cơ cấu
xã hội giai cấp.
Qua học thuyết của Mác – Lênin về các quy luật, nguyên lý về sự vận
động và phát triển của các hình thái kinh tế xã hội, ta đem áp dụng và tìm hiểu
thành phần kinh tế tư bản tư nhân ở Việt Nam.
II. KINH TẾ TƯ BẢN TƯ NHÂN TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
1. Khái niệm về kinh tế tư bản tư nhân
Nói đến kinh tế tư bản tư nhân là thực chất nói đến khu vực kinh tế tư
bản tư nhân , về quan hệ sở hữu gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản
tư nhân. Xét về mặt lý luận thì kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư
nhân có khác nhau về trình độ phát triển lực lượng sản xuất và bản chất quan
hệ sản xuất. Nhưng trên thực tế, việc phân định rạch ròi ranh giới kinh tế cá
thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân là không đơn giản. Hai thành phần kinh
tế này luôn có sự vận động, phát triển, biến đổi không ngừng và chịu sự ảnh
hưởng của các yếu tố thời đại, đặc điểm ngành nghề, lĩnh vực sản xuất….
Để có thể hiểu rõ hơn về khu vực kinh tế tư bản tư nhân ta đi tìm hiểu
xem khái niệm của nó là gì? Kinh tế cá thể là thành phần kinh tế tư hữu mà
Đề án Kinh tế chính trị

thu nhập dựa hoàn toàn vào lao động và vốn của bản thân và gia đình. Thành
phần kinh tế cá thể được quy định bởi trình độ phát triển thấp và sản xuất nhỏ
bé. Kinh tế tiểu chủ cũng là hình thức kinh tế tư hữu nhưng có thuê lao động,
tuy nhiên thu nhập vẫn chủ yếu dựa vào sức lao động và vốn của bản thân và
gia đình Kinh tế tư bản tư nhân là thành phần kinh tế mà sản xuất kinh doanh
dựa trên cơ sở chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và bóc
lột lao động làm thuê.
Nếu muốn có cái nhìn đầy đủ hơn về khu vực kinh tế này, chúng ta cần
tìm hiểu thêm về quá trình hình thành và phát triển của khu vực kinh tế tư bản
tư nhân .
2. Quá trình hình thành và phát triển của khu vực kinh tế tư bản tư
nhân .
Ngay từ những năm đầu của quá trình hình thành học thuyết của mình,
Mac đã cho rằng chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội tất yếu phải trải qua
một thời kỳ quá độ. Thời kỳ này xét về mặt kinh tế sẽ tồn tại đan xen những
kết cấu kinh tế xã hội khác nhau. Thích ứng với thời kỳ đó là nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần với một cơ cấu xã hội nhiều giai cấp, giai tầng có mâu
thuẫn gay gắt về lợi ích kinh tế, song thống nhất trong mục tiêu vận động. Từ
đó chúng ta phải có những thái độ đúng đắn trong nhìn nhận về kinh tế tư bản
tư nhân và nhận rõ triển vọng phát triển của kinh tế tư bản tư nhân trong cơ
cấu kinh tế nhiều thành phần.
Ngay sau khi cách mạng tháng tám 1945 thành công, nhận định về vai
trò của kinh tế tư bản tư nhân ở Việt Nam lúc bấy giờ, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã tuyên bố “…để giành lấy nền hoàn toàn độc lập của nước nhà thì giới
công – thương phải hoạt động để xây dựng một nền kinh tế và tài chính vững
vàng và thịnh vượng. Chính phủ nhân dân và tôi sẽ tận tâm giúp đỡ giới công
– thương trong cuộc kiến thiết này”. Sau khi cuộc kháng chiến 9 năm kết thúc
, năm 1951, miền Bắc bước vào thời kỳ cải tạo xã hội chủ nghĩa và phát triển
kinh tế theo mô hình kế hoạch hoá tập trung. Kinh tế tư bản tư nhân bị hạn
Đề án Kinh tế chính trị

chế, bị cải tạo và dần dần bị xoá bỏ vì nó được coi là “hàng ngày hàng giờ ”
đẻ ra chủ nghĩa tư bản nên luôn là đối tượng của cải tạo xã hội chủ nghĩa và
không được khuyến khích phát triển. Sau thời kỳ khủng hoảng kinh tế ở nước
ta, tại Đại hội Đảng VI với đường lối đổi mới toàn diện đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, trước hết là đổi mới tư duy với tinh thần “nhìn thẳng
vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”, Đảng ta đã thừa nhận “sai
lầm trong bố trí cơ cấu kinh tế” và “trong nhận thức cũng như trong hành
động, chúng ta chưa thực sự thừa nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở
nước ta còn tồn tại trong một thời gian tương đối dài”. Theo đó thừa nhận sự
tồn tại khách quan của kinh tế tư bản tư nhân bao gồm kinh tế tiểu sản xuất
hàng hoá, tiểu thương, tư sản nhỏ. Tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới đã
được đề ra từ Đại hội VI, tại Đại hội Đảng VIII tư tưởng quan điểm và chủ
trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần đã được khẳng định rõ: lấy
việc giải phóng sức sản xuất động viên tối đa mọi nguồn lực bên trong và bên
ngoài cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nâng cao hiệu qủa kinh tế
xã hội, cải thiện đời sống nhân dân là mục tiêu hàng đầu trong việc khuyến
khích các thành phần kinh tế. Kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo cùng các
kinh tế khác góp phần xây dựng nền kinh tế nước nhà, trong đó kinh tế tư bản
tư nhân được xác định là thành phần kinh tế quan trọng. Với quan niệm đó,
trên thực tế, Đảng và Nhà nước ta đã cố gắng tạo điều kiện về kinh tế và pháp
lý thuận lợi để các nhà đầu tư tư nhân yên tâm làm ăn lâu dài thông qua việc
xúc tiến mạnh mẽ quá trình lập pháp, tạo cơ sở pháp lý cho sự phát triển kinh
tế thị trường nhiều thành phần và kinh tế tư bản tư nhân nói riêng. Năm 1990
ban hành Luật Công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân. Hiến pháp 1992 đã ban
hành khẳng định vai trò hợp hiến của kinh tế tư bản tư nhân và tư bản tư
nhân. Hiến pháp sửa đổi bổ sung 2001 đã nêu ” doanh nghiệp thuộc mọi thành
phần kinh tế được liên doanh, liên kết với cá nhân, tổ chức kinh tế trong và
ngoài nước theo quy định của pháp luật” và trong 15 năm qua đã liên tục ban
hành và hoàn thiện hệ thống luật dân sự, luật kinh tế và kinh doanh. Đạo luật
Đề án Kinh tế chính trị

doanh nghiệp đã đi vào cuộc sống rất nhanh tạo ra bước phát triển đột biến
của kinh tế tư bản tư nhân .
Tuy nhiên, không thể phát triển kinh tế tư bản tư nhân một cách độc
lập, không thể vì các khuyết điểm của mô hình phát triển mạnh các doanh
nghiệp quốc doanh kể cả trong nông nghiệp và trong mọi lĩnh vực thì tư nhân
hoá hoàn toàn khu vực doanh nghiệp quốc doanh. Bởi lẽ, trong một số lĩnh
vực doanh nghiệp tư nhân không muốn kinh doanh do lợi nhuận thấp, thời
gian thu hồi vốn lâu hoặc họ không thể làm được vì các ngành đó đòi hỏi
lượng vốn lớn, trình độ khoa học công nghệ ví dụ như xây dựng cơ sở vật
chất hạ tầng (điện, nước, mạng lưới đường giao thông…) phục vụ cho công
nghiệp hoá, hiện đại hoá. Do đó, để phát triển được nền kinh tế tổng thể đòi
hỏi phải phát triển mạnh khu vực doanh nghiệp quốc doanh để làm đầu tàu
cho nền kinh tế,yểm trợ cho các doanh nghiệp nhỏ của khu vực kinh tế tư bản
tư nhân . Tuy vậy, khu vực doanh nghiệp Nhà nước chỉ nên tập trung phát
triển các ngành mũi nhọn chứ không phải tập trung sản xuất kinh doanh tất cả
các mặt hàng thuộc các lĩnh vực khác nhau như trong thời kỳ tập trung quan
liêu bao cấp. Trong thời kỳ đó, sự sản xuất dưới sự chỉ đạo chung thống nhất
của Nhà nước thông qua các chỉ tiêu và kế hoạch. Chính vì thế dẫn đến sự trì
trệ, đói nghèo trong một thời gian tương đối dài sau khi chúng ta giành được
độc lập. Để có thể tăng khả năng sáng tạo cũng như cạnh tranh của các doanh
nghiệp Nhà nước, Nhà nước thực hiện chính sách cổ phần hoá các doanh
nghiệp Nhà nước chính là đa dạng hoá các hình thức sở hữu. Điều này khiến
cho các doanh nghiệp chủ động kinh doanh với chế độ tự chịu trách nhiệm
bằng lợi ích của chính mình nên phát huy được mọi sự sáng tạo trong kinh
doanh của các doanh nghiệp.
Theo Đại hội IX, khu vực kinh tế tư bản tư nhân đã đạt bước mới về
hoàn thiện chính sách, khẳng định cơ cấu kinh tế thị trường nhiều thành phần
định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó kinh tế tư bản tư nhân là bộ phận quan
trọng. Đại hội đã khẳng định “Thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh
Đề án Kinh tế chính trị

tế nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là
bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế định hướng xây dựng chủ nghĩa
cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh”. Kinh tế cá thể, tiểu
chủ được xác định là có vị trí quan trọng lâu dài. Kinh tế tư bản tư nhân được
khuyến khích phát triển thông qua việc tạo môi trường kinh doanh thuận lợi
về chính sách trên những định hướng ưu tiên của Nhà nước, kể cả đầu tư ra
nước ngoài.
Qua đó ta thấy từ Đại hội VI đến nay, nhận thức của Đảng ta về vị trí và
vai trò của kinh tế tư bản tư nhân trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần đã có bước phát triển mới. Kinh tế tư bản tư nhân được thừa nhận là bộ
phận cấu thành hữu cơ quan trọng của nền kinh tế định hướng xã hội chủ
nghĩa phát triển kinh tế tư bản tư nhân là vấn đề có tầm chiến lược lâu dài
trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế. Không chỉ thay đổi nhận
thức Đảng và Nhà nước còn xây dựng và hoàn thiện thể chế phù hợp cho sự
phát triển nền kinh tế nói chung kinh tế tư bản tư nhân nói riêng. Tuy nhiên
đây mới chỉ là giai đoạn tìm tòi đổi mới. Về lâu dài, muốn phát triển khu vực
tư nhân bền vững và mạnh cần phải có một chính sách quản lý vĩ mô thích
hợp, đặc biệt là chính sách này phải đảm bảo cho khu vực tư nhân có khả
năng đạt lợi nhuận khá.
3.Vai trò của khu vực kinh tế tư bản tư nhân trong sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
* Kinh tế tư bản tư nhân đóng góp các nguồn lực vào sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Là một bộ phận hợp thành cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, kinh tế tư
bản tư nhân đã góp phần khai thác tổng thể các nguồn lực kinh tế quốc gia
thông qua việc huy động nguồn vốn trong xã hội cho đầu tư phát triển, đồng
thời sử dụng hiệu quả các nguồn nhân lực, công nghệ. Với vai trò quan trọng
trong việc huy động nguồn vốn trong xã hội cho đầu tư phát triển, khu vực tư
nhân đã huy động nguồn vốn tăng liên tục trong những năm qua.Theo ước
Đề án Kinh tế chính trị

tính, từ khi luật doanh nghiệp ra đời tính từ 2000 đến 7/2003, tổng vốn các
doanh nghiệp đạt 145.000 tỷ đồng cao gấp 4 lần so với tổng vốn đầu tư của
doanh nghiệp tư nhân 9 năm trước cộng lại. Cũng thời gian đó, tỷ trọng vốn
đầu tư của kinh tế tư bản tư nhân trong tổng vốn đầu tư tăng lên nhanh chóng
từ 20% năm 2000 lên 25% năm 2001, lên 25,3% năm 2002, 27% năm 2003.
Với bản tính nhạy cảm trong kinh doanh và mục đích doanh lợi, kinh tế tư
bản tư nhân luôn tìm cơ hội đầu tư, do đó ngoài vốn tự tích luỹ, các chủ
doanh nghiệp tư nhân tìm mọi biện pháp linh hoạt và hiệu quả để huy động
vốn từ nhiều nguồn góp phần làm phong phú hoá thị trường tài chính và đầu
tư. Với sự phát triển nhanh chóng và đa dạng, kinh tế tư bản tư nhân đã thu
được một kết quả đáng kể đóng góp vào ngân sách Nhà nước ngày càng tăng.
Theo số liệu thống kê của Tổng cục thuế, khu vực kinh tế tư bản tư nhân đã
nộp vào ngân sách năm 2000 là 11003 tỷ đồng, chiếm 16,1% tổng thu ngân
sách, năm 2001 nộp 11075 tỷ đồng chiếm 14,8% tổng thu ngân sách. Ngoài
ra, các doanh nghiệp tư nhân còn thực hiện nhiều chương trình như đóng góp
cho quỹ chất độc màu da cam, quỹ người nghèo, ủng hộ cho việc xây dựng
các công trình công cộng như cầu, đường, nhà tình nghĩa, trường học, trạm
xá…
Lao động là một trong những yếu tố đầu vào cơ bản của nền sản xuất.
Vì vậy, việc giải quyết việc làm không chỉ có ý nghĩa về mặt sử dụng có hiệu
quả nguồn lực xã hội mà luôn là mối quan tâm hàng đầu của Nhà nước. Một
số thành công của đường lối đổi mới trong thời gian qua đang làm thay đổi
nhận thức về thị trường lao động của nước ta. Trước hết đó là quan niệm sức
lao động là hàng hoá cho nên hình thức thể hiện dưới dạng “hợp đồng lao
động” và được pháp luật đảm bảo thông qua Bộ luật lao động và các cơ quan
thực thi. Chính sự tồn tại và phát triển của kinh tế tư bản tư nhân đang làm
thay đổi cách nghĩ thụ động về việc làm, việc làm không phải chỉ do Nhà
nước tạo ra cho người lao động mà người lao động sẽ tự tạo việc làm, tự kiếm
sống và làm giàu. Lao động trước đây chủ yếu trong lĩnh vực nông, lâm , ngư
Đề án Kinh tế chính trị

nghiệp nay dần dần chuyển sang các ngành nghề khác như công nghiệp, dịch
vụ để từ đó hình thành cơ cấu lao động hợp lý giữa các ngành, các vùng theo
hướng hiện đại, hiệu quả. Trong giai đoạn hiện nay, để tăng sức cạnh tranh
cho các doanh nghiệp đòi hỏi phải có một lực lượng lao động có trình độ
chuyên môn, có năng lực có phẩm chất. Do đó, phải có chính sách phù hợp để
đào tạo và khuyến khích sử dụng lao động, tránh tình trạng thiếu lao động
giỏi.Kinh tế tư bản tư nhân không chỉ góp phần giải quyết một lực lượng lớn
lao động thất nghiệp mà còn làm tăng sự lựa chọn cho người lao động khi
tham gia thị trường lao động. Những người chuẩn bị tham gia vào thị trường
lao động việc làm sẽ lựa chọn lĩnh vực và thành phần kinh tế trên cơ sở cân
nhắc các yêu cầu từ doanh nghiệp và khả năng của họ. Còn những người đang
làm việc tại một cơ sở sản xuất kinh doanh sẽ có điều kiện di chuyển, thay đổi
nơi làm việc một cách tự do không bị ràng buộc bởi các cơ chế. Như vậy, tính
cạnh tranh trên thị trường lao động sẽ gay gắt hơn và chính sự cạnh tranh
khiến cho chất lượng lao động được nâng cao. Đồng thời, do kinh tế tư bản tư
nhân có điều kiện đổi mới công nghệ nhanh nên trình độ kỹ năng của người
lao động nhanh chóng được nâng cao. Khu vực kinh tế tư bản tư nhân đã giải
quyết việc làm cho 4700742 lao động chiếm 70% lực lượng lao động xã hội.
Nếu tính tỷ lệ thu hút lao động trên vốn đầu tư thì kinh tế cá thể thu hút 165
lao động/tỷ đồng vốn, doanh nghiệp tư nhân thu hút 20 lao động/tỷ đồng vốn,
trong khi doanh nghiệp Nhà nước chỉ thu hút 11,5 lao động/tỷ đồng vốn.
* Kinh tế tư bản tư nhân thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng hợp lý, hiệu quả và hiện đại.
Một trong những nội dung quan trọng của tiến trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá ở Việt Nam là cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng tiến bộ về khoa
học và công nghệ nhằm nâng cao nội lực từng bước hội nhập bình đẳng với
hệ thống kinh tế quốc tế. Trong quá trình đó có sự tham gia tích cực và có
hiệu quả của kinh tế tư bản tư nhân bằng việc xác lập cơ cấu đầu tư cho phù
hợp với tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong từng thời kỳ phát triển.
Đề án Kinh tế chính trị

Do ưu thế nổi trội của các doanh nghiệp tư nhân là năng động nhạy bén, linh
hoạt trong đầu tư kinh doanh và nắm bắt kịp thời nhu cầu của thị trường cho
nên họ luôn tìm kiếm phát hiện ngành, lĩnh vực, mặt hàng mà xã hội đang
thiếu để có thể đầu tư. Theo số liệu, kinh tế tư bản tư nhân chiếm đại bộ phận
của ngành nông, lâm, ngư nghiệp như phân vùng chuyên canh, ứng dụng công
nghệ sinh học, cơ giới hoá sản xuất, phát triển công nghiệp, chế biến nông
sản, điện khí hoá nông thôn… Kinh tế tư nhân còn tham gia đầu tư vào các
ngành khác như thương mại dịch vụ và cả trong công nghiệp như công nghiệp
may, thực phẩm, sản phẩm từ cao su, da giày…
*Kinh tế tư bản tư nhân góp phần mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại,
hiện đại hoá sản xuất.
Với sự phát triển nhanh cả về quy mô và tốc độ của quá trình hội nhập
quốc tế, các phạm trù giao dịch quốc tế ngày càng mở rộng như giao dịch
hàng hoá, dịch vụ, thông tin, đầu tư, tài chính… và Việt Nam đang mở rộng
cửa hợp tác kinh doanh quốc tế theo nguyên tắc đa phương hoá, đa dạng hoá.
Kinh tế tư bản tư nhân cũng góp phần đáng kể trong công cuộc ấy với việc
tạo ra khối lượng lớn về hàng xuất khẩu ( nông, lâm, thủy, hải sản, hàng thủ
công mỹ nghệ), đồng thời mở rộng khả năng đầu tư và là đối tác thu hút các
nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài vào Việt Nam, nhập về máy móc thiết bị
công nghệ hiện đại để qua đó tận dụng và phát huy mọi nguồn lực cho sự phát
triển kinh tế trong nước. Việt Nam đang trong quá trình mở rộng quan hệ kinh
tế đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tham gia ngày càng sâu rộng
và đầy đủ vào các tổ chức kinh tế thế giới như: AFTA, APEC và sắp tới là
WTO cho nên không thể thiếu được vai trò của khu vực kinh tế tư bản tư nhân
. Với những thuận lợi vốn có như linh hoạt nhạy bén phù hợp với sự thay đổi
nhanh chóng, khu vực này đã mang lại một nguồn lợi lớn cho đất nước. Theo
ước tính, năm 2001, khu vực kinh tế tư bản tư nhân phi nông nghiệp nhập
khẩu trực tiếp 3,336 tỷ USD và xuất khẩu đạt 2,851 tỷ USD. Trong những
năm vừa qua, khu vực kinh tế tư bản tư nhân đóng góp gần một nửa tổng kim
Đề án Kinh tế chính trị

ngạch xuất khẩu của cả nước. Trong quá trình hội nhập, kinh tế tư bản tư nhân
đã liên doanh liên kết với nước ngoài hoặc làm môi giới với nhiều hình thức
đa dạng và linh hoạt để tạo điều kiện thu hút ngoại lực, tận dụng kinh nghiệm
quản lý cũng như tiếp thu công nghệ mới cho tiến trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá ở nước ta. Thực tế có nhiều Công ty của người Việt Nam ở nước
ngoài đang muốn đầu tư về quê hương. Nếu Nhà nước có chính sách cởi mở
về phát triển kinh tế tư bản tư nhân và tạo môi trường an toàn, tin cậy, hấp
dẫn đối với họ thì đây là một nguồn lực không nhỏ (hiện nay mỗi năm tiền từ
nước ngoài gửi về cho người thân ở Việt Nam khoảng 2,7 tỷ USD, phần lớn
trong đó là cho đầu tư sản xuất kinh doanh).
Đề án Kinh tế chính trị

CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ BẢN TƯ NHÂN
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

I. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KHU VỰC KINH TẾ TƯ BẢN TƯ NHÂN
Ở NƯỚC TA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Cùng với việc ban hành các luật, cơ chế chính sách với biện pháp hỗ
trợ, khuyến khích, khu vực kinh tế tư bản tư nhân đã phát huy sức mạnh nội
tại đầu tư vào nhiều lĩnh vực, địa bàn trên cả nước. Trong báo cáo tổng kết
thực hiện luật Doanh nghiệp từ 2000 cho đến hết tháng 4/2004 cả nước có
93.208 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, gần gấp 2 lần số doanh nghiệp
đựơc thành lập trong thời gian trước đó (trong 9 năm từ 1991 đến 1999 chỉ có
45000 doanh nghiệp đựơc thành lập). Như vậy cho đến nay cả nước có
138.208 doanh nghiệp đăng ký hoạt động theo luật doanh nghiệp. Số doanh
nghiệp đăng ký trung bình hàng năm gấp 3,75 lần so với trung bình của
những năm trước 2000.
1. Phát triển khu vực kinh tế tư bản tư nhân trong thời gian qua từ
khi có chính sách đổi mới
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước trong 15 năm qua,
kinh tế tư bản tư nhân tăng nhanh cả về số lượng và đơn vị, vốn kinh doanh
và lao động, phát triển rộng khắp trong cả nước ở các ngành nghề mà pháp
luật không cấm. Từ năm 1990 về trước, số doanh nghiệp ngoài quốc doanh
trong cả nước chỉ có vài trăm doanh nghiệp được chuyển đổi từ các tổ hợp
tác, từ các hợp tác xã. Riêng thành phố Hà Nội có khoảng 30 doanh nghiệp
hoạt động kinh doanh dịch vụ và sản xuất gia công những sản phẩm phục vụ
tiêu dùng nhỏ lẻ trong dân cư và phục vụ các ngành sản xuất khác. Ở thành
phố Hồ Chí Minh là trung tâm dân cư và kinh tế lớn ở phía Nam thì số lượng
doanh nghiệp ngoài quốc doanh nhiều hơn Hà Nội nhưng cũng không vượt
quá con số 100. Còn ở nhiều tỉnh, thành phố khác trong cả nước chỉ có một
Đề án Kinh tế chính trị

vài doanh nghiệp, thậm chí có những tỉnh đồng bằng, trung du và miền núi
không có doanh nghiệp tư nhân nào. Từ 1991 – 1999 có 45.000 doanh nghiệp
đăng ký. Và từ 1/1/2000 đến 9/2003, tức là khi luật Doanh nghiệp có hiệu lực
thi hành, thì có 72.601 doanh nghiệp đăng ký đưa tổng số doanh nghiệp tư
nhân ở Việt Nam đến 9/2003 lên 120.000 doanh nghiệp đăng ký hoạt động.
Xét về cơ cấu loại hình doanh nghiệp thì tỷ trọng doanh nghiệp tư nhân
trong tổng số doanh nghiệp đăng ký giảm từ 64% giai đoạn 1991 – 1999
xuống còn 34% giai đoạn 2000 – 2004. Trong khi đó, cùng với khoảng thời
gian trên, tỷ trọng Công ty trách nhiệm hữu hạn và Công ty cổ phần tăng từ
36% lên 66%. Trong 4 năm qua có khoảng 7.165 công ty Cổ phần đăng ký
thành lập, gấp 10 lần so với giai đoạn 1991 – 1999. Sự thay đổi về tỷ lệ loại
hình doanh nghiệp mới thành lập cho thấy các nhà đầu tư trong nước đã nhận
thức được những điểm lợi và bất lợi của từng loại hình doanh nghiệp nên có
xu hướng lựa chọn loại hình doanh nghiệp hiện đại, tạo cơ sở để doanh
nghiệp ổn định, phát triển không hạn chế về quy mô và thời hạn hoạt động với
quản trị nội bộ ngày càng chính quy, minh bạch hơn. Thực tế nói trên phần
nào chứng tỏ các nhà đầu tư đã tin tưởng vào đường lối, luật pháp và cơ chế
chính sách, có xu hướng đầu tư dài hạn hơn, công khai hơn và quy mô lớn
hơn. Theo Báo cáo của Bộ kế hoạch và đầu tư năm 2003, doanh nghiệp tư
nhân ở nước ta chiếm tỷ lệ lớn trong tổng số doanh nghiệp trong toàn quốc,
đóng góp khoảng 26% tổng sản phẩm xã hội, 31% tổng sản lượng công
nghiệp, 78% tổng mức bán lẻ, 64% tổng lượng vận chuyển hàng hoá, tạo ra
49% việc làm phi nông nghiệp ở nông thôn. Số lượng hộ kinh doanh trong
lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ tăng từ khoảng 0,84 triệu
hộ năm 1990 lên 2,2 triệu hộ năm 1996 và khoảng gần 3 triệu hộ tính đến cuối
năm 2004. Ngoài ra, cả nước còn có khoảng 130.000 trang trại và trên 10
triệu hộ nông dân sản xuất hàng hoá, trong đó có khoảng 70.000 trang trại có
diện tích đất trên 2 ha và doanh thu trên 100 triệu đồng/năm. Tính đến tháng
6/2003, tổng số doanh nghiệp tư nhân đăng ký kinh doanh lên tới 12 vạn
Đề án Kinh tế chính trị

doanh nghiệp (chưa kể gần 2 triệu hộ kinh doanh cá thể). Trong đó, các doanh
nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp là 17%,
xây dựng 14%, nông nghiệp 14%, trong lĩnh vực dịch vụ là 55%. Ước tính cả
năm 2004 có khoảng 35.000 doanh nghiệp đăng ký kinh doanh với tổng số
vốn đăng ký đạt khoảng 72.000 tỷ đồng. Cũng trong năm này, đã có gần
6.200 doanh nghiệp đăng ký bổ sung vốn với tổng số vốn bổ sung khoảng
23000 tỷ đồng, tăng 31% so với vốn đăng ký bổ sung năm 2003. Mức vốn
đăng ký trung bình một doanh nghiệp tăng nhanh từ 570 triệu đồng/1dn thời
kỳ 1991 1999 lên 2,015 tỷ đồng năm 2004.
Điều đáng quan tâm là số lượng vốn huy động được qua đăng ký thành
lập mới và mở rộng quy mô doanh nghiệp tăng lên mạnh mẽ. Trong 4 năm,
các doanh nghiệp đã đầu tư (gồm cả đăng ký mới và đăng ký bổ sung) đạt trên
182.715 tỷ đồng (tương đương khoảng 12,1 tỷ USD, cao hơn số vốn đầu tư
nước ngoài đăng ký trong cùng thời kỳ): trong đó năm 2000 là 1,3 tỷ USD,
năm 2001 là 2,3 tỷ USD, năm 2002 là gồm 3 tỷ USD, năm 2003 là khoảng 3,6
tỷ USD và hết tháng 5/2004 là khoảng 1,8 tỷ USD. Từ năm 2000 – 2003, tỷ
trọng vốn đầu tư của khu vực tư nhân trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội tăng
lên nhanh chóng: từ 20% năm 2000 lên 25% năm 2001, lên 25,3% năm 2002
và khoảng 27% năm 2003 và khoảng 29% năm 2004. Tỷ trọng đầu tư của
doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư bản tư nhân trong tổng nguồn vốn đầu
tư xã hội đã liên tục tăng và năm 2004 đã vượt lên hơn hẳn so với tỷ trọng đầu
tư của doanh nghiệp Nhà nước. Tuy nhiên, khu vực này thường xuyên nằm
trong tình trạng khó khăn về vốn, phần lớn các doanh nghiệp (90%) đều là
doanh nghiệp vừa và nhỏ với số vốn dưới 5 tỷ đồng. Số liệu năm 2003 cho
thấy, bình quân vốn của một hội phi nông nghiệp ít hơn 30 triệu đồng, của
trang trại là 94 triệu đồng, của một doanh nghiệp phi nông nghiệp là 3,7 tỷ
đồng. Trong khi đó, vốn vay từ các ngân hàng thương mại và quỹ hỗ trợ phát
triển còn ít và chiếm tỷ trọng thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển. Xét
theo khu vực tỉnh, thành phố thì vốn đăng ký mới ở tất cả các tỉnh, thành phố
Đề án Kinh tế chính trị

từ năm 2000 đến 7/2003 đều cao hơn so với số vốn đăng ký thời kỳ 1991 –
1999, trong đó có 33 tỉnh, thành phố đạt tốc độ tăng cao gấp hơn 4 lần; có 11
tỉnh đạt tốc độ tăng cao gấp 10 lần, thậm chí có những tỉnh như: Quảng Ninh,
Vĩnh Phúc, Hưng Yên… đạt tốc độ tăng hơn 20 lần. Xét về tỷ lệ gia tăng,
vốn đăng ký mới ở các tỉnh, thành phố phía bắc cũng tăng nhanh hơn và cao
hơn nhiều so với các tỉnh khác, nhất là các tỉnh vùng Đồng bằng sông Cửu
Long và Miền Trung.
Xét về quy mô doanh nghiệp thì thấy quy mô doanh nghiệp ngày càng
lớn. Thời kỳ 1991 – 1999 vốn đăng ký kinh doanh bình quân của một doanh
nghiệp là gần 0,57 tỷ đồng, năm 2000 là 0,96 tỷ đồng, năm 2001 là 1,3 tỷ
đồng, năm 2002 là 1,8 tỷ đồng 7 tháng đầu năm 2003 là 2,12 tỷ đồng. Doanh
nghiệp có vốn đăng ký thấp nhất là 5 triệu đồng và cao nhất là 200 tỷ đồng.
Nhìn chung, số vốn đăng ký cao nhất phổ biến ở các địa phương khoảng 10
tỷ đồng. Ở Quảng Nam, mức vốn đăng ký bình quân/doanh nghiệp thấp nhất
422 triệu đồng, tiếp đó là Nam Định 544 triệu đồng, mức vốn đăng ký bình
quân doanh nghiệp cao nhất ở Hưng Yên gần 3 tỷ đồng, tiếp đó là Quảng
Ninh và Bình Dương gần 2,5 tỷ đồng; mức vốn đăng ký bình quân doanh
nghiệp ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh là vào khoảng 1,25 tỷ đồng.
Xét về lao động thì thấy nước ta có lực lượng lao động dồi dào mỗi năm
có khoảng 1,4 triệu – 1,5 triệu người tham gia thị trường lao động cho nên vấn
đề giải quyết việc làm luôn luôn được đặt ra nhằm đảm bảo cho sự phát triển
của kinh tế nói riêng và của đất nước nói chung. Thực tế ở nhiều địa phương
cho thấy, lao động trong khu vực kinh tế tư bản tư nhân là 21.017.326 người,
chiếm 56,3% lao động có việc làm thường xuyên trong toàn xã hội (số liệu
năm 2000). Riêng trong lĩnh vực phi nông nghiệp, số lao động thuộc kinh tế
tư bản tư nhân là 4.643.844 người năm 2000, tăng 20,12% so với năm 1996.
Tính riêng trong 4 năm (1997 – 2000) khu vực kinh tế tư bản tư nhân thu hút
thêm 997.000.000 lao động, gấp 6,6 lần so với khu vực kinh tế Nhà nước và
từ năm 2000 – 2003,khu vực kinh tế tư bản tư nhân đã tạo ra gần 2 triệu chỗ
Đề án Kinh tế chính trị

việc làm mới cho lao động. Từ khi có luật khuyến khích đầu tư trong nước đã
thu hút và tạo việc làm cho 1.516.456 lao động. Theo đó, các doanh nghiệp
thuộc khu vực kinh tế tư bản tư nhân đầu tư trung bình 70 triệu đến 100 triệu
đồng là tạo ra được một chỗ làm việc, trong đó đối với doanh nghiệp Nhà
nước thì số tương ứng là 210 – 280 triệu.
2. Phát triển khu vực kinh tế tư bản tư nhân theo ngành nghề sản
xuất kinh doanh và theo vùng lãnh thổ
a. Trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp nông thôn
Nông nghiệp nông thôn chiếm một tỷ lệ lớn trong dân số khoảng 80%
và 70% lực lượng lao động xã hội. Đây là nơi cung cấp lương thực, thành
phẩm, cung cấp nguồn nguyên liệu đầu vào, đồng thời là thị trường tiêu thụ
sản phẩm quan trọng của công nghiệp và nhiều ngành kinh tế khác. Chính sự
ổn định và phát triển vững chắc của khu vực này là điều kiện vô cùng quan
trọng cho việc ổn định kinh tế xã hội của đất nước. Giai đoạn trước đổi mới,
chúng ta có 16.743 hợp tác xã nông nghiệp và hàng trăm nông trường quốc
doanh được Nhà nước đầu tư hỗ trợ vật chất tinh thần nhưng vẫn không đảm
bảo được an ninh lương thực cho đất nước, nguồn nguyên liệu đầu vào. Cùng
với những yếu kém của khu vực công nghiệp và các ngành kinh tế khác của
đất nước, chúng ta đã lâm vào cuộc khủng hoảng trầm trọng vào cuối những
năm 70 và đầu những năm 80. Sau khi có Nghị quyết 10 của Bộ chính trị
(4/1986), nông nghiệp Việt Nam đã có bước khởi sắc mới từ nạn thiếu đói
triền miên vươn lên đảm bảo đủ lương thực trở thành nước xuất khẩu gạo lớn
trên thế giới (đứng thứ 2 sau Thái Lan). Thật vậy, nếu năm 1990 số lượng các
hộ cá thể khoảng trên 9,4 triệu hộ thì đến 1995 đã lên tới 11,9 triệu hộ hoạt
động trên 9000 xã trong khắp mọi vùng sinh thái. Dưới tác động của thị
trường và quy luật vận động nội tại của hoạt động kinh tế trong nông thôn đã
và đang tồn tại nhiều loại hình kinh tế hợp tác với trình độ khác nhau xuất
phát từ nhu cầu phát triển của các hộ xu hướng hợp tác liên kết để hỗ trợ nhau
“đầu vào, đầu ra” giữa các hộ hiện nay khá mạnh mẽ. Do nhu cầu hợp tác
Đề án Kinh tế chính trị

giữa các hộ trong việc tìm kiếm thị trường đã trở lên cấp bách và đang rất cần
có sự hướng dẫn hỗ trợ từ phía các cơ quan chức năng của Nhà nước.
Bên cạnh những điều đạt được sự phát triển khu vực kinh tế tư bản tư
nhân trong lĩnh vực nông nghiệp cũng đặt ra các vấn đề cần giải quyết. Trước
hết, đa số các hội cá thể tiểu chủ bình quân rộng đất quá bé, quá trình tích tụ
và tập trung ruộng đất để hình thành những trang trại sản xuất hàng hoá quy
mô lớn là khó khăn, chậm chạp. Trong khi đó tốc độ tăng dân số lại quá
nhanh, nhanh hơn nhiều so với mức đất khai hoang được cho nên dẫn đến
việc bình quân ruộng đất đầu người ít. Hệ thống chính sách của Đảng và Nhà
nước ban hành mặc dù có sửa đổi nhiều lần nhưng vẫn còn nhiều bất cập,
chưa thực sự tạo điều kiện cho kinh tế cá thể phát triển mạnh mẽ theo hướng
sản xuất hàng hoá tập trung trong cơ chế thị trường. Đồng thời, khu vực kinh
tế tư bản tư nhân phát triển rất không đồng đều giữa các vùng trong cả nước.
Theo số liệu thống kê năm 1995 của Ban kinh tế Trung ương cho thấy 95% số
doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư bản tư nhân tập trung ở vùng đồng
bằng sông Cửu Long và miền Đông Nam Bộ. Trong khi đó ở vùng duyên hải
miền Trung là 10,1% và đồng bằng sông Hồng là 18%. Năm 1997 trong tổng
số 29002 doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư bản tư nhân thì 18.728
doanh nghiệp tập trung ở miền Nam chiếm tới 75%, trong khi miền Bắc chỉ
có 4.187 doanh nghiệp chiếm 17% và miền Trung có 2.087 doanh nghiệp 8%.
Doanh nghiệp phát triển nhanh trong tất cả các ngành và ở khắp các địa
phương đã tạo ra cơ hội phân công lại lao động giữa các khu vực nông lâm
nghiệp, thủy sản và sản xuất kinh doanh nhỏ của hộ gia đình là khu vực lao
động có năng suất thấp, thu nhập không cao, chiếm số đông, thiếu việc làm
song khu vực doanh nghiệp, nhất là công nghiệp và dịch vụ có năng suất cao
và thu nhập khó lớn. Thực tế từ năm 2000 – 2002 mỗi năm có 700 nghìn lao
động được tuyển dụng vào khu vực doanh nghiệp chiếm khoảng 50% lao
động đựơc giải quyết có việc làm hàng năm, đây chính là giải pháp tích cực
Đề án Kinh tế chính trị

nhất để thực hiện chuyển dịch lao động nông nghiệp từ gần 70% hiện nay
xuống còn 56 – 57% vào cuối năm 2005.
b. Trong lĩnh vực sản xuất tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ và thương mại
– Về quy mô lao động và vốn: Nhìn chung các hộ cá thể tiểu chủ có quy
mô nhỏ khoảng 1-2 lao động/hộ. Xét về vốn thì khó có thể xác định mức bình
quân chung vì nhiều loại nghành nghề có nhu cầu vốn khác nhau nhưng nhìn
chung là thấp: mức bình quân mỗi Công ty trách nhiệm hữu hạn có số lao
động là 43 người và số vốn trên 1 lao động là 50 triệu đồng; doanh nghiệp tư
nhân là 13,5 lao động và 23,5 triệu đồng/1 lao động. Xét theo ngành thì ngành
công nghiệp khai thác có số lao động bình quân trong 1 doanh nghiệp là cao
nhát 564 lao động nhưng số vốn cho 1 lao động lại thấp khoảng 1 triệu đồng.
Tại thời điểm 1/1/2003, bình quân một doanh nghiệp chỉ có 74 lao động và
22,9 tỷ đồng tiền vốn; so với năm 2000 là 83 người và 26 tỷ đồng vốn, đấy là
số liệu điều tra bình quân chung của các doanh nghiệp trong các thành phần
kinh tế. Nếu nói riêng về thành phần kinh tế tư bản tư nhân thì quy mô còn
nhỏ hơn nhiều, có những doanh nghiệp tư nhân có thể gọi là siêu nhỏ với vốn
hoạt động khoảng vài ba chục triệu, lao động từ 5-7 người, mặt bằng sản xuất
kinh doanh không có, có khi còn phải lấy nhà ở, sân, vườn làm văn phòng và
nơi sản xuất. Theo điều tra, khu vực kinh tế tư bản tư nhân bình quân một
doanh nghiệp chỉ có 31 lao động, và 4 tỷ đồng tiền vốn; bằng 7,4 về lao động
và 2,4% về vốn so với doanh nghiệp tư nhân và bằng 10,3% về lao động và
2,9% về vốn so với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
– Về doanh thu và nộp ngân sách: doanh thu sản xuất kinh doanh của hộ
cá thể tiểu chủ nhìn chung không lớn và cũng khó xác định bởi tính đa dạng
của ngành nghề, khu vực khác nhau doanh thu vào khoảng một vài cho đến
vài cho đến 4,5 triệu đồng/hộ/tháng. Tính chỉ tiêu tỷ lệ thu trên tổng thu ngân
sách địa phương ở 1 số địa phương thì thấy rõ sự đóng góp của khu vực kinh
tế tư bản tư nhân : thành phố Hồ Chí Minh chiếm 15%, Đồng Tháp 16%;
Ninh Bình 19%…
Đề án Kinh tế chính trị

Để hiểu rõ hơn về khu vực kinh tế tư bản tư nhân , ta đi tìm hiểu thêm
về những đóng góp của khu vực kinh tế này vào sự phát triển nền kinh tế đất
nước; đồng thời phát hiện những điểm hạn chế, nguyên nhân của nó. Từ đó có
cái nhìn khách quan, toàn diện hơn về khu vực kinh tế tư bản tư nhân và nêu
ra được một số giải pháp nhằm khắc phục những yếu kém trên.
3. Các kết quả đạt được, các yếu kém cần khắc phục
3.1. Các thành tựu chủ yếu
* Khả năng huy động vốn và tỷ trọng đầu tư của các doanh nghiệp tư
nhân tăng một cách đáng kể.
Theo số liệu ước tính, tỷ trọng đầu tư của dân cư và doanh nghiệp trong
tổng đầu tư toàn xã hội đã tăng từ 20% năm 2000 lên 23% năm 2001 và 27%
năm 2003. Tỷ trọng đầu tư của doanh nghiệp tư nhân trong nước liên tục tăng
và đã vượt lên hơn hẳn tỷ trọng đầu tư của doanh nghiệp Nhà nước. Số liệu đã
chứng minh cho ta thấy tỷ trọng đầu tư của doanh nghiệp dân doanh trong
tổng đầu tư toàn xã hội tương ứng là 2000 là 19,5%/ 18,25% năm 2001 là
23,5%/19,3%; năm 2002 là 25,9%/16,87% năm 2003 là 26,73%/17,74%. Vốn
đầu tư của doanh nghiệp dân doanh đã đóng vai trò quan trọng, thậm chí là
nguồn vốn đầu tư chủ yếu đối với phát triển kinh tế địa phương. Ví dụ đầu tư
của các doanh nghiệp dân doanh năm 2002 ở thành phố Hồ Chí Minh đã
chiếm 38% tổng số vốn đầu tư toàn xã hội; cao hơn tỷ trọng của vốn đầu tư
của doanh nghiệp Nhà nước và ngân sách Nhà nước gộp lại (36,5%). Đặc biệt
là, khác với đầu tư trực tiếp nước ngoài chỉ thực hiện ở 15 tỉnh, thành phố thì
đầu tư của doanh nghiệp tư nhan trong nước đã được thực hiện ở tất cả các
tỉnh, thành phố trong cả nước và đang có xu hướng tăng nhanh trong những
năm gần đây do những đổi mới về thủ tục thành lập doanh nghiệp, những
khuyến khích để thúc đẩy sự hình thành các doanh nghiệp. Ước tính cứ đầu tư
vào cùng một lĩnh vực thì khu vực kinh tế tư bản tư nhân sử dụng vốn ít hơn
khu vực kinh tế Nhà nước 0,1 lần nhưng lại sử dụng lao động xã hội nhiều
hơn khu vực kinh tế Nhà nước là 1,25 lần.
Chính sự phát triển của khu vực kinh tế tư bản tư nhân theo cơ chế thị
trường dưới sự quản lý của Nhà nước sẽ thúc đẩy mọi thành viên trong xã hội
Đề án Kinh tế chính trị

nỗ lực đầu tư, năng động trong việc khai thác mọi nguồn lực làm ra của cải
đáp ứng nhu cầu cho mình và đóng góp cho xã hội. Ngoài việc khuyến khích
đầu tư vốn của tư nhân vào kinh doanh thì sự phát triển khu vực kinh tế tư bản
tư nhân còn giải quyết một số lượng lớn việc làm cho người lao động. Việc
tạo thêm công ăn việc làm mới không chỉ giải quyết vấn đề kinh tế, mà còn
giải quyết các vấn đề xã hội, vấn đề ổn định và phát triển của nước ta hiện
nay. Nước ta hàng năm có khoảng 1,2 triệu – 1,4 triệu người đến tuổi lao động
trong khi đó tỷ lệ thất nghiệp khá cao khoảng dưới 7% là một thách thức
không nhỏ của Nhà nước trong việc giải quyết đủ công ăn việc làm cho
người lao động để họ có thể ổn định cuộc sống. Nông, lâm, ngư nghiệp phát
triển (chủ yếu do kinh tế tư bản tư nhân ) sẽ giải phóng lực lượng lao động
chuyển sang các ngành nghề khác trong công nghiệp, dịch vụ, từ đó hình
thành cơ cấu lao động hợp lý giữa các ngành, các vùng theo hướng hiện đại,
hiệu quả, góp phần thực hiện mục tiêu đến năm 2010 chỉ còn 50% lao động
nông nghiệp mà Nghị quyết Đại hội IX của Đảng đã đề ra lao động trong khu
vực kinh tế tư bản tư nhân là 21.017.326 người chiếm 56,3% lao động có
việc làm thường xuyên trong toàn xã hội (số liệu năm 2000), riêng trong lĩnh
vực phi nông nghiệp là 4.643.844 người tăng 20,12% so với năm 1996. Thực
tế ở nhiều địa phương cho thấy, 1 ha trồng lúa chỉ giải quyết được khoảng 5
lao động (gồm 2 thường xuyên và 3 thời vụ) và có doanh thu khoảng 20 – 25
triệu đồng/năm; 1 ha trồng cây lâu năm cho doanh thu khoảng 40 – 50 triệu
đồng. Trong khi đất phục vụ phát triển cây công nghiệp có thể sử dụng hàng
chục đến hàng trăm lao động thường xuyên với thu nhập bình quân khoảng 10
triệu đồng/năm. Với số liệu trên, ta có thể thấy được doanh lợi thu được từ
việc trồng cây công nghiệp cao hơn nhiều so với trồng lúa. Vì thế, việc
chuyển đổi cơ cấu cây trồng cho phù hợp với tình hình thực tế thời tiết cho
doanh thu cao là việc hết sức cần thiết.
Theo kết quả sơ bộ tình hình thực hiện khuyến khích đầu tư trong nước
cho thấy, trong 9 năm thực hiện đã có trên 1,5 triệu lao động được làm trong
Đề án Kinh tế chính trị

các dự án thực hiện theo luật. Riêng khu vực kinh tế dân doanh tạo ra hơn 1
triệu việc làm trực tiếp và hàng nghìn lao động gián tiếp, đưa tổng số lao động
trực tiếp làm việc trong các doanh nghiệp dân doanh xấp xỉ bằng tổng số lao
động trong các doanh nghiệp Nhà nước và đưa tổng số lao động làm việc
trong doanh nghiệp của khu vực kinh tế tư bản tư nhân lên hơn 7 triệu người.
*Kinh tế tư bản tư nhân đóng góp vào nguồn thu ngân sách và thúc
đẩy nên kinh tế tăng trưởng.
Đóng góp của các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư bản tư nhân
vào ngân sách Nhà nước đang có xu hướng tăng lên từ khoảng 6,4% năm
2001 lên 7,4% năm 2002 (tỷ lệ tương ứng của doanh nghiệp có vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài là 5,2% và 6%; của doanh nghiệp Nhà nước là 21,6% và
23,4%). Thu từ thuế công thương nghiệp và dịch vụ ngoài quốc doanh năm
2002 đạt 103,6% kế hoạch và tăng 13% so với năm 2001. Năm 2003: số thu
từ doanh nghiệp dân doanh chiếm khoảng 15% tổng số thu, tăng 29,5% so với
cùng kỳ các năm trước.
Với cơ chế chính sách kinh tế khuyến khích kinh tế tư bản tư nhân đầu
tư vào sản xuất kinh doanh, khu vực kinh tế tư bản tư nhân phát triển mạnh
cả về số lượng, vốn đầu tư đến quy mô hoạt động, đã góp phần không nhỏ vào
việc phục hồi và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Trong 8 tháng đầu năm 2004,
giá trị sản xuất công nghiệp ở một số địa phương tăng tốc độ cao như Hà Nội
25,8%; Hải Phòng là 23%;Cần Thơ 50,3%. Doanh nghiệp tư nhân hiện nay
đang chiếm một phần không nhỏ trong hầu hết các ngành công nghiệp chủ
yếu: chiếm 50% giá trị công nghiệp chế biến thuỷ sản, công nghiệp giấy bìa;
30% công nghiệp may mặc… Đến nay, doanh nghiệp tư nhân trong công
nghiệp chiếm 26,5% tổng giá trị sản xuất công nghiệp cả nước, tăng 1,85
điểm phần trăm so với số thực hiện ở thời điểm cuối tháng 12 năm 2002, và 4
điểm phần trăm so với kết quả đạt được vào cuối năm 2000.
* Thúc đẩy việc hình thành các chủ thể kinh tế và đổi mới cơ chế quản
lý theo hướng thị trường tạo sự cạnh tranh trong nền kinh tế.
Đề án Kinh tế chính trị

Trong giai đoạn hiện nay, trừ một số lĩnh vực ngành nghề mà Nhà nước
độc quyền, kinh tế tư bản tư nhân không được kinh doanh, còn lại hầu hết các
ngành nghề khác kinh tế tư bản tư nhân đều tham gia. Thực tiễn cho thấy
nhiều lĩnh vực mà kinh tế tư bản tư nhân không những phát triển mà còn
chiếm ưu thế áp đảo như sản xuất lương thực thực phẩm, nuôi trồng thuỷ
sản… và với các mặt hàng như gạo, các chế phẩm từ nông nghiệp đã mang về
hàng tỷ đô la cho nền kinh tế. Tuy nhiên đang đặt ra vấn đề cần xem xét là vai
trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước trong những ngành nghề mà khu vực kinh tế
tư bản tư nhân đã tham gia và chiếm tỷ trọng lớn. Chính sự phát triển phong
phú và đa dạng các cơ sở sản xuất kinh doanh của khu vực kinh tế tư bản tư
nhân đã tác động mạnh đến các doanh nghiệp Nhà nước buộc khu vực kinh tế
Nhà nước phải cải tổ, sắp xếp lại, đầu tư đổi mới, công nghệ và phương thức
kinh doanh để tồn tại và đứng vững trong cơ chế thị trường. Qua đó, khu vực
kinh tế tư bản tư nhân đã thúc đẩy sự cạnh tranh giữa các khu vực kinh tế làm
cho nền kinh tế trở nên năng động, đồng thời tạo sức ép lớn buộc cơ chế quản
lý hành chính của Nhà nước phải đổi mới đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của các
doanh nghiệp nói riêng và của nền kinh tế nói chung.
* Tạo nên sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất,
thực hiện dân chủ hoá kinh tế, kích thích và thúc đẩy sản xuất phát triển.
Khu vực kinh tế tư bản tư nhân phát triển đa dạng về hình thức sở hữu
với các trình độ xã hội hoá về sở hữu, về quản lý và về phân phối tạo nên sự
phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở các ngành, các lĩnh
vực sản xuất. Từ đó tạo ra khả năng huy động rộng rãi tiềm năng nguồn lực,
động lực trong toàn xã hội để đẩy mạnh sản xuất, tạo ra nhiều của cải làm
giàu cho mình và cho đất nước khắc phục tình trạng trì trệ trong nền kinh tế
tập trung, bao cấp trước đây. Các loại hình tổ chức của kinh tế tư bản tư nhân
được tự do phát triển, Nhà nước còn tạo điều kiện và khuyến khích đầu tư sản
xuất kinh doanh, được luật pháp bảo hộ và là biểu hiện dân chủ hoá đời sống
kinh tế trong xã hội ta. Cho nên, nó thúc đẩy và phát huy tính năng động,
Đề án Kinh tế chính trị

nhạy bén, cần cù sáng tao của quần chúng nhân dân trong lao động và sản
xuất, thúc đẩy nền kinh tế hàng hoá phát triển, góp phần to lớn vào sự nghiệp
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và mở rộng hoạt động kinh tế đối
ngoại. Mặc khác, quá trình dân chủ hoá đời sống kinh tế được mở rộng nói
trên sẽ tác động và đòi hỏi sự cải tiến về tổ chức, quản lý của Nhà nước theo
hướng hiện đại, văn minh, tiến bộ, cũng như thúc đẩy, nâng cao đời sống văn
hoá, dân trí và tinh thần trong toàn xã hội.
b. Những tồn tại yếu kém:
– Những năm vừa qua ở Việt Nam, khu vực kinh tế tư bản tư nhân chủ
yếu phát triển theo bề rộng mà điển hình là tăng thêm số lượng doanh nghiệp.
Sự thay đổi quy mô và trình độ công nghệ không đáng kể thậm chí có
xu hướng giảm xuống. Đa phần các doanh nghiệp tư nhân có quy mô nhỏ nên
khả năng cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường, chống đỡ, vượt qua những biến
động, rủi ro, bất chắc trong sản xuất kinh doanh bị hạn chế. Hiện có tới 87,2%
doanh nghiệp tư nhân có mức vốn dưới 1 tỷ đồng. Trong đó, doanh nghiệp có
mức vốn dưới 100 triệu đồng chiếm tới 29,4%. Chỉ có 1% số doanh nghiệp có
mức vốn trên 10 tỷ đồng và 0,1% có mức vốn trên 100 tỷ đồng. Hầu hết các
doanh nghiệp đều khởi sự hoàn toàn bằng vốn tự có của mình, có vay nhưng
số tiền vay là ít. Ngân hàng thì luôn trong trình trạng chờ doanh nghiệp đến
vay vốn đầy đủ các điều kiện về tài sản thế chấp chứ không phải là tìm
phương án kinh doanh có hiệu quả để cho vay. Mặt khác, bản thân doanh
nghiệp cũng có những hạn chế nhất định trong việc tiếp cận các nguồn vốn
tiếp cận thông tin, thành lập doanh nghiệp dựa trên kinh nghiệm chứ chưa tính
toán đầy đủ nhu cầu thị trường và khả năng tiêu thụ. Đồng thời còn là tình
trạng kế toán của Doanh nghiệp không minh bạch, báo cáo tài chính không
đầy đủ, doanh nghiệp không có tài sản đảm bảo tiền vay, rủi ro tín dụng lớn,
gặp nhiều khó khăn trong việc hưởng tín dụng ưu đãi bởi vì không đủ hiểu
biết về thủ tục vay và hoàn thiện hồ sơ vay.
– Máy móc thiết bị lạc hậu và nguồn nhân lực – còn nhiều hạn chế.

Đánh giá post

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *