10331_Mối quan hệ biện chứng giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế

luanvantotnghiep.com

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC

Tiểu luận triết học

MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA ĐỘC LẬP TỰ CHỦ VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ

Nhóm: 9 Lớp: Đêm 2 Khóa 24 thực hiện
Nhóm trưởng: Đặng Quang Vinh
Thành viên 1: Lê Thị Kiều Oanh
Thành viên 2: Nguyễn Xuân Xanh
Giảng viên phụ trách: TS. Bùi Văn Mưa

TP. Hồ Chí Minh, Tháng 1 năm 2015.
MỤC LỤC
I. TỔNG QUANi
1. Tổng quan và lý do chọn đề tàii
2. Mục đích thực hiện đề tàiii
3. Nhiệm vụ đặt ra của đề tàiii
II. NỘI DUNG1
Chương 1: Nguyên lý về mối quan hệ phổ biến trong phép biện chứng
duy vật1
1.1. Các định nghĩa1
1.2. Tính tất yếu phải hội nhập quốc tế2
Chương 2: Mối liên hệ giữa xây dựng nhà nước độc lập tự chủ với hội nhập quốc tế3
2.1. Mối quan hệ biện chứng giữa xây dựng nhà nước độc lập tự chủ với hội nhập quốc tế3
2.1.1. Kinh tế3
2.1.2. Chính trị4
2.1.3. Văn hóa5
2.2. Vấn đề hội nhập quốc tế của Việt Nam6
2.2.1. Thành tựu6
2.2.2. Hạn chế8 2.3. Một số kiến nghị nhằm giữ vững độc lập tự chủ dân tộc và định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình hội nhập quốc tế9
III. KẾT LUẬN10
IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO
[Phụ lục] I. TỐNG QUAN
1. Tổng quan và lý do chọn đề tài
Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay đang trở thành một xu thế khách quan và tất yếu của tất cả các nước trên thế giới, không kể các nước đang phát triển hay phát triển, các nước giàu hay nghèo. Để có thể tranh thủ các nguồn lực từ bên ngoài đặc biệt là nguồn vốn, tiến bộ khoa học công nghệ…đòi hỏi các nước phải có sự mở cửa, giao lưu, buôn bán hợp tác với các nước trên thế giới mà đặc biệt là các nước tư bản phát triển. Tuy vậy đi song song với việc hội nhập quốc tế trên các lĩnh vực như kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội…thì chúng ta phải cần phải có sự thống nhất nhận thức về việc giữ độc lập tự chủ trong quá trình hội nhập. Đây là một mối lo ngại lớn với các nước trên thế giới đặc biệt là các nước đang phát triển. Mối lo này phần nào cũng có lý do chính đáng bởi hầu hết các nước đang phát triển đều có xuất phát điểm từ một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, khoa học công nghệ còn thấp kém, năng suất lao động còn chưa cao, sức cạnh tranh về các loại hàng hóa trên thị trường thế giới thấp trong khi đó các nước đi trước có lợi thế hơn hẳn về mọi mặt, việc mở rộng quan hệ với các nước đó sẽ dẫn đến tình trạng các nước kém phát triển khó tránh khỏi bị lệ thuộc về kinh tế và từ chỗ bị lệ thuộc về kinh tế có thể bị sự lệ thuộc về chính trị dẫn tới không giữ vững được chủ quyền.
Hiện nay nước Việt Nam ta cũng đang tham gia vào các tổ chức, hiệp hội trên thế giới. Nước ta cũng là một nước nghèo nàn, lạc hậu và kém phát triển hơn rất nhiều so với các nước tư bản trên thế giới vì vậy chúng ta phải chủ động tham gia hội nhập quốc tế gắn liền với việc xây dựng một nhà nước với nền kinh tế độc lập, tự chủ. Đảng và nhà nước ta đã xác định độc lập, tự chủ kinh tế là nền tảng vật chất cơ bản bảo đảm sự bền vững của đất nước ta về chính trị cũng như các vấn đề văn hóa, xã hội…
Chính vì việc xây dựng một nhà nước với nền kinh tế độc lập tự chủ kết hợp với hội nhập quốc tế hiện nay đang là một vấn đề nóng bỏng, cấp bách và cần thiết đối với tất cả các quốc gia trên thế giới, trong đó có cả nước ta. Vì vậy đề tài này có một ý nghĩa thực tiễn vô cùng quan trọng không chỉ với Việt Nam mà còn với nhiều nước khác trên thế giới trong việc đề ra các đường lối, chính sách trong quan hệ giao lưu, buôn bán với nước ngoài. Chính vì những lý do trên mà nhóm đã chọn đề tài: “Mối quan hệ biện chứng giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế” với hy vọng bài tiểu luận này góp một phần nhỏ vào công cuộc xây dựng nước ta ngày càng giàu mạnh, văn minh.
2. Mục đích thực hiện đề tài
Như các nhà lãnh đạo của chúng ta đã khẳng định: “Việt Nam luôn muốn hòa nhập thật tốt vào hội nhập thế giới, nhưng làm sao vừa hội nhập cho thật tốt lại vừa đảm bảo được độc lập chủ quyền”. Trên thực tế đã có rất nhiều bài học cay đắng của các nước đi trước, do hội nhập không đúng đã dẫn đến mất chủ quyền và phụ thuộc vào bên ngoài. Chính vì vậy việc nghiên cứu đề tài này sẽ giúp cho chúng ta hiểu rõ thêm về “Toàn cầu hóa”, đồng thời biết được những bước đi của Việt Nam trong quá trình hội nhập. Ngoài ra, bài tiểu luận này cũng giúp chúng ta hiểu thêm về những thành tựu mà nước ta đã thực hiện được cũng như những bước đi sắp tới.
3. Nhiệm vụ đặt ra của đề tài
+ Làm rõ tất cả khái niệm, cơ sở lý thuyết có liên quan về mối quan hệ biện chứng.
+ Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa xây dựng nhà nước độc lập tự chủ với hội nhập quốc tế trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa…
+ Vận dụng nguyên lý về mối liên hệ phổ biến vào phân tích chủ trương, đường lối của đảng về việc xây dựng nhà nước độc lập, tự chủ.
+ Đưa ra một số kiến nghị nhằm giữ vững độc lập tự chủ dân tộc và định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình hội nhập quốc tế.

II. NỘI DUNG
Chương 1: Nguyên lý về mối quan hệ phổ biến trong phép biện chứng duy vật
Các định nghĩa
Phép biện chứng là khoa học về mối liên hệ phổ biến, nó chẳng qua là bộ môn khoa học nghiên cứu những quy luật vận động phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy. Như vậy phép biện chứng đã thừa nhận sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan tồn tại theo mối quan hệ phổ biến, chúng vận động, phát triển theo quy luật nhất định. Phép biện chứng có nhiệm vụ phải chỉ ra những quy luật đó để định hướng cho con người trong nhiệm vụ thực tiễn. Phép biện chứng có ba hình thức cơ bản trong quá trình phát triển của triết học đó là: Phép biện chứng chất phác, phép biện chứng duy tâm, phép biện chứng duy vật .
Phép duy vật biện chứng khẳng định mọi sự vật hiện tượng đều tồn tại trong mối liên hệ phổ biến. Sự vật là tiền đề, là điều kiện tồn tại và phát triển của nhau. Chúng thường xuyên thâm nhập, chuyển hoá lẫn nhau làm cho ranh giới giữa các lớp sự vật không phải là tuyệt đối mà bao giờ cũng có lớp trung gian chuyển tiếp. Tuy vậy mọi mối liên hệ của các sự vật hiện tượng là khách quan, là vốn có của mọi sự vật, hiện tượng. Vấn đề là con người phải hiểu biết các mối liên hệ, vận dụng chúng vào hoạt động của mình giải quyết các mối liên hệ phù hợp nhằm phục vụ nhu cầu lợi ích của xã hội và của bản thân. Mối liên hệ không chỉ mang tính khách quan mà còn mang tính phổ biến. Tính phổ biến của mối liên hệ được thể hiện ở chỗ: thứ nhất bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng liên hệ với sự vật, hiện tượng khác. Không có sự vật, hiện tượng nào nằm ngoài mối liên hệ. Trong thời đại ngày nay không một quốc gia nào không có quan hệ, liên hệ với quốc gia khác về mọi mặt của đời sống xã hội. Chính vì thế hiện nay trên thế giới đã và đang xuất hiện xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá mọi mặt của đời sống xã hội. Nhiều vấn đề đã và đang trở thành vấn đề toàn cầu như: đói nghèo, bệnh tật ….
Mối liên hệ biểu hiện dưới những hình thức riêng biệt, cụ thể tuỳ theo điều kiện nhất định. Song, dù dưới những hình thức nào chúng cũng chỉ là biểu hiện của mối liên hệ phổ biến nhất, chung nhất. Nghiên cứu mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng trên thế giới ta còn thấy rõ tính đa dạng, nhiều vẻ của nó. Dựa vào tính đa dạng đó có thể phân chia ra các mối liên hệ khác nhau theo từng cặp: Mối liên hệ bên trong và mối liên hệ bên ngoài, mối liên hệ chủ yếu và thứ yếu…. Song mỗi cặp mối liên hệ có những đặc trưng riêng tuy theo từng điều kiện, hoàn cảnh cụ thể các mối liên hệ tương ứng sẽ giữ vai trò quyết định. Con người phải nắm bắt đúng các mối liên hệ đó để có cách tác động phù hợp nhằm đưa lại hiệu quả cao nhất trong hoạt động của mình. Trong hoạt động thực tiễn chúng ta phải có quan điểm toàn diện tránh quan điểm phiến diện, chỉ xét sự vật, hiện tượng ở một mối liên hệ đã vội vàng kết luận về bản chất hay về tính qui luật của chúng. Cần phải phân biệt được đâu là những mối quan hệ bản chất tất yếu của sự vật, đâu là những mối quan hệ khác để từ đó có kết luận đúng về sự vật. Trong thực tế, theo quan điểm toàn diện khi tác động vào sự vật chúng ta không những phải chú ý đến những mối liên hệ nội tại của chúng mà còn phải lưu ý tới những mối liên hệ của sự vật ấy với sự vật khác và sự chuyển hoá lẫn nhau giữa chúng trong từng điều kiện. Đồng thời chúng ta phải biết sử dụng đồng bộ các biện pháp, các phương tiện khác nhau để tác động nhằm đem lại hiệu quả cao nhất. Với tư cách là những nguyên tắc phương pháp luận quan điểm toàn diện góp phần định hướng chỉ đạo hoạt động nhận thức và thực tiễn cải tạo hiện thực, cải tạo chính bản thân chúng ta. Thực hiện đúng quan điểm đó chính là chúng ta đã nắm được và vận dụng tốt phương pháp biện chứng trong nhận thức về hoạt động thực tiễn.
1.2. Tính tất yếu phải hội nhập quốc tế
Hội nhập quốc tế vừa là một tất yếu khách quan vừa là yêu cầu phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội…của mỗi quốc gia trên thế giới. Mỗi quốc gia trên thế giới không thể tự mình xây dựng được một đất nước phát triển trên nhiều phương diện bất kể nước ấy giàu hay nghèo, đặc biệt là đối với các nước chậm phát triển và đang phát triển. Nền kinh tế của các nước này còn thấp kém, chậm phát triển, khoa học học kỹ thuật còn thua xa các nước tư bản thì việc mở rộng giao lưu, buôn bán với các nước trên thế giới là một vấn đề cần thiết và mang tính tất yếu trong giai đoạn hiện nay.
Việt Nam cũng nằm trong các nước đang phát triển, xuất phát điểm của nước ta là một nước nông nghiệp nghèo, do vậy chúng ta cần phải mở rộng quan hệ với các nước khác nhằm tạo thuận lợi để xây dựng và phát triển đất nước, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế. Trong Đại hội Đảng 9 của ta vừa qua, Đảng đã nêu ra “Chủ động hội nhập quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá và bảo vệ môi trường”.
Chương 2: Mối liên hệ giữa xây dựng nhà nước độc lập tự chủ với hội nhập quốc tế
2.1. Mối quan hệ biện chứng giữa xây dựng nhà nước độc lập tự chủ với hội nhập quốc tế
2.1.1. Kinh tế
Trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế, sự tuỳ thuộc lẫn nhau về kinh tế ngày càng gia tăng, các nước trên thế giới đều rất coi trọng đến khả năng độc lập tự chủ về kinh tế nhằm đảm bảo lợi ích chính đáng của quốc gia, dân tộc mình trong cuộc cạnh tranh kinh tế gay gắt và để xác lập một vị thế chính trị nhất định trên trường quốc tế.
Độc lập tự chủ về kinh tế phải được đặt trong mối quan hệ biện chứng với độc lập tự chủ về chính trị và các mặt khác để tạo thành sức mạnh tổng hợp của một quốc gia. Độc lập tự chủ về kinh tế trước hết là không bị chi phối lệ thuộc vào bên ngoài về đường lối, chính sách phát triển kinh tế vào những điều kiện kinh tế chính trị mà họ muốn áp đặt cho ta trong trợ giúp, hợp tác song phương, đa phương,.. mà những điều kiện ấy sẽ gây tổn hại cho chủ quyền quốc gia và lợi ích cơ bản của dân tộc. Độc lập tự chủ về kinh tế cũng có nghĩa là trước những chấn động của thị trường, của khủng hoảng kinh tế – tài chính, cũng như trước sự bao vây, cô lập từ bên ngoài vẫn giữ được sự ổn định và phát triển cần thiết, không bị sụp đổ về kinh tế, chính trị. Khác với trước đây khi nói đến độc lập tự chủ về kinh tế, nhiều người thường hình dung tới một nền kinh tế khép kín, tự cung tự cấp. Trong điều kiện hiện nay độc lập tự chủ về kinh tế phải là độc lập tự chủ trong phát triển kinh tế thị trường và chủ động hội nhập có hiệu quả với nền kinh tế thế giới, tích cực tham gia vào sự giao lưu, hợp tác, phân công lao động quốc tế trên cơ sở phát huy tốt nhất nội lực, lợi thế so sánh của quốc gia để cạnh tranh có hiệu quả trên trường quốc tế.Trong điều kiện nền kinh tế thế giới phát triển và những đặc trưng chủ yếu trên mô hình phát triển kinh tế theo hướng hội nhập kinh tế quốc tế là căn cứ để phát triển các ngành kinh tế có lợi thế cạnh tranh cao. Đương nhiên, việc phát triển kinh tế này phải đặt trong mối quan hệ biện chứng với độc lập tự chủ. Độc lập tự chủ trong mô hình kinh tế theo hướng hội nhập quốc tế chấp nhận sự phụ thuộc lẫn nhau trên cơ sở cùng có lợi trong quan hệ giữa các quốc gia. Sự phụ thuộc này diễn ra trên hầu hết các lĩnh vực từ hoạch định chính sách phát triển,… ví dụ như trong Liên minh Châu Âu, hiện đã có đồng tiền chung, các quốc gia thành viên phải bảo đảm duy trì một mức thâm hụt ngân sách và lạm phát chung. Trong mô hình kinh tế này các quốc gia tuy vẫn có quyền tự chủ, quyền tự chọn các ngành kinh tế có lợi cho mình. Thực tế cho thấy ngay các quốc gia có nhiều ngành công nghiệp nền tảng khá phát triển như Nhật Bản mà vẫn phụ thuộc bên ngoài một cách đáng sợ. Nhật phải nhập 100% dầu mỏ để có ngành hoá dầu và năng lượng điện, nhập khẩu phần quặng sắt để có ngành luyện kim, nhập khẩu phần lớn bằng phát minh sáng chế để có ngành công nghiệp chế tạo,… Nếu có chiến tranh xảy ra, các hoạt động nhập khẩu này chỉ bị ngừng trệ một thời gian ngắn thôi thì các ngành công nghiệp sẽ hoàn toàn bị tê liệt và nền kinh tế Nhật khó tránh khỏi tổn thất. Nếu sợ sự phụ thuộc này, nước Nhật sẽ không thể phát triển được. Nhưng bù lại, Nhật lại xuất khẩu ô tô, hàng điện tử và những loại hàng chất lượng cao khác buộc các quốc gia khác phải lệ thuộc vào Nhật những mặt hàng nay. Chính mối quan hệ lệ thuộc lẫn nhau làm cho kinh tế Nhật có thể đứng vững ngay cả trong cuộc khủng hoảng dầu lửa những năm 70.
Song cũng cần phải nói rằng trong quá trình hội nhập kinh tế cần phải tránh sự lệ thuộc quá nhiều vào các nước. Do đó, cần phải nhấn mạnh rằng trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế cần phải phát huy tính độc lập tự chủ, phát huy nội lực của nền kinh tế, phải lấy nội lực của nền kinh tế làm yếu tố quyết định sự phát triển của nền kinh tế, còn những yếu tố bên ngoài chỉ là yếu tố mang tính chất quan trọng.
2.1.2. Chính trị
Độc lập tự chủ về chính trị có nghĩa là tự mình xác định mục tiêu, con đường phát triển đất nước; tự mình hoạch định đường lối, chủ trương, chiến lược phát triển; tự mình xác lập và duy trì thể chế chính trị, không chấp nhận bất cứ sự can thiệp nào từ bên ngoài. Độc lập tự chủ về chính trị được thể hiện cả trong đối nội và đối ngoại, cả kinh tế, văn hoá, xã hội và an ninh, quốc phòng…
Quá trình hội nhập quốc tế và tự do hoá kinh tế có tác động đáng kể đến chủ quyền về chính trị đối nội của quốc gia. Thứ nhất, quyền lực của nhà nước bị điều chỉnh, phạm vi và cách thức can thiệp của nhà nước vào đời sống kinh tế – xã hội phải thay đổi. Việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp của nhà nước chịu sự theo dõi, giám sát, phản biện ngày càng tăng từ phía cộng đồng xã hội, các doanh nghiệp, người dân, giới truyền thông, các tổ chức phi chính phủ và các tổ chức quốc tế. Mặc dù nhà nước và chính phủ quốc gia vẫn là chủ thể hàng đầu, không thể thay thế trong cơ cấu quyền lực chính trị hiện đại, nhưng không phải là duy nhất và toàn năng. Quyền tài phán tối cao của nhà nước, chính phủ quốc gia đối với các vấn đề đối nội và đối ngoại của đất nước vẫn tiếp tục được khẳng định, nhưng phải gắn với hàng loạt trách nhiệm ngày càng lớn, ngày càng nặng nề. Thứ hai, giao diện giữa khu vực công quyền và khu vực thị trường trở nên phức tạp, các lợi ích công, tư đan xen, chồng chéo, tạo điều kiện cho các hành vi tham nhũng, móc ngoặc, thách thức nghiêm trọng hiệu lực thực thi luật pháp, làm tổn hại quyền lực của nhà nước. Thứ ba, yêu cầu dân chủ hoá xã hội gia tăng mạnh mẽ, bao gồm cả dân chủ hoá hoạt động của Đảng và nhà nước. Người dân ngày càng hiểu biết hơn về chính trị, nhận thức tốt hơn về các quyền công dân, quyền con người, cũng như kỹ năng thực thi các quyền đó và nhấn mạnh cả nhu cầu tham gia vào các hoạt động chính trị.
Lôgích của tiến trình đổi mới là đổi mới kinh tế phải được đồng bộ, hài hòa với đổi mới chính trị, cải cách hành chính, cải cách lập pháp, tư pháp. Yêu cầu đổi mới toàn diện như vậy đặt ra đòi hỏi ngày càng cấp thiết đối với năng lực quản trị của nhà nước và năng lực cầm quyền của Đảng tại tất cả các cấp, các ngành, các địa phương. Đẩy mạnh đổi mới chính trị, tối ưu hoá hoạt động của hệ thống chính trị, phân bổ quyền lực chính trị hợp lý, kiểm soát quyền lực một cách hiệu quả là cách tốt nhất đáp ứng các yêu cầu và thách thức đặt ra.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: ”Thực lực là cái chiêng mà ngoại giao là cái tiếng”. Điều kiện để bảo đảm độc lập tự chủ về đối ngoại trong bối cảnh đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế là: chính trị, xã hội ổn định; kinh tế tăng trưởng nhanh, bền vững; quốc phòng vững mạnh; nguồn nhân lực đối ngoại trung thành và chuyên nghiệp; quan hệ cân bằng với các nước lớn. Trong bối cảnh thế giới hiện nay, dựa vào thế và lực của quốc gia , nhiệm vụ của công tác đối ngoại là kiên trì bảo vệ và chủ động tạo dựng môi trường quốc tế hòa bình, ổn định để tập trung xây dựng và phát triển đất nước nhanh và bền vững. Để thực hiện được các nhiệm vụ này cần nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại, gắn ngoại giao chính trị với ngoại giao kinh tế. Nắm vững mục tiêu, kiên định nguyên tắc, bám sát tình hình, linh hoạt ứng biến. Tích cực tranh thủ và chủ động tạo dựng thời cơ, vừa hợp tác, vừa đấu tranh. Phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng đối ngoại với các mặt chính trị, quân sự, kinh tế, xã hội. Cần khẩn trương xây dựng chiến lược và lộ trình hội nhập phù hợp với thế và lực của quốc gia cũng như tương quan quốc tế mới.
2.1.3. Văn hóa
Trong thế giới toàn cầu hóa, việc mở rộng giao lưu, hợp tác quốc tế là một yêu cầu và xu thế tất yếu để phát triển. Trong quá trình đó, vai trò của văn hóa ngày càng được coi trọng. Thông qua văn hóa, việc thiết lập, duy trì và phát triển quan hệ được thực hiện nhằm đạt mục tiêu đối nội và đối ngoại cụ thể, trước hết là các lợi ích cơ bản của quốc gia là phát triển, củng cố an ninh, mở rộng ảnh hưởng và nâng cao vị thế quốc tế. Vì lẽ đó, văn hóa trở thành một bộ phận cấu thành không thể thiếu, nếu không nói là trước tiên (vì trong nhiều trường hợp, nó có thể đi trước tạo điều kiện thuận lợi cho quan hệ chính trị và quan hệ kinh tế) trong hoạt động đối ngoại của mỗi quốc gia.
Trong giao lưu và tương tác giữa các quốc gia, thông qua nhiều hình thức dẫn đến hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc, văn hóa đã tạo dựng mối quan hệ nhiều mặt lâu dài và bền vững. Rõ ràng, văn hóa là cầu nối cho quan hệ giữa các quốc gia, giữa các dân tộc ngày càng phát triển, giúp cho việc hội nhập toàn diện, bền vững trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau và cùng có lợi. Ở khía cạnh này, văn hóa đóng vai trò “sứ giả” của quốc gia trong đối ngoại. Vì vậy, nó trở thành một trong ba trụ cột của chính sách đối ngoại mỗi nước: Chính trị đối ngoại, Kinh tế đối ngoại và Văn hóa đối ngoại.
Sức mạnh của văn hóa là điều không thể phủ nhận, nhưng cũng cần nhìn nhận cả hai mặt. Ở khía cạnh tích cực, nó có sức xuyên phá qua mọi biên giới, nhất là trong thế giới phẳng hiện nay, qua đó mở cửa cho các lợi ích khác theo vào. Ở khía cạnh ngược lại, nó có thể trở thành yếu tố cản trở sự phát triển của một quốc gia, dân tộc. Lịch sử đã chứng minh điều này. Sự biến mất của nhiều nền văn minh, văn hóa ở châu Phi, châu Mỹ… có thể là những minh chứng cụ thể: một nền văn hóa, dù phát triển cao và rực rỡ đến đâu mà cô lập, khép kín thì sẽ bị xơ cứng, thoái hóa, thui chột và không thể trường tồn.
Con người Việt Nam là sự kết tinh của nền văn hóa Việt Nam và họ chính là người thể hiện đậm nét “chất Việt”, giữ gìn bản sắc văn hóa rất riêng của dân tộc mình qua mỗi thế hệ. Vì vậy, quá trình xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam cũng chính là quá trình thực hiện chiến lược con người, xây dựng và phát huy nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao. Đây là một nguyên tắc, là khâu trọng tâm của sự nghiệp xây dựng nền tảng tinh thần, tiềm lực văn hóa và chế độ XHCN, như Hội nghị Trung ương 9, khóa XI đã chỉ rõ…
2.2. Vấn đề hội nhập quốc tế của Việt Nam
2.2.1. Thành tựu
Triển khai đường lối, chính sách của Đảng về mở rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế trong thời kỳ đổi mới, nước ta đã đạt được những thành tựu rất quan trọng, góp phần phát triển kinh tế – xã hội, giữ vững môi trường hoà bình, ổn định an ninh quốc gia, nâng cao vị thế của đất nước trên trường quốc tế. Trong quan hệ song phương, nước ta đã củng cố và phát triển quan hệ hữu nghị hợp tác toàn diện với các nước láng giềng. Quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào và Việt Nam – Campuchia tiếp tục có nhiều bước phát triển mới trên cơ sở phương châm chỉ đạo “Hợp tác láng giềng tốt đẹp, đoàn kết hữu nghị truyền thống, ổn định lâu dài”. Hợp tác ngày càng tiến triển theo hướng thực chất hơn, phát huy thế mạnh và tiềm năng của mỗi nước, bình đẳng, cùng có lợi, dành sự ưu tiên ưu đãi hợp lý cho nhau, phù hợp với tính chất của quan hệ đặc biệt giữa ba nước Đông Dương..
Nhận thức rõ vị trí của ASEAN, tầm quan trọng của hoà bình, ổn định và hội nhập khu vực, từ sau khi gia nhập ASEAN, Việt Nam đã ngày càng tham gia tích cực và đầy đủ vào mọi hoạt động của ASEAN. Qua đó, Việt Nam có nhiều đóng góp quan trọng trên các lĩnh vực hợp tác chính của ASEAN, góp phần tạo dựng nền tảng vững chắc để ASEAN đi đến quyết định lịch sử là tăng cường liên kết tiến tới xây dựng Cộng đồng ASEAN vào năm 2015. Các nước ASEAN hiện có hơn một nghìn dự án đầu tư triển khai ở Việt Nam, với số vốn đầu tư trên 13 tỉ USD. Việt Nam cũng có trên 120 dự án đang triển khai ở các nước thành viên ASEAN với tổng vốn gần 1 tỷ USD. Mặt khác, Việt Nam còn tham gia với tinh thần trách nhiệm vào các cơ chế hợp tác đa phương của ASEAN với các đối tác bên ngoài như: ASEAN+1, ASEAN+3, Hợp tác Á – Âu (ASEM), Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á…
Bên cạnh sự phát triển quan hệ với các nước láng giềng và khu vực, Việt Nam năng động cải thiện quan hệ với các nước, nhất là các nước lớn như: Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Nga… và các tổ chức quốc tế trong quá trình hội nhập như: Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Khu vực đầu tư ASEAN (AIA), ký Hiệp định khung với EU (1995); tham gia Diễn đàn Hợp tác Á – Âu (ASEM) năm 1996, Diễn đàn APEC năm 1998; ký Hiệp định Thương mại với Hoa Kỳ (2000) dựa trên những nguyên tắc cơ bản của WTO và cuối năm 2006 đã chính thức trở thành thành viên thứ 150 của WTO. Nhìn tổng quát, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế (HNKTQT) của nước ta đã xúc tiến với bước đi khá vững chắc và đạt được kết quả bước đầu rất đáng khích lệ. Trước hết, Việt Nam đã mở rộng quan hệ kinh tế với hàng loạt quốc gia và khu vực, trở thành thành viên của các tổ chức kinh tế, thương mại chủ chốt, tạo điều kiện thuận lợi cho hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng hiệu quả hơn.
Hoạt động ngoại giao đa phương có sự trưởng thành rõ rệt. Đặc biệt, thành tựu ấn tượng nhất trên lĩnh vực ngoại giao đa phương là việc Việt Nam được bầu làm uỷ viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2008-2009 với số phiếu áp đảo, đánh dấu quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam đã trở nên sâu rộng.
Những thành tựu to lớn mà nước ta đạt được trong hội nhập quốc tế, trước hết trên lĩnh vực kinh tế, là kết quả của cả một quá trình thực hiện nhất quán đường lối, chính sách đối ngoại rộng mở, đa dạng hoá, đa phương hoá với chủ trương chủ động và tích cực hội nhập ngày càng sâu rộng với khu vực và thế giới. Những thành tựu đó đã tạo thêm niềm tin để nước ta càng vững bước trên đường hội nhập quốc tế, tận dụng tốt nhất những cơ hội mới đang mở ra. Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hoá tạo điều kiện thuận lợi cho nước ta tham gia nhanh và hiệu quả vào hệ thống phân công lao động quốc tế, tận dụng mọi nguồn lực phục vụ mục tiêu phát triển. Do vậy, chúng ta có cơ hội đẩy nhanh quá trình điều chỉnh, tái cơ cấu cấu kinh tế, chuyển dịch cơ cấu lao động và rút ngắn thời gian vật chất của công cuộc công nghiệp hoá – hiện đại hoá đất nước.
2.2.2. Hạn chế
Trong một số lĩnh vực quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế vào những thời điểm cụ thể, sự đổi mới tư duy còn chậm, chưa đáp ứng được tốt nhất yêu cầu phát triển trong nước và phù hợp với những chuyển biến của tình hình thế giới. Một số mối quan hệ đối ngoại đã được xác lập nhưng vẫn còn những biểu hiện hạn chế về tính chiều sâu, vẫn còn cần có thêm các nhân tố cho sự phát triển vững chắc, ổn định, lâu dài.
Mối quan hệ giữa kinh tế, an ninh, chính trị, đối ngoại trong một số trường hợp cụ thể chưa gắn kết thật mật thiết với nhau. Sau thời kỳ mở rộng quan hệ đối ngoại, chưa có nhiều bước đột phá mới nhằm khai thác tốt nhất quan hệ lợi ích đan xen tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nước, nhất là với một số nước lớn có liên quan đến lợi ích chiến lược của nước ta.
Trong công tác hội nhập quốc tế, tiến độ của công việc chuẩn bị về pháp lý và thể chế vẫn còn khoảng cách so với yêu cầu hội nhập, với những chuyển biến mới của tình hình thế giới và khu vực. Nền tảng để phát triển nền kinh tế bền vững chưa vững chắc, môi trường thu hút đầu tư, năng lực giải ngân các dự án đầu tư nước ngoài và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp cũng như của cả nền kinh tế còn hạn chế…
Việc xử lý một vài vấn đề trong nước chưa tính toán thật đầy đủ đến phản ứng và tác động quốc tế nhằm hạn chế việc bị các thế lực thù địch bên ngoài lợi dụng gây khó khăn về ngoại giao. Công tác thông tin, tuyên truyền đối ngoại còn biểu hiện chưa nhạy bén, hình thức chưa sinh động, hấp dẫn; cơ chế phối hợp giữa các ngành, các cấp chưa đồng bộ, hiệu quả chưa như mong muốn.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế nhìn chung còn không ít bất cập, chưa thật sự ngang tầm chiến lược của thời kỳ chủ động và tích cực hội nhập sâu rộng với khu vực và thế giới. Công tác nghiên cứu cơ bản, dự báo chiến lược trong lĩnh vực đối ngoại và hội nhập quốc tế còn hạn chế.
2.3. Một số kiến nghị nhằm giữ vững độc lập tự chủ dân tộc và định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình hội nhập quốc tế
Đẩy mạnh công tác tư tưởng, thông tin tuyên truyền nhằm tạo sự thống nhất rộng rãi trong nhận thức xã hội về những nội dung mới, những biểu hiện mới của độc lập dân tộc và việc bảo vệ độc lập dân tộc, giữ vững định hướng XHCN trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế.
Tiếp tục mở rộng và phát huy dân chủ, tăng cường đổi mới xây dựng, củng cố và hoàn thiện hệ thống chính trị, nâng cao năng lực, hiệu lực và hiệu quả quản lý của Nhà nước.
Tháo gỡ kịp thời những khó khăn, hạn chế, vướng mắc về cơ chế và chính sách, tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho đổi mới, phát triển kinh tế- xã hội, đặc biệt là tái cấu trúc kinh tế và thúc đẩy sản xuất kinh doanh.
Tăng cường sức mạnh quốc phòng – an ninh, kết hợp chặt chẽ quốc phòng – an ninh với kinh tế và đối ngoại.
Đề cao cảnh giác trước âm mưu của các thế lực thù địch lợi dụng chính sách mở cửa, hội nhập quốc tế của Việt Nam để “Diễn biến hoà bình”.
Quán triệt sâu sắc hơn nữa và thực hiện một cách sáng tạo, có hiệu quả chủ trương của Đảng về chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
Xử đúng đắn, lý linh hoạt các vấn đề quốc tế có liên quan trực tiếp đến an ninh và phát triển của đất nước.
III. KẾT LUẬN

Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế, chúng ta có thể khẳng định một lần nữa giữa xây dựng nhà nước độc lập tự chủ và chủ động hội nhập quốc tế có mối quan hệ biện chứng. Chỉ có thể xây dựng được một nhà nước độc lập tự chủ thì chúng ta mới có đầy đủ tư cách và thực lực để chủ động hội nhập quốc tế đúng hướng và hiệu quả. Và ngược lại, chỉ có chủ động hội nhập quốc tế chúng ta mới có thể nhanh chóng bổ sung sức mạnh cho nội lực còn khiếm khuyết, thiếu hụt, rút ngắn con đường phát triển nhằm không ngừng tự hoàn thiện mình để giữ vững nền độc lập dân tộc.
Do đó, việc vận dụng nguyên lý về mối liên hệ phổ biến vào phân tích chủ trương, đường lối của đảng về việc xây dựng nhà nước độc lập, tự chủ trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa…là việc làm hết sức đúng đắn, giúp chúng ta không những hiểu rõ mà còn giúp cho chúng ta có thêm sự tự tin, ý chí quyết tâm để thực hiện chủ trương, đường lối đó. Ngoài ra, việc phân tích mối quan hệ biện chứng giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế còn giúp làm sáng tỏ quan điểm đúng đắn của Đảng ta trong việc lãnh đạo xây dựng đất nước.

IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Tạp chí Cộng sản – Số 33/ Tháng 11/Năm 2010.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXB CTQG, Hà Nội 2011.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết của Bộ chính trị số 07/NQ-TƯ Về hội nhập kinh tế quốc tế, NXB CTQG, Hà Nội 2006.
4. Bài viết: “Hội nhập quốc tế và vấn đề giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta – PGS.TS Nguyễn Tất Giáp”, Tạp chí Cộng sản, số 40/Tháng 12/Năm 2013.
5. Sách giáo trình Triết Học – Chương 3, Tiểu ban Triết học – Trường Đại học Kinh Tế TP.HCM, lưu hành nội bộ, TP.HCM – 2014.

[Phụ lục] 1. Một số đặc trưng của nhà nước độc lập tự chủ
Khác với trước đây khi nói tới nhà nước độc lập tự chủ, nhiều người thường hình dung tới một nhà nước độc lập, tự chủ về mọi mặt và có nền kinh tế khép kín, tự cung, tự cấp. Trong điều kiện hiện nay nhà nước độc lập tự chủ phải là độc lập, tự chủ về mặt chính trị, văn hóa – xã hội, đảm bảo lợi ích nhưng vẫn duy trì được chủ quyền trong các mối quan hệ song phương hay đa phương, có khả năng quản lý và kiểm soát các trào lưu văn hóa nước ngoài du nhập vào nước mình. Ngoài ra, còn phải tự chủ trong phát triển kinh tế thị trường và tự chủ mở cửa, hội nhập có hiệu quả với nền kinh tế thế giới, tích cực tham gia vào sự giao lưu, hợp tác, phân công lao động quốc tế trên cơ sở phát huy tốt nội lực, lợi thế so sánh của quốc gia để cạnh tranh có hiệu quả trên thương trường quốc tế. Do vậy, độc lập tự chủ trong điều kiện hiện nay có các đặc trưng sau: Trước hết và quan trọng nhất là phải đảm bảo lợi ích phát triển của quốc gia ở mức cao nhất có thể được. Có thể có một nền kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội không phụ thuộc hoàn toàn vào bên ngoài, tự đảm bảo được các nhu cầu chủ yếu trong nước. Đặc trưng thứ hai của nhà nước độc lập tự chủ đó là sức cạnh tranh của nền kinh tế phải được cải thiện và tăng dần. Thể chế chính trị, kinh tế xã hội phải đủ mạnh đủ tạo ra một môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi, chi phí và rủi ro thấp; khả năng sinh lợi lớn. Cơ cấu kinh tế gồm những ngành có khả năng cạnh tranh cao, có khả năng tự điều chỉnh, tự rút khỏi những ngành kém khả năng cạnh tranh. Cơ cấu doanh nghiệp cũng phải bao gồm những doanh nghiệp có sức mạnh trên thị trường. Đặc trưng thứ ba của nhà nước độc lập tự chủ đó là khả năng ứng phó có hiệu quả với những chấn động chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội bên ngoài lãnh thổ nước mình. Những chấn động đó có thể là một cuộc khủng hoảng hay suy thoái…
2. Nội dung của hội nhập quốc tế
Các nguyên tắc hội nhập quốc tế nêu ra nói chung là không phân biệt đối xử, tiếp cận thị trường, cạnh tranh công bằng, áp dụng các hành động khẩn cấp trong trường hợp cần thiết, dành ưu đãi cho các nước đang và chậm phát triển. Nội dung của hội nhập quốc tế là mở cửa thị trường, tạo điều kiện thuận lợi để tự do buôn bán, phát triển cũng như hợp tác phát triển song phương, đa phương, giao lưu văn hóa – xã hội…
Đối với lĩnh vực kinh tế, về thương mại hàng hoá khi gia nhập WTO thì các nước cam kết bãi bỏ hàng rào phi thuế quan như giấy phép xuất khẩu,… Về thương mại dịch vụ, các nước mở cửa thị trường cho nhau với 4 phương thức: cung cấp qua biên giới, sử dụng dịch vụ ngoài lãnh thổ, thông qua doanh nhân, hiện diện thể nhân,…Về thị trường đầu tư: không áp dụng đối với đầu tư nước ngoài các yêu cầu về tỷ lệ nội địa hoá cân bằng xuất nhập khẩu, hạn chế tiếp cận nguồn ngoại tệ… Các nguyên tắc này được tất cả các nước thành viên WTO và các nước đang gia nhập WTO thừa nhận và thực hiện.
Đối với lĩnh vực chính trị, các nước cam kết hợp tác cùng phát triển, tuyệt đối không xâm phạm lãnh thổ của nhau, giữ vững chủ quyền biển đảo…Ổn định thể chế chính trị để các doanh nghiệp nước ngoài có môi trường đầu tư thuận lợi và an toàn…
Đối với lĩnh vực văn hóa – xã hội, các nước cam kết tăng cường giao lưu, học hỏi những nét đẹp văn hóa của nước bạn nhưng trên cơ sở vẫn đảm bảo duy trì nét đẹp văn hóa của nước mình. Du nhập, hòa hợp những giá trị văn hóa – xã hội mới, hay và hiện đại nhưng tuyệt đối không hòa tan.
3. Đường lối quan điểm của Đảng ta trong quá trình hội nhập quốc tế
Về mục tiêu của hội nhập quốc tế: Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế để tranh thủ tối đa các nguồn lực từ bên ngoài (ngoại lực) phục vụ sự nghiệp bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong lĩnh vực kinh tế, Nghị quyết 07 của Bộ Chính trị nêu rõ mục tiêu: “mở rộng thị trường, tranh thủ thêm vốn, công nghệ, kiến thức quản lý để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng XHCN, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Quá trình hội nhập quốc tế trước hết là đáp ứng lợi ích phát triển của đất nước; mặt khác thông qua đó phát huy ai trò của nước ta trong quá trình hợp tác và phát triển khu vực và thế giới, đóng góp vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Để hội nhập quốc tế một cách hiệu quả, Đảng ta xác định rõ nguyên tắc cơ bản và bao trùm là bảo đảm giữ vững độc lập, tự chủ và định hướng XHCN, bảo đảm vững chắc an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc. Giữ vững độc lập tự chủ thể hiện trước hết trong quyết sách hội nhập nhằm khai thác tối đa các lợi thế, đối phó thắng lợi với các thách thức đặt ra của quá trình hội nhập; chủ động lựa chọn các tổ chức tham gia, các đối tác và hình thức quan hệ, thời điểm tham gia hội nhập, xây dựng lộ trình hội nhập hợp lý trong khuôn khổ quy định chung; chủ động điều chỉnh chính sách cho phù hợp với mục tiêu và yêu cầu hội nhập. đường lối và chính sách đối ngoại rộng mở luôn dựa trên sự kiên trì giữ vững nguyên tắc đối ngoại cơ bản, bao trùm là vì hoà bình, độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội. Trong phát triển quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế, Đảng ta còn nêu rõ 4 nguyên tắc cụ thể: Một là, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Hai là, không dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực. Ba là, giải quyết các bất đồng và tranh chấp thông qua thương lượng hoà bình. Bốn là, tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng và cùng có lợi.
Về tư tưởng chỉ đạo hội nhập quốc tế: Xuất phát từ mục tiêu và lợi ích của hội nhập quốc tế, Đảng ta đề ra tư tưởng chỉ đạo đối ngoại nói chung và hội nhập quốc tế nói riêng. Theo đó, trong hội nhập quốc tế phải giữ vững nguyên tắc vì độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội (CNXH), đồng thời phải rất sáng tạo, năng động, linh hoạt, phù hợp với vị trí, điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, cũng như diễn biến của tình hình thế giới và khu vực, phù hợp với từng đối tượng mà Việt Nam có quan hệ. Đây chính là sự kế thừa và vận dụng sáng tạo quan điểm “dĩ bất biến ứng vạn biến”, vừa kiên định về nguyên tắc chiến lược, vừa mềm dẻo, linh hoạt về sách lược trong tư tưởng Hồ Chí Minh đối với việc xử lý các vấn đề quốc tế của nước trong quá trình hội nhập. Quán triệt sâu sắc tư tưởng chỉ đạo nêu trên, Việt Nam chú trọng mở rộng quan hệ quốc tế cả song phương và đa phương nhưng có nguyên tắc, mà nguyên tắc cao nhất, đồng thời cũng là lợi ích dân tộc cao nhất, đó là độc lập dân tộc, thống nhất đất nước và phát triển theo định hướng XHCN. Đại hội XI của Đảng chỉ rõ chủ động và tích cực hội nhập quốc tế là vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh, đồng thời góp phần tích cực vào sự nghiệp hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
Trong hội nhập quốc tế về kinh tế, Đảng ta xác định rõ 5 quan điểm chỉ đạo, bao gồm:
Một là: Phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập, tự chủ và định hướng XHCN, bảo vệ lợi ích dân tộc; an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường.
Hai là: Hội nhập kinh tế quốc tế là sự nghiệp của toàn dân, trong quá trình hội nhập cần phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của mọi thành phần kinh tế, của toàn xã hội, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Ba là: Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh và cạnh tranh, vừa có nhiều cơ hội vừa không ít thách thức, do đó cần tỉnh táo, khôn khéo và linh hoạt trong việc xử lý tính hai mặt của hội nhập tuỳ theo đối tượng, vấn đề, trường hợp, thời điểm cụ thể; vừa phải đề phòng tư tưởng trì trệ, thụ động, vừa phải chống tư tưởng giản đơn, nôn nóng.
Bốn là: Nhận thức đầy đủ đặc điểm nền kinh tế nước ta, từ đó đề ra kế hoạch và lộ trình hợp lý, vừa phù hợp với trình độ phát triển của đất nước, vừa đáp ứng những quy định của các tổ chức kinh tế quốc tế mà nước ta tham gia.
Năm là: Kết hợp chặt chẽ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế với yêu cầu giữ vững an ninh, quốc phòng, nhằm củng cố chủ quyền và an ninh đất nước, cảnh giác với những âm mưu thông qua hội nhập để thực hiện ý đồ diễn biến hoà bình đối với nước ta.
Về nội dung, hội nhập quốc tế là thúc đẩy phát triển quan hệ song phương và đa phương với các nước trên thế giới, tham gia các tổ chức khu vực và thế giới trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học – kỹ thuật, các phong trào chính trị-xã hội… nhằm đáp ứng lợi ích phát triển và nâng cao vị thế quốc tế của nước ta. Trong quá trình hội nhập quốc tế, Đảng và nhà nước ta chú trọng những hướng hoạt động đối ngoại như: Tăng cường quan hệ với các nước láng giềng và các nước lớn; thúc đẩy quan hệ hợp tác toàn diện và có hiệu quả với các nước ASEAN, các nước châu Á – Thái Bình Dương; phát triển quan hệ hợp tác song phương tin cậy với các đối tác chiến lược. Củng cố quan hệ với các đảng cộng sản, công nhân, đảng cánh tả, các phong trào độc lập dân tộc và tiến bộ trên thế giới; từng bước mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền. Tham gia các cơ chế hợp tác chính trị, an ninh song phương và đa phương vì lợi ích quốc gia trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên Hợp quốc. Thực hiện tốt các công việc tại các tổ chức quốc tế, đặc biệt là Liên Hợp quốc. Tích cực hợp tác cùng các nước, các tổ chức khu vực và quốc tế đối phó với những thách thức an ninh phi truyền thống, nhất là tình trạng biến đổi khí hậu. Phát triển công tác đối ngoại nhân dân theo phương châm: “chủ động, linh hoạt, sáng tạo và hiệu quả”, tích cực tham gia các diễn đàn và hoạt động của nhân dân thế giới. Tăng cường vận động viện trợ và nâng cao hiệu quả hợp tác với các tổ chức phi chính phủ nước ngoài để phát triển kinh tế – xã hội. Đẩy mạnh công tác văn hoá – thông tin đối ngoại, góp phần tăng cường sự hợp tác, tình hữu nghị giữa nhân dân ta với nhân dân các nước. Chủ động tham gia cuộc đấu tranh chung vì quyền con người, sẵn sàng đối thoại với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực có liên quan về vấn đề nhân quyền; song đồng thời cũng kiên quyết làm thất bại các âm mưu, hành động xuyên tạc và lợi dụng các vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc”, “tôn giáo” hòng can thiệp vào công việc nội bộ, làm mất an ninh và ổn định chính trị của nước ta…
Phương châm cơ bản để tiến hành hội nhập quốc tế là bảo đảm nguyên tắc cùng có lợi trong quan hệ song phương và đa phương. Theo nguyên tắc này, một mặt không để thiệt hại đến lợi ích cần có và hợp lý mà ta được hưởng, mặt khác phải chấp nhận một sự chia sẻ hợp lý lợi ích cho các đối tác tuỳ theo mức độ đóng góp của các bên tham hợp tác. Trong hợp tác liên kết và hội nhập quốc tế cần giữ vững nguyên tắc vừa hợp tác vừa đấu tranh, vừa kiên quyết vừa mềm dẻo để đạt tới mục tiêu, bảo vệ được lợi ích chính đáng của đất nước; đồng thời phải luôn cảnh giác, không mơ hồ trước những âm mưu và thủ đoạn lợi dụng hợp tác quốc tế để can thiệp, áp đặt về chính trị.
BÁO CÁO SINH HOẠT NHÓM 9
Tuần 4 (ngày 10/11/2014): nghe thầy phổ biến cách thức, quy chế trình bày nội dung và danh sách đề tài tiểu luận.
Tuần 5 (ngày 17/11/2014):
– Thảo luận, thống nhất và quyết định lựa chọn đề tài tiểu luận để thực hiện: “Mối quan hệ biện chứng giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế”.
– Phác thảo sơ lược và đóng góp ý kiến về mục lục đề tài tiểu luận.
– Nhóm trưởng phân công trực tiếp cụ thể cho 2 thành viên nhóm:
+ Nhóm trưởng (Quang Vinh): Tổng Quan, Mục 2.1.1, chỉnh sửa và tổng hợp bài.
+ Thành viên 1 (Kiều Oanh): Mục 1.1, 1.2, 2.1.3 và Kết Luận.
+ Thành viên 2 (Xuân Xanh): Mục 2.1.2, 2.2 và 2.3.
Tuần 6 (ngày 24/11/2014):
+ Thảo luận, trình bày về những thuận lợi, khó khăn trong quá trình tìm tài liệu.
+ Chia sẻ những tài liệu kiếm được và tiếp tục triển khai làm bài tiểu luận.
Tuần 7, Tuần 8, Tuần 9 (từ ngày 1/12 – 15/12/2014): Tiếp tục triển khai làm bài như đã phân công.
Tuần nghỉ (từ ngày 17/12/2014 – 4/1/2015): Các thành viên hoàn thành phần bài làm và nộp bài cho nhóm trưởng.
Tuần 10 (ngày 5/1/2015): Nhóm trưởng tiến hành hoàn thiện, chỉnh sửa, bổ sung và tổng hợp bài tiểu luận của nhóm.
Tuần 11 (ngày 12/1/2015): Nộp bài cho lớp trưởng.
HẾT

Đánh giá post

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *